Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Tình Của Hầu Tước Montespan

Vào thời Vua Louis XIV, các quý tộc có vợ được vì vua chuyên chế để mắt tới là cả một niềm vinh hạnh cho dòng tộc. Cái ngày mà Vị Vua-Mặt Trời này đưa cặp mắt tình đặt lên tấm thân ngọc ngà của nữ Hầu tước De Montespan, giới quý tộc ở Versailles đều chúc mừng sự may mắn của đấng phu quân. Nhưng đấy là họ chưa biết hết tính cách của Louis-Henri Pardailan, Hầu tước De Montespan! Là một người chồng hạnh phúc, yêu vợ đến mê muội, chàng không chịu nổi cảnh vợ mình rơi vào tay con người có quyền lực mạnh nhất toàn cầu hồi ấy. Nơi mà vợ chàng, người đàn bà đẹp nhất nước Pháp bấy giờ đã từng phải thốt lên với chồng : “Versailles là một thế giới khủng khiếp và sẽ chẳng có cái đầu nào không quay cuồng ở đó. Triều đình làm thay đổi cả những con người kiên định nhất”. Ngay từ lúc khám phá ra điều bất hạnh của mình, chàng đã dùng mọi phương tiện, từ cao ngạo, hỗn xược đến ti tiện để chứng tỏ cho nhà vua thấy rằng ông ta chỉ là kẻ đớn hèn, lấy cắp vợ của kẻ khác. Hầu tước đã trở thành trò cười cho thiên hạ khi chàng cho trang trí trên chiếc xe tuyệt mỹ của mình một cặp sừng nguy nga. Chàng từ chối tước hiệu, bổng lộc, những cơ hội đầy hứa hẹn mà nhà vua hứa ban tặng nếu chàng để mắt làm ngơ trước cuộc tình của Vua và vợ mình. Chàng từ chối hết thảy, đơn giản là chàng không rao bán vợ mình. Bất chấp những thủ đoạn đê tiện liên tiếp được Vua tung ra, đến những vu cáo phải đưa ra tòa xét xử, đến những ngày ngồi tù, gia tài đình đốn, suy kiệt, và cả những âm mưu ám sát, chàng vẫn cứ tiếp tục đeo đuổi lòng hận thù đối với con người đầy quyền lực hòng lấy lại vợ mình. Jean Teulé đã đằm mình vào trong quá khứ vinh quang của hoàng gia Pháp, bới tìm tất cả những thói thường diễn ra trong tầng lớp quý tộc. Những trò giả dối, đạo đức giả, lừa gạt tiền, tình… đằng sau những hào nhoáng là chất đầy những trò sa đọa, đàng điếm, con người luôn rình rập những thất thế của người khác để dè bửu, nhạo báng lẫn nhau. Tình cảm, tình thương yêu của con người đều được đem ra tính bằng chức tước bổng lộc. Tình vợ chồng mong manh… Gấp lại cuốn sách, chúng ta phần nào thấy được quá khứ của xã hội Pháp, nhưng phải chăng điều ấy giờ đây vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Tác phẩm như một áng thơ ca, ca ngợi tình yêu, tình người bất diệt mà như tạp chí Nouvel Observateur đã viết: thật tài, đó như là một điều kỳ diệu của nền văn học Pháp. Bạn đọc có thể bị xáo trộn tâm hồn, bị đè nén, nhưng lại cười, cười với niềm hy vọng mạnh mẽ nhất. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Công ty CP sách An Tiêm.   Nhà Vua đã cho thúc trống dậy Nhà Vua đã cho thúc trống dậy Để nhìn tất thẩy các lệnh bà Và người đầu tiên Người nhìn thấy Đã khiến tâm hồn Người ngất ngây. Hầu tước, nói đi, ngươi biết người ấy chứ? Hầu tước, nói đi, ngươi biết người ấy chứ? Lệnh bà xinh đẹp đó là ai? Và Hầu tước đã tiếp lời: «Tâu Bệ hạ, đó chính là vợ tôi…» (Bài hát của Saintonge, thế kỷ XVII) *** Thứ bảy ngày 20 tháng giêng năm 1663, vào quãng mười một giờ khuya, lúc ra khỏi Palais - Royal, nơi Đại công tử - em trai Vua - tổ chức một đêm khiêu vũ rầm rộ, thì hai thanh niên, được sáu người khác theo sau, lao vội vã vào trong phố. Họ mắng chửi nhau trong ánh sáng lóa của lông mũ và đăng ten. - Fils de prêtre! - Cul-vert!