Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghệ Thuật Quyến Rũ - Robert Greene

Q uyến rũ là một dạng sân khấu ngoài đời, là nơi gặp gỡ giữa ảo ảnh và hiện thực, là một dạng lừa dối, nhưng con người thích được dẫn lệch hướng, họ khát khao được người khác quyến rũ. Hãy vất bỏ hết những khuynh hướng đạo đức, hãy làm theo triết lí vui vẻ của người quyến rũ, rồi bạn sẽ thấy quá trình còn lại dễ dàng và tự nhiên. Nghệ thuật Quyến rũ nhằm trang bị cho bạn vũ khí thuyết phục và hấp dẫn người khác, để những người xung quanh bạn từ từ mất khả năng chống cự mà không hiểu như thế nào và tại sao điều đó lại xảy ra. Nó là nghệ thuật chiến đấu trong thời đại tinh tế này. Mỗi cuộc quyến rũ có hai yếu tố bạn phải phân tích và thấu hiểu: Thứ nhất là chính bạn và bạn có gì quyến rũ; thứ hai là con mồi và những hành động có thể đập tan phòng vệ của họ khiến họ phải đầu hàng. Vì vậy, Nghệ thuật Quyến rũ được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, “Kiểu Người Quyến rũ”, mô tả chín loại người quyến rũ, cộng thêm Người không Quyến rũ (anti-seducer). Nghiên cứu những loại người này giúp bạn nhận thức được thuộc tính quyến rũ vốn có trong bạn là gì vì đó là những viên đá tảng cơ bản trong quyến rũ. Phần thứ hai, “Quá trình quyến rũ”, gồm hai mươi bốn thủ thuật và chiến lược sẽ hướng dẫn bạn làm thế nào bỏ bùa mê, phá vỡ thế chống đối, tiến bước mạnh mẽ trong quyến rũ, và dẫn dụ con mồi đầu hàng. Cầu nối giữa hai phần là chương bàn về mười tám loại nạn nhân bị quyến rũ – mỗi một loại thiếu một điều gì đó trong cuộc sống, trong lòng có một khoảng trống mà bạn có thể bù lấp. Biết được mình đang quyến rũ loại người nào giúp bạn vận dụng ý tưởng trong cả hai phần. Nếu bỏ qua bất kì phần nào trong quyển sách này, bạn sẽ chỉ là một người quyến rũ không hoàn hảo. Tinh thần giúp bạn trở thành một người quyến rũ tuyệt vời là tinh thần bạn đọc cuốn sách này. Nhà văn Pháp Denis Diderot đã từng viết, “Tôi cho phép tâm hồn tôi tự do theo đuổi ý tưởng khôn ngoan hay ngu ngốc đầu tiên khi nó xuất hiện, giống như trên đại lộ de Foy con người thanh niên phóng đãng trong ta theo sát gót một cô gái làm tiền nào đó, để sau đó bỏ theo một cô khác, tấn công tất cả bọn họ để rồi chẳng gắn kết họ với gì cả. Suy nghĩ của tôi chính là những cô gái làm tiền.” Ý ông là ông để mình bị quyến rũ bởi những ý tưởng, theo đuổi bất cứ điều gì làm ông thấy hứng thú cho đến khi một cái khác hay hơn đến với ông, suy nghĩ của ông bị nhiễm một dạng thú vui nhục dục. Một khi bạn đã bước vào những trang sách này, hãy làm như Diderot khuyên: Hãy để mình bị quyến rũ bởi những câu chuyện và những ý tưởng, hãy để đầu óc cởi mở và suy nghĩ đi hoang. Dần dần bạn sẽ thấy thứ thuốc độc này thấm vào da thịt mình và bạn sẽ bắt đầu xem mọi thứ là nghệ thuật quyến rũ, kể cả cách nghĩ và cách bạn nhìn thế giới. Đức tính tốt nhất chính là làm tăng nhu cầu quyến rũ. Natalie Barney *** H àng ngàn năm trước, quyền lực chủ yếu có được và duy trì nhờ vào bạo lực. Sự tinh tế là không cần thiết – vua hay hoàng hậu phải biết nhẫn tâm. Chỉ một vài người có quyền lực nhưng phụ nữ là người phải chịu đựng nhiều nhất dưới chế độ này. Họ không có cách nào để tranh đấu, không có vũ khí nào về mặt chính trị, xã hội hay ngay trong gia đình giúp họ bắt đàn ông phải làm theo ý mình. Dĩ nhiên đàn ông có điểm yếu: Đó là khát khao nhục dục mãnh liệt. Người phụ nữ luôn có thể nhắm vào dục vọng này của đàn ông, nhưng nếu họ lại bị lôi vào tình dục thì người đàn ông lại lập tức quay lại thế