Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dựa Lưng Nỗi Chết

Dựa lưng nỗi chết là thiên truyện thứ nhì sau Ải trần gian (1970), vẫn lấy đề tài quen thuộc với tác giả là chiến tranh. Tác phẩm gồm 7 chương và một đoạn kết nằm ngoài cấu trúc chung, những lần tái bản ở hải ngoại về sau còn thêm bài tựa của bạn văn Đào Vũ Anh Hùng[2]. Không khí trong truyện là cuộc Chiến tranh Việt Nam đang đà khốc liệt nhất, thế giới trong truyện là thế giới của đàn ông: Người lính, người trí thức trong cơn lửa loạn, người thanh niên bất mãn, nhà tu hành. Cái chết bi thảm của những người bị hệ tư tưởng chia rẽ đưa đến những dấu hỏi về khái niệm thuận nghịch và anh hùng. Rồi trong cảnh chiến tranh tương tàn, đâu là chỗ đứng của một nhà chân tu. Truyện của Phan Nhật Nam được dựng lên trong một không gian gắn thiết thân với tâm trạng của mỗi nhân vật. Sau cùng, thế giới cảm tính của tác giả dần được biểu lộ. Đây là truyện của ba người lính Nhảy Dù. Cả ba tham gia một cuộc hành quân miền Trung đã 78 ngày. Năm hết Tết sắp đến, họ có mặt ở Huế và không ngờ biến cố Mậu Thân sắp ập đến như cơn gió lốc. Minh và Lạc được nghỉ phép hai ngày. Minh về thăm nhà và dự lễ ăn hỏi người chị họ tên Quỳnh Như, anh bèn mời Thuấn lúc đó ở trong trại cùng đến dự cho thân. Quỳnh Như đính hôn với Bằng, nhưng khi gặp Thuấn, cô thốt mê anh đại úy gốc Bắc. Biết rằng rồi đây không còn gặp nhau nữa, Thuấn và Quỳnh Như vội lao vào nhau sống những giờ phút tột đỉnh của yêu đương. Sau đó Thuấn về trại, trong khi Minh ngụ khách sạn chờ Lạc đón vợ con ở Sài Gòn ra ăn Tết. Minh đem được chút nhu yếu phẩm đến cùng ăn Tết với Lạc. Đúng đêm giao thừa, quân miền Bắc tràn vào Huế, khắp đô thành ran súng đạn thay tiếng pháo bông. Minh giúp gia đình Lạc kịp trốn, còn mình sang nhà Quỳnh Như nương tạm. Bằng đã đoán biết tình cảm của Quỳnh Như với Thuấn nên nổi cơn ghen. Anh vốn sinh nhai bằng nghề dạy học, đồng thời sắp hoàn thành chứng chỉ Triết ở Viện Đại học Huế. Bằng chơi rất thân với đại đức Trí Không, người cũng ghi danh học ban Triết. Bằng theo Mặt trận Giải phóng đã được ít lâu, vừa thúc bách vừa đe dọa Trí Không để buộc nhà sư nhận dẫn đầu đoàn sinh viên Phật tử xuống đường biểu tình và xử dụng võ khí làm nội ứng cho bộ đội Việt Cộng. Trong những ngày Mậu Thân sôi sục, Bằng để ý thấy sự hiện diện của Minh và Lạc trong nhà Quỳnh Như. Nom anh thù ghét lính Cộng Hòa ra mặt, Trí Không có linh cảm rằng Bằng sẽ đi cáo giác hai người lính Nhảy Dù bị kẹt ở nội thành này nên tìm cách khuyên can. Cho tới khi biết Bằng rắp tâm hãm hại tới cùng, nhà sư đành ra tay hạ sát anh này, sau đó giúp Minh và gia đình Lạc chạy thoát. Phần Thuấn đem đại đội rút về phi trường Tây Lộc, tại đây xảy ra một trận tử thủ kinh hoàng. Khi Lạc và Minh về lại được tiểu đoàn, cả hai đều bị thương và kiệt sức. Hết chiến dịch, ba người bạn gặp lại nhau trong một bệnh xá Sài Gòn, chuẩn bị cho những ngày sắp tới. *** Dựa lưng nỗi chết của Phan Nhật Nam mang một nét buồn bã khó tả. Ừ, khi đang dựa lưng vào nỗi chết thì làm sao mà vui được. Nỗi buồn của Phan Nhật Nam là nỗi buồn khi nhìn đến cảnh nồi da xáo thịt, cảnh anh em giết nhau: “Nòng súng thượng liên Trung Cộng, tiểu liên Tiệp Khắc, súng báng đỏ của Nga, những cây súng ngoại quốc bắt đầu nhắm chiếc vòng đen sâu hun hút vào đám lính mang giày Nhật nón sắt Mỹ, M16. Những ngón tay Việt Nam chờ đợi trái tim Việt Nam đến gần hơn chút nữa. Chờ nhau hân hoan âm ỉ, chờ thản nhiên lạnh cứng.”   Câu chuyện xoay quanh ba người sĩ quan lính dù trong thời gian của biến cố Tết Mậu Thân ở Huế. Trong truyện còn có Bằng, vừa sống với nghề dạy học vừa theo học các chứng chỉ triết ở đại học. Ở đó Bằng quen với Đại Đức Trí Không cũng ghi tên học triết. Bằng theo Mặt trận giải phóng miền Nam, vừa gây áp lực vừa đe dọa Đại Đức Trí Không để buộc nhà sư nhận điều hành đoàn sinh viên Phật tử và sử dụng vũ khí trong biến cố Tết Mậu Thân. Truyện của Phan Nhật Nam không tô hồng, không anh hùng hóa như chính tác giả đã viết ở phần cuối: “Chỉ là câu chuyện giản dị của những người lính trong một thời gian dồn dập… Chuyện bình thường, phẳng phiu, không là bản anh hùng ca rực rỡ uy dũng, cũng không đậm nét bi thương làm đọng cứng linh hồn.”