* • Tác giả chơi chữ, đồng âm khác nghĩa. Fils de prêtre: đồ con cha xứ (hay cũng có thể hiểu là đồ quạ con, khi thóa mạ nhau).Cul-vert: đồ nô lệ vừa được giải phóng. Một người cao gầy nhỏng, môi loe hếch ngược phô hết cả hàm lợi, trong trang phục sặc sỡ, tô điểm kim cương lấp lánh, xô một tên nhỏ thó bụng phệ đội tóc giả đen làm ra vẻ ta đây to lớn vì đôi giầy của hắn cao hết sức. Đeo đầy nhẫn và vòng tay, tên này vừa đi loạng choạng trên gót giầy, vừa như ngạt thở: - Cul-vert à?! La Frette ư! Ta, hoàng thân xứ Chalais mà mi dám coi ta là nô lệ được giải phóng ư? - Ông hoàng của những kẻ ham tình dục đồng giới thì có, đúng thế, đồ đít xệ! Hệt như Đại công tử, mi thích công tử bột hơn là đàn bà ba hoa. Còn ta, ta ghét cay ghét đắng thói đồi bại Ytalia. Mi hả, mi qua Naples mà không cần dùng cầu*! • Ý chỉ bọn đồng tính luyến ái. (Tất cả chú thích trong truyện là của người dịch). - Ối! Trong suốt cuộc cãi cọ này, cánh cửa phòng khiêu vũ, đã khép lại, vẫn được đèn rọi rất sáng, ồn ã tiếng nhạc, bốc hơi nghi ngút, đầy những động tác cuồng loạn của các vũ công, còn đây, tám người bọn họ, hiện có mặt trong bóng đen băng giá của đường phố. Một tên gù, ngồi chồm hỗm sát một cái cột, cầm một ngọn đèn sáng được đặt trong một cái bong bóng lợn, treo nơi đầu gậy, liền đứng lên ngay, đi về phía họ và gọi gióng từ xa: - Một cây đèn soi đường đưa các ngài về nhà chứ ạ, thưa các Đại công tử?… Bị thọt, hắn đi khập khiễng, người lắc lư. Tóc ép sát tận da đầu, thắt lại sau gáy thành dây giếng, hắn đi vòng quanh họ với chiếc đèn lồng chiếu sáng từng khuôn mặt. Tên Chalais nhỏ bé giang tay tát La Frette, đầu người này lắc mạnh, phả ra một làn bụi phấn đậu tằm. Bị xỉ nhục, tên cao lớn ngậm miệng, mím môi trùm kín hai hàm răng mà hắn đã trang điểm theo lối Hà Lan - quệt bơ vào các lỗ răng sâu, răng cửa và răng nanh, và do vậy mà hắn phải bành miệng, nhe lợi để làm lạnh khối bột sữa nhão ấy, tránh cho nó khỏi chảy ra. Nhưng hiện giờ, đang cơn bực tức cao độ, hắn nghiến chặt môi thành hình đít gà và phồng má trong một mối oán giận nóng bỏng. Khi hắn mở miệng trở lại, ôi thôi lũ răng của hắn trôi đi: «Cậu đã thấy chưa hả, Sain-Aignan? Nó đã tát…» - Mi đã tát anh trai ta hả, cul-vert? Một hiệp sĩ cộc cằn ác độc mười chín tuổi, đội mũ đính nhiều lông dài chĩa tua tủa và một mắt bị chột do đậu mùa, đứng sững trước Chalais. Tên xách đèn lồng, chào hàng dịch vụ chiếu sáng di động cho cả hai bên, biện bạch hành động của mình: - Đêm tối, lũ bất lương, kẻ cướp đường và bọn con trai tồi tệ, thường rình rập khách qua đường đang hối hả trở về nhà… Tám thanh niên đeo tóc giả*, chia thành hai bang, diện mạo báng bổ, tạo những bộ mặt gớm ghiếc, giằng xé các mảnh vải lụa và ru-băng trên trang phục của nhau. Tên xách đèn lồng nâng cái bong bóng sáng của mình lên: Một trong số họ, người vừa bị rủa: «Flamarens, đồ tồi đàng điếm», có vẻ mặt nhợt nhạt. Hắn đã lấy bút vẽ tự họa những đường ven giả xanh lơ, màu của giới quý tộc và của máu tinh chất. Kẻ xách đèn lồng hạ chùm sáng xuống, những cặp giầy trên nền đường lát đá bắt sáng lấp lóa. Dầu bắt đầu bốc hơi: • Đeo tóc giả là biểu trưng rất thịnh hành của giới quý tộc trong thời Vua Louis XIV tại Pháp. - Năm sol một cuốc đê! Năm sol có là gì khi mà, như các ngài đây, đeo đế giày đỏ của những quý tộc gia chứ? Một lưỡi kiếm hiểm độc bốc mùi bội phản được rút ra lóe sáng, khoắng một nhát lên một khuôn mặt còn đang ngỡ ngàng: «Noirmoutier!» Kẻ bị rách mặt, tay kéo thanh kiếm, muốn xọc thủng Noirmoutier như một con lợn. Kẻ mà hắn gọi là d’Antin - «D’Antin, chớ có dính dáng vào đây nhé!» - dẫu vậy vẫn can thiệp vào trận ẩu đả đang có chiều hướng trở nên trầm trọng: «Ê, này, hãy cư xử cho đúng mực đi!» Tên xách đèn lồng nhẩy ngay theo ý anh ta: - Đúng thế, hãy cư xử cho đúng mực… khu rừng tối tăm nhất và ít người qua lại của Triều đình ở gần Paris là một nơi chắc chắn. La Frette nhổ thẳng đám bơ hơi quện trong những gốc răng sâu của mình vào mặt Chalais: - Đồ ruột rỗng, hẹn ngày mai trên bãi hoang tu viện nhé! D’Antin chết đứng người: - Bãi cỏ ư? Các người điên hết cả rồi! Các chỉ dụ đã… Nhưng tên La Frette cao lớn bị xúc phạm, đứng gần Saint