Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tess Một Tâm Hồn Trong Trắng

Tess là tác phẩm được độc giả thuộc mọi tầng lớp yêu thích nhiều nhất trong số 14 tiểu thuyết của Hardy. So với Eustacia xinh đẹp theo kiểu hoang dã, tham vọng vật chất trong Trở lại cố hương và Sue xinh đẹp trong theo kiểu trí thức, tính nết thất thường, với quan điểm mâu thuẫn về đạo đức, tôn giáo, hôn nhân trong Jude-Kẻ vô danh thì Tess Durbeyfield chỉ là một nàng thôn nữ, học hết lớp sáu trường làng, nàng xinh đẹp một cách dân dã như một đóa hoa đồng nội. Nhưng số phận thảm thương, Tess bị tử hình bằng cách treo cổ do đâm chết Alec. Số phận đen tối một cách cùng cực dù nàng chỉ có ước mơ rất tầm thường, nhỏ nhoi, rất con người: có một người chồng mà mình yêu và yêu mình, sống một cuộc sống vừa đủ, sẵn sàng làm bất cứ công việc chân tay vất vả nào. Nhưng Alec một điền chủ trẻ tuổi, phóng đãng quyến rũ và hãm hiếp từ năm nàng mới có mười sáu tuổi, sau đó lại dùng sức mạnh vật chất để chi phối nhằm mục đích sở hữu nàng như sở hữu một món đồ chơi ưa thích. Khi Tess kết hôn với Angel nàng đã thú nhận với chồng của mình về quá khứ vào đêm tân hôn. Do quan niệm quá cứng nhắc về trinh tiết và Angel nghĩ rằng mình bị lừa đã rời nước Anh đến Brazil lập nghiệp để suy nghĩ kĩ hơn về mối quan hệ vợ chồng anh. Thông qua Tess, Thomas Hardy đã thẳng thắn phê phán những quan niệm cổ hủ và cứng nhắc về tín ngưỡng, đạo đức trong tình yêu và hôn nhân của thời kì Victorian. Chính vì lẽ đó mà khi nó được công bố lần đầu năm 1891 đã bị chỉ trích kịch liệt. Khi đọc về những cuộc đời, những con người có tâm hồn mộc mạc, thiện lương, với những mơ ước đơn sơ bình dị lại gặp toàn tai ương, hoạn nạn, một mặt chúng ta xót thương, đồng cảm với họ, mặt khác, chúng ta mơ ước một xã hội trong đó những bi kịch đó không còn tái diễn. Có lẽ đó cũng là mơ ước hoài vọng của tác giả khi viết tác phẩm này. *** Dịch từ nguyên bản tiếng Anh Tess of the d’Urbervilles – A Pure Woman Faithfully Presented Của Thomas Hardy Dịch giả giữ bản quyền bản tiếng Việt Dù không được xếp hạng trong danh mục 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất mọi thời như Jude- Kẻ vô danh – vốn đẩy những phê phán xã hội và tôn giáo của Thomas Hardy lên đến đỉnh điểm, và tạo nên nhiều phê phán tiêu cực đến độ ông dứt khoát từ bỏ văn xuôi và chuyển sang sáng tác thơ cho đến cuối đời – Tess, một tâm hồn trong trắng vẫn được khẳng nhận rộng rãi là một trong số các kiệt tác của ông.  Có thể nhấn mạnh một điểm đặc biệt khác ở Tess: trong số 14 tiểu thuyết của Hardy, nó là tác phẩm được độc giả thuộc mọi tầng lớp yêu thích nhiều nhất, ngay từ thời điểm được công bố lần đầu, dù có những chỉ trích gay gắt về chủ đề tư tưởng từ phía các nhà phê bình cực đoan, cho tới tận hôm nay. Và các tác phẩm chuyển thể từ Tess sang sân khấu, điện ảnh lên đến một số lượng đáng ngạc nhiên so với các tiểu thuyết khác của ông. Về sân khấu, có tổng cộng tám vở kịch hoặc ca nhạc kịch (opera) của các tác giả khác nhau được trình diễn nhiều lần trên các sân khấu lớn ở London, New York, Stratfort-upon-Avon (quê hương của Shakespeare). Về điện ảnh, có 7 phim màn ảnh rộng (công chiếu lần đầu vào các năm 1913, 1924, 1967, 1979, 2000, 2011, 2013); 4 phim truyền hình (1952, 1960, 1998, 2008), trong đó tôi đã được xem hai phiên bản: năm 1998, do London Weekend Television sản xuất, đạo diễn Ian Sharp, với các diễn viên chính Justine Waddell (Tess), Jason Flemyng (Alec), và Oliver Milburn (Angel); và năm 2008, do BBC sản xuất, đạo diễn David Blair, các diễn viên chính Gemma Artenton (Tess), Hans Matheson (Alec), Eddie Redmayne (Angel); cả hai phiên bản có những ưu điểm và khuyết điểm khác nhau, nhưng nhìn chung đều thể hiện được khá chính xác tính cách của các nhân vật như miêu tả của Thomas Hardy.[1] Vì sao như vậy, bạn đọc sẽ đặt câu hỏi. Và tôi xin được trả lời vắn tắt: so với Eustacia xinh đẹp theo kiểu hoang dã, có nhiều tham vọng vật chất trong Trở lại cố hương, và Sue xinh đẹp theo kiểu trí thức, tính nết thất thường, với những quan điểm về tôn giáo, đạo đức, hôn nhân cực kỳ mâu thuẫn trong Jude – Kẻ vô danh, Tess Durbeyfield chỉ là một nàng thôn nữ, học hết lớp sáu trường làng. Nàng xinh đẹp một cách dân dã, như một đóa hoa đồng nội. Cả ba nhân vật nữ trong ba tiểu thuyết này đều có số phận không may: Eustacia tự sát; Sue bị mất ba đứa con và sống một cuộc đời tàn tạ héo hon với Philoston; nhưng số phận của Tess còn thảm thương hơn: nàng bị tử hình bằng cách treo cổ do đâm chết Alec. Số phận của nàng đen tối đến mức cùng cực như vậy, dù nàng chỉ có những mơ ước rất tầm thường, nhỏ nhoi, rất con người: có một người chồng mà mình yêu và yêu mình, sống một cuộc sống vừa đủ, sẵn sàng làm bất cứ công việc chân tay vất vả nào. Mặt khác, nàng là một thiếu nữ, và sau là một  phụ nữ có tâm hồn hoàn toàn trong trắng dịu hiền, nhưng  lại bị Alec, một điền chủ trẻ tuổi, phóng đãng quyến rũ và hãm hiếp từ năm nàng mới mười sáu tuổi, rồi sau đó lại dùng sức mạnh vật chất để chi phối, nhằm mục đích sở hữu nàng như sở hữu một món đồ chơi ưa thích lần nữa, khi nàng đã kết hôn với Angel, nhưng hai vợ chồng đang sống xa nhau. (Nàng đã thú nhận với chồng quá khứ của mình vào đêm tân hôn. Do quan niệm quá cứng nhắc về trinh tiết và nghĩ rằng mình bị lừa, Angel đã rời nước Anh sang Brazil để lập nghiệp với tư cách một chủ nông