thống trị; còn nếu họ từ chối nhục dục thì người đàn ông lại đi tìm điều đó ở một nơi khác – hoặc sử dụng vũ lực. Một quyền lực tạm thời và mỏng manh như thế thì ích gì? Vậy mà người phụ nữ cũng chẳng còn sự lựa chọn nào khác ngoài cách này. Mặc dù vậy, đã có những người quá khát khao quyền lực, trải qua nhiều năm khéo léo và sáng tạo, đã nghĩ ra cách xoay ngược thế cờ, tạo ra một dạng quyền lực mới lâu dài và hiệu quả hơn. Chính những người phụ nữ này đã sáng tạo ra nghệ thuật quyến rũ, tiêu biểu là Bathsheba trong Kinh Cựu Ước, Helen của thành Troy, mỹ nhân ngư Hsi Shi ở Trung Quốc, và đặc biệt là nhất là Cleopatra. Trước tiên họ lôi kéo người đàn ông bằng bề ngoài hấp dẫn, chế ra các đồ trang sức và phụ trang để tạo nên hình tượng một thánh nữ giáng trần. Họ để lộ một thoáng da thịt để kích thích trí tưởng tượng của đàn ông, không chỉ kích thích dục vọng mà còn cái gì đó hơn thế: Đó là cơ hội sở hữu một vị thánh. Một khi đã thu hút được chú ý của nạn nhân, những phụ nữ này sẽ dụ dỗ họ ra khỏi thế giới đàn ông chỉ có chiến tranh và chính trị, lôi cuốn họ vào thế giới của phụ nữ – một thế giới xa hoa, vui thú và ngoạn mục. Có thể họ còn dẫn dắt con mồi đi lạc hướng theo nghĩa đen, tức dẫn họ đi du hí xa, như Cleopatra đã dẫn dụ Julius Caesar đi du hí dọc sông Nile. Người đàn ông sẽ dần lún sâu vào những vui thú tinh tế và nhạy cảm này – họ sẽ yêu. Nhưng rồi khi ấy người phụ nữ lại trở nên lạnh lùng và hờ hững làm con mồi phải băn khoăn. Đến khi người đàn ông cứ muốn hơn nữa thì những niềm vui ấy lại bị rút lại. Họ buộc phải theo đuổi, cố mọi cách tìm lại niềm vui mình đã từng được nếm thử, và rồi trong quá trình đó họ sẽ bị yếu dần và trở thành người đầy tình cảm. Những người đàn ông có sức mạnh và quyền lực chính trị như Hoàng đế David, Paris của thành Troy, Julius Caesar, Mark Anthony hay Vua Phù Sai đều thấy mình trở thành nô lệ của một người phụ nữ. Trước bạo lực và dã man, những phụ nữ này đã biến quyến rũ thành một nghệ thuật tinh tế, hình thức cao nhất của quyền lực và thuyết phục. Họ học cách đánh vào tâm trí trước, kích thích óc tưởng tượng, làm người đàn ông cứ muốn hơn nữa, tạo ra những tình cảm hy vọng rồi tuyệt vọng nối tiếp nhau – đó là bản chất của quyến rũ. Sức mạnh của họ không phải ở thể chất mà về tâm lí, không dùng vũ lực mà chỉ gián tiếp và khéo léo. Những chuyên gia quyến rũ vĩ đại đầu tiên này giống như những viên tổng tư lệnh quân sự lập kế hoạch hủy hoại kẻ thù, và thật sự những ghi chép đầu tiên về quyến rũ thường so sánh nó với chiến trường, một kiểu chiến tranh của phụ nữ. Đối với Cleopatra, đây là vũ khí củng cố đế chế của mình. Trong quyến rũ, người phụ nữ không còn chỉ là công cụ tình dục thụ động; họ trở thành nhân tố năng động, một hình tượng quyền lực. Ngoại trừ một số ngoại lệ – như nhà thơ người La tinh tên Ovid, một người hát rong thời trung cổ – còn hầu như đàn ông ít quan tâm đến thứ nghệ thuật nhảm nhí như nghệ thuật quyến rũ. Sau đó, có sự thay đổi lớn vào thế kỉ mười bảy: Đàn ông bắt đầu quan tâm đến quyến rũ như một cách khắc phục sự chống đối tình dục thường gặp những phụ nữ trẻ. Người quyến rũ vĩ đại là nam đầu tiên trong lịch sử – Công tước Lauzun, người đã tạo cảm hứng cho truyền thuyết Don Juan – bắt đầu dùng những phương pháp lâu nay vẫn được phụ nữ sử dụng. Họ học cách làm con mồi lóa mắt với vẻ bề ngoài của mình (thường họ có bản chất ái nam ái nữ) để kích thích trí tưởng tượng, để đóng vai người đỏm dáng. Họ còn thêm vào trò chơi một yếu tố mới mang tính