. Đọc Dựa lưng nỗi chết không thấy ánh hào nhoáng vinh quang, nó chỉ ghi lại cuộc sống đời thường của những người lính dù với những lo toan hết sức bình dân giản dị, với những buổi nhậu để mua vui hay để nhấn chìm nỗi buồn vào trong đó. Tôi thấy chính giá trị của tác phẩm này là ở đó, để những thế hệ sau này muốn biến đời lính thật sự ra sao, muốn cảm nhận cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn nó cay đắng tàn bạo đến mức nào. Các bạn hãy đọc đi, để hiểu thêm quá khứ một chút, một quá khứ chân thực, giản dị, không tô hồng. Nhưng chính vì vậy mà đó mới là sự thật. *** Tháng Mười, tháng của chuyển động hoài hoài giữa hai điểm ngất ngây đớn đau và hạnh phúc. Tháng của những lạnh tanh bất chợt cứng ngắc và nồng nhiệt tràn đầy thác đổ. Tháng của đỉnh cao và vực sâu. Tháng tiếng động núi lở và im lặng đáy biển. Năm tháng căng thẳng giữa hai điểm không cùng. Làm sao để sống? Giữa những buồn phiền tanh tưởi độc địa, người muốn tan đi theo cơn gió rã rời, trôi vào lượn sóng nhạt thếch vô tri… Bỗng nhiên xôn xao những ý tình rực rỡ, bỗng choáng váng giữa niềm tin chói sáng, như mặt trời khởi đầu những ngày hè ở cực Bắc… Sống thật khó. Khó những ngày lặng lẽ rơi xuống, sáng trưa chiều trôi đi như lá khô, lặng lẽ đốt thêm điếu thuốc, xòe bàn tay, tay nhiều chỉ, tay nát bấy. Chiến tranh sắp chấm dứt và bàn tay chiến đấu cũng đã mỏi mệt. Xếp hai bàn tay, mở hai ngón, kẹp lấy điếu thuốc, thở ra lớp khói tàn tạ. Nhưng tháng Mười không hoàn toàn như thế. Tháng Mười, đêm thức giấc mở đôi mắt chợt xoay người để thấy một tình yêu thần bí hiện rõ từng đường nét khối lượng. Một tình yêu có thật cho người. Nhưng tháng Mười trong lòng hạnh phúc vẫn có những đớn đau câm lặng không ngừng nghỉ – phút rình rập của định mệnh độc ác… Gần cái chết và hạnh phúc, thấy rõ thêm niềm phấn đấu để sống. *** Thuấn lái xe dọc theo con phố. Chiều thứ Bảy, người đông kín. Chiều thứ Bảy, thật lâu Thuấn không biết đến loại thời gian này. Thứ Bảy, Chủ nhật, thứ Hai, những ngày tháng phân biệt đó trôi đi không gợi lên sự chú ý. Sự nghỉ ngơi chỉ có được lúc đêm khuya, khi đại đội đã trả súng vào kho, lính đi ra cổng doanh trại để nghỉ phép sau cuộc hành quân… Nghỉ ngơi – Thuấn thật sự không có. Chỉ có những giờ ngồi trước ly rượu bên con sông, nhìn xuống khoảng sông đào chen chúc thuyền đậu. Những con đò xứ Huế, nặng nề, bề thế, chắc chắn cùng thú vui đẫm ướt dục tình được mở ra thoả thuê trong đêm. Thuấn, người lạ ở xa đến, người Bắc, quê hương xa khuất ở cuối trí nhớ, quê hương trên bát bún thang, chiếc ảnh hồ Hoàn Kiếm, cây cầu gỗ chênh vênh trên mặt nước lung linh vòng cây phượng. Quê hương được nhớ lại ở trang sách bất chợt trong đó nhắc đến dáng dấp của lão Tàu bán lạc rang, mụ Béo bán bánh tôm ở bờ hồ… Những hình ảnh thoáng qua như ngọn lửa đầu que diêm yếu ớt. Thuấn không nhớ nổi. Quê hương, một chốn không còn. Thuấn từ Sài Gòn đến đây theo chiến dịch, nửa đất nước đi qua, đi và đến từ hai tỉnh đối đầu của quê hương bị cắt. Thuấn đã khởi hành và đến hai cực điểm của một đau đớn vô hình. Huế, thành phố không giống một nơi nào đã đi qua. Pha trộn giữa e thẹn câm nín và xôn xao đột khởi cơn lặng lẽ, bỗng chốc thành giông bão, thành phố của dịu dàng như cảnh giấc mơ và tồi tàn luộm thuộm của đời ẩn ức. Thành phố của lãng mạn và bi phẫn. Thuấn ở Huế được ba tháng, thời gian của những cuộc hành quân ngắn hạn. Từ Huế đi về hướng Bắc, qua chiếc phà, con nước xanh rêu không sông, bên kia bờ sông luỹ tre mờ mịt sương giăng, sáng mùa đông im lìm không mặt trời, con gà nhỏ lông sũng nước cố rít lên tiếng gáy, tiếng gáy của loài gà tre nghe the thé phiền muộn. Quân qua sông, đổ bộ lên bến, cợn đất sét màu vàng ứa ra từ phiến đá khi chân người lính giẫmlên tản theo dòng nước. Lính đi băng