trại, cũng để chờ thời gian lắng lại để suy nghĩ  kỹ hơn về mối quan hệ của vợ chồng anh.) Ở tựa sách nguyên bản, ngoài tựa chính Tess of the D’Urbervilles, Thomas Harsy chủ tâm đưa thêm một tiểu tựa: A Pure Woman Faithfully Presented, chính là muốn nhấn mạnh đặc tính trong trắng thuần khiết này của Tess. Một nữ nhân vật đáng yêu và đáng thương như vậy, đương nhiên sẽ đi vào lòng người đọc, và khơi gợi ở họ những cảm xúc thật sự khó quên. Tess còn đáng yêu ở nhiều điểm khác: nàng yêu thiên nhiên, yêu cỏ cây hoa lá trong môi trường xung quanh, yêu các loài động vật nhỏ bé, yếu ớt và vô phương tự vệ như nàng. Thông qua Tess, Thomas Hardy đã thẳng thắn phê phán những quan niệm cổ hủ và cứng nhắc về tín ngưỡng, đạo đức trong tình yêu và hôn nhân của thời kỳ Victorian. Chính vì lẽ đó mà khi nó được công bố lần đầu vào năm 1891 dưới hình thức đăng nhiều kỳ trên tờ họa báo The Graphic và sau đó xuất bản dưới hình thức sách (ba tập) cũng trong năm 1891, nó đã bị chỉ trích kịch liệt. Một tác phẩm lớn đương nhiên sẽ có nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, từ nhiều góc độ. Ở phần giới thiệu này, tôi xin không nêu tóm tắt cốt truyện vì như thế sẽ rất dài dòng, không cần thiết; cũng không đưa ra những phân tích sâu về chủ đề hay về tính cách của các nhân vật, vì mong muốn độc giả sẽ là người tự có những nhận định của chính mình sau khi đọc tác phẩm. Chỉ xin đưa ra một nhận định nhiều cảm xúc của tôi với tư cách một người đọc, và một người dịch: Khi đọc về những cuộc đời, những con người có tâm hồn mộc mạc, thiện lương, với những mơ ước đơn sơ bình dị lại gặp toàn tai ương, hoạn nạn, một mặt chúng ta xót thương, đồng cảm với họ, mặt khác, chúng ta mơ ước một xã hội trong đó những bi kịch đó không còn tái diễn. Có lẽ đó cũng là ước mơ hoài vọng của tác giả khi viết tác phẩm này. Sài Gòn, tháng 01/2020 Nguyễn Thành Nhân *** Thomas Hardy (1840 - 1928) là một tiểu thuyết gia, nhà thơ và kiến ​​trúc sư người Anh. Các văn bản của ông có một phong cách hiện thực, nhưng bị ảnh hưởng ở một mức độ lớn bởi chủ nghĩa lãng mạn văn học có trước thời Victoria.. Nhờ thành công của ngòi bút của mình, ông đã từ bỏ sự nghiệp của kiến ​​trúc sư để cống hiến hết mình cho các bức thư. Mặc dù Hardy đã nhanh chóng nhận được sự hoan nghênh của một nhà tiểu thuyết, nhưng ông luôn cảm thấy hứng thú với thơ và tác phẩm của ông có tác động lớn đến các thế hệ nhà thơ kế vị ông.. Phong cách mà tác giả in cho các tác phẩm của mình tập trung hơn nhiều và ít khoa trương hơn so với những người cùng thời. Nó có tông màu tối và định mệnh, trái ngược với hy vọng thấm đẫm các văn bản Victoria. Hardy đã đặt gần như tất cả các tác phẩm kể chuyện của mình ở Wessex, một quốc gia tưởng tượng lấy tên của vương quốc từng nắm giữ quyền lực lớn trên đảo. Nhưng trong cuộc đời của tác giả, khu vực địa lý thực sự ngày càng nghèo nàn. Hardy Wessex nằm ở phía nam và tây nam nước Anh. Ông thậm chí còn tạo ra các bản đồ chỉ ra vị trí chính xác của từng thành phố hư cấu. Tác giả đã được đề cử 12 lần cho giải thưởng Nobel Văn học. Thomas Hardy cũng làm việc trong việc viết những ký ức của mình, mặc dù chúng được kết thúc bởi người vợ thứ hai của ông, Florence Hardy, và chúng đã được xuất bản thành hai tập tiếp cận chi tiết từng giai đoạn của cuộc đời của tác giả người Anh. *** Vào một xế chiều cuối tháng Năm, một người đàn ông trung niên đang từ Shaston đi bộ trở về nhà. Ông ở thôn Marlott, nằm tiếp giáp với Thung lũng Blakemore, hoặc Blackmoor. Đôi chân của ông yếu ớt, và dáng đi của ông có xu hướng hơi nghiêng sang trái. Thỉnh thoảng ông lại gật đầu, như thể xác nhận một ý nghĩ nào đó, dù ông không hề nghĩ tới một điều gì cụ thể. Ông móc lủng lẳng trên tay một cái giỏ đựng trứng trống rỗng, đội một cái mũ nỉ đã sờn,  vành mũ bị rách toạc một mảng to và ông đưa ngón cái lên để giật nó ra. Đúng lúc đó ông nhìn thấy một vị cha xứ lớn tuổi ngồi vắt vẻo trên lưng một con lừa xám, miệng đang ngâm nga một khúc du ca. “Chúc buổi tối tốt lành.” Ông cất tiếng chào. “Chúc buổi tối tốt lành, Ngài John.” Vị cha xứ đáp lễ. Kẻ bộ hành bước thêm một hai bước nữa, rồi dừng chân và quay lại. “Xin thứ lỗi, thưa ông; chúng ta đã gặp nhau vào phiên chợ lần trước trên con đường này, cũng vào khoảng giờ này, tôi đã nói ‘Chúc buổi tối tốt lành,’ và ông cũng đáp lại ‘Chúc buổi tốt tốt lành, Ngài John,’ như hiện giờ.” “Đúng thế.” Vị cha xứ đáp. “Và một lần trước đó nữa, gần một tháng trước.” “Có lẽ tôi đã chào như thế.” “Vậy ý của ông là gì khi gọi tôi là ‘Ngài John’ trong những lần này, khi tôi chỉ là Jack Durbeyfield, một người bán dạo quê mùa?” Vị cha xứ giục lừa tới gần hơn. “Đó chỉ là sở thích nhất thời của tôi.” Ông đáp; và nói thêm sau giây lát ngần ngừ: “Cách đây ít lâu tôi phát hiện ra một việc, trong lúc đang săn lùng những phả hệ cho một cuốn sách lịch sử mới của hạt. Tôi là cha xứ Tringham, nhà khảo cổ, ở làng Stagfoot Lane. Durbeyfield, chẳng lẽ ông thật sự không biết rằng ông là đại diện của dòng tộc hiệp sĩ cổ xưa d'Urbervilles, vốn là hậu duệ của Ngài Pagan d'Urberville, vị hiệp sĩ lừng danh đến từ Normandy cùng với William Kẻ Chinh phục, như được ghi trong Văn kiện của Tu viện Battle[2] hay sao?” “Chưa bao giờ nghe nói tới nó, thưa ông!” “Vâng, đúng thế đó. Hãy ngẩng cằm ông lên giây lát, để tôi có thể ngắm nét mặt nhìn nghiêng của ông rõ hơn. Phải, đó là cái mũi và cằm