Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Oskeola Thủ Lĩnh Da Đỏ

TIỂU THUYẾT Số trang: 385 Khổ sách: 13x19cm NGUYỄN ĐỨC QUYẾT dịch NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KIÊN GIANG - 1989 NGUYÊN BẢN Tiếng Anh Thomas Mine Reid “Oskeola, the Leader of Seminols” LỜI GIỚI THIỆU Tiểu thuyết Oskeola đến tay các bạn khi nó vừa tròn 130 tuổi. Hơn một thế kỷ đã trôi qua, nhưng dư âm cuộc chiến hào hùng và bi thiết của một dân tộc thượng võ, yêu tự do chống tại xâm lăng da trắng bạo tàn và xảo quyệt vẫn dội lên trong trang sách của Thomas Reid. Thomas Mine Reid sinh năm 1818 tại Irland xác xơ, nghẽo đói. Là một người rất giàu nhân ái, Reidcăm thù tận xương tủy bạo lựcvà độc tài trên đất nưóc mình, từ bỏ sắc áo thầy tu tin lành mà cha ông đã định trước. Hai mươi hai tuổi. Reid vượt biển sang Mỹ Châu, bắt đầu cuộc sống mới đầy phiêu lưu sóng gió. Trước khi trở thành cây bút bênh vực các cựu chủ nhân bất hạnh trên Tân lục địa, tác giả của những “Kỵ sĩ không đầu'’. “Thiếu nữ Cvarteron “Thủ lĩnh trắng”. “Chiếc vòng vàng”. “Trườn trên vách đá... lừng danh thế giới. Reid đã trải khá nhiều nghề.. Dạy học, buôn bán, làm nhà báo, diễn viên... Đặc biệt, chính Reid một thời cũng đã từng là lính, trong một trận đánh ngập máu với người da đỏ ông bị trọng thương, vùi giữa đống xác người và đã bị báo tử trên báo chí. May thay. “Con người một đời hai lần chết” (theo cách gọi của chính Reid.) ấy đã không sớm giã biệt,cuộc đời, nếu không hậu thế hẳn đã phải chịu thiệt thòi - thiếu những tác phẩm đầy hào khí da đỏ của ông. Trước Reid đã không ít người viết về chiến tranh da đỏ. Nhưng những cuốn sách sặc mùi thực dân của họ. Thôngqua các captivity (tù binh của người da đỏ) và Indian hater (kẻ thù địch, bài xích người da đỏ)đã bóp méo lịch sử, trơ tráo bôi đen danh dự, đạo lý, phẩm cách của các dân tộc da đỏ. Thomas Reid đã không làm như vậy. Tác phẩm của ông thấm đượm thiên cảm nồng nhiệt và kính phục chân thành đối với một dân tộc cao thượng, quả cảm, khẳng khái, giàu tình yêu, nhưng lịch sửbất công đã đang tâm áp đặt số phận hẩm hiu. “Oskeola” là một tiểu thuyết sử thi, với thủ lĩnh huyền thoại mà lịch sử và nghệ thuật đã và còn truyền tụng. Trong cuộc đấu tranh bền bỉ, không cân sức của các dân tộc da đỏ chống lại người Mỹ da trắng tàn bạo, Oskeola nổi lên như một thủ lĩnh kiệtxuất. Là một người yêu nước nhiệt thành, một nhàquân sự tài ba, một nhà ngoại giao xuất sắc, một chiến binh quả cảm, một tâm hồn cao thượng, thủy chung... Oskeola đã trở thành linh hồn cho cuộc kháng chiến, là niềm tin yêu, kính trọng của cả cộng đồng, là mối khiếp sợvà nể phục đối với kẻ thù xâm lược cùng lũ tay sai phản bội đồng bào và là mối cảm hoài đầy thi hứng cho các thế hệ sau. Trong cuốn tiểu thuyết không phải tất cả mọi chi tiết đều trung thành với sự thật lịch sử. Song điều có thật ấy là kẻ thù đã phải nhỏ lệ khi vĩnh biệt người con lỗi lạc của núi rừng da đỏ. Trước ngày Oskeola qua đời, lòng kính trọng sâu sắc đối với anh đã thôi thúc họa sĩ Jorge Ketlin hoàn tất chân dung chàng thủ lĩnh kiêu hùng lưulại cho hậu thế. Cuốn tiểu