qua những khu rừng trống ẩm ướt, chuối, thanh trà, ổi chen chúc đứng khép vào nhau trong im lặng nặng trĩu. Một trái bom vừa nổ, mảnh gang trắng ghim vào thân cây chuối ứa mủ, đống bẹ chuối tươi non nằm hỗn độn trên lớp đất bu nhiều tung tóe, đất dính từng tảng nhỏ trên phiến đá bầm dập như những hạt máu khô đọng trên cánh tay gãy. Mảnh gang của quả bom theo đà bay phá vỡ khoảng tường vôi để lộ phiến gạch tươi, màu đỏ thớ thịt sau nhát dao chưa kịp ứa máu. Ba tháng hay chính xác hơn bảy mươi ngày, Thuấn đi qua những căn nhà kỳ quái, nhà không vách, không cột, không nền. Nhà là căn hầm sát xuống đất, sâu hun hút lạnh lùng, tối thăm thẳm. Nắp hầm được đắp cao bằng đất cứng, chắc chắn như nấm mồ, trên mặt mồ vĩ đại đó người dân úp cái mái bằng lá gồi hay tranh và người ta chui từ hầm lên nhà, bò từ nhà xuống hầm, không ai có thể ngồi thẳng lưng trong loại nhà hoang tàn kỳ lạ này. Người dân ngồi cong lưng đầu kẹp giữa hai gối, người dân ngồi im lìm, trẻ con cũng không khóc, đứa trẻ đã mất thói quen được khóc, khóc vì đói, vì lạnh hay ẩm ướt nước tiểu. Đứa trẻ đã quen với bóng tối, quen im lìm nặng trĩu. Tiếng động chỉ có ở những cánh quạt trực thăng chém gió lượn vòng trên cây cau, hay tiếng nổ của quả đạn súng trọng pháo. Tiếng nổ và sự im lặng trì trợm đã làm tê giác quan đứa trẻ. Không còn tiếng khóc trẻ thơ trong xóm làng Thuấn đi qua. Thuấn đã đi qua một lần, hai lần, những lần sau không đếm được. Đi qua để thấy người dân vùng Thừa Thiên đâu đâu cũng chừng đó thế ngồi, cũng chừng đó lối hò, cũng những âm thanh rít lên khó nhọc, hiu hắt phiền phiền xô đẩy nhau trả lời khi người lính hỏi đến… "Da, dạ…" những tiếng dạ liên hồi mở đầu chen trong câu chuyện, nghe nhức nhối như vết thương nung mủ bị bóp vỡ giữa hai lưỡi dao kẹp chặt. Thế nhưng người dân vẫn tiếp tục sống. Thuấn cũng tiếp tục sống, tiếp tục sống để sau mỗi cuộc hành quân cùng với một lũ bạn chen chúc lên chiếc xe đi về thành phố như hôm nay… "Đi đâu bây giờ?" "Đi đâu?" Thuấn quay đầu sang nhìn Minh, kẻ vừa hỏi, giọng Huế phẳng lì như phiến lá mít. Thuấn ngừng xe, xoay hẳn người ra đằng sau "Đi đâu?" Sáu đôi mắt nhìn nhau không nói. "Hay đi uống cà phê?" Đề nghị rụt rè không thành hình khối. Lạc nói nhỏ. "Cà phê?" Minh hỏi cao giọng. "Tao đã uống sáng nay hai lần cà phê rồi, nhưng thôi, cà phê phát nữa cũng được. Thuấn xoay người trở lại, quanh xe về quán cà phê giữa thành phố. "Đến chỗ Lạc Sơn ngồi nhìn thiên hạ, chiều hôm nay thứ Bảy". Không có tiếng ai trả lời câu nói của Minh. Ba người ngồi quanh chiếc bàn, ba bàn tay khuấy tròn những chiếc muỗng quanh vành ly gây tiếng động dễ chịu trong không khí cứng đặc. "Tụi mình đi hành quân được ba tháng rồi". "78 ngày". "Sao mày nhớ kỹ vậy?" "Nên tao thích ngồi ở đây, nhìn những người gánh củi đi qua, xúc động lúc nhỏ tự nhiên trở về như sống lại thời gian trước". "Mày vớ vẩn thấy mẹ". Lạc vòng tay bó lấy đầu gối ngồi ưỡn người trên nệm xe. "Minh, mày leo lên ngồi với tao, ở đây đâu còn Quân Cảnh, ngồi đằng sau xe xóc, chết cái mông".   Mời các bạn đón đọc Dựa Lưng Nỗi Chết của tác giả Phan Nhật Nam.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tạ Ơn Thượng Đế
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tạ Ơn Thượng Đế của tác giả Jean Vautrin & Vũ Đình Phòng (dịch). Bức tranh thơ mộng này thuật lại cuộc đời của ba thế hệ người Cajun, những người tiên phong rời nước Pháp đến định cư ở Lousiana. Những nhân vật này rất mạnh mẽ, phóng khoáng, cực đoan: Edius Raqun, người tiên phong cứng đầu, bà vợ Bazelle và cô con gái Azeline. Rồi đến chàng rể tương lai, Farouche Ferraille Crowley, người sống ngoài vòng pháp luật. Còn cả Palestine Northwood, thủy thủ từ Nantucket, và còn nhiều nhân vật khác của câu chuyện bắt đầu ở những nhánh sông và kết thúc ở New Orleans, vào thời điểm nhạc jazz xuất hiện. Lối hành văn của tác giả mô phỏng thổ ngữ ở Lousiana. *** Giải Goncourt, giải thưởng văn học danh giá của nước Pháp, vừa được trao cách đây vài giờ cho tác giả