Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Điều Nhỏ Bé Vĩ Đại

Ruth, một y tá hộ sinh lành nghề bị gạt ra khỏi công việc vì cha đứa bé yêu cầu không để y tá người Mỹ gốc Phi chăm sóc con mình. Đứa bé chẳng may mất sau đó, và Ruth bị kiện ra tòa vì tội giết người.  Để chứng minh mình vô tội, để tiếng nói của người Mỹ gốc Phi được cất lên công bằng, Ruth phải trải qua một chặng đường rất khó khăn, nhưng cô không cô đơn. Bên cạnh cô là nữ luật sư, chị gái, con trai và những người bạn không ngờ khác… Tác phẩm Những điều  nhỏ bé vĩ đại của Jodi Picoult là một câu chuyện sâu sắc về vấn đề kỳ thị chủng tộc, sự lựa chọn, nỗi lo sợ và niềm hy vọng. Tiểu thuyết được sáng tác dựa trên một chuyện có thật ở Mỹ, gợi mở nhiều vấn đề để độc giả tự rút ra kết luận về cách chúng ta nhìn nhận bản thân và người khác trong thế giới đa dạng này. Jodi Picoult là tác giả có sách bán chạy nhất theo bình chọn của New York Times. Bà đã xuất bản 25 tiểu thuyết, bao gồm Siêu Thoát, Luật nhà, Nơi chốn lưu đày, và các tác phẩm khác.  *** Sự lựa chọn, nỗi lo sợ và niềm hi vọng trong 'Những điều nhỏ bé vĩ đại'. Những điều nhỏ bé vĩ đại kể câu chuyện đầy rung cảm về nạn phân biệt chủng tộc của tác giả lừng danh Jodi Picoult. Những ngày này, khi nước Mỹ đang rúng động vì những cuộc biểu tình dẫn đến bạo động, hơn 40 thành phố tại các bang nước Mỹ bị phong tỏa, và các nghệ sĩ nổi tiếng ở Mỹ như Billie Eilish, Ben Affleck, Beyonce, Ariana Grande, Rihanna và ngay cả chương trình Vua đầu bếp Mỹ nổi tiếng cũng giương cao khẩu hiệu: Black Lives Matter, thì năm 2016, tác giả lừng danh Jodi Picoult đã kể một câu chuyện đầy rung cảm về nạn phân biệt chủng tộc, qua tiểu thuyết Những điều nhỏ bé vĩ đại (Small great things). Tựa sách, được tác giả lấy ý từ câu trích dẫn được cho là của Martin Luther King, Jr.: “Nếu không thể làm những điều vĩ đại, tôi có thể làm những điều nhỏ bé theo một cách vĩ đại”. Hai nhân vật trong truyện có hành động nhỏ nhưng tác động lớn và lâu dài lên người khác là Ruth và Kennedy. Ruth là một y tá hộ sinh lành nghề người Mỹ gốc Phi. Cô yêu công việc ở bệnh viện, tận tụy với các bà mẹ và trân quý từng sinh linh nhỏ bé chào đời trên tay mình. Cô cũng nuôi dạy con trai một cách tử tế, để xứng với người cha là quân nhân đã hi sinh cho nước Mỹ. Nhưng một lần, Ruth buộc phải rời khỏi vị trí làm việc theo lệnh của cấp trên, vì cha của một đứa trẻ sơ sinh yêu cầu không để y tá da đen chăm sóc con mình. Đứa bé chẳng may mất sau đó và Ruth, người da màu duy nhất trong bệnh viện, bị kiện ra tòa vì tội giết người.  Để chứng minh mình vô tội, để tiếng nói của người Mỹ gốc Phi được cất lên, Ruth phải trải qua một chặng đường rất khó khăn, nhưng cô không cô đơn. Bên cạnh cô là luật sư, chị gái, con trai và những người bạn không ngờ khác… Đặc biệt, nữ luật sư Kennedy, một người Mỹ da trắng với đầy đủ những “đặc quyền vô hình” mà người da trắng vẫn thụ hưởng, đã sát cánh bên cô. Ruth không đấu tranh cho bình đẳng - cô muốn sự công bằng, vì “Bình đẳng là đối xử với tất cả mọi người như nhau. Còn công bằng là có tính đến sự khác biệt của từng người, để ai cũng có cơ hội thành công và phát triển”. Người da màu tại Mỹ, cho đến tận năm mà Những điều nhỏ bé vĩ đại được viết ra, khi Mỹ đã có tổng thống da màu đầu tiên, vẫn phải hứng chịu những bất công âm thầm mà không phải ai cũng cảm nhận được. Như Ruth và Kennedy cùng đi vào cửa hàng mua sắm, nhưng Ruth là người duy nhất bị quản lý cửa hàng nhìn theo từng bước chân và soát giỏ khi ra. Như cách người Mỹ né ra xa khi cùng ngồi với cô trong căn tin, hoặc những định kiến bám chặt lấy đứa con trai của cô, dù nó là một học sinh xuất sắc, mẫu mực... Nữ luật sư đã thẳng thắn chỉ ra “cơn gió xuôi” đó, trong một xã hội tưởng như rất tự do bình đẳng: “Thật dễ để chúng ta nhìn ra cơn gió ngược của sự kỳ thị chủng tộc, cái cách mà người da màu bị phân biệt đối xử. Chúng ta thấy nó khi một người da đen vô cớ bị cảnh sát bắn và một cô gái da nâu bị bạn cùng lớp bắt nạt vì đội hijab trên đầu. Thế nhưng cơn gió xuôi của sự kỳ thị chủng tộc thì khó thấy hơn và cũng khó thừa