nam, đó là ngôn ngữ quyến rũ, vì họ phát hiện ra một điểm yếu của phụ nữ là thích lời ngon ngọt. Hai hình thức quyến rũ này – người nữ dùng ngoại hình và người nam dùng lời nói – thường được cả hai bên bổ sung thêm vào chiến thuật của mình: Casanova cũng làm lóa mắt phụ nữ bằng quần áo; còn Ninon de l’Enclos cũng quyến rũ đàn ông bằng lời ngon tiếng ngọt của mình. Cùng lúc với giai đoạn nam giới đang hình thành hình thức quyến rũ dành cho giới mình thì những người khác cũng bắt đầu áp dụng nghệ thuật này cho mục đích xã hội. Khi hệ thống chế độ phong kiến lùi dần vào quá khứ, các quan chức phải tìm chỗ đứng cho mình trong chính phủ mà không còn được dùng đến quyền lực. Họ học cách chiếm được quyền lực bằng cách quyến rũ cấp trên hay đối thủ bằng trò chơi tâm lí, từ ngữ nhẹ nhàng, một chút đỏm dáng. Khi xã hội ngày càng dân chủ hóa, các diễn viên, nghệ sĩ và dân ăn diện bắt đầu sử dụng các chiến thuật quyến rũ để lôi cuốn, dành khán giả và môi trường xã hội. Thế kỉ mười chín còn có một thay đổi lớn khác: Đó là các chính trị gia như Napoleon tự xem mình như kẻ quyến rũ, trên qui mô lớn. Những người này dựa trên nghệ thuật hùng biện quyến rũ, nhưng họ cũng nắm vững những chiến thuật của phụ nữ như: Dàn dựng những cảnh ấn tượng, dùng các chiến thuật sân khấu hay tạo hình tượng uy lực. Tất cả những điều họ học được đều là cái được gọi là sức lôi cuốn quần chúng – và đến ngày nay vẫn vậy. Với cách quyến rũ công chúng họ có thể quy tụ được quyền lực to lớn mà không cần đến vũ lực. Ngày nay chúng ta đã đạt được đến đỉnh cao nhất trong cuộc cách mạng quyến rũ. Hơn bao giờ hết, hiện nay sức mạnh và tàn bạo dưới mọi hình thức đều bị bài tẩy. Mọi khía cạnh trong cuộc sống xã hội đòi hỏi khả năng quyến rũ người khác theo một cách không gây tổn thương hay áp đặt người khác. Có thể thấy các kiểu quyến rũ ở khắp nơi, pha lẫn các chiến thuật của nam và nữ. Công nghệ quảng cáo khéo luồn lách, bóng gió, kinh doanh mềm lên ngôi. Nếu muốn người khác thay đổi ý kiến – và làm người khác thay đổi ý kiến là điều cơ bản của quyến rũ – ta phải hành động tinh tế và ngấm ngầm. Ngày nay không có cuộc vận động tranh cử nào lại không sử dụng đến nghệ thuật quyến rũ. Ngay từ thời John F. Kenedy, các chính khách đã cần phải biết quyến rũ quần chúng ở một mức độ nào đó để khi xuất hiện họ đủ sức lôi cuốn sự chú ý của công chúng, được như vậy họ đã chiến thắng được một nửa. Thế giới điện ảnh và truyền thông đại chúng tạo ra một thiên hà những ngôi sao và nhân vật quyến rũ. Chúng ta đang ngập tràn trong thế giới quyến rũ. Nhưng cho dù mức độ và phạm vi có thay đổi đến đâu thì bản chất của quyến rũ vẫn không thay đổi: Đó là không bao giờ trực diện hay dùng vũ lực, ngược lại phải lấy niềm vui làm mồi nhử, đùa cợt với tình cảm của con người, khơi gợi dục vọng và băn khoăn, dẫn dắt con mồi đầu hàng về mặt tâm lí. Trong quyến rũ ngày nay người ta thường áp dụng thì những phương pháp của Cleopatra vẫn còn nguyên tác dụng. Người khác luôn cố gây ảnh hưởng đến chúng ta, muốn ta làm theo ý họ, và thường thì ta cũng cố loại họ ra khỏi quan tâm của mình, chống đối lại sự dụ dỗ của họ. Tuy nhiên có một phút nào đó trong cuộc đời, khi ta hành động hoàn toàn khác – đó là khi ta đang yêu. Ta rơi vào một dạng bùa mê. Tâm trí ta trước kia chỉ có những quan tâm thường nhật; nay lại bị xâm chiếm bởi toàn những suy nghĩ về người ta yêu. Ta trở nên nhiều cảm xúc, mất khả năng suy nghĩ sáng suốt, hành động thì ngu ngốc mà nếu không yêu ta chẳng bao giờ làm vậy. Nếu điều này diễn ra đủ lâu, có gì đó trong ta phải nhượng bộ: Ta đầu hàng ý chí của đối phương, khao khát được sở hữu họ. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Quyến Rũ của tác giả Robert Greene.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuyển Tập Truyện Trào Phúng Hay Nhất Của Võ Tòng Đánh Mèo - Đinh Long