thuyết có một sức lôi cuốn kỳ lạ. Bạn đọc không những chỉ quan tâm đến kết cục cuộc chiến vô cùng gian khổ và kiêu dũng của người da đỏ xeminol, mà còn nóng lòng muốn biết số phận trung úy Jorge Rendolf cùng mối tình đầu đằm nàn, nồng thắm của chàng đối với nàng tiên da đỏ mà nữ thần ái tình Aphrodite phải ngậm ngùi nhường nhan sắc - Maiuymi, em gái Oskeola; số phận của Virginia, tiểu thư da trắng “trái tính trái nết”, em gái Jorge Rendolf và là người để Oskeola chôn chặt một khối tình vô vọng: số phận đại úy Gallaher yêu đời, chân thành và máu mê đấu súng: số phận Jec Đen trung thành, can đảm cùng nàng Viola xinh đẹp ; số phận ông lão săn cá sấu Hicmen... Và dĩ nhiên, độc giả rất muốn biết và nóng lòng chờđợi giờphút trừng phạt tên Jec Vàng phản phúc, lòng lang dạ thú mà cá sấu đớp không chết, cũng nhưgãArens Ringgold đểu cáng, thâm hiểm... Sau “Oskeola” đã có không biết bao nhiêu tiểu thuyết về người da đỏ bằng đủ các thứ tiếng khác nhau. Nhiều cuốn trong số đó đã từng vang bóng một thời, nhưng theo thời gian đã lùi dần vào quên lãng và an phận trong thư tịch, Riêng “Oskeola” cùng những tác phẩm tuyệt vời khác của Thomas Reid - những bài ca bất tuyệt về ý chí tự do, lòng nhân ái, và phẩm cách cao quí của con người - vẫn tràn đầy sinh lực, khỏe khoắn vượt qua bụi bặm của thời gian, đến với độc giả để chắc chắn chiếm lĩnh một góc tâm tư trân trọng và mến mộ. 1-1989 NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP KIÊN GIANG *** Thomas Mayne Reid là một tiểu thuyết gia người Mỹ gốc Scotland. Thomas Mayne Reid đã chiến đấu trong Chiến tranh Mỹ-Mexico. Nhiều tác phẩm của ông là về cuộc sống của người Mỹ. Trong các tác phẩm này, tác giả đã mô tả chính sách thuộc địa ở Hoa Kỳ, nỗi kinh hoàng của lao động nô lệ và cuộc sống của người da đỏ Mỹ. *** Bố tôi là chủ một đồn điền indigo - trồng chàm. Ông tên là Rendolf, và tôi cũng tên như vậy: Jorge Rendolf. Tôi mang trong mình dòng máu pha trộn với người da đỏ, bố tôi nguyên thuộc về dòng họ Rendolf vùng sông Roanoc, dòng dõi của công chúa Pocakhontas*. Ông rất tự hào về gốc gác da đỏ của mình, gần như kiêu hãnh nữa là khác. Có lẽ một người châu Âu bình thường sẽ cảm thấy điều đó có vẻ kỳ quặc, nhưng rõ ràng ở châu Mỹ những người da trắng, có tổ tiên da đỏ lại rất tự hào. Là một người metis* không phải là điều sỉ nhục, nhất là nếu anh ta có tài sản kha khá. Hàng trăm cuốn sách ca ngợi lòng cao thượng của người da đỏ cũng không thuyết phục bằng một sự thực giản dị là tất cả chúng tôi không một ai cảm thấy ngượng ngùng khi nhận mình là con cháu họ. Hàng trăm gia đình da trắng hiện giờ vẫn khẳng định họ là dòng dõi của công chúa miền Virginia ngày xưa. Nếu như những tự hào, gắn bó với họ là xác đáng thì công chúa Pocakhontas xinh đẹp thuở ấy hẳn phải là một kho báu vô giá đối với ông chồng. Tôi nghĩ rằng bố tôi đích thực là con cháu của công chúa. Chí ít thì ông cũng xuất thân từ một gia đình thuộc địa danh giá cũ. Hồi trai trẻ ông đã có hàng trăm nô lệ da đen, nhưng lòng hiếu khách và tính hoang tàng đã làm ông tán gia bại sản. Không chịu được tình cảnh sa sút khốn khổ, ông