nhận, khi mà những người không phải da màu chúng ta được hưởng lợi từ làn da trắng. Chúng ta có thể đi xem phim và khá chắc rằng hầu hết các nhân vật chính trông sẽ giống mình. Chúng ta có thể tới trễ một buổi họp và màu da chúng ta sẽ không bị lôi ra làm cái cớ. Tôi có thể bước vào phòng của thẩm phán Thunder và đưa ra phản bác mà không bị nói rằng mình đang chơi con bài màu da. Hầu hết chúng ta không phải đi làm, về nhà và thốt lên "Tuyệt quá! Hôm nay mình không bị chặn lại và lục soát người!". Hầu hết chúng ta không vào đại học và nghĩ rằng, mình được vào ngôi trường mình lựa chọn vì hệ thống giáo dục hoạt động theo hướng có lợi cho mình. Chúng ta không nghĩ những điều đó, vì chúng ta không phải nghĩ”. Jodi Picoult cho biết, từ lúc dấn thân vào nghiệp viết lách, bà đã nghĩ đến việc viết một quyển sách về vấn đề kỳ thị chủng tộc tại Mỹ, sau một sự kiện có thật ở New York: một cảnh sát chìm người da đen bị bắn vào lưng, nhiều lần, bởi các đồng nghiệp da trắng - dù anh ta đang mang cái được gọi là “màu sắc của ngày” - một chiếc vòng tay để cảnh sát ngầm nhận ra nhau. Tuy nhiên, phân biệt chủng tộc là một vấn đề nhạy cảm tại Mỹ và không dễ viết. Hai mươi năm sau, tin tức về y tá người Mỹ gốc Phi ở Flint, Michigan thu hút sự quan tâm của bà - một người cha theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã ra yêu sách là người da màu không được đụng vào con ông ta và nhóm nhân viên người Mỹ gốc Phi đã đâm đơn kiện. Họ đã chiến thắng. Từ sự kiện này, Jodi Picoult đã dệt nên câu chuyện của mình, từ góc nhìn của một y tá da đen, một người cha theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng và một luật sư công - nữ luật sư này, cũng như Jodi Picoult và nhiều người Mỹ khác luôn nghĩ mình rất bình đẳng, không bao giờ có tư tưởng kỳ thị chủng tộc, họ dễ dàng chỉ ra và lên án những kẻ phát xít mới, nhưng không thể nhận ra sự phân biệt âm thầm trong chính bản thân mình. Có thể nói, Những điều nhỏ bé vĩ đại là câu chuyện sâu sắc về vấn đề kỳ thị chủng tộc, sự lựa chọn, nỗi lo sợ và niềm hi vọng. Tất cả được thể hiện qua ngòi bút sinh động tuyệt vời của tác giả, với những phân tích thuyết phục về tâm lý nhân vật, cuộc sống người da màu ở Mỹ, cách cả người da màu và da trắng vượt qua rào cản, nỗ lực đứng lên giành lấy công bằng cho xã hội. Tác phẩm cũng gợi mở nhiều vấn đề để độc giả tự rút ra kết luận về cách chúng ta nhìn nhận bản thân và người khác trong thế giới đa dạng này. Jodi Picoult là tác giả có sách bán chạy nhất theo bình chọn của New York Times. Bà đã xuất bản 25 tiểu thuyết, bao gồm Siêu thoát, Luật nhà, Nơi chốn lưu đày, Hai cõi người ta... và luôn được độc giả chào đón nồng nhiệt.  Nói về Những điều nhỏ bé vĩ đại, báo chí trên khắp thế giới đã không tiếc lời khen ngợi. The Washington Post viết: "Những điều nhỏ bé vĩ đại là tiểu thuyết quan trọng nhất mà Jodi Picoult từng viết… Nó sẽ thách thức độc giả… [và] mở rộng cuộc thảo luận văn hóa về chủng tộc và định kiến của chúng ta". Hoặc như San Francisco Book Review đã bình luận: "Một tiểu thuyết đã đặt những ngón tay của nó lên mạch đập của đất nước chúng ta đang sống ngày nay… lôi cuốn từ đầu đến cuối, như ta vẫn kỳ vọng từ Jodi Picoult. Tiểu thuyết này giữ được nhịp điệu khiến ta phải liên tục lật xem tiếp trang sau, không thể nào đặt xuống. Nó mở ra một cuộc thảo luận, khiến mọi người phải ngồi xuống nhìn lại cuộc đời mình, những hành động của họ (hiện tại và quá khứ) và đặt câu hỏi làm thế nào tiến lên phía trước. Đây là một cuốn sách tuyệt vời, không chỉ vì nó đề cập đến một vấn đề xảy ra trên đất Mỹ và toàn thế giới, mà còn cho chúng ta thấy thay đổi là điều có thể". Đọc Những điều nhỏ bé vĩ đại khi phong trào đấu tranh vì Black Lives Matter đang bùng nổ tại Mỹ, ta thấy những dòng tự sự của Jodi Picoult cách đây bốn năm vẫn vô cùng sâu sắc: “Ngọn lửa đang bùng cháy và chúng ta có hai lựa chọn: quay mặt đi hoặc cố gắng chiến đấu với nó. Phải, việc đó rất khó khăn và phải, chúng ta vấp váp - nhưng chúng ta, những người da trắng, cần phải trao đổi với nhau về vấn đề chủng tộc. Bởi vì chỉ khi đó mới có