Tập truyện gồm những mẩu truyện hài hước của tác giả Võ Tòng Đánh Mèo với chủ đề về tình yêu trai gái (Mèo mả gà đồng, Cô lái đò bến Hạ), chuyện vợ chồng - gia đình (Nội hay ngoại, Phụ nữ không hề khó hiểu, Thề, Đưa vợ đi đẻ, Làm dâu phố cổ, Bí quyết giữ chồng, Vợ tôi, Tết của gái có chồng,...), chuyện sinh viên và việc làm (Tấm bằng đại học, Tâm sự chiếc laptop, Tâm sự thanh niên đa cấp, Thằng Phóng), chuyện công việc (Sếp Nhật, Đại tang). Muôn mặt đời sống, từ chuyện trong nhà đến chuyện hàng xóm, đến chuyện công việc, thế sự hiện lên qua tiếng cười trào phúng của tác giả. Đằng sau những tiếng cười đó còn là sự chua xót trước những thói tật của con người, những mặt trái của đời sống hiện đại; cười đó mà đau đó, cười đó mà mong rằng xã hội sẽ bớt những câu chuyện "cười ra nước mắt" như thế. Tôi bắt đầu viết văn từ khi lấy vợ. Tôi cũng không hiểu sao “lấy vợ” lại là cái mốc bắt đầu cho nghiệp văn chương của mình… cho đến hôm tôi tình cờ đọc được câu nói của một tiến sĩ văn học rất nổi tiếng nhưng ít người biết đến, rằng: “Văn chương thực chất là những bức xúc, những kìm nén không thể, hoặc không dám nói ra bằng mồm.” Vậy ra trước khi lấy vợ, tôi không thể viết văn là bởi tôi không bị bức xúc hay kìm nén gì cả, mà giả sử có bức xúc hay kìm nén thì - cái lúc chưa vợ ấy - tôi cũng chả sợ gì mà không dám chửi thẳng vào mặt cái đứa làm tôi bực bội… chứ đâu như bây giờ - tức là sau khi lấy vợ - phải ngồi cặm cụi gõ từng chữ thế này! Mời các bạn đón đọc Tuyển Tập Truyện Trào Phúng Hay Nhất Của Võ Tòng Đánh Mèo của tác giả Đinh Long.
Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân
Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân là một cuốn tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của nhà văn Yulian Semyonov, ra đời năm 1969. Tác phẩm được xây dựng trên cơ sở tài liệu về kế hoạch vô hiệu hóa cuộc đàm phán riêng rẽ của ban lãnh đạo Đức Quốc xã với tình báo Mỹ vào mùa xuân năm 1945. Nhân vật chính của tiểu thuyết - một sĩ quan tình báo Liên Xô có tên Mikhail Isayev (mật danh Stierlitz). Bối cảnh truyện diễn ra vào tháng Hai, tháng Ba năm 1945, ngay trước thời điểm phát xít Đức đầu hàng Đồng minh. Câu chuyện trong Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân diễn ra vào những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Lúc này, quân đội Nga đang chiến đấu trên đất Ba Lan, Rumani, Hungari...Thành phố Berlin, với bảy tuyến phòng ngự che chở, đêm đêm bị máy bay oanh tạc dữ dội. Cũng trong những ngày tháng này, nhân viên tình báo Liên Xô Isayev đang hoạt động ở nước Đức phát xít với cái tên Stierlitz, đại tá SS phục vụ tại cơ quan an ninh quốc xã thuộc đế chế thứ ba đang trong một tình thế hết sức nguy hiểm. Bằng cách nào Stierlitz có thể bảo toàn được vị trí hoạt động của mình để hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cứu đồng đội thoát khỏi cái chết... *** Yulian Semyonov (1931-1993) Là một trong các nhà văn Xô viết nổi tiếng, chuyên viết về thể loại trinh thám. Sau khi tốt nghiệp khoa Đông phương học ở Trường đại học tổng hợp Moskva, ông làm phóng viên lưu động cho nhiều tạp chí thanh niên, về sau làm đặc phái viên báo “Sự thật”. Ông đã đi