của dòng họ d'Urberville, dù hơi kém phẩm chất hơn chút đỉnh. Tổ tiên của ông là một trong mười hai hiệp sĩ của Lãnh chúa xứ Estremavilla ở Normandy trong cuộc chinh phục xứ Glamorganshire. Các nhánh gia tộc của ông có điền trang trên toàn bộ vùng này của nước Anh; tên của họ xuất hiện trong Văn kiện vào thời Vua Stephen. Dưới triều Vua John, một người trong số họ đủ giàu để tặng một điền trang cho các Hiệp sĩ dòng Thánh John, và vào thời của Vua Edward Đệ Nhị, tổ tiên Brian của ông được mời tới Westminster để tham gia Đại hội đồng tại đó. Dòng tộc của ông bị sa sút đôi chút vào thời của Oliver Cromwel[3], nhưng không nghiêm trọng lắm, và dưới triều của Charles Đệ Nhị họ được phong làm Hiệp sĩ Cây Sồi Hoàng gia[4] vì lòng trung thành. Phải, đã có những thế hệ các Ngài John trong số tổ tiên của ông, và nếu tước hiệp sĩ có thể kế thừa như thuở trước, khi cha có thể truyền lại tước hiệu này cho con trai, giờ ông sẽ là Ngài John.” “Ông đừng nói như thế!” “Nói tóm lại,” vị cha xứ kết luận, vụt nhẹ roi vào chân mình với vẻ quả quyết, “khó mà có một gia tộc khác như thế ở nước Anh.” “Một thông tin choáng cả người, phải không?” Durbeyfield đáp. “Và tôi đã lăn lóc từ nơi này sang nơi khác, hết năm này sang năm khác, như thể tôi không hơn gì một gã tiều phu tầm thường nhất trong xứ đạo… Tin tức này về tôi đã được biết từ bao lâu rồi, thưa Cha xứ Tringham?" Vị cha xứ giải thích rằng, trong chừng mực ông biết, thông tin này đã hoàn toàn tuyệt tích từ lâu, và hầu như không ai biết cả. Những điều tra riêng của ông đã được bắt đầu vào mùa xuân năm ngoái, trong lúc truy tìm dấu tích thăng trầm của gia tộc d'Urberville, ông đã nhìn thấy cái tên Durbeyfield trên cỗ xe ngựa của Jack, và từ đó đã tiến hành những điều tra về cha và ông nội của Jack cho tới khi không còn hồ nghi gì về vấn đề này nữa. “Thoạt tiên tôi quyết định không quấy rầy ông với một thông tin vô ích như thế.” Ông nói. “Tuy nhiên, đôi khi những thôi thúc quá mạnh mẽ so với lý trí của chúng ta. Tôi nghĩ có lẽ lâu nay ông cũng biết đôi điều gì đó về việc này.” “Vâng, đúng thế, tôi có nghe nói một hai lần, rằng tổ tiên tôi từng có những ngày tháng tốt đẹp hơn trước khi họ tới Blackmoor. Nhưng tôi không chú ý tới nó, nghĩ rằng nó chỉ có nghĩa rằng chúng tôi từng có thời làm chủ hai con ngựa trong khi bây giờ chỉ có một con. Tôi có một cái muỗng bạc, và một con dấu niêm phong ở nhà; nhưng Lạy Chúa, một cái muỗng và một con dấu là gì chứ?... Và hãy nghĩ rằng tôi và những người cao quý họ d'Urbervilles này luôn có chung huyết thống mà xem. Tôi nghe nói ông cố của tôi có những bí mật, và không muốn nói về xuất xứ của mình… Và, thưa cha xứ, xin đánh bạo hỏi hiện giờ dòng họ d'Urbervilles của chúng tôi sống ở đâu?” “Không ở đâu cả. Dòng họ của ông đã tuyệt tận, với tư cách một gia tộc từng sống trong hạt suốt nhiều thế hệ.” “Thế thì tệ thật.” “Phải, đó là cái mà những biên niên sử gia tộc viết sai sự thật gọi là sự tuyệt tự ở phía bên nội, nghĩa là đã chết, đã xuống mồ hết.” “Vậy chúng tôi nằm ở đâu?” “Ở Kingsbere-sub-Greenhill, có hàng hàng lớp lớp tổ tiên ông nằm trong những hầm mộ, với những chân dung khắc bên dưới những mái vòm cẩm thạch Purbeck.” “Thế các dinh thự và thái ấp của gia tộc chúng tôi ở đâu?” “Không có bất cứ thứ gì cả.” “Ồ, cả đất đai cũng không?” “Không; dù họ từng có thừa thãi, như tôi đã nói, vì gia tộc của ông bao gồm rất nhiều nhánh. Trong hạt này từng có một vùng đất của họ ở Kingsbere, một chỗ khác ở Sherton, một chỗ khác ở Millpond, một chỗ khác ở Lullstead, và một chỗ khác ở Wellbridge.” “Vậy chúng tôi có khấm khá trở lại được không?” “Chà, tôi không thể nói được điều đó!” “Vậy tốt nhất tôi nên làm gì về việc này, thưa ông?” Durbeyfield hỏi, sau một giây im lặng. “Ồ, không gì cả, không gì cả; ngoại trừ tự kềm chế bản thân với ý nghĩ kẻ quyền quý đã suy sụp thế nào. Đây là một thực tế đáng chú ý với sử gia và nhà phả hệ học địa phương, chỉ thế thôi. Có nhiều gia tộc của những nông dân trong hạt này cũng có gốc tích vẻ vang gần như tương tự. Buổi tối tốt lành.” “Nhưng ông sẽ quay lại và nhấm nháp một vại bia với tôi chứ, cha xứ Tringham? Có một loại bia rất khá ở quán Giọt Trong Lành, dù chắc chắn nó không ngon bằng ở quán của Rolliver.” “Không, cám ơn, chiều nay thì không, Durbeyfield. Ông đã uống đủ rồi.” Sau khi kết luận như thế, vị cha xứ giục lừa đi tiếp, hơi băn khoăn với quyết định của mình trong việc tiết lộ thông tin về gia tộc huyền thoại này. Khi ông ta đã đi khỏi, Durbeyfield đi vài bước nữa trong trạng thái mơ mộng say sưa, rồi ngồi xuống bờ cỏ ven lộ, đặt cái giỏ trước mặt. Vài phút sau, một thiếu niên xuất hiện ở phía xa và đang đi về hướng của ông. Khi nhìn thấy nó, ông giơ tay lên, và nó dấn bước tới gần hơn. “Cậu bé, hãy cầm cái giỏ này lên! Ta muốn cậu làm giúp ta một việc vặt.” Thằng bé gầy như que củi cau mày. “John Durbeyfield, ông là ai mà ra lệnh cho tôi và gọi tôi là ‘cậu bé’? Ông biết tên tôi rõ như tôi biết tên ông mà!” “Vậy sao, vậy sao? Đó là điều bí mật… Đó là điều bí mật! Giờ hãy làm theo lời ta, và đón nhận thông điệp ta sẽ nói với cậu… Ờ, Fred, ta không ngại nói với cậu rằng bí mật đó là ta là hậu duệ của một dòng dõi cao quý, ta mới phát hiện ra nó ngay chiều nay.” Trong lúc tuyên bố như thế, Durbeyfield, ngả người ra và thoải mái nằm duỗi người trên bờ cỏ, giữa những lùm cúc dại. Thằng bé đứng trước mặt ông, và