Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trại Súc Vật

Đối với một số bạn đọc Việt Nam cái tên George Orwell có lẽ khá xa lạ vì sau 1975 hình như không có cuốn nào của tác giả này được xuất bản, tuy nhiên với một lượng người đọc khác, đây là một cái tên cực kì quen thuộc và nổi tiếng, đặc biệt là với các kiệt tác 1984 hay Trại súc vật,v.v… Ở đây tôi sẽ chỉ nói tới Trại súc vật (Animal Farm). Trại súc vật là một tác phẩm hầu như luôn có tên trong nhiều bảng xếp hạng sách từ các trang uy tín trên thế giới, thật ra đó là một cuốn sách nhỏ, tôi đọc nó chỉ trong vòng vài giờ. Câu chuyện bắt đầu ở Điền Trang của ông Jones, một ngày kia con lợn già mang tên Thủ Lĩnh quyết định kể cho mọi loài vật có mặt trong trang trại về một giấc mơ của nó. Giấc mơ ấy kể về một thế giới không có loài người, nơi đó chỉ có các loài gia súc, gia cầm cùng nhau chăm chỉ làm việc và hưởng thụ thành quả lao động của mình trong một sự bình đẳng tuyệt đối. Sau khi con lợn này chết đi, lũ lợn còn lại (được xem là giống loài thông minh) đã cùng các loài thú khác như ngựa Chiến sĩ, ngựa Bà Mập, con dê Muriel, lũ chó, mèo, … soạn ra cương lĩnh họat động, tiến đến khởi nghĩa “vũ trang”, sử dụng bạo lực cách mạng lật đổ ách thống trị của ông chủ. Thời cơ đến, khởi nghĩa thắng lợi vang dội, ông Jones cùng những người làm công bị đánh đuổi khỏi trang trại. Từ đây, những con vật dưới sự dẫn đường của lũ lợn bắt đầu thời kì tự do với Bảy điều răn được dùng làm cương lĩnh hoạt động : BẢY ĐIỀU RĂN 1. Tất cả các loài hai chân đều là kẻ thù. 2. Tất cả các loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. 3. Không con vật nào được mặc quần áo. 4. Không con vật nào được ngủ trên giường. 5. Không con vật nào được uống rượu. 6. Loài vật không được giết hại lẫn nhau. 7. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng. Với một tư tưởng tiến bộ như vậy, Điền Trang được đổi tên thành Trại súc vật (Animal farm), mọi loài vật đều ra sức làm việc gấp bội lần hơn trước vì từ đây là chúng lao động cho bản thân, cho con cái mình chứ không còn vì loài người tham lam, không biết làm chỉ biết hưởng. Nhưng, tất cả không chỉ dừng ở đó. Thời gian qua đi, nhiều, nhiều chuyển biến diễn ra, tưởng như thảy đều hợp lý, đều vì lý tưởng ban đầu, đều vì lợi ích chung của muôn loài. Cho đến khi hết truyện, người đọc cũng như các con vật “thường dân” trong truyện đều không khỏi ngỡ ngàng khi bảy điều răn năm xưa giờ đây chỉ còn một điều duy nhất : “MỌI CON VẬT SINH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG, NHƯNG CÓ MỘT SỐ CON BÌNH ĐẲNG HƠN NHỮNG CON KHÁC.” Đây là một tác phẩm chứa nhiều tầng nghĩa của George Orwell, với lối văn phong tự nhiên giản dị. Chuyện chỉ xảy ra trong phạm vi một trang trại nước Anh với nhân vật là các thứ lợn, bò, ngựa, chim chóc, cừu, dê… thế nhưng tác phẩm lại phản ánh thực tế một cách sâu sắc. Trong suốt câu chuyện, tác giả không lần nào áp đặt suy nghĩ của mình lên người đọc nhưng tự bản thân Trại súc vật, như bất kì tác phẩm văn học xuất sắc nào khác, tự thân nó đã có thể thể hiện rõ thông điệp của mình. Trại súc vật kết thúc với một câu văn rất thú vị : “Chúng (bọn súc vật) nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi lại nhìn lợn, một lúc sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn nữa.” Và một chi tiết khác làm nên giá trị của