nhiều người hơn nữa nghe thấy chúng ta”. Và khi đó, những điều tử tế nhỏ bé sẽ hợp lại thành một sức mạnh vĩ đại. *** Ruth Phép màu xảy ra tại nhà số 74 phố Tây Thượng Manhattan, chỗ má tôi làm việc. Đó là một tòa nhà đồ sộ ốp đá cát nâu có cổng sắt rèn, hai bên cánh cửa cầu kỳ là miệng máng xối hình đầu thú, bộ mặt đá granite của chúng như được tạc từ những cơn ác mộng của tôi. Chúng làm tôi khiếp hãi, nên tôi không ngại khi chúng tôi luôn phải vào nhà qua lối cửa hồng kém uy nghi, chìa khóa cửa được má buộc ruy băng giữ trong ví. Má đã giúp việc cho Sam Hallowell và gia đình ông từ trước khi chị em tôi có mặt trên đời. Bạn có thể không biết cái tên này, nhưng chỉ cần ông ấy cất giọng chào là bạn nhận ra ngay. Không lẫn vào đâu được, đó là giọng nói mà hồi giữa thập niên 1960, cứ mở đài lên là bạn nghe nó thông báo: Tiếp theo mời các bạn theo dõi một chương trình sống động đây màu sắc do NBC mang lại! Vào năm 1976, khi phép màu xảy ra, ông Hallowell đang là giám đốc sản xuất chương trình của đài này. Cái chuông bên dưới đám đầu thú chính là tiếng nhạc hiệu ba nốt nổi tiếng mà ai nghe cũng liên tưởng ngay tới NBC. Thỉnh thoảng, trong lúc theo má đi làm, tôi lại len lén ra ngoài, bấm chuông và ngâm nga theo giai điệu đó. Hôm ấy, chị em tôi theo má vì trời đổ tuyết. Trường học đóng cửa, mà bọn tôi còn quá nhỏ để ở nhà một mình lúc má đi làm - bà cứ xăm xăm đi, băng qua tuyết, mưa đá và có lẽ cả động đất cùng tận thế. Vừa tròng lên người chúng tôi nào ủng nào áo khoác, bà vừa lẩm bẩm, có phải vượt bão tuyết cũng chẳng xá gì, nhưng lạy Chúa đừng để cô Mina phải tự phết bơ đậu phông lên lát bánh sandwich của cổ. Thực ra, tôi nhớ má chỉ nghỉ việc một lần duy nhất vào 25 năm sau đó, khi bà phải thay toàn bộ khớp háng, viện phí do nhà Hallowell hào phóng trả. Bà ở nhà một tuần, chưa khỏe hẳn đã nằng nặc đi làm lại, cô Mina đành tìm cho bà vài việc không phải động chân. Thế nhưng lúc tôi còn nhỏ, trong những kỳ nghỉ, giữa cơn sốt ngầy ngật hay ngày tuyết phủ như hôm ấy, má sẽ đưa chị em tôi lên chuyến tàu B xuống phố. Hôm ấy nhằm vào tuần lễ ông Hallowell đi California, không có ở nhà - ông thì cứ đi suốt, mà thế thì cô Mina và Christina còn cần má nhiều hơn. Chị Rachel với tôi cũng cần má chứ, nhưng hẳn là chúng tôi tự chăm sóc cho mình tốt hơn cô Mina. Khi mẹ con tôi ra đến phố 72, thế giới đã ngập trong một màu trắng xóa. Một quả cầu tuyết chụp lên cả khu Manhattan. Gương mặt những người đàn ông và phụ nữ run rẩy vượt bão táp đi làm trông chẳng có chút gì giống tôi, anh chị em họ hay hàng xóm của tôi. Tôi chưa từng đặt chân vào ngôi nhà nào ở Manhattan ngoài nhà Hallowell, nên chẳng biết chuyện một gia đình có riêng một cơ ngơi đổ sộ thế này thì khác thường đến mức nào. Nhưng tôi nhớ mình đã thấy thật vô lý khi Rachel và tôi phải nhét áo với ủng vào cái buồng tin hin, chật ních trong bếp, trong khi chỗ Christina và cô Mina treo áo khoác bên cửa chính thì còn bao nhiêu là móc và khoảng trống. Má cũng cất đi áo khoác và khăn choàng may mắn - cái khăn mềm ơi là mềm, lại có mùi má. Ở nhà, chị Rachel với tôi thường tranh nhau khoác nó, cảm giác cứ như được vỗ về một chú chuột lang hay chú thỏ trong tay. Tôi chờ má lướt qua những căn phòng tối om như nàng tiên Tinkerbell, đáp lại trên từng cái công tắc, nắm đấm cửa hay tay vịn, để con quái thú đang say ngủ là ngôi nhà từ từ rùng mình tỉnh giấc. “Hai đứa im lặng nhé,” má bảo chị em tôi, “rồi má sẽ làm cho mấy đứa con chút chocolate nóng của cô chủ Mina.” Cái món ấy là hàng nhập từ Paris, và nó có vị tựa thiên đường. Thế nên trong khi má buộc lên người tạp dề trắng, tôi lấy một tờ giấy từ tủ bếp và hộp bút màu mang theo từ nhà, bắt đầu ngôi im vẽ. Tôi phác một ngôi nhà to ngang tòa nhà Hallowell. Tôi đặt vào đó một gia đình: tôi, má, chị Rachel. Tôi thử vẽ tuyết, nhưng không ra gì hết. Bông tuyết nguệch ngoạc bằng bút trắng chìm nghỉm trên tờ giấy. Cách duy nhất để thấy chúng là nghiêng giấy về phía ánh đèn chùm, có thế tôi mới thấy vệt sáng lờ mờ bút màu đã vạch nên. “Tụi con chơi với Christina được không?” chị Rachel hỏi. Christina mới lên