ngắm nghía ông từ đầu tới chân. “Ngài John d'Urberville, đó chính là ta,” người đàn ông đang nằm nói tiếp, “nếu tước hiệu hiệp sĩ có thể kế thừa, mà đó là lẽ đương nhiên. Toàn bộ những điều về dòng dõi của ta đã được ghi chép trong sử sách. Cậu bé, cậu có biết một nơi gọi là Kingsbere-sub-Greenhill không?” “Có. Tôi đã tới Hội chợ ở Greenhill.” “Ờ, bên dưới nhà thờ của thành phố đó là…” “Nơi tôi muốn nói không phải là một thành phố; ít ra là khi tôi tới đó. Nó là một địa điểm nhỏ xíu.” “Đừng bận tâm tới điều đó, cậu bé, đó không phải là vấn đề quan trọng. Nằm bên dưới ngôi nhà thờ của giáo xứ đó là những tổ tiên của ta, hàng trăm người, trong những bộ áo giáp đính đầy châu báu, trong những cỗ quan tài bằng chì nặng hàng tấn. Không kẻ nào trong hạt South Wessex có những bộ xương tiên tổ vĩ đại và cao quý hơn ta.” “Ồ?” “Giờ hãy cầm lấy cái giỏ đó, và tới thôn Marlott, và khi cậu tới quán Giọt Trong Lành, hãy bảo họ hãy lập tức cho một cỗ xe ngựa tới để chở ta về nhà, trong thùng xe phải có thêm một chai rượu rum nhỏ. Và khi làm xong việc đó, cậu hãy mang cái giỏ tới nhà ta, và bảo vợ ta hãy ngưng việc giặt giũ, vì bả không cần hoàn thành nó, và chờ cho tới khi ta về nhà, vì ta có tin tức cần nói với bả.” Trong lúc cậu bé đứng phân vân, Durbeyfield thò tay vào túi và móc ra một siling, một trong số vài đồng ít ỏi mà ông có. “Đây là tiền công của cậu, cậu bé.” Việc này tạo nên một khác biệt trong suy đoán của cậu bé về địa vị của ông. “Vâng, Ngài John. Cám ơn. Tôi có thể làm gì khác nữa, thưa Ngài John?” “Bảo với vợ ta rằng ta muốn ăn bữa tối với thịt cừu rán nếu bả có thể kiếm được, còn nếu không có thì dồi tiết heo, và nếu không có món này thì phèo heo cũng được.” “Vâng, thưa Ngài John.” Thằng bé cầm lấy cái giỏ, và khi nó cất bước, một điệu kèn đồng vang lên từ hướng ngôi làng. “Gì thế?” Durbeyfield nói. “Không phải vì ta đó chứ?” “Đó là đám rước của hội phụ nữ, Ngài John. Con gái của Ngài là một trong số các hội viên của nó.” “Chắc vậy rồi. Ta quên bẳng việc này vì đang nghĩ tới những điều lớn lao hơn. Được rồi, hãy tới Marlott và gọi cỗ xe ngựa, có lẽ ta sẽ đánh xe đi một vòng và kiểm tra cái hội đó.” Thằng bé lên đường, và Durbeyfield nằm chờ giữa những bụi cỏ và cúc dại dưới ánh nắng chiều. Suốt một hồi lâu không có ai đi ngang qua đó, và những điệu kèn đồng văng vẳng là những âm thanh con người duy nhất giữa những dãy đồi xanh Mời các bạn đón đọc Tess Một Tâm Hồn Trong Trắng của tác giả Thomas Hardy & Nguyễn Thành Nhân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Làm Chủ Cuộc Chơi, Thay Đổi Cuộc Đời
Hoàn cảnh không tạo nên con người, chúng chỉ phơi bày họ. ― JAMES ALLEN ― Ngày xửa ngày xưa, có một người đàn ông đã hủy hoại đời mình ở tuổi 32. Mặc dù nhiều người tin rằng, ta có thể đánh giá nhân cách của một người dựa vào phản ứng của họ trong lúc gian nan và khi lâm vào đường cùng, chẳng có gì trong cuộc đời người đàn ông cho thấy anh ta đã sẵn sàng để vượt qua những thử thách trước mặt. Bạn sẽ không bao giờ biết một người có thể đạt được những gì nếu mong muốn của người ấy đủ mãnh liệt. Vào ngày 10/06/1996, người này đứng bất động trong phòng giam – một căn phòng hệt như bao phòng giam khác đã trở thành nhà của anh trong hơn 6 năm qua – và tuyệt vọng trước tin tức vừa nhận được về sự ra đi của cha mình. Anh nhìn xoáy vào đôi mắt cũng đang chằm chằm nhìn anh trong chiếc gương trầy xước bằng thép không gỉ trong nhà tù chôn vùi mình. Qua những ký tự khắc ngang dọc của tù nhân trước đây, anh thấy hình ảnh của một gã bỏ ngang trung học, thất nghiệp, thất bại 3 lần và sống cả quãng đời trưởng thành khổ sở đến tuyệt vọng. Từ lúc nào chẳng hay, anh chỉ biết đến nhà giam, đói nghèo và sự chật vật. Anh không có tiền, không có hy vọng và rõ ràng, không có tương lai. Anh chưa bao giờ có một công việc ổn định hoặc sở hữu một ngôi nhà, và anh đã bỏ rơi đứa con trai 3 tuổi của mình. Anh chưa bao giờ làm một việc đáng kính trọng trong đời. Vừa nhìn chằm chằm diện mạo trong gương, tiếc thương người cha đã khuất, đứa con trai anh bỏ rơi và cuộc đời mà mình lãng phí, anh vừa ngẫm nghĩ câu nói của Ralph Waldo Emerson1: 1 Ralph Waldo Emerson (1803–1882) là nhà viết tiểu luận, nhà thơ, triết gia người Mỹ, và cũng là người đi đầu trong phong trào tự lực cánh sinh và chủ nghĩa siêu việt. “Ta trở thành những gì ta luôn nghĩ tới.” Anh tập trung vào câu nói và lặp lại với bóng hình phản chiếu trên tấm gương thép không gỉ. “Ta trở thành những gì ta luôn nghĩ tới.” Anh chăm chú suy nghĩ từng từ trong lúc ngắm nghía hình ảnh khốn khổ của mình: Anh đang già đi, mặt anh đã có nhiều nếp nhăn mà mới hôm qua, anh còn không thấy. Thời thiếu niên và thanh niên của anh đã lao đi với một tốc độ kinh hoàng. Và giờ anh đang ở đâu? Già đi ngay trước mắt mình. Sao lại thế? Sao anh lại để mọi thứ mất kiểm soát đến thế? Có phải đã quá muộn để hành động rồi không? Đó là câu hỏi cấp bách nhất, vì dù sao đi nữa, anh sẽ không nhìn thấy đường phố cho đến ngưỡng 40 tuổi. Anh lại nghĩ về câu nói của Emerson: “Ta trở thành những gì ta luôn nghĩ tới.” Rồi anh tự hỏi: Còn gì cho cuộc đời không? Phải làm sao mới tìm ra câu trả lời? Anh có chút khả năng nào để thay đổi số phận nghiệt ngã này không? Anh thật sự có thể trở thành một con người khác chỉ bằng cách nghĩ về một điều khác hay sao? Bất chấp những khó khăn tưởng như nan giải, anh quyết định tìm