Aignan, ra lệnh: - Arnelieu, Amolly, ta đi thôi. Bốn người đi về phía những ô cửa sổ sáng đèn của khu Tuilerie, bốn kẻ kia đi về hướng đối diện. Còn tên xách đèn lồng thì lỉnh mất, vừa ngúc ngoắc bước đi vừa đung đưa thân thể dọc theo phố Sain-Honoré. Ánh sáng trong cái bong bóng của hắn rọi lên một cái bóng gù và nhẩy nhót trên các bức tường trong khi hắn cố ghi nhớ: - La Frette, Saint-Aignan, Amilly, Arnelieu… và Chalais, Flamarens, d’Antin, Noirmou… ⁎⁎⁎ Vào lúc những tia sáng lờ mờ đầu tiên của buổi bình minh thầm lặng vừa tỏa lên trong lớp sương mù dầy đặc bao trùm hết cả bãi cỏ, và khi d’Antin nghe thấy tiếng giầy gắn khuyên bạc của hiệp sĩ Saint-Aignan bước lạo xạo trên những vũng nước đóng băng, thì anh ta quay sang bảo người đứng cạnh, là Noirmoutier, đưa cho mình lọ độc dược Schaffhouse, nó là chất tuyệt vời cho chứng bất tỉnh nhân sự. Paris yên ắng. Gà trống vẫn còn chưa cất tiếng gáy thì cánh xúc phạm Chalais, xếp thành hàng dài trước một dãy cây dẻ phủ đầy băng giá, phát hiện bóng dáng nhợt nhạt lờ mờ của bọn vô lại thuộc băng bị xúc phạm La Frette ló ra từ một cái kho chứa rơm khô mênh mông. Bọn chúng cũng vậy, gióng thẳng hàng tiến thẳng về phía kẻ thù của mình. Họ chẳng bao lâu nữa sẽ chạm mặt nhau, do cánh đồng cỏ rất nhỏ. Bên phải, những khu nhà sang trọng đang ngủ vùi. Bên trái, tu viện của dòng thánh Bru-nô với dãy hành lang và các am thầy tu mà có lẽ chẳng nên đánh động khi hét toáng những lời thóa mạ vô ích làm gì. Kiểu gì đi nữa thì cũng chẳng còn gì để nói với nhau. Họ không còn ở đoạn đó nữa rồi. Chuyện giờ liên quan đến một trận đấu tay đôi cho đến khi có kẻ hồn lìa khỏi xác đầu tiên và D’Antin cảm thấy không được khỏe dưới mái tóc giả xoăn tít nặng trịch trên đầu. Áo khoác hồng điều buông trên vai và mũ đen đội hếch lên kiểu catalogne, dẫu vậy anh ta vẫn chọn đứng trong tư thế đỏm dáng, tiến một chân lên và đặt tay cạnh sườn. Nhưng những ngón tay anh ta run lẩy bẩy. Kể từ lúc tuyên bố trận đấu tay đôi ban nãy, thì cặp mí mắt anh ta đã sưng mọng lên, một màu đỏ tấy thành quầng đã mọc trên trán, tai anh ta toát mồ hôi, một mụn ghẻ xuất hiện sau đầu, những chốc vẩy đụn lên ở cằm và dưới nách trái, khiến anh ta ngứa ngáy. Sự ngẫu nhiên đã xếp đặt cho tuổi trẻ chuyên sống trong sơn son thiếp vàng. La Frette sẽ đối đầu Chalais. Amilly sẽ được dành cho Flamarens. Noirmoutier sẽ đấu với Arnelieu, còn D’Antin nhìn thấy hiệp sĩ Saint-Aignan tiến thẳng về phía mình. Tóc xoăn kiểu Hy lạp, con người hình chim này, với những chiếc lông vũ dài và cặp mắt chột do lây bệnh từ lũ điếm trong các nhà thổ, ngắm nhìn đối thủ của mình từ trên xuống dưới, trong lớp sương mù mà không hề giảm bước, với một khuôn mặt tự tin không biểu lộ chút sợ hãi. Anh ta có vẻ thoải mái với cây kiếm trong tay sẵn sàng rửa danh dự cho anh mình. Anh ta tiến nhanh và chưng ra ánh thép của lưỡi kiếm. D’Antin tự hỏi khi nào thì hắn ta sẽ dừng lại, tập trung chú ý, nhưng kẻ kia tiếp tục tiến như thể hắn sẽ băng qua cả hàng cây dẻ. Tóc! D’Antin cảm thấy xương trên trán mình nát vụn do lưỡi kiếm xuyên thấu toàn bộ đầu mình, kéo theo đằng sau hộp sọ mớ tóc giả mà anh cố tóm lại, ngố thật… thật ngu khi chết như thế trong một buổi sáng giá lạnh và rớt thẳng lưng xuống trong chiếc quần bó màu xám ngọc trai, và bên dưới bằng lụa đỏ đã được người ta gắn chặt bằng nịt, khi mà tất cả xung quanh bạn, đã chuyển thành một cuộc tàn sát. Bên phải, ba người cùng cạ của anh rên rỉ trên cỏ ướt. Đám đối thủ bỏ đi. Tên Chalais nhỏ bé gượng đứng lên và bị sai mắt cá chân do cặp đế giầy quá cao. Hắn áp một tay lên bụng, nơi máu đang đổ xối xả. Flamarens vừa lê sau mình một chân dính máu, vừa nhẩy loi choi về phía cái bóng nhợt nhạt của một cỗ xe. Noirmoutier, vai rách nát, chạy về phía một con tuấn mã ở hướng ngược lại. Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Của Hầu Tước Montespan của tác giả Jean Teulé.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà - Stefan Zweig