Hervé Le Tellier với tác phẩm «L'anomalie», được xuất bản bởi Gallimard. Lần gần nhất nhà xuất bản này có sách đoạt giải Goncourt là vào năm 2016 với «Chanson Douce» (Người lạ trong nhà) của tác giả Leïla Slimani. --- Giải Goncourt (Prix Goncourt) là một giải thưởng văn học Pháp được sáng lập theo di chúc của Edmond de Goncourt vào năm 1896. Hội văn học Goncourt thành lập chính thức năm 1900 và giải đầu tiên được trao ngày 21 tháng 12 năm 1903. Giải Goncourt, được sáng lập để trao mỗi năm cho «tác phẩm văn xuôi xuất sắc nhất trong năm», nhưng hầu như chỉ trao cho tiểu thuyết. Nó là giải thưởng văn học Pháp được mong muốn nhất. Mặc dù tiền thưởng của giải chỉ là 10 euro, nhưng sự nổi tiếng mà Goncourt đem lại cho cuốn sách sẽ là một phần thưởng lớn thay thế. Các thành viên của viện Goncourt họp vào các thứ ba đầu tiên mỗi tháng trong phòng khách của họ tại tầng hai nhà hàng Drouant ở Paris (Place Gaillon, quận 2). Tên người được giải sẽ công bố ngày 3 tháng 11 sau bữa ăn trưa tại nhà hàng (Năm nay, do ảnh hưởng của Covid-19 nên thời gian công bố đã được lùi lại). Giải chỉ trao cho mỗi nhà văn một lần. Duy có Romain Gary năm 1956 nhận giải với tiểu thuyết «Racines du ciel» (Rễ trời) và năm 1975 nhận một giải nữa với «La vie devant soi» (Cuộc sống ở trước mặt), nhưng dưới bút danh Émile Ajar. --- Một số cuốn sách đoạt giải đã được xuất bản tại Việt Nam: 1905: Những kẻ văn minh (Les Civilisés) - Claude Farrère 1916: Khói lửa (Le Feu) - Henri Barbusse 1919: Dưới bóng những cô gái đương hoa (À l'ombre des jeunes filles en fleurs) - Marcel Proust 1933: Thân phận con người (La Condition humaine)- André Malraux 1936: Sự tha thứ muộn màng (L'Empreinte du dieu) - Maxence Van der Meersch 1948: Những gia đình cự tộc (Les Grandes Familles)- Maurice Druon 1951: Bờ biển Syrtes (Le Rivage des Syrtes) - Julien Gracq 1956: Rễ trời (Les Racines du ciel) - Romain Gary 1970: Chúa tể đầm lầy (Le Roi des aulnes) - Michel Tournier 1974: Cô thợ thêu (La Dentellière) - Pascal Lainé 1975: Cuộc sống ở trước mặt (La Vie devant soi) - Émile Ajar 1977: Câu chuyện New York (John l'Enfer) - Didier Decoin 1978: Phố những cửa hiệu u tối (Rue des Boutiques obscures) - Patrick Modiano 1984: Người tình (L'Amant) - Marguerite Duras 1985: Những cuộc hôn thú man dại (Les Noces barbares) - Yann Queffélec 1987: Đêm thiêng (La Nuit sacrée) - Tahar Ben Jelloun 1988: Triển lãm thuộc địa (L'Exposition coloniale) - Erik Orsenna 1989: Tạ ơn Thượng Đế (Un grand pas vers le bon Dieu) - Jean Vautrin 1990: Chiến trường vinh quang (Les Champs d'honneur) - Jean Rouaud 1991: Những người con gái dòng Chúa chịu nạn (Les Filles du Calvaire) - Pierre Combescot 1995: Di chúc Pháp (Le Testament français) - Andreï Makine 1996: Chiếc máy bay tiêm kích Zéro (Le Chasseur Zéro) - Pascale Roze 1997: Chiến trận (La Bataille) - Patrick Rambaud 1998: Nỗi niềm (Confidence pour confidence) - Paule Constant 1999: Tôi đi đây (Je m'en vais) - Jean Echenoz 2000: Ingrid Caven - Jean-Jacques Schuhl 2001: Brésil Đỏ (Rouge Brésil) - Jean-Christophe Rufin 2003: Người tình của Brecht (La Maîtresse de Brecht) - Jacques-Pierre Amette 2004: Mặt trời nhà Scorta (Le Soleil des Scorta) - Laurent Gaudé 2005: Ba ngày ở nhà mẹ (Trois jours chez ma mère) - François Weyergans 2006: Những kẻ thiện tâm (Les Bienveillantes) - Jonathan Littell 2007: Alabama Song - Gilles Leroy 2008: Nhẫn thạch (Syngué sabour. Pierre de patience) - Atiq Rahimi 2009: Ba phụ nữ can đảm (Trois femmes puissantes) - Marie NDiaye 2010: Bản đồ và vùng đất (La Carte et le Territoire) - Michel Houellebecq 2012: La Mã sụp đổ (Le Sermon sur la chute de Rome) - Jérôme Ferrari 2013: Hẹn gặp lại trên kia (Au revoir là-haut) - Pierre Lemaitre 2014: Không khóc (Pas pleurer) - Lydie Salvayre 2016: Người lạ trong nhà (Chanson douce) - Leïla Slimani 2017: Chương trình nghị sự (L'Ordre du jour) - Éric Vuillard   Mời các bạn mượn đọc sách Tạ Ơn Thượng Đế của tác giả Jean Vautrin & Vũ Đình Phòng (dịch).