nhặt nhạnh mớ tài sản còn sót lại rồi đi xuống phía nam, làm lại cuộc đời. Tôi ra đời trước khi xảy ra biến cố đó, và quê hương tôi vẫn là Virginia, nhưng khi tôi bắt đầu nhận thức được thì gia đình tôi đã ở bên bờ sông Xuoni xinh đẹp, miền đất Florida*. Tuổi ấu thơ của tôi đã êm đềm trôi qua tại đây, cũng tại đây tôi đã đón nhận những niềm vui sướng đầu tiên của tuổi trẻ, đã ngất ngây, rạo rực với mối tình đầu. Giờ đây tôi vẫn nhớ như in ngôi nhà gỗ sồi xinh xắn sơn màu trắng, vẫn thấy rõ những tấm rèm xanh bên khung cửa sổ. Quanh nhà có gác hiên với những cột gỗ khắc chạm công phu đỡ mái. Bên phải khu nhà là rừng cam, bên trái là cả một khu vườn mênh mông. Xa xa, phía ngoài bãi cỏ là khu rừng thưa xanh rì chạy thoai thoải tới tận bờ sông. Dòng sông tới đúng chỗ này thì gấp khúc, trông giống như một mặt hồ khá rộng với những cù lao nho nhỏ, hai bên bờ thấp thoáng rừng cây. Quanh hồ vô số chim chóc bay lượn rợp trời, từng bầy thiên nga nô giỡn ào ào trên mặt nước. Dải rừng thưa cạnh nhà mọc đủ thứ cây - những cây cọ với những tàu lá dài nhọn hoắt, những cây dải quạt lá xòe rộng bản, những bụi mộc liên, bụi hồi trổ bông thơm ngát, những khóm dây cầu vồng sặc sỡ. Trong rừng còn có một cây sồi khổng lồ, cành cây mọc ngang thân với tán lá dầy xanh tốt quanh năm, che mát cả một khoảng rộng dưới bãi cỏ. Tôi nhìn thấy dưới bóng sồi một cô bé xinh đẹp bận váy mỏng mùa hè. Chiếc khăn trắng trùm đầu không che kín những lọn tóc xoăn dài vàng óng. Đó là Virginia, em út và em gái duy nhất của tôi. Mớ tóc vàng óng ấy Virginia thừa hưởng của mẹ, nhìn mái tóc không ai có thể nghĩ rằng cô có gốc gác da đỏ. Cô đang giỡn với hai con thú yêu quí của mình - con hươu dama và chú hươu con bé xíu có bộ lông sặc sỡ. Virginia bóc cam cho hai mẹ con hươu ăn, chúng rất thích cam. Cạnh đó còn một con vật nữa mà Virginia cũng rất yêu - chú sóc đen lông mượt láng với cái đuôi luôn ngúc ngoắc. Chú sóc hiếu động nhảy thoăn thoắt, mỗi lần nhảy là mỗi lần làm hươu con hoảng sợ, nép sát vào hươu mẹ hay chay lại nhờ em gái tôi che chở. Quanh nhà rộn tiếng chim lanh lảnh. Rồi tiếng chó sủa, tiếng mèo kêu, ngựa hí. Phía sau nhà là một cảnh tượng hoàn toàn khác, có thể không hấp dẫn bằng nhưng không kém phần sôi động. Mọi người đang làm việc. Sát nhà là một khoảng rộng, rào kín bằng cọc sắt. Chính giữa là một mái che khổng lồ tựa trên những dãy cột gỗ to và khỏe. Dưới mái che thấy rõ hàng dãy máng ngâm bằng gỗ trắc bá. Các máng ngâm xếp thành ba tầng, nối với nhau qua hệ thống vòi mở. Đó là nơi người ta ngâm chàm để chế phẩm nhuộm màu xanh. Phía xa là những nếp nhà nhỏ xíu xếp thành dãy của người da đen. Những ngôi nhà bé nhỏ ấy dường như cố co lại, giấu mình trong khu rừng cam. Không khí thơm ngát mùi hoa rộ vàng, rồi mùa trái chín. Phía trên những mái nhà cũng lại những thân cọ đường bệ vươn cao hay ngả mình xòe lá giống hệt như ở bãi cỏ trước nhà. Bên trong bức tường vây có mấy dãy nhà nữa, trông thô kệch, tường ghép gỗ súc sù sì, mái ván. Đó là khu chuồng ngựa, kho ngũ cốc và nhà bếp. Từ nhà bếp có một hành lang ngỏ ăn thông lên tòa nhà chính, mái