sáu, lọt đúng vào giữa tuổi Rachel với tuổi tôi. Christina có cái phòng ngủ lớn nhất tôi từng thấy và nhiều đồ chơi hơn tất cả những người tôi biết. Nếu chị ấy có ở nhà đúng lúc Rachel với tôi theo mẹ đi làm, bọn tôi sẽ chơi trò cô giáo dạy học cùng lũ gấu bông của chị, uống nước từ những chiếc tách tí hon bằng sứ Trung Hoa thực thụ và đánh bím mái tóc lụa óng vàng cho bầy đoàn búp bê cũng của chị ấy nốt. Nhằm bữa Christina có bạn đến nhà, chị em tôi sẽ ở yên trong bếp mà tô tô vẽ vẽ. Trước khi má kịp trả lời, có ai đó thét váng lên, tiếng thét chói lói và khản đặc như xuyên thấu ngực tôi. Tôi biết nó cũng tác động đến má tôi y hệt, vì bà suýt đánh rơi ấm nước đang mang lại chỗ bồn. “Ở yên đây,” bà dặn, giọng nói rớt lại phía sau khi bà hấp tấp chạy lên lầu. Rachel là người đầu tiên bật ra khỏi ghế; chị ấy không phải kiểu bảo sao nghe vậy. Tôi bị cuốn theo, như một quả bóng bay bị buộc vào tay chị. Bàn tay tôi lướt trên lan can cầu thang uốn lượn, không dám chạm vào. Cửa phòng ngủ của cô Mina mở toang, cô đang quằn quại trên giường, giữa vũng lầy satin khăn trải. Bụng cô căng phồng, tròn như mặt trăng; tia sáng trắng trong mắt cô làm tôi hên tưởng tới lũ ngựa trên vòng đu quay, đông cứng trong khi trốn chạy. “Sớm quá, Lou à,” cô hổn hển. “Cô đi mà nói với đứa bé này này,” má đáp lại. Cô Mina ghì cứng tay má như kẻ chết đuối bíu vào phao. “Đừng rặn nữa,” má bảo cô. “Xe cấp cứu sẽ tới ngay.” Tôi chẳng biết xe cấp cứu có thể tới ngay kiểu gì, khi mà đường đầy tuyết. “Mẹ ơi?” Mãi đến khi nghe tiếng Christina, tôi mới nhận ra tiếng ồn đã đánh thức chị ấy. Chị tới đứng giữa Rachel và tôi. “Ba đứa, về phòng cô Christina đi,” má ra lệnh, giọng đanh thép. ”Đi ngay.” Thế nhưng chúng tôi cứ chôn chân tại chỗ, má cũng mau chóng quên khuấy bọn nhóc chúng tôi. Bà đã lạc vào một thế giới dựng nên từ cơn đau và nỗi sợ của cô Mina, cố gắng trở thành tấm bản đồ cho cô bám víu vào mà lần ra khỏi đó. Tôi trân trối nhìn dây thanh quản nổi lên cổ cô Mina khi cô rên siết; tôi thấy má quỳ xuống trên giường, giữa hai chân cô, và vén váy qua khỏi gối cô. Tôi thấy cánh môi hồng giữa hai chân cô Mina cau lại, sưng lên rồi tách ra. Một cái gò tròn - đỉnh đầu, một cái khớp - bờ vai, máu và dịch trào ra, rồi đột nhiên, một đứa nhỏ nằm gọn lỏn trong lòng bàn tay nâng niu của má. “Coi nhóc kìa,” má nói, tình yêu thương tỏa rạng nét mặt bà. “Sốt ruột muốn chào đời quá hả?” Rồi cùng lúc, hai chuyện xảy ra: chuông đổ, Christina òa lên khóc. “Ôi, con yêu,” cô Mina thốt lên yếu ớt, cô chẳng còn đáng sợ nhưng vẫn đẫm mồ hôi và mặt đỏ bừng. Cô chìa tay ra, nhưng sự việc vừa chứng kiến đã khiến Christina hồn vía lên mây, chị ấy không lại chỗ cô mà dịch sát vào tôi. Chị Rachel, vẫn thực tế như mọi khi, lo đi mở cửa. Chị trở vào với hai nhân viên cấp cứu, họ ào vào tiếp quản, thế là việc má vừa làm cho cô Mina cũng lại như tất cả những việc bà đã làm cho nhà Hallowell: nó trôi tuột đi, vô hình. Nhà Hallowell đặt tên bé là Louis, theo tên của má tôi. Thằng bé vẫn khỏe dù ra đời sớm gần một tháng, nạn nhân của đợt giảm khí áp đến cùng cơn bão, dẫn đến PROM - hiện tượng vỡ ối non. Dĩ nhiên là lúc đó tôi chưa biết tới khái niệm này. Tôi chỉ biết rằng, vào một ngày tuyết trắng trời Manhattan, tôi đã chứng kiến một sinh mệnh chào đời. Tôi đã ở bên đứa bé trước lúc mọi người, mọi vật trên thế gian này có cơ hội làm bé thất vọng. Cùng chứng kiến Louis ra đời nhưng trải nghiệm đó tác động đến mỗi người chúng tôi một cách khác nhau. Christina sinh mổ. chị Rachel vượt cạn đến năm lần. Tôi thì trở thành y tá hộ sinh. Khi tôi kể lại câu chuyện này, người ta cho rằng phép màu trong cơn bão xa xưa kia là sự ra đời của một đứa bé. Đúng, chuyện đó thật phi thường. Thế nhưng hôm đó tôi còn được chứng kiến một kỳ quan vĩ đại hơn. Khi Christina nắm lấy tay tôi và cô Mina ghì tay má, có một khoảnh khắc - một nhịp tim, một hơi thở - khi tất cả những khác biệt về trường lớp, tiền bạc và màu da đều tan biến như ảo ảnh trên sa mạc. Ở đó, tất cả mọi người đều bình đẳng, chỉ là một người phụ nữ giúp đỡ một phụ nữ khác mà thôi. Phép màu đó, tôi đã trải 39 năm ròng chờ ngày tái kiến. Mời các bạn đón đọc Những Điều Nhỏ Bé Vĩ Đại của tác giả Jodi Picoult & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngày 210 - Natsume Soseki