hầu khắp các nước trên thế giới, đã đặt chân đến Bắc và Nam cực, đã viết bài từ Việt Nam và Cuba, Mỹ và Nhật. Lúc nào cũng thấy ông sửa soạn lên đường, vội vã, đi công tác đây đó, vậy mà khả năng viết văn của ông vẫn sung sức lạ thường. Yulian Semyonov là tác giả tám tiểu thuyết dài. Ông đã viết kịch bản cho năm bộ phim và hàng loạt phim truyền hình nhiều tập nổi tiếng cả ở Liên Xô lẫn nước ngoài. Đặc biệt, độc giả rất thích tiêu thuyết “Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân” của ông. Đây là tác phẩm tư liệu về một nhân viên tình báo Liên Xô hoạt động ở nước Đức phát xít: Maxim Maximovich Isaуev; đó cũng chính là đại tá SS von Stierlitz, phục vụ tại cơ quan an ninh quốc xã thuộc Đế chế thứ ba... Trả lời vô số câu hỏi của bạn đọc, Yulian Semyonov viết: “Có thể nào cho rằng Isaуev là một nhân vật tưởng tượng? Nhất quyết không. Hình tượng nhân vật này được đúc rút từ những con người chính trực hiện nay mà tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn vì họ đang trải qua một cuộc sống tuyệt vời, trung thực và dũng cảm”. *** Lúc đầu, Stierlitz không tin vào tai mình nữa, có tiếng họa mi hót lảnh lót trong vườn. Không khí lạnh giá, nhuốm màu xanh xanh, và mặc dù vạn vật xung quanh đã mang sắc thái mùa xuân rụt rè giống như một bức tranh màu vẽ bằng thuốc nước tinh tế, tuyết vẫn còn kết lại chặt cứng và người ta chưa thấy nó nhuốm màu thiên thanh phơn phớt, là cái màu báo hiệu đến đêm sẽ tan. Những thân cây cổ thụ khổng lồ đen sẫm lại. Trong vườn thoang thoảng mùi cá vừa ướp lạnh. Chưa thấy cái mùi hăng hăng của lá cây thông và cây dương năm ngoái thối rữa; đó là mùi vị của mùa xuân. Thế mà lại có tiếng họa mi véo von, lảnh lót tràn ngập khu vườn tối om và yên tĩnh này. Stierlitz nhớ đến ông nội của anh. Ông cụ có cặp lông mày dày, có bộ râu quai nón. Ông cụ biết nói chuyện với các loài chim. Ông cụ gọi đàn chim sẻ bay đến, rồi ngồi dưới gốc cây mà ngắm chúng hồi lâu. Đôi mắt của ông cụ đưa đi đưa lại nhanh như mắt chim, và bầy sẻ hoàn toàn không sợ hãi ông cụ. – Pinh – pinh – ta – ra – ra! – ông cụ huýt sáo gọi. Bầy chim sẻ đáp lại một cách vui vẻ và tin cậy. Mặt trời đã lặn hẳn và những thân cây cổ thụ màu đen in những cái bóng đều đặn, tím sẫm trên mặt tuyết trắng. “Mày chết cóng mất thôi, họa mi đáng thương ơi, – Stierlitz nghĩ bụng. Anh khép vạt áo choàng lại và quay vào nhà. – Cũng chẳng giúp gì nó được, vì họa mi là loại chim duy nhất không tin con người.” Stierlitz xem đồng hồ; đã bảy giờ đúng. “Hắn sắp tới rồi đây, – anh thầm nghĩ. – Bao giờ hắn cũng đúng hẹn. Mình đã tự đề nghị hắn từ nhà ga đi thẳng qua rừng đến đây, để tránh mặt bất cứ ai. Không sao. Mình sẽ đợi hắn một lát. Chờ đợi ở một chỗ đẹp như thế này cũng dễ chịu thôi...” Stierlitz bao giờ cũng tiếp tên điệp viên ấy ở đây, trong cái biệt thự nhỏ xinh xắn đứng bên bờ hồ. Địa điểm bí mật này là nơi thuận tiện nhất, vì nó ở giữa rừng sồi vắng vẻ, xa cách hẳn mọi người. Biệt thự này trước kia là của hai vợ chồng nghệ sĩ, múa tại nhà hát “Opera”. Họ đã chết trong một trận ném bom, để biệt thự lại cho các con. Stierlitz thuyết phục thượng tướng SS Paul trong ba tháng liền, để y đồng ý chi tiền mua biệt thự đó. Mấy đứa con của hai vợ chồng nghệ sĩ nọ đòi rất đắt, cho nên thượng tướng Paul, kẻ phụ trách Cục tài chính của hai tổ chức SS* và SD*, cương quyết từ chối lời thỉnh cầu của Stierlitz. Y nói: “Ông điên à? Sao ông không tìm mua một chỗ nào rẻ hơn? Sao ông say mê cái biệt thự xa xỉ ấy đến thế nhỉ? Chúng tôi không thể vung