Câu Chuyện New York
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Câu Chuyện New York của tác giả Didier Decoin & Viễn Nguyên (dịch). Didier Decoin sinh năm 1945, bắt đầu con đường cầm bút với nghề làm báo rồi trở thành nhà văn có tên tuổi ở Pháp. Năm 1995, Didier Decoin được bầu làm tổng thư ký Viện Hàn Lâm Goncourt. Tác phẩm mang tên "John l’Enfer" (John Địa Ngục) - qua bản dịch của chúng tôi - "Câu chuyện New York" - đã được giải thưởng Goncourt năm 1977. Một nhà phê bình văn học viết trên báo Aurore bấy giờ đánh giá: “... Đối với tôi, đó là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất tôi đã đọc trong mùa ấy”. Dịch giả Viễn Nguyên​ *** Didier Decoin viết nhiều truyện dài và kịch bản đã chuyển thành phim. "Khi chiếc xe tải của hãng truyền hình NA đến hiện trường xảy ra tai nạn, đám đông đã tự động tản ra làm hai nhóm; trên lề đường nhốn nháo, ồn ào như thể một đàn ong vỡ tổ. Những người được "may mắn" chứng kiến tận mắt tai nạn - đứng hơi lùi về phía sau. Nhóm những kẻ chạy đến quá muộn đứng gần hơn, bàn tán dựng lại cảnh bi thảm bên chỗ nạn nhân nằm. Họ ước đoán những cơ may sống sót và đưa ra các lời khuyên: "Có thể y bị trật khớp, có phần dập nát" "Đừng đụng vào y, cứ như thế chờ cảnh sát cơ động đến; không được di chuyển, không được cởi mũ y ra." "Máu chảy từ các lỗ mũi thì đó là dấu hiệu xấu rồi! Sao không gập một chiếc áo vét-tông đặt dưới gáy kẻ khốn khổ ấy?"... Còi ôtô cảnh sát New York rú lên từ xa, phía đầu công viên Row, gió nóng hầm hập thổi, uốn cong các cần ăng-ten mềm dẻo."... Tác phẩm này mang tên John l'Enfer (John Địa Ngục) - qua bản dịch của Nhà xuất bản Lao Động - "Câu Chuyện New York" - đã được giải thưởng Goncourt năm 1977. Xin trân trọng giới thiệu. *** TÓM TẮT Câu Chuyện New York là một tiểu thuyết của nhà văn Didier Decoin, được xuất bản năm 1977 và giành giải thưởng Goncourt. Truyện kể về cuộc đời của John, một thanh niên người Pháp sinh ra ở New York. John là một đứa trẻ mồ côi, được một gia đình người Pháp nhận nuôi khi còn nhỏ. Anh lớn lên ở Pháp, nhưng luôn cảm thấy mình là người xa lạ ở đất nước này. Sau khi tốt nghiệp đại học, John quyết định trở về New York để tìm kiếm nguồn gốc của mình. Anh bắt đầu cuộc sống ở thành phố này với tư cách là một nhà văn. Tại New York, John gặp gỡ nhiều người, từ những người nghèo khổ đến những người giàu có, từ những người thành đạt đến những người thất bại. Anh bắt đầu hiểu được sự phức tạp và đa dạng của thành phố này. John cũng bắt đầu khám phá quá khứ của mình. Anh tìm hiểu về cha mẹ đẻ của mình, về những người đã nuôi nấng anh và về những người đã ảnh hưởng đến cuộc đời anh. Trải qua những trải nghiệm ở New York, John bắt đầu tìm thấy chính mình. Anh trở thành một người đàn ông trưởng thành, có bản sắc riêng. Nhân vật John: Nhân vật chính của truyện. Anh là một người đàn ông trẻ tuổi, đang tìm kiếm bản thân và nguồn gốc của mình. Madame de Saint-Sauveur: Bà là người phụ nữ đã nuôi nấng John khi còn nhỏ. Bà là một người phụ nữ giàu có và quyền lực, nhưng cũng rất yêu thương John. Monique: Một cô gái người Pháp mà John yêu. Cô là một người phụ nữ xinh đẹp và thông minh, nhưng cũng rất bí ẩn. Larry: Một người đàn ông người Mỹ mà John gặp ở New York. Anh là một người đàn ông thành đạt và phóng túng, nhưng cũng rất tốt bụng. Cốt truyện Câu Chuyện New York là một tiểu thuyết về sự tìm kiếm bản thân và nguồn gốc. Truyện kể về cuộc đời của John, một thanh niên người Pháp sinh ra ở New York. Anh lớn lên ở Pháp, nhưng luôn cảm thấy mình là người xa lạ ở đất nước này. Sau khi tốt nghiệp đại học, John quyết định trở về New York để tìm kiếm nguồn gốc của mình. Tại New York, John gặp gỡ nhiều người, từ những người nghèo khổ đến những người giàu có, từ những người thành đạt đến những người thất bại. Anh bắt đầu hiểu được sự phức tạp và đa dạng của thành phố này. John cũng bắt đầu khám phá quá khứ của mình. Anh tìm hiểu về cha mẹ đẻ của mình, về những người đã nuôi nấng anh và về những người đã ảnh hưởng đến cuộc đời anh. Trải qua những trải nghiệm ở New York, John bắt đầu tìm thấy chính mình. Anh trở thành một người đàn ông trưởng thành, có bản sắc riêng. Đánh giá Câu Chuyện New York là một tiểu thuyết xuất sắc của Didier Decoin. Truyện có một cốt truyện hấp dẫn, những nhân vật được xây dựng tốt và một thông điệp nhân văn sâu sắc. Truyện kể về một câu chuyện tìm kiếm bản thân và nguồn gốc. Truyện đã khắc họa một cách chân thực và cảm động hành trình của John trong việc tìm kiếm chính mình. Truyện cũng đã gửi gắm một thông điệp nhân văn sâu sắc về sự trưởng thành và tìm thấy bản thân. Review Câu Chuyện New York là một cuốn tiểu thuyết rất đáng đọc. Truyện có một cốt truyện hấp dẫn, những nhân vật được xây dựng tốt và một thông điệp nhân văn sâu sắc. Dưới đây là một số điểm nổi bật của truyện: Cốt truyện hấp dẫn: Truyện kể về một câu chuyện tìm kiếm bản thân và nguồn gốc. Cốt truyện của truyện được xây dựng một cách logic và chặt chẽ, với nhiều tình huống bất ngờ và hấp dẫn. Nhân vật được xây dựng tốt: John là một nhân vật được xây dựng rất tốt. Anh là một người đàn ông trẻ tuổi, có tính cách phức tạp và đa dạng. Những nhân vật khác trong truyện cũng được xây dựng rất tốt, với những tính cách và số phận riêng. Thông điệp nhân văn sâu sắc: Truyện gửi gắm một thông điệp nhân văn sâu sắc về sự trưởng thành và tìm thấy bản thân. Truyện cho thấy rằng, mỗi người cần phải trải qua những thử thách và trải nghiệm để có thể tìm thấy chính mình. Nếu bạn đang tìm kiếm một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và ý nghĩa thì đây chính là cuốn sách dành cho bạn. Mời các bạn mượn đọc sách Câu Chuyện New York của tác giả Didier Decoin & Viễn Nguyên (dịch).