hành lang lợp ván, cột đỡ dựng bằng gỗ bá hương. Ra sau tường vây tới cánh đồng bát ngát, chạy tít tắp tới những viền rừng trắc bá che khuất chân trời. Đây chính là khu vực trồng chàm. Tuy vậy ở đây cũng có ngô, lúa, khoai tây, mía. Các loại lương thực đó chỉ đủ đáp ứng nhu cầu tại chỗ chứ không bán. Indigo trồng thành hàng lối thẳng tắp. Rừng chàm mọc không đồng bộ: chỗ thì vừa mới trồng, lá nhỏ xíu giống như cỏ chĩa ba, chỗ đã trưởng thành, cao đến hơn hai foot*, hoa nở rộ. Đôi khi hoa chàm nở giống hệt như những con bướm nhỏ, nhưng người ta không để cho chúng nở hết độ. Chúng phải chịu một số phận khắt khe: người ta sẽ cắt nghiền những cánh hoa màu huyết dụ không thương tiếc. Bên trong bức tường vây và ngoài ruộng chàm hàng trăm người tất bật với công việc. Ngoại trừ một, hai người trong số họ, số còn lại đều là nô lệ người Phi. Đông nhất là dân đa đen, trong đó kể chung cả dân mulat, xambo, tertxeron, cvarteron*. Tuy nhiên, ngay những người thuần túy gốc Phi cũng không phải ai cũng đen cả, nhiều người da màu đồng. Một số trông khá dị hình - môi dày, trán thấp, mũi tẹt và dĩ nhiên không thể có vóc dáng cân đối. Nhưng số khác thân hình, khá đẹp, thậm chí có nhiều người trông rất hấp dẫn. Nhiều cô gái cvarteron trong số họ trông gần như da trắng. Tất cả mặc quần áo lao động. Đàn ông mặc quần vải gai mỏng, sơ mi màu rực rỡ, đội mũ đan bằng lá cọ. Dăm ba người ăn bận khá bảnh, một số lại cởi trần trùng trục, nước da đen bóng láng dưới nắng trưa trông như phiến gỗ lim. Phụ nữ ăn mặc sặc sỡ hơn, họ mặc váy sọc hoa và quấn khăn vải kẻ ca rô. Nhiều người mặc váy thêu rất đẹp. Mái tóc quấn như khăn xếp càng làm cho họ có một vẻ đẹp đặc biệt. Cả đàn ông và đàn bà đều làm việc ở đồn điền indigo. Họ cắt chàm và bó thành bó, tốp thợ khác kéo chàm về dưới mái che, quăng lên máng ngâm trên cùng. Rồi lại một tốp thợ nữa tiếp tục công việc - dẫn nước vào và “ép” chàm. Số thợ còn lại dùng xẻng gạt chất bột lắng vào cửa kênh tháo, chuyển xuống khâu cuối cùng là sấy khô và đổ khuôn. Mỗi người làm một việc nhất định, và phải nói là họ làm khá vui vẻ. Họ cười nói, đùa giỡn, hát hò suốt buổi. Tuy nhiên, tất cả bọn họ đều là nô lệ của bố tôi. Bố tôi đối xử với họ rất tốt, rất hiếm khi ông dùng đến roi vọt, có lẽ vì thế mà đám thợ luôn vui vẻ và thoải mái. Những hình ảnh dễ chịu ấy đã in sâu vào trí nhớ tôi. Chính nơi ấy tôi đã đi qua những tháng năm thơ bé, chính nơi ấy tôi đã khởi đầu cuộc sống có ý thức của mình.   Mời các bạn đón đọc Oskeola Thủ Lĩnh Da Đỏ của tác giảe Thomas Mayne Reid.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giai Điệu Cuối Của Cha - Nicholas Sparks