Trong tác phẩm của mình, Stefan Zweig đã viết: “Chỉ hai mươi bốn giờ thôi cũng có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời một người đàn bà”. Tôi cũng là một người đàn bà. Tôi cũng đã thử hỏi, trong hai mươi bốn giờ quá ít ỏi ấy, một người đàn bà có thể làm gì để được gọi là thay đổi số phận, hay cuộc đời? Vậy mà khi tôi bắt đầu đọc câu chuyện của Stefan Zweig kể, tôi đã phải chạy đua với cảm xúc của nhân vật. Tôi không có được những cảm xúc mãnh liệt, bạo dạn như bà. Chỉ trong một ngày thôi, bà đã trải qua tất cả mọi cảm giác của cuộc đời này, đi đến tận cùng đê mê, hạnh phúc bên người tình chỉ trong một đêm, để rồi cũng phải chịu sự phản bội đến khốn nạn và nghiệt ngã khi bị sỉ nhục cay đắng bởi người mà mình đã yêu và trao đi tất cả. Người đàn bà ngoại tình ấy đáng thương hơn đáng giận rất nhiều, bởi đó là bản năng tuyệt vời của một người phụ nữ đã được đánh thức mãnh liệt sau những năm tháng sống bằng lặng và yên bình với những cảm xúc không thật. Tôi là một người đàn bà. Tôi trân trọng và cũng sợ hãi, xót thương cho những gì đã và đang diễn ra trong đời một người đàn bà giống như mình. Tôi đã cố gắng loay hoay với những cảm xúc của mình mà quên hẳn việc phải thành thật với cảm xúc của chính mình, và người phụ nữ đã mang trong mình một ám ảnh về tội lỗi ngoại tình với chồng con ấy đã chỉ cho tôi biết rằng , tôi không có nhiều thời gian để mài mòn cuộc sống trong những giả dối. Cách tốt nhất tôi có thể làm được chỉ là để mình tự do yêu, và sống cho thật với những gì mình cần phải sống. Ngẫm cho kĩ thì thời gian đâu có quan trọng ngắn dài, điều quan trọng hơn là cách mà chúng ta sống trong khoảng thời gian ấy thôi. Người đàn bà của tôi chỉ cần hai mươi bốn giờ sống thật sự để rồi "gặm nhấm" nó suốt một cuộc đời còn lại, như một nỗi ám ảnh, day dứt, thay đổi tất cả mọi cảm xúc của bà. Tôi xót xa cho số phận của một người đàn bà như mình, nhưng tôi biết tôi chẳng thể nào trốn tránh được những điều đó, bởi nó thuộc về bản năng, bản năng yêu và quyết định mọi thứ bằng trái tìm của tình yêu, mù quáng nhưng chân thành. Người kể câu chuyện về số phận của người đàn bà trong hai mươi bốn giờ ấy đã biểu hiện đủ đầy những diễn biến tâm lý, như một bản nhạc đầy thăng trầm, chỉ trong một khoảnh khắc rất ngắn của đời người, nhưng với những điều tôi đã cảm nhận được, nó còn ngân dài hơn bất kì một bản tình ca nào khác về người phụ nữ. Đó là biệt tài của Stefan Zweig. Và chúng ta, những người phụ nữ suốt đời mang thân phận yếu ớt, mỏng manh, tại sao không thể chia sẻ với những đam mê thật thà của người đàn bà này, và để biết rằng chúng ta có thể tìm thấy điều gì thuộc về nhau. Một trích đoạn rất nhỏ trong câu chuyện, mà tôi muốn dùng nó để kết thúc bài viết của mình, và để bắt đầu cho các bạn khi đã cầm trên tay cuốn sách này. … Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể về số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hawngrriet say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: Tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh ona và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tôi, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh lẫn tôi. Thế là khối đã đè nặng tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khức, đè chặt lấy quá khức không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ… *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ. Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. Mời các bạn đón đọc 24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà của tác giả Stefan Zweig.