Bài Ca Núi Anpơ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Bài Ca Núi Anpơ của tác giả Vasil Bykov & Văn Phú (dịch).   Nhiều thế hệ các nhà văn Xô-viết đã khai thác đề tài về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩđại, soi rọi nó từ nhiều góc độ khác nhau, và đã tạo nên những tác phẩm xuất sắc của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa viết về chiến tranh. Sau Phađêep. Erenbua, Sôlôkhốp, Ximônốp, v.v… những năm gần đây độc giả Xô-viết đánh giá cao các tác phẩm của Bônđarep, Tsakopxky, Bưcốp... và một loạt các tác giả trẻ khác. Trong lớp nhà văn kể trên, Vaxin Bưcốp, người Bieldrutxia (Bạch Nga), có một vị trí đặc biệt, và sở trường về truyện vừa. Ông đã được thưởng Huân chương Sao đỏ. Sinh năm 1924 ở Vilepcko, Bưcốp đã bước vào tuổi 18 đồng thời với cuộc chiến tranh khốc liệt chống phát xít. Cả thời thanh niên, Bưcốp đã lăn lộn trong chiến hào, và dấu ấn của những cuộc chiến đấu ấy còn in đậm suốt đời trong sáng tác của ông. Bản thân Bưcốp đã từng bị thương nặng, ngất lịm lâu đến nỗi đã được xếp vào hố chôn cùng với những người hy sinh, nhưng may mắn sao, ông đã tỉnh lại và được đưa về cứu chữa. Có lẽ vì thế, những trang miêu tả chiến đấu trong tác phẩm của ông hết sức chân thật, nóng bỏng. Ông không bao giờ nhìn chiến tranh bằng con mắt tĩnh tại, hoặc muốn đơn giản hóa hiện thực. Không phải ngẫu nhiên, nhà phê bình văn học E. Xi-Đôrốp đã viết: «Tất cả các tác phẩm của V. Bưcốp đều được soi rọi trong một ảnh sáng chân lý khốc liệt mang tính bi kịch: Có những giờ phút lịch sử mà con người chỉ có thể bảo tồn và xác định được những gì còn là chất người ở trong mình bằng cách trả giá cao nhất. đó là hy sinh mình hẳn về thể chất, để tạo nên được một chiến công!». Và chính Vaxin Bưcốp cũng đã phát biểu quan niệm sau đây về sáng tác của mình: «Điều trước tiên và chủ yếu mà tôi quan tâm là hai yếu tố đạo đức, có thể thâu tóm đơn giản như sau: Con người là gì khi đứng trước sức mạnh hủy diệt của một hoàn cảnh phi nhân đạo? Con người có năng lực làm được gì, khi mọi khả năng giành quyền sống đã bị vắt kiệt đến tận đáy? ...». Như vậy, đối với ông, cái kết cục cuối cùng của nhân vật không quan trọng bằng ý thức chủ đạo của con người hành động, con người tự vượt lên khỏi hoàn cảnh tưởng như không lối thoát của mình. Do quan niệm như vậy, Bưcấp không ngần ngại đầy nhân vật của mình vào những thử thách thắt nút, đến mitc, mọi giá trị tinh thần, đạo đức phải được phơi bày đến đây. Lúc bình thường, những nhân vật của Bưcốp không hề là những người xuất sắc hoặc có tính cách gì đặc biệt, thậm chí còn khá nhiều yếu điểm, khuyết điểm. Nhưng khi linh cách của họ được tôi luyện qua hoàn cảnh chiến đấu, họ trở nên mạnh mẽ, cao thượng, và sẽ tới lúc, họ làm nên những kỳ tích phi thường, đến chính họ cũng không ngờ. Đó là chủ kiến của Bucop về con người bình thường, – có thể nói là lầm thường. Tính bi kịch cũng là nét nổi bật trong các tác phẩm của Bưcốp. Hầu như tác phẩm của ông cũng mang đậm tính bi kịch: Từ Tiếng bầy sếu kêu (1960) đến Phát tên lửa thứ ba (1962)— tác phẩm đã gây ra khá nhiều tranh cãi về phẩm chất con người Xô-viết – đến Bài ca núi Anpơ (1964)— một mối tình quốc tế cảm động của những người tù - rồi tới Điểm cao đáng nguyền rủa (1968). Xốtnhicốp (1970). Đài kỷ niệm (1976), chất là kịch trong những tình huống mà nhân vật phải trải qua, càng ngày càng đậm, và làm người đọc phải suy nghĩ sâu sắc. Nhưng, ưu điểm của Bưcốp là ở chỗ tính bi kịch này không làm yếu con người trong tác phẩm của ông. Nó chỉ càng thúc đẩy con người vươn lên. Tới những tính cách mạnh mẽ, những quyết định quả cảm, và vì thế nó có tinh chất tích cực, tính chất tiến công. Nói khác đi, nó đẩy nhân vật của Bưcốp vươn tới chủ nghĩa anh hùng ngay cả trong điều kiện không thuận lợi nhất. Trong cuộc chiến đấu vừa với nội tâm, vừa với ngoại cảnh ấy, không một người nào được quyền sống vô ích và chết vô ích. Mỗi cá nhân phải trả lời trước tập thể, trước cả lịch sử nữa, về những hành động của mình, dù anh ta ở trong một hoàn cảnh biệt lập đi chăng nữa. Anh ta phải vận dụng mọi ý chí, kinh nghiệm, xử trí mọi quan hệ theo lương tâm và trách nhiệm cao nhất của mình. Chính đó là nét đặc trưng trong nhân vật của Bưcốp, mà nhà lý luận mỹ học V. Borep gọi là “tính tích cực lạc quan trong nhân vật bi kịch, đẩy vọt nhân vật lên tới tầm vóc tiến công”. Giới thiệu hai truyện vừa của V. Bưcốp được dư luận Liên Xô khá chú ý là Bài ca núi Anpơ và Phát tên lửa thủ ba( 1), chúng tôi mong giới thiệu thêm với bạn đọc Việt Nam một phong cách viết về chiến tranh, về chủ nghĩa anh hùng thầm lặng của người chiến sĩ, không