kiếm câu trả lời. Anh bắt đầu hành trình lập ra một kế hoạch cuộc đời, sau này anh gọi là kế hoạch thành đạt. Anh tập trung suy nghĩ về một cuộc đời hiệu quả, hữu nghĩa và thực hiện những hành động tương ứng với ý nghĩ mới mẻ này. Mặc dù, triển vọng đổi đời bằng cách thay đổi suy nghĩ có vẻ khá ngớ ngẩn, anh đã tuyệt vọng đến mức quyết định cứ thử xem sao. Thậm chí, anh còn bị ám ảnh bởi ý nghĩ, mình có thể thay đổi số mệnh chỉ đơn giản bằng cách nghĩ khác đi. Và anh đã làm được. Thời điểm được phóng thích sau lần chuyển trại thứ ba và cuối cùng vào 7 năm sau, anh đã có bằng cử nhân và thạc sĩ Quản trị Kinh doanh. Vào năm 2002, chỉ một năm trước khi được trả tự do, anh được tuyên dương vì đã cứu sống một quản giáo. Bất kể trở ngại và khó khăn chồng chất, anh vẫn tiếp tục gây dựng một cuộc sống giàu có và chính trực. Anh nối lại liên hệ với con trai và nuôi dạy con trở thành một thanh niên xuất sắc. Anh xây dựng một công ty nhỏ từ tay trắng, tăng doanh thu lên 20 triệu đô la chỉ trong 60 tháng và góp mặt vào danh sách các công ty tư nhân tăng trưởng nhanh nhất nước Mỹ trong năm 2009 trên tạp chí Inc.. Anh còn mua những căn nhà xinh đẹp ở vùng núi Colorado và bãi biển Maui. Anh chia sẻ câu chuyện của mình trong cuốn hồi ký Upside of Fear: How One Man Broke the Cycle of Prison, Poverty, and Addiction (tạm dịch: Mặt tốt của nỗi sợ hãi: Cách vượt thoát vòng luẩn quẩn của tù tội, nghèo đói và nghiện ngập). Cuốn sách giành được rất nhiều giải thưởng và được những tên tuổi lớn trong lĩnh vực phát triển cá nhân và tổ chức như Tiến sĩ Stephen R. Covey và Tony Robbins quảng bá. Cuối cùng, anh trở thành một trong những diễn giả có sức lan tỏa mạnh mẽ và năng động nhất nước. Anh chia sẻ công việc của mình với tổ chức Napoleon Hill Foundation và những người khai sáng như Mark Victor Hansen. Trên cùng một sân khấu với chuyên gia bán hàng huyền thoại, Tom Hopkins, anh đã dạy vô số chuyên viên bán hàng quá trình vượt 25 năm nghèo đói và khổ sở sang một cuộc đời khác biệt với những thành công trong kinh doanh. Dù là kẻ thua thiệt nhất trong những người thua thiệt và có cơ hội thành công ít nhất trong những kẻ nỗ lực cầu may, anh đã hình thành nên một cuộc đời đáng kính và thành đạt. Tôi biết rõ câu chuyện của người đàn ông ấy vì đó chính là câu chuyện của tôi. Tôi chính là người đàn ông đó. Tôi là Weldon Long. Sau hơn hai thập niên thất bại và sống chật vật, với 13 năm sau bức tường xi măng và kẽm điện, tôi đã thoát ra, trở thành một người khác và gây dựng nên cuộc đời mà mình từng mơ ước khi ở trong phòng giam lạnh lẽo. Cuộc sống và việc kinh doanh của tôi đã thay đổi mãi mãi nhờ sức mạnh của sự nhất quán. Đó là một nguồn lực mạnh mẽ đến mức có thể tạo ra những điều không tưởng và biến đổi hoàn toàn số mệnh con người, nhưng lại tinh tế đến mức rất dễ dàng và thường xuyên bị bỏ qua. Tôi đã sử dụng sức mạnh của sự nhất quán. để đưa bản thân từ cuộc sống nghèo khổ và tuyệt vọng đến sự giàu có, hạnh phúc và bình yên trong tâm trí. Đó là điều đã thay đổi mọi thứ trong cuộc sống và việc kinh doanh của tôi. Tôi sẽ chia sẻ với bạn quá trình thực hiện từng bước đơn giản này để giúp bạn tạo ra những cấp độ thành công mới trong doanh thu và sự nghiệp kinh doanh của mình. Mời các bạn đón đọc Làm Chủ Cuộc Chơi, Thay Đổi Cuộc Đời của tác giả Weldon Long.
Đời, Thế Mà Vui
Đọc tiểu thuyết hoạt kê Đời, Thế Mà Vui của nhà thơ Lê Minh Quốc - ta sẽ có nhiều phen cười nôn ruột. Các nhân vật vây quanh lấy ta với đủ chiêu trò từ nhăng nhố đến bi hài nhằm khắc họa “sinh hoạt văn nghệ” đã và đang diễn ra trong đời sống này: Đạo diễn nổi tiếng Lắc Lơ của đoàn cải lương Nòng Súng bỗng nhảy sang lĩnh vực hài kịch. Đạo diễn này vừa dựng xong vở hài kịch có tên là Ngã ba chúÍa, 15 màn với ba diễn viên chính: Rền Vang – nhà văn kiêm nhà báo, Rổn Rảng - nhà đòn kiêm nhà thơ, Robert Tạch - GS.TS. chuyên ngành mông má cho những người đàn bà trời bắt làm thân cá sấu. Hai diễn viên phụ là vợ nhà đòn Rổn Rảng và quí bà sồn sồn đến thẩm mĩ viện Dậy Thì cắt mí mắt. Một số diễn viên quần chúng là các tiếp viên hãng bia... *** BI KỊCH CỦA ĐAN THIỀM THỜI NAY Đ ọc tiểu thuyết hoạt kê Đời, thế mà vui của nhà thơ Lê Minh Quốc - ta sẽ có nhiều phen cười nôn ruột. Các nhân vật vây quanh lấy ta với đủ chiêu trò từ nhăng nhố đến bi hài nhằm khắc họa “sinh hoạt văn nghệ” đã và đang diễn ra trong đời sống này: Đạo diễn nổi tiếng Lắc Lơ của đoàn cải lương Nòng Súng bỗng nhảy sang lĩnh vực hài kịch. Đạo diễn này vừa dựng xong vở hài kịch có tên là Ngã ba chú Ía, 15 màn với ba diễn viên chính: Rền Vang - nhà văn kiêm nhà báo, Rổn Rảng - nhà đòn kiêm nhà thơ, Robert Tạch - GS.TS. chuyên ngành mông má cho những người đàn bà trời bắt làm thân cá sấu. Hai diễn viên phụ là vợ nhà đòn Rổn Rảng và quí bà sồn sồn đến thẩm mĩ viện Dậy Thì cắt mí mắt. Một số diễn viên quần chúng là các tiếp viên hãng bia... Nhà văn kiêm nhà báo Rền Vang đã diễn quá xuất sắc vai diễn một nhà báo đầy mánh lới kiếm tiền. Dù có uống bao nhiêu bia rượu, Rền Vang không bao giờ say xỉn. Say là say thế nào, không thể say, phải chờ người khác say để còn cầm cố xe máy, hoặc móc túi của nó trả tiền bia. Và còn để ngủ với vợ của nó. Rổn Rảng, một thương gia trong lĩnh vực kinh doanh nhà đòn (hòm áo quan) bỗng một ngày đẹp giời trời phú cho làm thơ. Chứ không à, thơ hay thơ dở đều phải trời phú cho mới làm được đấy