Chuyện Giải Buồn Quyển 1 - Paulus Của
Huỳnh Tịnh Paulus Của hay Huỳnh Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được bổ ngạch Đốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam. Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong cộng tác với Gia Định báo. Tác phẩm quan trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá trị, đó là quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895 từ mẫu tự A đến L, tập II in năm 1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in tại Sàigòn do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat & d"Ormay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2 tập của quyển tự vị nầy.  Chuyện Giải Buồn Quyển 1 gồm có: 1. CHÍ KHÍ CAO 2. CẦU TIẾNG CHƯỞI CHO RỤNG LÔNG VỊT 3. ĐỊA NGỤC Ở MIỀN DƯƠNG GIAN 4. ĂN MÀY XIN VÀNG NÉN 5. ĐẦU THAI BA KIẾP 6. KIỆN MẤT NÀNG DÂU 7. PHẬT ĐỔ MỒ HÔI 8. MƠ TƯỞNG VIỆC KHÔNG CÓ 9. NÓI MỊ 10.CHUYỆN MÌNH THÌ QUÁNG 11.ANH EM RUỘT GIÀNH GIA TÀI 12. VẼ HÌNH VAY BẠC 13.CHUYỆN VƯƠNG-THẬP 14. TÍCH CỌP LẠY 15. CHUYỆN CẢNH THẬP BÁT 16.CỌP CÓ NGHĨA 17.ĐUỔI YÊU QUÁI 18.RỦ NHAU CHẾT MỘT LƯỢT 19. BỐN MƯƠI NGÀN 20. BỢM BẢI 21.MẮC LỪA 22. CHỒN ĐẤT THƠ THỦY 23. CHUYỆN ÔNG TẤN SĨ LƯNG MỌC LÔNG DÊ 24.LẬP TỰ CHO CHÁU 25.NỢ KHÔNG TRÔNG TRẢ 26. CHUỘT CÓ NGHĨA 27. CHUYỆN NGƯỜI ĐINH TIỀN KHÊ 28. CHUYỆN THÂY MA LÀM DỮ 29.CHUYỆN HỌ THÂN 30.CHUYỆN ÔNG XA KÍNH 31.CHUYỆN ÔNG LƯU BÁ ÔN 32.CÓ PHƯỚC LÀM QUAN 33. CHUYỆN NHẬM TÚ 34. TRƯƠNG THÀNH 35. SỰ TÍCH CON BÀN BÀO 36.CHUYỆN MỘT VÌ TƯỚNG QUÂN 37.BÀN CHIÊM BAO 38. TRỒNG LÊ 39.ĐẠO BẠCH LIÊN 40. THẦY ĐẠO SĨ Ở NÚI LAO SƠN 41.PHÉP MA 42. SỰ TÍCH CŨ 43. HUÌNH SANH 44. ĐÔNG PHƯƠNG SÓC 45. CÔNG GIÃ TRƯỜNG 46. THI THÀNH HOÀNG 47. HAI ANH EM HỌ THƯƠNG 48. LỘC ĐỜI 49. NHÍP CHÁNH 50. NGƯU THÀNH CHƯƠNG 51.LIỂU SANH 52.CHUYỆN HƯỚNG-KlỂU 53. CHỊU ÁN OAN 54. CHUYỆN CON THẢO 55. CHUYỆN NGƯỜI BÁN VẢI 56.CÙ DỤC 57. DIÊM LA 58. CHUYỆN THƯƠNG TAM QUAN 59.CHUYỆN ÔNG TẾ VÕ KHI CÒN NHỎ 60.CHUYỆN NGƯỜI CAO LỚN 61. LIỂU TÚ TÀI 62. CHUYỆN LƯU HỖ 63. CON RƯỢU 64. CHÓ KHÔN 65.THẦN NÚI 66. CHUYỆN THẦY THUỐC 67.TỐNG QUỐC ANH 68. CHÓ BIẾT CỨU CHỦ Mời các bạn đón đọc Chuyện Giải Buồn Quyển 1 của tác giả Paulus Của.