phải trong chiến thắng vẻ vang, mà ngay trong những giây phút khó khăn, nặng nề, thậm chí tạm thời thất bại; giây phút mỗi người phải đối mặt với sự hy sinh và cái chết, tự đấu tranh với bản thân để giữ được và phát huy những gì cao đẹp, trong sáng nhất trong mình. NHÀ XUẤT BẢN TÁC PHẨM MỚI *** TÓM TẮT Bài ca núi Anpơ là một truyện vừa của nhà văn Vasil Bykov, được xuất bản năm 1964. Truyện kể về câu chuyện tình yêu giữa hai người tù chiến tranh, một người Nga và một người Đức, tại một trại tù ở dãy núi Anpơ. Nhân vật Nikolai Kovaliov: Một người lính Hồng quân bị bắt làm tù binh. Anh là một người đàn ông mạnh mẽ và kiên cường, nhưng cũng rất tình cảm. Inga: Một cô gái Đức bị bắt làm tù binh. Cô là một người phụ nữ xinh đẹp và dịu dàng, nhưng cũng rất kiên cường và dũng cảm. Cốt truyện Kovaliov và Inga gặp nhau trong một trại tù ở dãy núi Anpơ. Họ nhanh chóng bị thu hút bởi nhau, nhưng tình yêu của họ gặp phải rất nhiều khó khăn. Họ phải đối mặt với sự thù địch của những tù nhân khác, những người không muốn nhìn thấy một người Đức và một người Nga yêu nhau. Họ cũng phải đối mặt với sự nghi ngờ của chính bản thân mình, khi họ không thể tin rằng một người như họ có thể yêu một người như người kia. Dù vậy, tình yêu của họ vẫn vượt qua mọi thử thách. Họ đã cùng nhau vượt qua những ngày tháng khó khăn trong trại tù, và họ đã cùng nhau trốn thoát. Họ đã đến được một vùng đất tự do, nơi họ có thể sống cùng nhau và xây dựng một tương lai mới. Tính bi kịch Bài ca núi Anpơ là một truyện ngắn mang đậm tính bi kịch. Tình yêu của Kovaliov và Inga phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, và họ đã phải hy sinh rất nhiều để được ở bên nhau. Họ đã phải rời bỏ quê hương, gia đình và bạn bè của mình. Họ cũng đã phải đối mặt với sự thù địch của những người khác. Tuy nhiên, tính bi kịch trong truyện cũng không làm giảm đi sức hấp dẫn của nó. Tình yêu của Kovaliov và Inga là một tình yêu đẹp và cao thượng, và nó đã vượt qua mọi thử thách để tồn tại. Đánh giá Bài ca núi Anpơ là một truyện ngắn xuất sắc của Vasil Bykov. Truyện đã khắc họa một cách chân thực và cảm động câu chuyện tình yêu giữa hai người tù chiến tranh. Truyện cũng đã thể hiện được sức mạnh của tình yêu, khi nó có thể vượt qua mọi thử thách. Review Bài ca núi Anpơ là một truyện ngắn rất đáng đọc. Truyện có một cốt truyện hấp dẫn, những nhân vật được xây dựng tốt và một thông điệp nhân văn sâu sắc. Truyện sẽ mang đến cho bạn những cảm xúc sâu lắng và những suy ngẫm về tình yêu, chiến tranh và con người. Dưới đây là một số điểm nổi bật của truyện: Cốt truyện hấp dẫn: Truyện kể về một câu chuyện tình yêu giữa hai người tù chiến tranh, một người Nga và một người Đức. Chuyện tình của họ gặp phải rất nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng họ đã vượt qua tất cả và được ở bên nhau. Nhân vật được xây dựng tốt: Kovaliov và Inga là hai nhân vật được xây dựng rất tốt. Họ là những người có tính cách mạnh mẽ, kiên cường và tình cảm. Thông điệp nhân văn sâu sắc: Truyện gửi gắm một thông điệp nhân văn sâu sắc về tình yêu, chiến tranh và con người. Tình yêu có thể vượt qua mọi thử thách, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Nếu bạn đang tìm kiếm một truyện ngắn hấp dẫn và ý nghĩa, thì Bài ca núi Anpơ là một lựa chọn tuyệt vời. *** Điều trước tiên và chủ yếu mà tôi quan tâm là hai yếu tố đạo đức, có thể thâu tóm đơn giản như sau: Con người là gì, khi đứng trước sức mạnh hủy diệt của một hoàn cảnh phi nhân đạo? Con người có năng lực làm được gì, khi mọi khả năng giành quyền sống đã bị vắt kiệt đến tận đáy?... V. BƯCỐP Những năm gần đây độc giả Xô Viết đánh giá cao các tác phẩm của Bondarep, Tsakopxky, Bưcốp… Trong lớp nhà văn kể trên, Vaxin Bưcốp, người Biêlðrutxia (Bạch Nga), có một vị trí đặc biệt và sở trường về truyện vừa. Ông đã được thưởng Huân chương Sao đỏ. Sinh năm 1924 ở Vitepxkơ, Bưcốp đã bước vào tuổi 18 dòng thời với cuộc chiến tranh khốc liệt chống phát xít. Cả thời thanh niên, Bucốp đã lăn lộn trong chiến hào, và dấu ấn của những cuộc chiến đấu ấy còn in đậm suốt đời trong sáng tác của ông. Có lẽ vì thế, những trang miêu tả chiến đấu trong tác phẩm của ông hết sức chân thật, nóng bỏng. Ông không bao giờ nhìn chiến tranh bằng con mắt tĩnh tại, hoặc muốn đơn giản hóa hiện thực. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Trong số đó nổi bật nhất là những cuốn: Tiếng bầy sếu kêu (1960), Phát tên lửa thứ ba (1962), Bài ca núi Anpơ (1964), Điểm cao đáng nguyền rủa (1968), Xôtnhicốp (1970), Đài kỷ niệm (1976)...   GIÁ: 17 Đ Mời các bạn mượn đọc sách Bài Ca Núi Anpơ của tác giả Vasil Bykov & Văn Phú (dịch).