"Ngày 210" được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1096 tại Nhật Bản. Một cuốn sách nhỏ, dày chưa đến 100 trang, nhưng lại chứa đựng trong đó sức nặng ghê gớm. Tiểu thuyết thể nghiệm một lối kể chuyện qua hình thức đối đáp kéo dài giữa hai chàng thanh niên khác nhau về tính cách là Kei và Roku khi họ cố sức leo lên đỉnh Aso đang rền rĩ như muốn bùng nổ phun trào dung nham. Và họ phải đối mặt với ngày 210, theo âm lịch là ngày bão tố. Những trường đoạn đối đáp của họ không chỉ thể hiện không khí căng thẳng khốc liệt của thiên nhiên vào ngày núi lửa và bão tố hoành hành mà còn cho thấy những xung đột xã hội gay gắt âm u. Hành trình leo núi đầy ám ảnh của họ liệu có thành không, tác giả để mở cho trí tưởng tượng của người đọc. Tiểu thuyết còn là một phối hợp thú vị giữa thể nhật ký văn chương rất Nhật có truyền thống lâu đời và thể tự truyện pha hư cấu của phương Tây. Tác phẩm dựa trên một hành trình thật sự của Soseki đến Kyushu năm 1899 cùng với người bạn thân là Yamakawa Shinjiro. Hai người gặp bão tố ngày 210 khi thực hiện cuộc leo lên đỉnh Aso. Núi lửa phun trào, văn hóa cũ suy tàn, bão tố ập về… Và những người trẻ tuổi vẫn đi lên với những bước chân đầy trầm tư, khát vọng. Soseki vốn được xem là “một con tắc kè hoa” trong văn hóa, tức là luôn luôn biến đổi chứ không bao giờ chịu đóng khung mình trong những hình thức lặp lại. Người mới đọc Soseki hẳn sẽ có chút ngỡ ngàng nếu biết rằng một Gối đầu lên cỏ mong manh đẹp đẽ như hư ảo, và một Tôi là con mèo sắc sảo, hài hước, giễu nhại lại đều do một Soseki tạo nên. Ngày 210 có lẽ là cuốn sách thể hiện sự đổi mới quyết liệt nhất trong suốt thời gian sáng tác của Soseki. Với lối viết thể nghiệm mới, khi sáng tác cả một tiểu thuyết chỉ bằng những trường đoạn đối thoại dài liên tục, Soseki không những tạo được sự mới mẻ, mà còn đề cập được rất nhiều vấn đề sâu sắc về con người, thời cuộc của xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ. Kết thúc cuốn sách, người đọc không hề biết rằng Kei và Roku rốt cuộc có tiếp tục đi đến đỉnh của ngọn núi lửa Aso ấy không. Chỉ có một cõi bụi mù thẫm sương mở ra trước mắt. Ấy cũng là một cái kết rộng mở như dư âm đọng lại trong những bài thơ haiku rất ngắn trong văn học Nhật. Mời các bạn đón đọc Ngày 210 của tác giả Natsume Soseki.
Yêu Người Tử Tù - Gong Ji Young
Mười lăm năm trước, Yoo Jeong từ một cô bé hiền lành, chăm chỉ, ngoan ngoãn đã chịu một cú sốc lớn khiến cuộc đời cô hoàn toàn thay đổi. Sau lần tự tử thứ ba bất thành, cô trót hứa với cô Mônica, là cô ruột và cũng là một nữ tu, phải tới trại giam Seoul để gặp những người tử tù. Tại đây, cô đã gặp Yoon Soo - một kẻ giết người bị kết án tử hình. Mặc dù rất ghê tởm tội ác của anh ta, nhưng có một điều gì đó trong sâu thẳm tâm hồn người đàn ông này khiến Yoo Jeong chú ý. Cô trở lại thăm anh vào tuần tiếp theo, rồi những tuần tiếp theo nữa... Dần dà, một thứ tình cảm khác lạ đã nhen nhóm lên bên trong họ. Nó như một phép màu quyền năng giúp họ vượt qua những thương tổn, làm thay đổi con người và niềm tin của họ. Cho đến khi cả hai có thể gọi tên mối quan hệ ấy thì chợt nhận ra thời gian hạnh phúc còn lại quá ngắn ngủi... *** "Tôi đã trải qua một quãng thời gian vô cùng hạnh phúc khi tôi viết cuốn tiểu thuyết này. Nếu tôi không viết cuốn tiểu thuyết này, chắc tôi sẽ chỉ nói được câu “Tôi không biết” cũng như chẳng bao giờ tôi biết được những mặt khác của xã hội mà chúng ta đang sống. Tôi đã được gặp họ - những người biết tự kiểm điểm lại bản thân mình, những người như được tái sinh một lần nữa, những người vừa phải sống vừa phải chịu đựng những nỗi đau đớn tột cùng, những người đã sẵn sàng dang tay chấp nhận và tha thứ tội lỗi cho chính kẻ thù của mình dù không dễ dàng gì, hay những người lúc nào cũng luôn làm những việc thiện, việc tốt để giúp đỡ những người kém may mắn, cùng với họ tôi đã trải qua “Một khoảng thời gian hạnh