Giới thiệu đến các bạn thích đọc sách một tác phẩm không thể bỏ qua của Nicholas Sparks. Nếu ai đã từng đọc truyện của tác giả này rồi thì hãy yên tâm rằng đây là một trong những tác phẩm hay nhất của ông. Ai chưa biết về nhà văn này cũng nên đọc để biết thêm về một cây bút chuyên viết tiểu thuyết lãng mạn về những mối tình đầu sâu sắc, về tình cha ẩn sâu mà mãnh liệt như sóng ngầm... Đây là truyện thứ tư Sẻ dịch và chia sẻ với các bạn. Truyện này Sẻ rất thích nên bỏ nhiều công sức hơn mấy truyện trước (có edit đàng hoàng), nhưng tuy vậy chắc là không thể tránh khỏi sai sót. Bạn nào phát hiện, nhắc nhở cho Sẻ với nhé. *** Nicholas Sparks được xem là bậc thầy về tiểu thuyết lãng mạn của Mỹ. Ông đã cho ra mắt 17 cuốn sách và trong số đó có 11 cuốn được Hollywood chuyển thể thành phim. Các tác phẩm của ông thường nói về tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa và mang triết lí nhân văn sâu sắc. Nổi bật trong đó phải kể đến: "A walk to remember", "The Notebook", "Dear John"... Những tác phẩm của Nicholas Sparks đều mang hơi hướng lãng mạn và buồn day dứt. Cây bút tiểu thuyết đứng đầu nước Mỹ đã đem lại cho chúng ta những câu chuyện tình tuyệt đẹp nhưng đa phần đều là dang dở. Đọc tiểu thuyết của ông, bạn đọc như được sống lại một thời tình yêu, một thời thanh xuân nồng cháy và thấm đượm ra tính nhân văn sâu sắc mà ông gửi gắm. Một số tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Kẻ May Mắn - Nicholas Sparks Lựa Chọn của Trái Tim - Nicholas Sparks Thiên Đường Bình Yên - Nicholas Sparks Những Đêm ở Rodanthe - Nicholas Sparks Đoạn Đường Để Nhớ - Nicholas Sparks Lá Thư Trong Chai - Nicholas Sparks Bản Tình Ca Cuối Cùng - Nicholas Sparks Nhật Ký - Nicholas Sparks John Yêu Dấu - Nicholas Sparks Dành Hết Cho Em - Nicholas Sparks Giai Điệu Cuối Của Cha ... Mời các bạn đón đọc Giai Điệu Cuối Của Cha của tác giả Nicholas Sparks.
Cuộc Tình Bỏ Đi - F. Scott Fitzgerald
Đây là cuốn tiểu thuyết Scott Fitzgerald khởi viết ngay sau Gatsby vĩ đại (The Great Gatsby – 1925) nhưng mất đến 9 năm (1934). Tên sách Tender Is the Night được dịch thành Cuộc tình bỏ đi (bản dịch của Mặc Đỗ, NXB Hội Nhà Văn in lại 2003), trong khi một số bài báo hoặc website tạm dịch thành Đêm dịu dàng (hoặc Dịu dàng là đêm). Có lẽ, NXB / dịch giả phần nào lấy ý từ khái niệm “thế hệ bỏ đi” mà chính nhà văn là chứng nhân của “thời đại nhạc jazz” và cũng là người mô tả rất hay qua Gatsby vĩ đại. Xin mở ngoặc: dịch giả Mặc Đỗ cũng là người đã dịch cuốn The Great Gatsby vào thập niên 1950 với tựa đề Con người hào hoa. Mặc dù tên tuổi Fitzgerald được xem như một trong những nhà văn Hoa Kỳ xuất sắc nhất, nhưng dường như cuốn sách này không gây được tiếng vang tại Việt Nam, thậm chí ít người biết đến. Tender Is the Night là một tiểu thuyết hay nhưng không quá hấp dẫn (ít nhất là qua bản tiếng Việt). Thật ra, những trăn trở, hoang mang của những cuốn sách trước được tác giả nhìn lại và đưa ra những hướng đi mới hơn. Câu chuyện là cuộc sống của Dick Diver, một bác sỹ tâm thần trẻ tuổi và vợ là Nicole, cũng từng là một bệnh nhân của chồng mình. Họ sống trong một biệt thư xa hoa ở miền Nam nước Pháp. Những diễn biến kịch tính sau đó đã cho thấy sự bế tắc trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Cuộc tình của Dick với Rosemary, của Nicole với Tommy không chỉ là chuyện tình cảm, mà chứa đựng nhiều bi kịch của con người và xã hội. (Lưu ý vợ của nhà văn cũng bị bệnh tâm thần). Bản dịch tiếng Việt viết theo giọng điệu và phương ngữ miền Nam kiểu cũ (chẳng hạn “bịnh nhân”), nên có thể bạn đọc