Bờ Biển Syrtes
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Bờ Biển Syrtes của tác giả Julien Gracq & Hoàng Phong (dịch). Kể về 1 chàng trai quý tộc, chán cảnh sống nhàn rỗi vô bổ ở đô thành, tình nguyện lĩnh chức vụ tại một vùng biển xa xôi heo hút để lánh mình. Một mối tình trên một thành phố hoang tàn đầy những ồn ào về số phận một công quốc cổ hủ cằn cỗi, sức tàn lực tận vẫn còn ngoan cố hiếu chiến, bám giữ hận thù... *** JULIEN GRACQ (bút danh của Louis Poirier) sinh năm 1910, mất năm 2007, là nhà giáo, nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình tiểu luận và nhà viết kịch Pháp. Song song với việc dạy học, ông theo đuổi sự nghiệp văn chương, và tên tuổi bỗng vang rộng bởi việc ông khước từ Giải Goncourt năm 1951 tặng thưởng tập tiểu thuyết được nhiều nhà phê bình coi là lộng lẫy và phong phú mà các bạn đang có trong tay : Le Rivage des Syrtes (Bờ biển Syrtes). Ông không nhận giải thưởng vì sự khí khái của người trí giả và ý muốn không chấp nhận mọi ràng buộc đối với nhà văn, nhất là không để biến văn chương thành thương phẩm. Người ta thường so sánh việc này với việc Jean Paul Sartre khước từ Giải Nobel năm 1964, coi đó là hai sự kiện mẫu mực của các nhà văn Pháp. Dịch giả Hoàng Phong​ *** Tóm tắt Bờ Biển Syrtes là một tiểu thuyết kể về câu chuyện của một chàng trai quý tộc trẻ tên là Azel, người chán ngán cuộc sống nhàn rỗi vô bổ ở đô thành, tình nguyện lĩnh chức vụ tại một vùng biển xa xôi heo hút để lánh mình. Tại đây, Azel gặp gỡ và yêu một cô gái tên là Isolde, một cư dân của thành phố hoang tàn Syrtes. Isolde là một người phụ nữ thông minh, sắc sảo và có tính cách mạnh mẽ. Cô là một trong số ít người dân Syrtes vẫn còn hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn cho công quốc. Tình yêu của Azel và Isolde là một mối tình đầy trắc trở. Họ phải đối mặt với sự phản đối của gia đình Azel, sự thù địch của người dân Syrtes và những hiểm nguy của vùng biển xa xôi. Cuối cùng, Azel và Isolde quyết định rời bỏ Syrtes để tìm một nơi mới để bắt đầu lại. Họ rời đi trong sự tiếc nuối của những người dân Syrtes, những người đã nhìn thấy ở họ một hy vọng cho tương lai của công quốc. Review Bờ Biển Syrtes là một tiểu thuyết mang đậm chất biểu hiện. Tác phẩm sử dụng ngôn ngữ tượng trưng và hình ảnh giàu tính thẩm mỹ để kể câu chuyện về một mối tình đầy trắc trở và một công quốc đang dần lụi tàn. Tình yêu của Azel và Isolde là một mối tình tượng trưng cho sự gặp gỡ giữa hai thế giới khác biệt. Azel đại diện cho thế giới của sự giàu sang và quyền lực, trong khi Isolde đại diện cho thế giới của sự nghèo khó và bất công. Công quốc Syrtes là một biểu tượng cho sự suy tàn của một thế giới cũ. Công quốc này đã từng là một cường quốc hùng mạnh, nhưng nay đang dần lụi tàn dưới sự cai trị của một chính quyền độc tài. Bờ Biển Syrtes là một tác phẩm giàu tính triết lý. Tác phẩm đặt ra những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống, về sự tồn tại của tình yêu và về tương lai của thế giới. Đánh giá Bờ Biển Syrtes là một tiểu thuyết xuất sắc của Julien Gracq. Tác phẩm là một sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật và triết học. Bờ Biển Syrtes là một tác phẩm đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến văn học hiện đại. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Ngôn ngữ tượng trưng và hình ảnh giàu tính thẩm mỹ Câu chuyện về một mối tình đầy trắc trở Biểu tượng cho sự suy tàn của một thế giới cũ Giàu tính triết lý Đối tượng phù hợp: Những người yêu thích văn học hiện đại Những người quan tâm đến triết học Những người thích những câu chuyện tình yêu đầy trắc trở Mời các bạn mượn đọc sách Bờ Biển Syrtes của tác giả Julien Gracq & Hoàng Phong (dịch).