chứ. Khi tập thơ Ngã ba chú Ía hoàn tất, Rổn Rảng tìm đến nhà văn Rền Vang để nhờ nhà văn hồ (gà) cho nổi tiếng. Robert Tạch, cha mẹ mất sớm phải ở với ông cậu, bán thuốc dạo kiếm ăn, rồi vượt biên, rồi quay về nước làm ăn. Chẳng học hành gì nhưng cứ tự phong hàm GS.TS, cho nó oai. Cái việc tự phong hàm GS.TS như Robert Tạch ở cái đất này thiếu gì. Nào có ai kiểm chứng đâu. Robert Tạch có công ty Luky và thẩm mĩ viện Dậy Thì mở chui. Rền Vang là một tay “hồ gà” siêu hạng. Rổn Rảng nghe tên đến cầu thân. Rổn Rảng muốn được thành người nổi tiếng. Rền Vang ra tay gạo xay ra cám luôn. Thơ của Rổn Rảng được phổ nhạc. Lại được đạo diễn Lắc Lơ chuyển thể Ngã ba chú Ía thành kịch với giá một chỉ vàng… Rền Vang phải lòng vợ Rổn Rảng. Quen mui thấy mùi ăn mãi, ngủ được một lần với thị khi chồng thị say, ngủ với thị lần nữa thì chồng thị bắt được… Đến đây vở hài kịch có chuyển sang bi kịch? Tôi biết Lê Minh Quốc là một nhà báo gạo cội và là nhà thơ nổi tiếng. Trong làng văn làng báo của chúng ta không hiếm những người đa tài, không chỉ tay trái tay phải đều là tay phải, mà sở trường sở đoản đều là sở trường. Nhưng Lê Minh Quốc lại chọn cách thể hiện khác trong Đời, thế mà vui. Anh đã dùng tiếng cười để gắn người đọc vào con chữ của anh. Các nhân vật trong tiểu thuyết của anh với những thói hư tật xấu nhưng lại không ác, có thể lấy những câu chuyện của họ để cười liên tu bất tận, chẳng phải cười đằng sau lưng mà cười ngay vào mũi. Cười vậy là xong, không thấy ghét. Ngay cả cao trào ở phần cuối tiểu thuyết Rền Vang ngủ với vợ của Rổn Rảng, cũng chỉ cất tiếng cười đau đớn và hỏi thầm trong bụng, có bao nhiêu nhà văn, nhà thơ rơi vào cảnh này? Lê Minh Quốc không khoáy sâu vào những nỗi đau, không nhấn nhá vào mánh lới. Anh như chẳng thêm thắt, cường điệu chút nào. Anh cứ để nhân vật hồn nhiên bộc lộ cái bi hài của mình. Viết được như vậy là rất khó. Tôi lại tự hỏi, nếu Lê Minh Quốc không là nhà thơ, nhà báo anh có viết được tiểu thuyết này không? Anh có viết được cái cảnh Lắc Lơ cho tay vào túi quần để sờ ít tiền đã nằm im trong túi. Nếu không để cho Robert Tạch đứng tên thì phải nôn tiền trong túi ra. Được tiền thì mất tên mà được tên thì mất tiền? Phải chăng đó là bi kịch của Đan Thiềm thời nay? Nhà văn Y Ban Mời các bạn đón đọc Đời, Thế Mà Vui của tác giả Lê Minh Quốc.
Ma Cà Rồng Và Em Tập 2
Một "Chạng vạng" phiên bản Hàn Quốc, sự lãng mạn của Ma Cà Rồng làm rung động trái tim! Một Ma Cà Rồng 500 tuổi xuất hiện ở thế giới loài người để truy tìm "bông hoa Ma Cà Rồng" - Luberui Louis. Và Seo Young - một cô gái kí giao ước với Ma Cà Rồng trong hình dáng của một thiếu niên. Trong đêm tối, dưới ánh trăng mờ ảo, một người thanh niên đẹp mê hồn sải đôi cánh. Khi biết được người thanh niên đó chính là Louis mà mình đã kí giao ước, Seo Young dần dần mở lòng với người thanh niên ấy... "Anh sẽ luôn che chở cho em, và hãy đừng tin ai khác ngoài anh!" *** Ma cà rồng không phải là một đề tài mới của văn chương thế giới những năm gần đây. Thế nhưng “Ma cà rồng và Em”, cuốn sách mới của tác giả Shin Ji-Eun vẫn có một sức thu hút nhất định. Có lẽ vì nữ tác giả trẻ tuổi đã chọn một cách thể hiện câu chuyện gần gũi, dễ hấp dẫn độc giả trẻ. Phiêu lưu, bí hiểm và đậm chất lãng mạn, “Ma cà rồng và Em” với tạo hình hai nhân vật chính, Louis và Seo-Young với nét trẻ trung, cá tính nổi bật là điểm cộng đầu tiên. Tác giả Shin Ji-Eun từng thừa nhận thích phiêu lưu và các chi tiết phi thực tế nhưng trong cách xây dựng nhân vật Seo-Young, nữ tác giả lại chọn cho cô một cách xuất hiện khá giản dị, tự nhiên: một nữ sinh trung học mồ côi nhưng có lối sống vô tư, lạc quan. Riêng với nhân vật Louis, chàng thủ lĩnh ma cà rồng, tác giả người Hàn Quốc trung thành với quan điểm độc – lạ đề ra trong ngòi bút. Đẹp trai, mang cánh rộng và xuất hiện dưới ánh trăng, sự xuất hiện ấn tượng của Louis là sự báo hiệu đầy thông minh để mở ra một loạt tình huống li kỳ của câu chuyện. Để khiến thiên truyện thêm phần cuốn hút, cũng như cái cớ để diễn tiến truyện, tác giả Shin Ji-Eun sáng tạo nên hình ảnh loài hoa “ma cà rồng”. Thêm một khái niệm mới mà có lẽ Shin Ji-Eun là người đầu tiên phát hiện và phát triển với cách miêu tả đầy gợi cảm: “Cánh hoa ấy đỏ hơn máu, hương hoa ma mị tới mức thu hút bất cứ loài ma cà rồng nào. Chỉ cần nếm một chút cánh hoa cũng đủ chữa lành mọi vết thương. Người nào sở hữu bông hoa đó trong tay sẽ có quyền năng chế ngự mọi ma cà rồng”… “Ma cà rồng và em” đã có mặt tại các nhà sách trên toàn quốc. *** Shin Ji-Eun vốn là một sinh viên chuyên ngành kĩ thuật, nhưng Shin Ji-Eun lại tìm thấy sở thích trong viết lách. Cô thích bất cứ thứ gì phiêu lưu và những sự cố phi thực tế. Do đó cô đã chọn ma ca rồng là chủ đề chính trong tác phẩm này. Sau khi giành được sự ủng hộ của nhiều fan trên web, cô quyết định tiếp tục viết. Cô dự định sẽ viết nhiều tác phẩm liên quan đến ma cà rồng. *** "Ma cà rồng và em" là tác phẩm kể về câu chuyện tình lãng mạn, đầy bí hiểm giữa chàng trai thủ lĩnh ma cà rồng và nữ sinh trung học. Ma cà rồng và em là tác phẩm đầu tay của tác giả Shin Ji-Eun. Cô từng là sinh viên chuyên ngành kỹ thuật, nhưng có sở thích viết lách. Shin Ji-Eun thích những thứ phiêu lưu và các sự cố phi thực tế. Do đó, cô chọn ma ca rồng là chủ đề chính trong tác phẩm này. Sau khi giành được sự ủng hộ của nhiều fan trên web, cô quyết định tiếp tục viết