Tình Cát - Nguyễn Quang Lập
Tình Cát tiếp tục truyện Xóm Cát đã được tác giả viết ra cách đây ba mươi năm trong tiểu thuyết Những Mảnh Ðời Ðen Trắng và kịch nói Mùa Hạ Cay Ðắng. Bộ ba tác phẩm và cặp đôi nhân vật Hoàng - Thùy Linh đã cùng Nguyễn Quang Lập băng qua Sa Mạc Trắng cuộc đời và văn chương. Ở cuốn tiểu thuyết mới này của Nguyễn Quang Lập, Hoàng đã đi hết đường trần của mình. Anh chết ở Xóm Cát. Khi đang đào bới quá khứ của mình. XC là ở quê anh. Anh đã bỏ XC mà đi. Anh đã tìm về XC. Anh đã trốn chạy khỏi XC. Và anh lại tìm về XC. Ðể tìm lại Thùy Linh. Ðể tìm lại một thời tuổi trẻ của mình. Ðể tìm lại một XC của những người dân vô tội. Ðể rồi anh chết trong cơn hoang mê đào bới XC. Trong khi những kẻ rất tỉnh bây giờ đào bới những xác chết dân lành để lập công. Hoang mê và thức tỉnh. Ngày qua và hôm nay. Chiến tranh và hậu chiến. Hoàng chết ở XC, hết đường trần, nhưng đường đời chưa hết. Vì Ly Ly đã hiện diện và biến mất trong quãng đời hiện tại của anh. XC như vậy là chuyện của hôm nay. Tôi đang ghi hai chữ XC. Ðó là viết tắt Xóm Cát. Hẳn rồi. Nhưng bạn có thể đọc XC là Xúc Cát, như Hoàng đang vật lộn với chính mình để xúc bỏ lớp cát của quá khứ đọng dày trong ký ức hòng tìm ra sự thật bị lấp vùi dưới cát, do tiếng nổ của đạn bom và sự im lặng của người đời. Bạn cũng có thể thấy XC là Xúc Cảm. Của chính Hoàng và của bạn. Truyện này của Lập rất nhiều xúc cảm, nhiều hơn những truyện khác của cùng tác giả. Nhưng XC bạn đọc hết truyện sẽ lại có thể luận là Xác Chết. Những người, và nhiều nhất là những người nữ, đã cho Hoàng sống đời mình, và họ đã chết để buộc Hoàng phải hoang mê phần đời mình còn lại. Và chết. XC đó là của chính Hoàng. Cũng là của những người đọc nào đã theo Hoàng từ hai tác phẩm trước của Nguyễn Quang Lập cho đến tác phẩm này. Vậy nên, XC là của mỗi người. Sau khi là của riêng nhân vật Hoàng (và trong Hoàng là Thùy Linh). Sau khi là của tác giả Nguyễn Quang Lập. Với tôi, XC ngoài những điều trên, còn là Xưa Cũ, Xin Chịu, Xót Cùng. Và Nguyễn Quang Lập, bộ ba tác phẩm và cặp đôi nhân vật, bạn đã Xem Chưa? XC! Phạm Xuân Nguyên *** Một cuốn tiểu thuyết viết về thời hậu chiến, nhưng gương mặt đầy máu của cuộc chiến vẫn hiện nguyên hình. Nó nằm sâu trong vùng ký ức của người lính như Hoàng. Những cơn mê quăng Hoàng vào quá vãng, để rồi không phân biệt được người lính đó đã sống ở “thì” nào. Nhiều lúc Hoàng muốn thoát ra khỏi vũng lầy quá khứ đó, nhưng càng vùng càng lún sâu, đến nỗi đời sống thực của Hoàng không còn là thì hiện tại. Nói như Ly Ly, “Tại sao phải chia động từ ra ba thì mới gọi là sống? Mình đang sống còn Hoàng thì đã sống, khác gì nhau nào, ai điên ai tỉnh đây?”. Có một thứ gì đó như ma ám được sinh ra từ chiến tranh, khiến cho con người thời hậu chiến cứ mê mê, tỉnh tỉnh. Mặc dù chiến tranh đã lùi xa bốn mươi năm, nhưng vẫn chưa tỉnh cơn mê. Không ám ảnh sao được. Ðọc Tình Cát của Nguyễn Quang Lập, tự nhiên thấy sợ hãi chiến tranh như nó vừa dứt hôm qua để lại ngổn ngang xác chết. Những cái chết của Lý, của Nụ, của Lương, của thằng Béo, của anh Chiến lái xe, của thằng Rú, thằng Rí, con Ri, của ông Ro, chị Rá. Mỗi người một số phận, một bi kịch. Mỗi người được đặc tả một kiểu chết, kinh hoàng và thê thảm đến nghẹt thở. Nguyễn Quang Lập dày công “xây dựng” những cái chết đọc mà thấy rùng mình run rẩy. Nhưng có lẽ, hiện thực chiến