Trại súc vật chính là tính tiên đoán của nó thể hiện sự tinh tường hiếm có của George Orwell đối với đời sống chính trị xã hội. Đọc cuốn sách này tôi có thể tin chắc rằng những người đọc Việt Nam sẽ cảm thấy vô cùng, vô cùng thú vị, cho dù, nó được viết từ năm 1944, cách đây đã hơn 60 năm. Các bạn có thể tin rằng, không phải tự nhiên mà hàng loạt bảng xếp hạng uy tín về sách lại chọn Trại súc vật là một trong những cuốn sách nên đọc của mọi thời đại. *** Hỡi các đồng chí, đoán xem trong tiếng Việt có bao nhiêu bản dịch cuốn “Animal Farm” của George Orwell? Hôm nay nhà Z xin có một bài tổng hợp liệt kê các bản. Những thông tin và ảnh bìa dùng cho bài viết này, được lấy từ sachxua.net, và được các anh VHT, NTT, NH… cho biết thêm. Xin đội ơn các anh. Hôm nay nhà Z mò lên goodreads mới biết hóa ra “Animal Farm” lại hot đến vậy, gần 2 triệu lượt ratings. Từng và luôn được coi là một ví dụ kinh điển cho thứ nghệ thuật phương Tây chống Cộng, George Orwell bị chính thức cấm ở Việt Nam suốt từ 1975 tới tận hiện nay (hẳn nhiên ông cùng nằm trong danh sách đen của chính phủ cùng với Arthur Koestler và Aleksandr Solzhenitsyn cùng nhiều đồng chí khác nữa). Chỉ một lần duy nhất trong suốt bao năm tháng đằng đẵng ấy, Orwell xuất hiện chớp nhoáng với một bản in chính thức hồi 2013. Còn lại toàn bộ thời thanh xuân của chàng ở Việt Nam nằm ở dạng xuất bản ngầm. Và xin trả lời cho câu hỏi trên, có tổng cộng 6 bản dịch “Animal Farm” trong tiếng Việt. Cuộc cách mạng trong trại súc vật Người dịch: không ghi NXB: không ghi Tít phụ của sách: Trích trong truyện Thần-thoại của George Orwell Bản dịch tác phẩm của Orwell đến Việt Nam sớm hơn chúng ta tưởng rất rất nhiều. Khoảng cách giữa năm xuất bản bản gốc tiếng Anh “Animal Farm” vào năm 1945 và bản dịch đầu tiên ở ta là Bản dịch đầu tiên này xuất hiện vô cùng bí hiểm với các thông tin về người dịch và nhà xuất bản đều bị lược bỏ. Nó xuất hiện vào năm nào cũng không ai hay. Nhưng bên trong sách có một lời đề tặng, Xuân Nhâm Thìn 52, vậy chứng tỏ nó đã được dịch và xuất bản trước năm 1952. Chỉ có một thông tin duy nhất về nhà in cuốn sách này: nhà in I.D.E.O: IMPRIMERIE D’EXTREME-ORIENT, 1 Rudyard-Kipling SAIGON. Nhà in Viễn Đông đặt trụ ở đường Nguyễn Siêu Sài Gòn khi đó, có trụ sở chính ở Hà Nội, tọa lạc ngay chính tòa nhà 6 tầng từng là trụ sở của báo Nhân Dân mà nay là Trung tâm văn hóa Pháp L’escape ở Tràng Tiền. Nào, thế ai đã tiến hình dịch và in cuốn sách này? Hẳn nhiên là ai mà biết được, và nếu có thì chỉ là giả thuyết, không thể chứng minh. Tuy nhiên, càng đọc bản dịch “Cuộc cách mạng trong trại súc vật,” càng có cảm giác nó được dịch ra với một mục đích hẳn hòi: tuyên truyền chống phá ???? Phải nói ngay và luôn, đây là một bản dịch tuyệt vời: mình đã đọc tổng cộng 3 bản dịch “Animal Farm” thì đây là bản uyển chuyển, tự nhiên, đâu ra đấy nhất. Dịch giả đã kể lại câu chuyện “thần thoại” của Orwell bằng thứ tiếng Việt giàu có, và rất phù hợp với những năm 1950 của thế kỷ trước, nhưng rất nhiều chi tiết đã bị lược bỏ, nhằm tạo ra hiệu ứng: một câu chuyện thần thoại gắn liền với dân tộc và đất nước Việt Nam. Cụ thể như sau: nếu ai đọc các bản dịch của Phạm Nguyên Trường và An Lý, đều biết câu chuyện này xảy ra ở Nông trang ở nước Anh. Từ tên các địa danh, các nhân vật, các lời kêu gọi, đều là hướng tới “Súc vật Anh” và