ngày nay không quen tai lắm. Cá nhân tôi thấy phần cuối sách phần dịch không được trơn tru lắm, giống như dịch vội vàng hoặc do người khác thực hiện. In một cuốn sách từng được bình chọn trong danh sach 100 cuốn tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ, nhưng NXB chẳng có lấy một dòng giới thiệu (thật ra họ tự ý lấy bản dịch cũ và xuất bản lại), kể cả xuất xứ của tên sách (trích từ bài thơ Ode to a Nightingale của John Keats). Thật hết sức đáng tiếc! Như vậy, “Cuộc tình bỏ đi” không chỉ là câu chuyện tình, không phải là cuốn sách dễ đọc dễ hiểu. Mỗi độc giả, với kinh nghiệm sống và vốn đọc khác nhau, sẽ có những rút tỉa và niềm vui thú khác nhau khi đọc tác phẩm này. *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ.   Mời các bạn đón đọc Cuộc Tình Bỏ Đi của tác giả F. Scott Fitzgerald.
Con Sẻ Vàng - Donna Tartt
Tác phẩm của Donna Tartt mang đến suy nghiệm về những đau đớn, mất mát làm nên số phận một con người. Con sẻ vàng của Donna Tartt mang đến cho độc giả một "bom tấn" của văn học đương đại. Tác phẩm của tiểu thuyết gia Mỹ vừa được dịch sang tiếng Việt. Hơn chín trăm trang sách dày đặc những trải nghiệm và đợt sóng cảm xúc, đưa độc giả vào hành trình đầy sóng gió của Theodor Decker (hay còn gọi là Theo), từ khi ở tuổi thiếu niên đến khi trưởng thành. Cuộc đời của Theo gắn liền với bức họa Con sẻ vàng, như lời tâm sự của cậu: "Nhìn bức tranh tôi lại trải qua cảm giác vạn vật đang tụ về một điểm: một giây phút nắng chói thoáng qua, tồn tại chớp mắt và vĩnh viễn. Chỉ thi thoảng lắm tôi mới nhận ra sợi xích buộc chân chú chim, hay nhận ra cuộc đời thật tàn nhẫn đối với một sinh linh bé bỏng như thế...". Con sẻ vàng được chuyển ngữ từ tiểu thuyết The Goldfinch (2013) của nhà văn Mỹ Donna Tartt (1963). Amazon chọn tác phẩm là Cuốn sách hay nhất năm 2013. Tiểu thuyết thứ ba này được Donna Tartt viết trong 11 năm, đoạt giải Pulitzer năm 2014. Warner Bros và Amazon Studios đang chuyển thể sách thành phim, do John Crowley đạo diễn. *** "Con sẻ vàng" là cuốn tiểu thuyết với lối kể chuyện đầy sinh lực, gây sửng sốt. Những nhân vật sống động gây ấn tượng mạnh, giọng văn mê hoặc, xen với những khúc chờ nín thở, lại có khi trùng xuống với cái bình thản triết gia với những bí ẩn sâu lắng nhất của tình yêu, con người, nghệ thuật. Tiểu thuyết này được giới phê bình và độc giả đánh giá cao, được Amazon bình chọn là Cuốn sách của năm 2013, lọt vào danh sách Best-seller của tờ The New York Times suốt 39 tuần. Ngoài ra, tiểu thuyết "Con sẻ vàng" sẽ được đưa lên màn bạc sau khi Warner Bros Studio đã giành được quyền làm phim. Và Brett Ratner (đạo diễn phim Giờ cao điểm) sẽ đảm nhiệm vai trò đồng sản xuất phim cùng với Brad Simpson và Nina Jacobson, nhà sản xuất từng đoạt giải BAFTA với phim The Hunger Games.  *** Donna Tartt là một nhà văn người Mỹ, tác giả của tiểu thuyết Lịch sử bí mật, Người bạn nhỏ và The Goldfinch. Tartt đã giành giải thưởng văn học WH Smith cho Người bạn nhỏ năm 2003 và Giải thưởng Pulitzer dành cho tiểu thuyết Goldfinch năm 2014.   Mời các bạn đón đọc Con Sẻ Vàng của tác giả Donna Tartt.