tiền qua cửa sổ được đâu! Như vậy là quá ư tàn nhẫn đối với một đất nước đang mang gánh nặng chiến tranh như nước ta”. • Schutzstaffel, là một tổ chức bán quân sự trực thuộc Đảng Quốc xã dưới trướng Adolf Hitler, hoạt động tại Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và Đệ Tam Đế chế cũng như trên khắp các vùng lãnh thổ châu Âu bị Đức chiếm đóng trong chiến tranh thế giới thứ hai. • Sicherheitsdienst, Cục An ninh, là một cơ quan thuộc lực lượng SS của Đức Quốc xã. Từ năm 1944, SD nắm luôn ngành Quân báo. Stierlitz đành phải lôi cấp trên trực tiếp của mình đến xem biệt thự. Đó là Walter Schellenberg, ba mươi tư tuổi, thiếu tướng, chỉ huy Cục tình báo chính trị của tổ chức SD. Là một người có trí tuệ siêu việt biết thưởng thức vẻ đẹp tinh tế. Schellenberg hiểu ngay rằng không thể tìm được địa điểm nào tốt hơn để nói chuyện với các điệp viên quan trọng, bằng biệt thự này. Việc mua bán được tiến hành qua một số người mạo tên. Và gã Bolsen, kỹ sư trưởng của “nhà máy hóa chất quốc dân mang tên Robert Ley” nhận được quyền sử dụng tòa biệt thự. Bolsen thuê ngay một người gác cổng với tiền lương khá cao và cho ăn đầy đủ. Cái gã Bolsen ấy chính là đại tá SS von Stierlitz. Bày bàn ăn xong, Stierlitz vặn radio. Đài phát thanh Luân Đôn đang truyền đi một bản nhạc vui. Dàn nhạc của một người Mỹ tên là Glenn Miller đang chơi một khúc nhạc trong phim “Khúc nhạc chiều của thung lũng mặt trời”. Thống chế Himmler rất mê bộ phim ấy, nên đã cho mua bên Thụy Điển một bản mang về. Từ đó, nó thường được đem ra chiếu trong hầm ngầm ở phố Hoàng tử Albrecht, nhất là giữa các trận ném bom đêm, khi không thể tiến hành hỏi cung những người bị bắt. Stierlitz gọi dây nói cho người gác cổng chạy lên. Anh bảo: – Hôm nay, anh có thể về nhà với các con. Sáu giờ sáng mai, anh hãy trở lại đây, và nếu tôi chưa đi, thì anh hãy pha cho tôi một cốc cà-phê đặc, thật đặc vào, rõ chưa?   “Yustas gửi Alex, Từ Berlin.   Tin tức về thành phần quân số của các tập đoàn quân ở mặt trận phía Đông trong tháng Hai.   1. Tập đoàn quân “Courland”: 20 binh đoàn tổng số quân: 232 nghìn người số tay súng: 110 nghìn tên   2. Tập đoàn quân “Phương Bắc”: 28 binh đoàn tổng số: 384 nghìn người số tay súng: 141 nghìn tên   3. Tập đoàn quân “Wisla”: 37 binh đoàn tổng số quân: 527 nghìn người số tay súng: 280 nghìn tên   4. Tập đoàn quân “Trung tâm”: 43 binh đoàn tổng số quân: 413 nghìn người số tay súng: 191 nghìn tên   5. Tập đoàn quân “Phương Nam”: 35 binh đoàn tổng số quân: 449 nghìn người số tay súng: 143 nghìn tên   Tổng cộng: số quân: 2 triệu 5 nghìn người số tay súng: 865 nghìn tên   Nguồn tin này do một trung tá quân dự bị cung cấp. YUSTAS”.   “Schwark gửi Alex, Từ Vienna   Nội dung – số lượng quân dự bị tính đến ngày 1-2-1945:   a) Số quân dự bị kể cả bệnh binh đã ra viện: 546 nghìn người   b) Số quân thường trực của các đơn vị quân đội đang huấn luyện: 147 nghìn người   c) Học viên các trường và các lớp quân sự: 113 nghìn người   d) Số tên đang chạy chữa tại các quân y viện: 650 nghìn người   e) Các đơn vị hậu vệ binh: 205 nghìn người   g) Các đơn vị đồn trại: 18 nghìn 500 người   h) Các đơn vị quân vụ và đơn vị khác trong quân đội: 143 nghìn người   i) Số nhân sự không tính trong danh sách bộ đội: 310 nghìn người   Tổng cộng: 2 triệu 132 nghìn 800 người   Nguồn tin này do nhân viên tốc ký OKW* cung cấp. • OKW là Bộ Tổng chỉ huy lục quân (Chú thích của người dịch). SCHWARK”. Mời các bạn đón đọc Mười Bảy Khoảnh Khắc Mùa Xuân của tác giả Iulian Xêmiônốp.