phúc”. Tôi cũng mong rằng trong thời gian gặp tôi, họ cũng đã trải qua một khoảng thời gian hạnh phúc." Trong mùa đông lạnh giá mà ai cũng tưởng rằng vạn vật trên thế gian này đều đã chết,những nhành cây ngoài cửa sổ đang khẽ vươn ra những chồi non xanh,trên nền đất lạnh lẽo và tăm tối.Một mùa xuân mới,đang lặng lẽ về. (GONG JI-YOUNG) *** Harlem là một ví dụ điển hình cho sự tố cáo của Chúa đối với một bộ phận người giàu có đang sống và kiếm tiền ở những khu trung tâm thương mại lớn cũng như ở thành phố New York. Tất cả những tệ nạn như nhà thổ, gái mại dâm, hay những kẻ nghiện ma túy v.v... chính là sự phán xét của Chúa về một bộ phận người trong xã hội của chúng ta, là tấm gương phản chiếu những hành động xấu xa tội lỗi nhiều không đếm xuể, là sự giả dối đã được làm cho bóng bẩy để hợp với giá trị và phong cách của Park Avenue. - Thomas Merton - *** Tôi muốn bắt đầu kể câu chuyện ấy ngay bây giờ. Đó là câu chuyện về một kẻ giết người. Hoặc cũng có thể gọi là câu chuyện kể về một gia đình không có gì khác ngoài sự đau khổ, một gia đình mà trong cuộc sống thường nhật chỉ toàn nghe thấy những tiếng chửi rủa, tiếng roi gậy hay tiếng kêu thét. Đó cũng là câu chuyện về một con người luôn cho rằng mình là kẻ bất hạnh nhất trên thế gian này, câu chuyện đó - câu chuyện của chính tôi. Ngày đó, có hai người phụ nữ và một cô gái trẻ đã bị chết. Tôi từng tin rằng người phụ nữ đó - bà ta đáng chết lắm vì có cho bà ta sống thì cũng chẳng được giá trị gì. Loại người đó mà có nhiều tiền trong tay thì cũng chẳng khác gì một loài sâu bọ được bọc trong một tấm lụa mịn mềm. Trong cái thế giới vô tình và bất bình đẳng này, nếu cho tôi được dùng số tiền ấy vào những việc tốt đáng làm khác thì tôi nghĩ chắc sẽ hợp lý hơn rất nhiều. Nhưng... tôi cũng muốn kể ra đây một cô gái khác. Đó là một cô gái mà bản thân chẳng có lấy một thứ gì đáng giá trên thế gian này. Cô gái ấy đã sống cả cuộc đời vì người khác, nhưng cô ấy lại đang chết dần chết mòn. Giá như lúc đó tôi có trong tay ba triệu won thì tôi đã có thể cứu sống được cô ấy. Nhưng lúc đó tôi lấy đâu ra được ba triệu won cơ chứ, mà cô ấy thì cứ từng ngày từng giờ cận kề với cái chết. Nếu trên đời này có Chúa, thực ra tôi cũng không biết là trên đời này có Chúa thật hay không vì từ trước đến giờ tôi đã sống mà không hề biết đến sự tồn tại của Chúa, nhưng nếu trên đời này có Chúa thật thì tôi nghĩ chắc Ngài sẽ hiểu cho hành động của tôi. Cũng như sẽ bảo rằng hành động của tôi là chính đáng. ... Mời các bạn đón đọc Yêu Người Tử Tù của tác giả Gong Ji Young.
Xuân Yến - An Ni Bảo Bối
Cuốn sách dường như nằm trong khoảng chín muồi trên con đường viết lách của An Ni Bảo Bối. Càng đọc, người ta càng thấy một nỗi day dứt không yên trong lòng tác giả. Đọc sách cũng như soi lại mình, mỗi người đều phải gánh lấy gánh nặng riêng. Một phụ nữ tha hương đang hoài niệm trong thế giới thực. Một cô gái trẻ hình thành trong tưởng tượng hư ảo. Hai người xa lạ, sinh sống ở những không gian thời gian tách biệt, không hề hay biết đến sự tồn tại của nhau, đã luân phiên bước qua cuốn sách này, để đến cuối cùng, tương phùng tương ngộ nhờ ngòi bút của một người đàn bà viết. Sau lưng họ là tiếng mưa chạm xuống biển khơi. Là cây cầu cổ xưa đã tiêu tan cùng phong hoa thời đại cũ. Là cả những người đàn ông không nên yêu nhưng đã án ngữ ở một chỗ vĩnh hằng trong tâm hồn họ. Họ đẩy lại hết, băng mình vào những chuyến đi xa. Mỗi điểm đến mới là một cánh cửa dẫn họ lại gần với nội tâm, với sự nhận biết bản thân, với nguồn cội khai sinh… Đi và soi lại mình trong thế giới, cũng soi cả thế giới bằng tâm hồn mình. Những chuyến di chuyển vật chất của họ, bởi vậy cũng chính là cuộc du hành của tâm tưởng. Những năm gần đây An Ni Bảo Bối sáng tác đã thưa đi, nhưng tinh thần về viết và đi của cô vẫn quán xuyến như nhất trong từng tác phẩm. Vẫn những mối tình và trắc trở của cuộc sống thành đô. Những đàn ông đàn bà cô đơn và khao khát. Những dục vọng phải đánh đổi và trả giá. Những linh hồn vừa tỉnh táo vừa đa cảm. Cùng những bất an không nơi xoa dịu. Đi để tìm kiếm. Viết để chiêm nghiệm. Trang sách