Biển - John Banville
Ngay từ khi ra đời, cuốn sách đã gây nhiều dư luận trái chiều, nhưng vượt lên những lời phủ định thành kiến, The Sea (Biển) của John Banville đã giành giải thưởng Man Booker 2005 và được hàng triệu người trên thế giới biết đến như một áng văn chương tuyệt đẹp làm lay động lòng người bởi tinh thần bi tráng và nỗi hồ nghi sắc bén. Câu chuyện không bắt đầu bằng sự kiện mà khởi đầu bằng tâm trạng, nỗi mất mát, sự từ bỏ và hoang mang xáo trộn. Max Morden, một trí thức trung niên, nhà nghiên cứu nghệ thuật, sau cái chết của người vợ, đã quyết định khép kín cuộc sống của mình, làm chuyến du hành về quá khứ.  Và từ đây mở ra thế giới của hồi ức, nhưng là những hồi ức đã bị cắt lìa khỏi sự quy chiếu thực tại, khỏi những cảm xúc và sự chủ động của con người thực tại, thế giới của những kẻ thực ra là đã chết ngay từ khi họ còn hít thở, ăn uống, thậm chí yêu đương… Như chính lời của họ, “chỉ còn như những bức tượng chân dung bị đổ ngã của chính mình”.  Ngay từ khi trở về ngôi nhà nghỉ thuở ấu thơ bên bờ biển, sau gần nửa thế kỷ, Max Morden đã chán chường bực tức vì cảnh vật và mọi điều vẫn y sì như cũ, chi tiết tưởng như vô lý này cho ta hiểu một ý nghĩa khác, cái khả năng chủ động lục tìm hồi tưởng lại cảnh cũ người xưa của anh ta đã hoàn toàn bị vô hiệu hay là không hề được đề cập tới.  Và quả thực suốt phần đầu của tác phẩm, Max Morden giống như bị trôi dạt nhồi dập trên những kỷ niệm và rãnh mòn của đời sống quá khứ. Chỉ cần nghĩ tới việc phải đi cắt cỏ, là anh ta đã “thấy mình ở đó rồi, sơ mi xắn tay, quần ống rộng, nhễ nhại mồ hôi, bước thấp bước cao sau cái máy cắt, mồm dính cỏ, ruồi bu trên đầu”.  Dường như chỉ có những “rãnh mòn" ngơ ngẩn tức cười như thế là cái còn lại, sau chừng ấy năm sống. Và những kỷ niệm, cũng chẳng phải là cái gì ngọt ngào êm dịu mà giống như một xô xốc những hình dung về cái tréo nghoe, bất mãn, tồi tệ, xấu xí, một cách hiển nhiên, trong đó nổi bật lên cảm giác bơ vơ nhỏ nhoi của thân phận và những ẩn ức tính dục ngùn ngụt được giãi bày một cách tự nhiên và mạnh mẽ.  Nhân vật của Biển là tù nhân của những khiếm khuyết đau buồn, ẩn ức tính dục và cả những bí ẩn ngẫu nhiên trong cuộc sống thời thơ ấu của mình. Và John Banville đã miêu tả một cách tuyệt vời khéo léo cái thế giới đóng kín hoá thạch của những hồi ức, với vẻ vừa tức cười vừa quái lạ của con người và cảnh vật, được tái hiện bằng những cảm giác và tâm trạng siêu hình.  “Tôi đã ở đó mà không phải ở đó, là chính mình và hài lòng, vừa bị giam cầm chặt chẽ trong cái khoảnh khắc ấy mà lại vẫn lửng lơ sẵn sàng từ bỏ nó ra đi. Có lẽ toàn bộ cuộc đời cũng chỉ là một cuộc chuẩn bị dài để từ bỏ nó mà thôi.”  Cảm giác vô nghĩa về thực tại, sự mất sạch những cảm xúc hiện sinh trở đi trở lại trong phần đầu tác phẩm càng được nhấn mạnh khi Max Morden kinh ngạc nhận ra rằng những gì anh ta hình dung từ thuở bé về tương lai của mình đã hoàn toàn đúng như những gì diễn ra; và cái hình dung đó thực ra là một khuôn mẫu sẵn có đã được vạch sẵn từ trước như một tinh thần xã hội, mà nếu tại thời điểm này cho anh ta chọn lại như thuở bé thơ chắc chắn cũng không thể có lựa chọn nào khác.  