Lấy Nhau Vì Tình
Người phương Tây xưa nay vốn phân biệt hai kiểu hôn nhân: lấy nhau theo lý trí và lấy nhau vì tình yêu. Theo lý trí là cân nhắc kỹ lưỡng mọi điều kiện của hôn nhân mà quyết định sáng suốt, hợp với hoàn cảnh của cá nhân, gia đình và xã hội. Còn vì tình yêu là chỉ tuân theo có tiếng gọi của tấm lòng, bất chấp mọi điều kiện khác. Trong những năm 30 của thế kỷ này, thanh niên nam nữ mới tiếp thu văn hóa Tây phương, muốn thoát ly khỏi gia đình phong kiến, chống lại quyền cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy, phần lớn cho rằng lấy nhau phải vì tình mới là hợp lý và mới có hạnh phúc vợ chồng. Cái lối hôn nhân phong kiến, trước những thay đổi lớn của xã hội, đã làm sinh ra không ít bi kịch. Lên án nó và góp phần đào thải nó khỏi xã hội thì các nhà văn trong Tự lực văn đoàn chủ yếu là Nhất Linh và Khái Hưng, đã làm thật mạnh và thành công không ít. Nhưng trong không khí say sưa rất lãng mạn chủ nghĩa ấy, những người thuộc phái mới có ai đã bình tĩnh để sáng suốt mà tự hỏi: nhưng hôn nhân chỉ vì tình yêu thì có phải bao giờ cũng tốt đẹp, và cũng đem đến hạnh phúc cho gia đình cả không? Chỉ có Vũ Trọng Phụng năm 1937, là như đặt ra cái câu hỏi ấy và đã trả lời bằng cuốn tiểu thuyết Lấy nhau vì tình. Mới nghe tên sách như thế, mãi đến cả ngày nay ai mà chẳng tưởng rằng Vũ Trọng Phụng đã viết một truyện hoa tình diễm lệ theo phong cách lãng mạn chủ nghĩa, lúc bấy giờ đang độ cực thịnh. Ngờ đâu đó là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, mà hiện thực xã hội thì vẽ ra thật trung thành và sinh động, mà tâm lý nhân vật thì phân tích thật tinh vi và sâu sắc. *** Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi, với tác phẩm đầu tiên là truyện ngắn Chống nạng lên đường đăng trên Ngọ báo vào năm 1930, ông đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng một bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Một số trích đoạn tác phẩm của ông trong các tác phẩm Số đỏ và Giông Tố đã được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn của Việt Nam.  Nổi tiếng với giọng văn trào phúng châm biếm xã hội của mình, một số người đã so sánh ông như Balzac của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng vì phong cách "tả chân" và yếu tố tình dục trong tác phẩm mà khi sinh thời ông đã bị chính quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì "tội tổn thương phong hóa" (outrage aux bonnes moeurs). Về sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm in, cấm đọc vì là "tác phẩm suy đồi" tại miền Bắc Việt Nam từ 1954 và cả nước từ ngày 30/4/1975 cho đến tận cuối những năm 1980 mới được chính quyền cho lưu hành.  Tác phẩm: Tiểu thuyết: Dứt tình (1934) Giông tố (1936), khi đăng trên Hà Nội báo có tên Thị Mịch. Vỡ đê (1936) - Báo Tương Lai Số đỏ (1936) - Hà Nội báo Làm đĩ (1936) - Tạp chí Sông Hương Lấy nhau vì tình (1937) Trúng số độc đắc (1938) Quý phái (1937, đăng dang dở trên Đông Dương tạp chí - bộ mới) Người tù được tha (Di cảo) Và còn rất nhiều tác phẩm kịch, dịch thuật, phóng sự và truyện ngắn Mời các bạn đón đọc Lấy Nhau Vì Tình của tác giả Vũ Trọng Phụng.
Bố Con Cá Gai - Cho Chang In
Có những câu chuyện mãi được yêu thương, và nằm trong trái tim bạn đọc suốt năm này qua năm khác… Bố con cá gai là một câu chuyện như thế, trong trái tim độc giả Hàn Quốc, suốt nhiều năm nay. Ở đó có một em nhỏ đã chiến đấu với bệnh hiểm nghèo từ lúc lên ba, giờ em gần mười tuổi. Hãy khoan, đừng vội buồn! Vì em bé này sẽ chẳng làm bạn phải buồn nhiều. Em chịu tiêm rất giỏi, em không khóc, ngoài những lúc mệt quá ngủ thiếp đi, em còn bận đỏ bừng mặt nghĩ tới bạn Eun Mi kẹp-tóc-hoa, bận xếp hình tàu cướp biển, bận lật giở cuốn truyện Bảy viên ngọc rồng… Nhưng bố em thì khác, một ông bố làm em nhỏ của chúng ta phiền lòng quá nhiều, cũng làm những ai dõi theo “bố con cá gai” phải buồn không ít, có khi buồn quá hóa giận! Ông bố ấy đích thị là bố cá