để sẻ chia, không kêu gọi, nổi loạn, nhưng vẫn thẳm sâu, nhẹ nhàng, đằm thắm… Xuân yến. Có lẽ, sau những hành trình tìm kiếm và lãng quên, một bữa tiệc mùa xuân là cần thiết, hầu thanh tẩy những bụi bặm tổn thương, đặt tình yêu vào tay con người trong hình dáng tinh khôi và nguyên sơ nhất. *** Ngòi bút của An Ni bên ngoài thì mềm mại như nước chảy nhưng không hề khoan nhượng, không bỏ qua bất cứ ngóc ngách sâu kín nào của tâm tư, từng chút từng chút bóc trần  chân tướng, lạnh lùng phơi bày sự tồn tại chân thực của con người, đời sống và các mối quan hệ. An Ni chưa bao giờ tỏ ra khoan nhượng hay chùn tay dù những phân tích, bóc tách, lột trần của cô ẩn sâu dưới những lời văn mượt mà thẳm sâu, không hề phô trương, lặng lẽ chảy trôi mà có sức thẩm thấu, gột rửa bền bỉ, đồng thời cũng trong trẻo, sắc lạnh và đau đớn vì nhìn thấu, giống như ý nghĩa chữ “Lẫm” mà nhân vật Tín Đức xăm trên gáy. An Ni cũng không ngại ngần phơi bày những khía cạnh khuất lấp đằng sau sự ra đời của một tác phẩm, quá trình sáng tác đầy đau đớn song cũng đầy khoái cảm của nhà văn. Tác giả quyết liệt phủ nhận những danh xưng hào nhoáng mà người đời gán cho nghề viết và cách nhìn nhận mang tính bề nổi về nó. Với cô, viết là một hành vi đầy tính cá nhân, đồng thời cũng là một hành vi mang tính nhận thức của bản thân người viết “về mối quan hệ giữa con người với bản thân và với ngoại giới trên cơ sở thể nghiệm tình cảm và hành động.” Với ý nghĩa này, bản thân độc giả và chính nhân vật chẳng phải cũng là tác giả của chính cuộc đời mình hay sao?! An Ni Bảo Bối sáng tác đã mười năm. Xuân yến dường như nằm trong khoảng chín muồi trên con đường viết lách của cô, vì thế càng đọc càng thấy một nỗi day dứt không yên trỗi dậy trong lòng, càng đọc càng thấy như một mạch nước ngầm âm ỉ rỉ mãi thấm mãi… *** Nhận định "Cuối cùng thì vẫn ở lại. Chẳng đi đâu cả. Không thể dễ dàng vứt bỏ mọi thứ. Bởi không đảm đương nổi những hệ lụy, không đủ dũng cảm và sự trơ lỳ cảm xúc để thực hiện. Tiểu thuyết cũng chỉ là tiểu thuyết. Tiểu thuyết không thể là đời thường. Và đọc An Ni Bảo Bối, có chăng để thỏa những chuyến đi mộng tưởng, những cuộc tình hư ảo đau thương? Nếu ai từng nuôi trong lòng một thú đau thương, một khoái cảm thường trực với sự cô độc và lìa bỏ, sẽ dễ dàng đồng cảm với những trang viết này." (Lê Ngọc Phương) Mời các bạn đón đọc Xuân Yến của tác giả An Ni Bảo Bối.
Vùng Trời Mơ Ước - Elia Kazan
Elia Kazan nguyên là Elia Kazanjoglous, người Hy Lạp, sinh năm 1909 tại Istambul Thổ Nhĩ Kỳ (Turquise) cùng cha mẹ di dân sang Hoa Kỳ năm 1913 theo học và tốt nghiệp ở Hoa Kỳ. Ông khởi đầu sự nghiệp năm 1932; đóng những vai không quan trọng trong các vở kịch và nhạc kịch, rồi đến năm 1940, trở thành tài tử điện ảnh, và đến năm 1943 nổi danh trong vai chính của cuốn phim The Skin Of Our Teeth. Từ đó ông từ giã nghiệp diễn viên, để viết truyện phim, làm đạo diễn và viết văn. Sau sự thành công rực rỡ của cuốn phim The Skin Of Our Teeth do chính ông đạo diễn kiêm diễn viên chính, ông lần lượt đạo diễn các cuốn phim sau đây: — A Streetcar Named Desire 1951 — Death of a Dalesman 1954 — East of Eden 1955 — Man on a Tightrope 1953 — On the Waterfront 1954 — Baby Doll 1956 — A Face in the Crowd 1957 — Tea and Symphathy 1957 — JB 1959 v..v.. Hai cuốn phim của ông được giải thưởng điện ảnh của Hàn Lâm Viện Điện Ảnh Hoa Kỳ, là các cuốn Agreemenh và On the Waterfron. Sau khi đã thành một cao thủ điện ảnh Hoa Kỳ trong thập niên 50. Được giới điện ảnh đặt cho những biệt danh thân yêu và tỏ ý thần phục: Big Daddy, Baby Doll, Gadge, Pasha, ông nhảy vào địa hạt văn chương năm 1961 với cuốn America America được quay thành phim, do chính ông đạo diễn và trở thành một cuốn sách bán chạy nhất liên tiếp nhiều năm. Tác phẩm văn chương thứ hai của ông cũng là tác phẩm bán chạy nhất và cũng được quay thành phim do chính ông đạo diễn là cuốn The Arrangement. Tác phẩm thứ ba của ông là cuốn The Assassins. Xuất bản cuối năm 1972, đang thành cuốn sách được mệnh danh là tác phẩm văn chương gây nhiều sôi nổi nhất hiện nay ở Mỹ. Cả ba tác phẩm văn chương của