Khép lại một vòng luẩn quẩn của của tồn tại, nỗi đau đớn và cảm giác bất lực như những thứ duy nhất còn lại sau gần nửa thế kỷ tiêu phí và trải nghiệm cuộc sống, phần đầu tác phẩm cho người đọc hình dung những cố gắng gần như tuyệt vọng mà cảm động của con người khi bị nhồi lắc trên sóng biển vô minh, kiếm tìm một điểm đến của tinh thần, kiếm tìm điều khả dĩ có thể coi là bản lai diện mục.  Phần sau của tác phẩm, nhà văn đã để cho bạn đọc chùng lại nghỉ ngơi với việc kể nốt câu chuyện, những ham muốn tình dục đầu tiên của cậu bé Max Morden rất tự nhiên đúng lối gửi vào bà mẹ Grace đẫy đà phốp pháp đã nhanh chóng chuyển thành tình yêu đầu vụng dại với cô con gái Chloe. Cái chết vừa ngẫu nhiên bất ngờ vừa tự nguyện của Chloe và cậu em sinh đôi, vừa là chết thực vừa đùa bỡn với cái chết, đã gieo vào tâm trí cậu bé Max đang lớn còn chưa kịp khám phá trò chơi thân thể lần đầu tiên, ý niệm về sự tuyệt đối bất khả cưỡng của cái chết.  Cái chết của Anna, người vợ hiền sau đó chính là sự tước bỏ cuối cùng đối với Max Morden, vốn đã chẳng có nhiều nhặn gì những người thân ở bên, nhưng lại được sống qua một cuộc đời quá đỗi yên bình.  Giả định mà nhà văn đặt ra qua lời của Anna, mỗi con người chỉ được tạc nặn nên nhờ vào mối quan hệ của anh ta với những người khác, đã hoàn toàn đúng với Max. Tại sao anh không là những gì anh thích, mà lại cứ phải trở thành một người nào đó, như thế này hoặc như thế kia?  Câu hỏi của Anna dành cho Max cũng sẽ là câu hỏi cứ vấn vương trong tâm trí nhiều người, khi mà thực ra chúng ta cũng giống như Max, suốt đời là tù nhân của những ẩn ức, của những mất mát hay khiếm khuyết, của ham muốn được sống trưởng giả yên bình và của những cá nhân khác? Đặt ra câu hỏi này, nhưng chính nhà văn cũng là người hiểu rõ hơn hết, sự bất lực vô minh của con người trong thế giới đương đại trước hình dung về bản ngã chính mình.  Không có biến cố, hay nói cách khác là đã dìm kể cả những biến cố lớn như cái chết vào dòng chảy phẳng lặng của biển tồn tại muôn đời; không có thiện ác, có phần buông lơi cả trách nhiệm cá nhân; câu chuyện của Banville về đời sống bình thường, thậm chí tầm thường của một người đàn ông run rảy với bản năng sinh tồn, siêu hình và bế tắc trong kiếm tìm bản ngã, chính là ẩn dụ xác thực cho thời đại chúng ta đang sống.  *** John Banville sinh tháng 12 năm 1945 tại Wexford, Ireland. Cuốn sách đầu tiên của ông, Long Lankin, được xuất bản năm 1970. Các cuốn khác là Nightspawn, Birchwood, Doctor Copernicus (đoạt giải James Talt Black Meomorial Prize năm 1976), Kepler (đoạt giải Guardian Fiction Prize năm 1981), The Newton Letter, Mefisto, The Book of Evidence (lọt vào chung khảo Booker Prize năm 1989 và giành giải Guinness Peat Aviation Award), Ghosts, Athena, The Untouchable, Eclipse và Shroud. Hiện John Banville sống tại Dublin. John Banville được trao giải thưởng Franz Kafka năm 2011. Ông cũng viết tiểu thuyết tội phạm dưới bút danh Benjamin Black. Mời các bạn đón đọc Biển của tác giả John Banville.