tranh còn dữ dội hơn nhiều, hiện thực đó vượt qua sự tưởng tượng của nhà văn. Cũng như cái xóm Cát với 11 nóc nhà đã bị lãng quên. Ðịnh mệnh giao cho họ nhận lấy trách nhiệm của cuộc chiến, giữ một kho xăng mặc dù không ai cần đến và nhớ tới, để rồi những con người vô tội đó chết cháy trên trảng cát nóng rát lửa xăng, có người chết rồi lửa vẫn trào ra xèo xèo trong miệng. Còn nhiều thôn xóm và thân phận bị lãng quên khác như quy luật vô tình của chiến tranh. Xóm Cát chỉ là một điển hình để nhắc nhớ về sự vô tình đang tồn tại. Sự vô tình đó biến hóa, nhập vào những kẻ có quyền lực để chúng trở thành những bóng ma thời hậu chiến. Cái ác thêm một lần nữa chiến thắng khi quyền lực rơi vào tay những kẻ ngu ngốc như Chủ Tịch Huyện và lưu manh như Phó Chủ Tịch Văn Xã. Và cái ác chiến thắng khi người tận trung với cuộc chiến tranh như Xê Trưởng phải chịu án tử hình. Bất lực trước cái ác, nỗi ám ảnh chiến tranh như lớn hơn trong tâm trí của Hoàng, để anh tìm đến cái chết thê thảm như những cái chết đã từng ám ảnh anh. Chỉ thêm hai chữ để nói về nghệ thuật của Tình Cát: Văn hay. Lê Thanh Phong Mời các bạn đón đọc Tình Cát của tác giả Nguyễn Quang Lập.
Huynh Đệ - Dư Hoa
Cuốn tiểu thuyết Huynh đệ của nhà văn Dư Hoa, được giới phê bình Trung Quốc ví như một cơn lốc bởi sự hấp dẫn của gần 400 ngàn chữ cũng như ý tưởng quyết liệt của tác giả thử thách đến tận cùng nhân tính con người. Muốn trải qua hai thời đại một trời một vực như thế, một người phương Tây phải sống đến 400 năm, một người Trung Quốc chỉ cần 40 năm đã trải qua rồi. Vô vàn những biến động trong 400 năm được cô đúc, dồn nén trong 40 năm, đó là một quá trình từng trải hết sức quý giá. Mắt xích gắn kết hai thời đại chính là hai người anh em huynh đệ này, cuộc đời họ rạn nứt trong sự rạn nứt, buồn vui, họ nổ bùng trong sự bùng nổ, số phận họ cũng long trời lở đất giống như hai thời đại này và cuối cùng họ tất sẽ phải nuốt lấy hậu quả từ những ân oán đan xen chồng chéo. Huynh đệ xoay quanh cuộc đời Lý Trọc, cậu bé mất cha khi chưa chào đời và tuổi thơ ấu khốn khổ trong cách mạng văn hoá. Lý Trọc bất hạnh từ bé, không bao giờ biết mặt cha, lên 5 thì mẹ cậu - công nhân nhà máy tơ tên Lý Lan - đi bước nữa với thầy giáo Tống Phàm Bình. Hạnh phúc ngắn ngủi của hai người nhanh chóng tan như bọt xà phòng bởi cách mạng văn hoá. Cũng vì thế Lý Trọc và Tống Cương (con riêng của Tống Phàm Bình) vướng họa từ thuở lên 8. Bố bị bắt đi đấu tố vì lý lịch con nhà địa chủ, mẹ đi Thượng Hải chữa bệnh không biết họa nhà. Tống Phàm Bình yêu vợ thương con, trong nhà giam chịu đòn roi vẫn đều đặn viết thư động viên vợ yên tâm chữa bệnh. Hai đứa trẻ thần tượng bố, nhưng cuối cùng chính chúng phải chứng kiến cái chết thảm khốc của bố dưới gót giày hồng vệ binh. Cũng trong những nỗi đau cùng kiệt của kiếp người, một tình yêu lớn lao và đẹp cổ điển của họ đã ở lại cùng bạn đọc: Tống Phàm Bình hứa với Lý Lan, khi nào vợ khỏi bệnh chính anh sẽ đến Thượng Hải đón vợ. Trốn khỏi nhà giam của hồng vệ binh, Phàm Bình ra bến xe khách mua vé, anh bị chặn đánh nhưng vẫn cố nhoài người mua được vé và chỉ tắt thở khi chuyến xe cuối cùng đi Thượng Hải chạy khuất. Hai đứa trẻ tám tuổi phải bám chân van lạy những người qua đường chở xác cha về nhà. Còn Lý Lan chờ chồng cả ngày trước cửa bệnh viện mà không thấy, chị không dám ngủ, không dám ăn vì sợ chồng qua mà