gai - một cá bố rất kỳ lạ - cả nguồn sống chỉ co cụm quẩn quanh cá gai con tí xíu. Như một ông bố ngốc! Ra đời năm 2000, câu chuyện cảm động về ông bố cá gai và cậu bé con mà người bố ấy nâng niu trong Bố con cá gai có sức lay động mạnh mẽ, trở thành một trong những câu chuyện về tình cha được người Hàn Quốc yêu thích nhất. *** Một câu chuyện khiến mình rất xúc động. Mình đã khóc rất nhiều khi đọc đoạn cuối của truyện. Em bé Daum, một em bé dù mới 10 tuổi nhưng chiến đấu dũng cảm với căn bệnh ung thư máu trắng; dù rất đau đớn nhưng em chịu đựng hết, luôn suy nghĩ lạc quan tích cực. Em cũng rất thông minh, một em bé 10 tuổi nhưng rất hiểu chuyện, rất ngoan. Em yêu và quan tâm bố từng tý một. Lúc nào em cũng nghĩ: bố cảm thấy thế nào? Bố có buồn không? Bố Daum, người bố xoay xở mọi bề để có thể vừa lo viện phí cho con, vừa chăm sóc động viên cổ vũ con chiến đấu với căn bệnh ung thư. Đọc truyện mình cảm được tình yêu lớn lao của ông với Daum. Có lẽ mọi ông bố trên thế giới này đều như vậy. Con là trên hết. con là cả thế giới. Con là nguồn sống, nguồn hi vọng hơn hết.  Tình yêu thương của hai bố con khiến mình rất xúc động. Vì thế cái kết dẫu có hợp lý, thì đối với mình vẫn là một cái kết buồn. Daum đã mạnh mẽ vượt qua cả cuộc chiến ung thư khắc nghiệt, thì còn có khó khăn nào em không thể vượt qua? Nhưng chỗ dựa tinh thần của Daum đã không còn nữa, có ai yêu em, hiểu em như bố em được nữa? *** Tôi có một người bạn thân quen đã lâu. Đó là một người bạn có con bị mắc bệnh nan y. Người bạn đó chẳng hề kêu ca về nỗi đau, cũng chẳng hề oán thán. Đứa trẻ thế nào rồi? Trước câu hỏi của tôi, anh chỉ khẽ cười và nói. Nó đang khỏe dần lên. Tuy nhiên, đó không phải là căn bệnh có thể dễ dàng khỏe dần lên. Không, thời gian càng trôi qua, nó càng trở nên tồi tệ hơn chứ. Thỉnh thoảng gặp nhau, chúng tôi lại cùng nhau uống rượu soju, và một ngày nọ, duy chỉ có một lần, người bạn đã nói với tôi: “Anh có biết hy vọng của tôi là gì không? Đó là giá như tôi có thể gánh bớt phần nào thay nó. Nhưng mà, tôi lại chẳng thể làm gì cho nó. Điều đó thật khó có thể chịu đựng được.” Điều đó thật khó có thể chịu đựng được... Câu nói của người bạn là lý do khiến tôi nặng lòng viết nên cuốn tiểu thuyết này. Đôi lúc trong lúc viết câu chuyện này, mỗi khi nghĩ đến nỗi đau đớn mà người bạn phải chịu đựng, tôi lại thở dài, và đã có những lúc tôi gập bản thảo lại suốt một thời gian dài. Nhưng tôi muốn viết ra câu chuyện này, để niềm hy vọng da diết của bạn tôi không bị hoài phí đến tận giây phút cuối cùng. Tôi đã mất bố từ khi còn bé. Khi đó tôi sáu tuổi. Sáu tuổi là thời điểm mà cuộc sống còn quá mới mẻ với tôi, ngay đến cả ký ức về bố giờ cũng mịt mờ. Tôi không còn nhớ rõ khuôn mặt bố. Bố là người đã rời đi như chiếc lá úa trong cơn gió heo may. Là một người sống một cuộc đời rồi đột ngột rời bỏ thế gian như cơn gió thoảng qua. Sự cười chê hay lòng thương cảm gượng gạo của thế gian dành cho một đứa trẻ không cha, tôi đã quen dần từ những năm tháng tuổi thơ. Biết đâu chính sự cười chê hay lòng thương cảm đó đã dồn nén trong tôi khao khát về một người cha. Tôi đã chẳng oán giận bố, cũng không hề nhớ đến bố. Vì thế mà trong một thời gian dài tôi đã không hiểu được ý nghĩa của người cha, và mặt khác, tôi cũng đã vờ như không biết. Như thể đó là cách tự bảo vệ mình trước nỗi đau vậy. Thế rồi tôi lại viết nên một cuốn tiểu thuyết về tình cha ấm áp như ánh nắng mùa xuân. Nó xuất phát từ cảm xúc khi được làm cha của một đứa trẻ, và mong muốn có thể đặt lên bàn một cuốn sách thay cho lời hứa rằng nhất định sẽ trở thành một người cha tốt. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Viện trưởng Choi Kwang Won, Bệnh viện Y học Gia đình Ansan, người đã giúp đỡ tôi từ những giây phút bắt đầu đến tận khi hoàn thành cuốn sách này. Trên một hòn đảo trơ trọi giữa mùa đông, Cho chang-In Mời các bạn đón đọc Bố Con Cá Gai của tác giả Cho Chang In.