nhiều tác phẩm liên quan đến chủ đề này. Ma cà rồng và em kể về câu chuyện tình đặc biệt giữa chàng trai ma cà rồng và nữ sinh trung học. Louis - ma cà rồng đẹp trai và cũng là người đứng đầu trong thế giới đầy sợ hãi. Chàng xuất hiện trở lại trong thế giới loài người để thực hiện nhiệm vụ của mình là trở thành Chúa tể loài này. Để đạt được ngôi vị, Louis phải tìm ra bí mật của hoa ma cà rồng. Seo-Young là nữ sinh trung học bình thường. Cô mồ côi, nhưng luôn sống vui vẻ, lạc quan. Một ngày, cô gặp một ma cà rồng và bị buộc thực hiện thỏa thuận. Cô bị ràng buộc bởi một hợp đồng. Cùng với Louis, cô phải tìm ra bí ẩn của “hoa ma cà rồng”. Được miêu tả rằng: “Cánh hoa ấy đỏ hơn máu, hương hoa ma mị tới mức thu hút bất cứ loài ma cà rồng nào. Chỉ cần nếm một chút cánh hoa cũng đủ chữa lành mọi vết thương. Người nào sở hữu bông hoa đó trong tay sẽ có quyền năng chế ngự mọi ma cà rồng”. Hoa ma cà rồng trở thành bí mật siêu nhiên mà Seo-Young, Louis đều muốn tìm thấy. Trong bối cảnh đó, Seo-Young phát hiện ra một chàng trai đẹp trai với đôi cánh rộng, màu đen trong bóng tối, dưới ánh trăng... Diễn biến kịch tính được miêu tả đầy đủ, chi tiết trong tiểu thuyết Ma cà rồng và em của tác giả Shin Ji-Eun. *** Đầu óc Seo Young trống rỗng. Đôi mí mắt như đeo thêm cục đá nặng khiến cô phải khó khăn lắm mới mở mắt ra được. “Có ổn không nhỉ?” “Ơ...?” Vừa mở mắt đã thấy bóng dáng của một người con trai khiến Seo Young bất giác kêu lên. Người con trai đứng trước mặt cô đang hơi nghiêng đầu sang một bên, khuôn mặt vẻ lo lắng. Mái tóc đen sẫm lòa xòa rủ xuống. Nhẹ nhàng, mềm mại như lụa, và tươi vui. “Nóng quá.” Trong trí nhớ của cô thì bây giờ đang là mùa đông. Mùa đông lạnh buốt đến mức nếu hai bàn tay không xoa vào nhau thì cóng lại. Nhưng mà nóng quá. Nóng đến mức chảy cả mồ hôi hột. Sức nóng không phải từ không khí xung quanh mà từ trong người tỏa ra. Cảm nhận được cơn khát trước cái nóng gay gắt đến mức muốn ném bay cái chăn đang đắp trên người, Seo Young thở hổn hển và chuyển động cơ thể. “Ọe”. Đang di chuyển để bỏ chăn ra thì cơn đau bất ngờ ập đến như bị ai đó đánh. Seo Young rụt người kêu rên lên. “Vẫn chưa ngồi dậy được đâu.” Trong cơn đau khủng khiếp đến mức Seo Young nghĩ rằng thà mất đi ý thức còn hơn là tỉnh táo như này, người con trai đặt bàn tay to lớn lên đầu cô. Bàn tay lạnh buốt như thổi bay cái nóng vừa nãy, xoa nhẹ tóc cô rồi cẩn thận kéo tấm chăn đắp thêm. “Louis…” Đã nhìn thấy hình dáng trưởng thành của Louis rồi nên không khó để Seo Young nhận ra. Không, mà kể cả có chưa nhìn thấy thì cô cũng có thể nhận ra được. Mùi hương của anh ấy, giọng nói ấm áp và cả bàn tay mềm mại khiến trái tim rung động thế này thì làm sao có thể không nhận ra được cơ chứ? “Sao em lại làm điều khờ dại thế hả?” Giọng nói của người con trai yêu quý vang lên khàn khàn một cách nghiệt ngã. “Em muốn chết hả? Có biết là mình vừa uống cái gì không?” Trước tiếng nói đầy oán trách của người con trai, trái tim Seo Young như thắt lại. “Em…” Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Và Em Tập 2 của tác giả Shin Ji-Eun.
Những Linh Hồn Xám - Philippe Claudel
Trong một thành phố nhỏ ở hậu phương, đàn ông con trai không phải ra chiến trường vì một nhà máy ở đây đang cần họ. Trong khi cách đó không xa, biết bao sinh linh đang chịu cảnh thịt nát xương tan thì một vài án mạng có nghĩa lý gì? Thế nhưng, có một cái chết che lấp cả hàng ngàn cái chết, có một cái chết xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, cái chết của Hoa bìm bìm, một bé gái mười tuổi. Khi xác con gái của chủ quán Bourrache được tìm thấy bên một bờ kênh thì cả thành phố bàng hoàng, dò xét nhau, thậm chí nghi ngờ nhau. Ai đã giết chết bé gái này? Thủ phạm đáng ngờ nhất là Pierre-Ange Destinat, một quan chức làm nghề kết án tử hình, một ông kiểm sát trưởng. Nhưng thằng nhóc người Bretagne, một kẻ đào ngũ, sau một đêm bị hành hạ dã man, đã thú nhận mình là thủ phạm. Viên cảnh sát chịu trách nhiệm điều tra về vụ án lại là một kẻ đang chán sống, đã thấy quá nhiều điều ghê tởm, phải đối mặt với cái chết thê thảm của người vợ yêu... Có thể nói màu xám bao trùm lên toàn bộ tác phẩm này: không khí tỉnh lẻ ảm đạm, yên tĩnh và đầy bí ẩn, cô đơn và lo lắng, tòa Lâu đài tường gạch và ngói đá đen, khu nhà máy rộng lớn với những ống khói chọc trời, đời sống nội tâm của người kể chuyện, sự bí ẩn trong con người ông kiểm sát trưởng. Chính một nhân vật trong tiểu thuyết này đã thốt lên: “Những thằng đểu cáng, những bậc thánh nhân, em đã thấy bao giờ đâu? Chẳng có gì thật là đen, cũng chẳng có gì thật là trắng. Chỉ có màu xám là vượt trội. Con người và linh hồn của họ cũng vậy... Anh là một linh hồn xám, xám một cách dễ thương, như tất thảy chúng ta...” Cuốn tiểu thuyết của tác giả Philippe Claudel đã đoạt giải Renaudot 2003- một trong những giải thưởng văn học danh giá nhất của Pháp, được tạp chí Lire uy tín bầu chọn là quyển sách hay nhất năm 2003. Cuốn sách cũng được dịch ra 25 thứ tiếng và đã được dựng thành phim. *** Trước mắt quý bạn đọc là ngót 300 trang cuốn tiểu thuyết Những linh hồn xám (Les Âmes grises) của Philippe Claudel, tác giả mà người Việt Nam đã biết qua các tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Việt như Cháu gái ông Linh (La Petite fille de Monsieur Linh) , Thế giới không trẻ con (Le Monde sans les enfants) . Ông cho in tác phẩm đầu tay, Meuse