không thấy. Hôm sau, chị đi xe về một mình, chị không tin chồng đã chết, chị không khóc, chị tắm rửa cho chồng, nằm gối đầu lên ngực chồng ngủ qua đêm, gói những hạt bùn đen dính máu chồng vào tấm vải lụa, hôm sau mới đi mua quan tài khâm liệm tiễn chồng. Chị để tang chồng bằng mái đầu 7 năm không gội, để rồi đến khi gội xong thì mái tóc hoá bạc trắng và chị vui mừng khi thấy sức mình sắp kiệt, vì sắp được đến bên chồng. Hai anh em Lý Trọc và Tống Cương lớn lên trong tất cả những bạo lực, nhiễu nhương và chứng kiến những người thân lần lượt ra đi trong bi phẫn. Mỗi đứa mỗi tính, Tống Cương hiền lành, giống bố vì đạo nghĩa, sẵn sàng hy sinh cho em. Còn Lý Trọc thông minh, tinh quái, 14 tuổi đã nổi tiếng thị trấn vì tội rình xem mông đàn bà. Nhưng cũng vì thế, Lý Trọc là người được ăn nhiều nhất món mì Dương Xuân thượng hạng tại thị trấn, vì cậu biết tận dụng cái bí mật mông Lâm Hồng để bán cho những gã đàn ông háo sắc và biến thái. Chúng đã lớn lên trong sự bi đát nhất của con người, từng nhìn thấy quá nhiều sự hắt hủi của con người với đồng loại như mất hết nhân tính. Nhưng chúng vẫn trọng đạo nghĩa làm người và bắt đầu một cuộc sống khác. Trong Huynh đệ, Dư Hoa đã đẩy nhân vật của mình đến tận cùng của những bi kịch xã hội, để rồi họ phải tự xử lý cuộc đời mình theo những lối đi riêng. Nhà phê bình nổi tiếng Trung Quốc Lý Cật nhận xét: "Trong sáng tác tiểu thuyết trào lưu mới, thậm chí trong toàn bộ nền văn học Trung Quốc, thì Dư Hoa là một người kế thừa và phát triển tinh thần Lỗ Tấn tiêu biểu nhất." *** Cuốn sách gồm hai tập, xuất bản vào năm 2005, 2006 và đã bán ra được gần 1 triệu bản – một con số không hề khiêm tốn tại đất nước mà nạn copy sách diễn ra tràn lan và độc giả hoàn toàn có thể download tiểu thuyết miễn phí một cách dễ dàng từ Internet. Trung Quốc trong tưởng tượng của Dư là một phiên bản đầy khôi hài của thế giới thực tại. Đó là một xã hội điên đảo, không luân lý, không luật pháp, nơi mà những trò tham nhũng, cờ bạc, đĩ điếm và buôn gian bán lận là chuyện thường ngày ở huyện. Cuốn tiểu thuyết nhận được nhiều lời chỉ trích khá nặng nề. Một số nhà phê bình tỏ ý thất vọng khi Dư Hoa - một trong những tác giả đáng kính nhất tại Trung Quốc hiện nay - lại sản xuất ra một tác phẩm đáng gọi là rác rưởi và mang đầy hơi hướng, kiểu cách Hollywood như vậy. Tuy nhiên, không ít người lên tiếng tán dương cuốn sách, coi đây là một bức tranh sống động về một xã hội Trung Quốc ngày càng thực dụng, buông thả và mất thăng bằng. "Về cơ bản, tôi không đồng ý với các nhà phê bình. Đây là một tác phẩm lớn và Dư Hoa là một trong những nhà văn Trung Quốc đương đại tài năng nhất”, Liu Kang, giáo sư Đại học Duke tại Bắc Carolina, nhận xét. Dư Hoa năm nay 46 tuổi. Dáng người ông thấp đậm, trông trẻ hơn so với tuổi thực. Ông sở hữu mái tóc dày, đen và nụ cười hài hước thường trực. Nhà văn cũng thường xuyên hút thuốc. Trông ông, người ta dễ nhầm với một công nhân hơn. "Những câu chuyện tôi kể hơi cực đoan, nhưng bạn hoàn toàn có thể tìm thấy chúng tại Trung Quốc”, tác giả tâm sự trong một cuộc phỏng vấn tại Bắc Kinh, nơi ông đang sống cùng vợ và đứa con trai 12 tuổi. Dư cho biết, tác phẩm của ông bắt rễ từ mảnh đất nơi ông được sinh ra. Ông sinh năm 1960 tại thị trấn nhỏ ở Hàng Châu trong một gia đình có cả bố và mẹ đều là bác sĩ. Mời các bạn đón đọc Huynh Đệ của tác giả Dư Hoa.