Elia Kazan đều được dịch sang Việt Ngữ, với các tựa đề: — Vùng Trời Mơ Ước ( America America) — Trở Lại Thiên Đường ( Arrangement) — Những Kẻ Sát Nhân (The Assassin) Người dịch: Nguyễn Hữu Đông Giới phê bình văn chương Tây Phương đã phải thêm một phen kinh ngạc vì ba tác phẩm văn chương của Elia Kazan, mỗi cuốn đặt thành một vấn đề đặc biệt của xã hội: vấn đề dân di cư thiểu số ở Mỹ, vấn đề mất tin tưởng và lý tưởng trong xã hội Hoa Kỳ, và cuối cùng gần gũi nhất là vấn đề để xung đột giữa thế hệ trẻ và già. Tự thuật của ông, Elia Kazan: Một Đời Người, được xuất bản năm 1988. Kazan qua đời tại nhà riêng ở Manhattan ngày 28/09/2003 thọ 94 tuổi. *** Từ rất xa, người ta có thể nhìn thấy ngọn núi Aergius hiện ra thật đẹp, thật cân đối, với đỉnh núi và những sườn núi phủ tuyết. Người ta có thể nghe được tiếng hát của hai người đàn ông, bằng một ngôn ngữ lạ. Trên một sườn cao khuất nắng có một cánh đồng nước đá. Một chiếc xe và một con ngựa già đứng bên cánh đồng nước đá đỏ. Hai người đàn ông đang xẻ nước đá thành từng mảnh vừa sức mang đi. Công việc nặng nhọc, nhưng hai người còn trẻ và khỏe mạnh. Họ làm việc hăng hái vì họ làm việc cho họ. Giọng hát của họ, mặc dầu không được huấn luyện, nghe rất hòa hợp thích thú. Đó là dấu hiệu thân kết giữa một đôi bạn thiết. Stavros Topouzoglou là một thanh niên hai mươi tuổi. Nét mặt của chàng có một cái gì vừa dịu dàng vừa say sưa. Trên nét mặt đó ẩn chứa đầy những khao khát không nói lên được. Cặp mắt mầu nâu của chàng long lanh như những trái ô liu ướt nước. Làm việc cạnh chàng là Vartan Dama-dian. Anh ta hai mươi tám tuổi. Khuôn mặt của anh có những nét hoang dại, phong trần. Một chiếc mũi thật to, cong lại với một vẻ đa nghi, vừng trán thấp, mái tóc rậm tràn đầy sức sống, cặp môi thèm khát. Những nét đó và vóc dáng nặng nề như gấu rừng tạo cho anh một hình ảnh đáng nể. Hai chàng thanh niên chỉ là hai bóng dáng bé nhỏ trên cánh đồng nước đỏ. Sau lưng họ là một phong cảnh hùng vĩ. Người ta nghe được tiếng gió âm u ngự trị vùng cao nguyên này. Xưa kia, Anatolia là một quận huyện thuộc đế quốc Byzantine, với hai sắc dân Hy Lạp và Armenia chung sống. Vào năm 1381, miền đất này bị quân Thổ đánh chiếm, và từ dó hai sắc dân Hy Lạp và Armenia sống như những sắc dân thiểu số dưới quyền thống trị của quân xâm lăng Hồi Giáo. Nổi bật về phía trước, một sợi giây điện tín móc trên những chiếc cột, thô sơ càng lùi xa càng nhỏ dần, làm tăng thêm vẻ mênh mông. Phía xa, là ngọn núi Aergius. Gần đó là một số ngôi nhà nằm một phần dọc theo hai sườn dốc đối diện nhau, một phần dướt trũng hẹp giữa hai sườn dốc đó. Thị trấn mang tên Germer. Người ta có thể nhận ra một hay hai tháp chuông. Hôm nay là một ngày lễ lớn của Hồi Giáo, gọi là lễ Bayram. Vào ngày này tất cả những người Thổ dư dả đều làm thịt một con cừu và bố thí một phần cho người nghèo. Một đàn cừu đang được lùa qua đường phố hẹp. Người chăn cừu dừng lại để bán một con cừu cho một chủ nhà. Theo sau ông cả gia đình ông bận những quần áo ngày lễ đẹp nhất của họ. Rượu vừa được rót ra. Một con cừu hoảng sợ kêu lên. Nó đã biết số phận của nó. Trong lúc những cốc rượu chuyền khắp những người trong gia đình, thì người cha đang liếc lại con dao phay. Trông người ta có vẻ thành thạo với con dao này lắm, để mổ thịt, cũng như để sử dụng như một khí giới. Cả gia đình có mặt tại đây. Những người đàn bà đứng trước ngưỡng cửa, mặt được phủ kín một phần. Tất cả gia đình nhìn người cha mổ thịt con vật vừa bị giết. Một bé gái nhỏ mang đến cho người cha một cốc rượu trên một chiếc khay nhỏ. Ông ta cầm cốc rượu rồi hôn con gái yêu của ông ta một cách say sưa. Một vài người ăn mặc sang trọng cưỡi ngựa đi qua. Những người đàn bà kéo các đứa trẻ tránh ra. Phía sau những kỵ mã là một đôi ngựa kéo theo một chiếc xe. Mã phu hét lớn điều khiển đôi ngựa. Cặp ngựa quẹo theo góc đường, kéo chiếc xe theo. Đến trước thị sảng, các chức sắc dừng lại, người cưỡi ngựa, người đi xe, vài người đi bộ, tất cả đều phục sức cho ngày đại lễ. Bầu không khí có một vẻ gì đầy đe dọa. ... Mời các bạn đón đọc Vùng Trời Mơ Ước của tác giả Elia Kazan.