l'oubli , năm 37 tuổi (1999). Hai năm liên tiếp sau đó, người đọc đón nhận ba cuốn khác của ông: Quelques-uns des cent regrets, J'abandonne, Au revoir Monsieur Friant . Nhưng phải đến Les Âmes grises , tác phẩm thứ năm, tài năng của tác giả trẻ này mới thật sự được khẳng định. Năm 2003, Những linh hồn xám được trao giải Renaudot (cùng với Goncourt, Renaudot là giải văn chương có uy tín ở Pháp). Theo tổng kết của các báo Le Nouvel Observateur, Le Point, L'Express , đây là một trong những tác phẩm được người đọc tìm mua nhiều nhất và được bình chọn là một trong những cuốn sách hay nhất năm 2003. Sự thành công của tiểu thuyết này càng được khẳng định vào năm 2005, khi nó được chuyển thành bộ phim cùng tên do Yves Angelo đạo diễn. Cùng năm ấy, hàng loạt các bài của các nhà phê bình quen thuộc viết về Những linh hồn xám được đăng trên những tờ báo lớn ở Pháp. Béranghère Adda viết trên Le Parisien (04/11/2003), Alain Salles trên Le Monde (05/11/2003), Annie Coppermann trên Les Echos (29/9/2003), Philippe Lancon trên Libération (11/9/2003). Như một việc làm phá cách, Le Figaro đăng tải đến 2 bài của Eric Ollivier (04/9/2003) và Francois Nourisser (20/9/2003). Cũng thế, trên tờ Le Point sau bài của Sebastien Fumaroli (28/8/2003) là bài viết nồng nhiệt của Marie-Francoise Leclère (20/11/2003)... Bốn năm lao động sáng tạo say mê của Phililppe Claudel để hoàn thành tác phẩm Những linh hồn xám hoàn toàn xứng đáng được nhận những lời khen tặng, đánh giá cao của giới phê bình cũng như công chúng chọn lọc của nước Pháp. Nhà văn viết về một thời đoạn ngắn trong Thế chiến lần thứ Nhất (1914-1918), một cuộc chiến tranh vô nghĩa lý, nhưng ông không dựng lại những cảnh chạm súng trực tiếp, bom rơi đạn nổ cụ thể. Chiến tranh thường trực có mặt trong toàn bộ tác phẩm, nhưng qua tiếng gầm gừ gào thét của đạn bom từ một không gian nào đó, có lúc xa nhưng cũng không ít lúc gần, chỉ cách thành phố V. nhỏ bé - bối cảnh diễn ra mọi chuyện thương tâm - một dãy đồi. Thành phố nhỏ đến mức cư dân quá quen biết nhau và các con đường nhỏ của nó dù dài ngắn thế nào dường như bao giờ cũng giao cắt nhau. Ở đó, một cộng đồng người ít ỏi, nhạt nhoà, mờ mờ nhân ảnh, tồn tại đấy mà chập chờn hư thực. Tác giả chọn một giọng kể lạ, cứ nhẩn nha chậm rãi như tự nói với chính mình, một cuộc nói chuyện - “một cuộc nói chuyện của thời khác”. Như ông đã bộc bạch với Clara Dupont (báo Marianne, 15/9/2003): khi viết ông không biết trang tiếp theo sẽ được viết ra sao. “Tôi thích khi không biết mình sẽ đi đâu”, Philippe Claudel đã thổ lộ như thế. Vì vậy có lúc người đọc có thể sốt ruột, ngỡ là người kể chuyện đã sa đà, lan man nhưng thực ra nội dung câu chuyện vẫn được tổ chức chặt chẽ và tâm trạng, tính cách, số phận những con người bé nhỏ, - những “linh hồn xám” - và cả vài ba con người độc ác, phi nhân tính như kiểm sát trưởng Destinat, đại tá Matziev - những “linh hồn đen” - dần dần hằn nổi, để ám ảnh người đọc mãi không thôi. Đúng là ám ảnh dai dẳng, hình ảnh đông đảo những linh hồn xám vô danh: lớp lớp những người thanh niên mặc áo lính, vô tư lự, không hiểu gì về đối phương, lạc quan thiếu căn cứ, hăng hái đi qua thành phố V., hướng ra chiến trường. Thế rồi, ngày lại ngày hàng đoàn xe tải chở thương binh, tử sĩ ùn ùn trở về, hoặc vĩnh viễn bó mình trong bốn tấm ván gỗ thông tồi tàn, hoặc ngổn ngang rên xiết trong quân y viện dã chiến đặt tại thành phố. Có người cũng có tên - một anh Léon Castrie nào đấy - “rất hài lòng vì đã mất một cánh tay. Sáu ngày nữa anh ta sẽ về nhà và về luôn”. Người kể chuyện đã bình luận, khó có thể gọn hơn nhưng thật chua chát: “Chiến tranh là một thế giới lộn ngược, mông chổng lên trời, đầu rạp xuống đất. Chiến tranh cố thể biến một người tàn phế thành kẻ hạnh phúc nhất trần gian”. Sức ám ảnh của tác phẩm còn nặng nề hơn khi Philippe Claudel dẫn chúng ta đến với những người dân bình thường của thành phố: cô bé mười tuổi Hoa Bìm Bìm ngây thơ hồn nhiên, bà lão Adélaide Siffert tốt bụng, thai phụ Clémence khắc khoải chờ đón đứa con đầu lòng, cô giáo Lysia Verharine tình nguyện đến thành phố V. dạy học để được an ủi vì phía bên kia quả đồi... Cả người kể chuyện - một anh cảnh sát tư pháp không rõ tên tuổi - chồng của Clémence. Và qua số phận của từng người một, nhưng kết thúc thật đau thương cứ lần lượt nối tiếp: Hoa Bìm Bìm bị cưỡng hiếp và bóp cổ đến chết, Clémence bất lực “vượt qua” trong cô đơn, cô giáo Lysia sau những ngày khắc khoải chờ trông hy vọng đã nhậnđược tin dữ về cái chết của người yêu... Những trang viết thật buồn, nhưng cũng thật đẹp. Đẹp, vì Philippe Claudel dù muốn giấu nhưng cảm xúc nhân văn vẫn cứ bàng bạc trong toàn bộ 27 chương sách. Tôi ngờ rằng nhà văn cố làm ra lạnh lùng tỉnh táo, nhưng nhiều khả năng trái tim ông đã run rẩy không chỉ một lần. Đẹp, vì đúng như ông Jérôme Garcin đã viết trong Le Nouvel Observateur (04/9/2003), những trang viết này đã được cha đẻ của nó “rất trau chuốt về câu chữ, chứa chan xúc cảm đến nỗi nó có vẻ như thách thức cả một gia đoạn văn học”. Dịch giả trẻ Nguyễn Duy Bình đã chuyển ngữ tác phẩm một cách công phu, nghiêm túc và đầy cảm hứng, nên đã tặng cho chúng ta một bản dịch đáng tin cậy, và đẹp. Trân trọng mời bạn đọc làm quen với Những linh hồn xám. TP. Hồ Chí Minh, những ngày giáp Tết Mậu Tý TRẦN HỮU TÁ Mời các bạn đón đọc Những Linh Hồn Xám của tác giả Philippe Claudel.