các chi tiết liên quan tới toàn cõi Anh. Bản dịch đầu tiên đều lần lượt lược bỏ các từ chỉ định ấy, và Việt hóa hoàn toàn các tên riêng sang tiếng Việt, cũng như những thứ cần thiết khác. Chẳng hạn: Thay vì có chủ trại Jones ở Nông trang thì ta có ông chủ Dương Lâm ở trại Mai Nương, thay vì có Thủ Lĩnh hay Trưỡng Lão (Old Major) con lợn già đầu tiên kể về giấc mơ của mình, ta có cụ Mạc Niên, thay vì Tuyết Cầu và Nã Phá Luân (Snowball- Tuyết Tròn và Napoleon) ta có Minh Chư và Xích Chư… Quan trọng hơn, không một chi tiết nào trong bản dịch khiến người đọc có thể thấy được đây là nước Anh mà toàn bộ chỉ là đất nước, là toàn quốc: thay vì vào làng Willingdon, ông chủ đi ra TỈNH LỴ. Không gian địa lý được thay đổi hoàn toàn, câu chuyện thần thuộc ấy xảy ra ở một nông trang được tạo ấn tượng như ở Việt Nam, và các không gian ngoài kia đều được coi là đi ra ngoài tỉnh. Chính vì thế, bài hát đầu tiên các con vật hát không phải là “Cầm thú Anh Quốc” mà là “Súc vật Toàn Quốc”, và lời hiệu triệu các con vật là lời hiệu triệu “Toàn Quốc”, nước Anh trở thành “đất nước chúng ta”. Những chi tiết nhỏ nhặt được thay đổi như vậy, là một cách Việt hóa tương đối quen thuộc, được thực hiện một cách hệ thống trên toàn bản dịch. Thay vì xây cối xay gió, toàn bộ súc vật ở trại xay nhà máy xay lúa chạy bằng sức gió, huân chương trao cho các con vật tên là “Anh hùng súc vật thượng đẳng BỘI TINH”, và cái ngày khởi nghĩa của trại được cho vào luôn Tết Đoan Ngọ, thay vì uýt ki thì các anh lợn uống rượu trắng, và nấu rượu nếp… Ngoài những chỗ thuần Việt về văn hóa khi chuyển dịch như vậy thì bản 1952 là một bản dịch bám sát, và những bài hát của Trại Súc Vật được dịch vô cùng nhịp nhàng bằng thể lục bát trứ danh. Và chính ở bản đầu tiên này, khi đổi tên trại, dịch giả đã chuyển thành “Trại Súc Vật”. Đây cũng chính là bản dịch có những minh họa tuyệt đẹp cho vài phân cảnh quan trọng trong truyện. Nhà Z đoán là đã nhà in đã sử dụng lại bản minh họa của sách nước ngoài, nhưng không biết từ bản nào. Nông trại Súc Vật Người dịch Đỗ Khánh Hoan Xuất bản: 1975 Bản dịch thứ 2 của “Animal Farm” do Đỗ Khánh Hoan dịch, theo như chính dịch giả cho biết thì đã được in 3000 bản hồi đầu 1975, chưa kịp phát hành thì 30-4 xảy ra. Dễ đoán biết số phận của những bản in ấy sau 1975, phần đa đã bị thiêu rụi. Đỗ Khánh Hoan có mang theo bản dịch khi sang nước ngoài và sau đó có tự tổ chức in lại, cụ thể là cuốn bìa màu xanh (hoặc có khi bìa màu tím) ở trên, in ở Canada, NXB Nắng Mới Books hồi 1989. Rất tiếc nhà Z chưa có cơ hội để đọc bản dịch này. Trại Súc Vật Bản dịch thứ 3, do Đỗ Cẩm Sơn chuyển ngữ in ở Mỹ, có bìa con lợn leo thang như trên. Trại Súc Vật Người dịch: Phạm Nguyên Trường, NXB Giấy Vụn. Theo blog của dịch giả Phạm Nguyên Trường thì bản dịch của ông đã được thực hiện lần đầu tháng 12 năm 2003, nhân dịp kỷ niệm 100 năm sinh của Orwell. Rất nhanh chóng, chỉ vài tháng sau, bản dịch được đăng trên talawas làm 5 kỳ vào năm 2004, và được phổ biến rộng rãi tới độc giả Việt Nam nhờ internet. Có thể nói đây là bản dịch tới được tay độc giả ở ta nhiều nhất cho đến thời điểm này. Thay vì dấm dúi chuyền tay nhau bản in lậu samizdat như ở Nga và Đông Âu ngày xưa, độc giả những năm 2000 trở về sau đã có thể thoải mái đọc Orwell và bàn luận. Dịch giả Phạm Nguyên Trường cũng là người đã dịch 1984 (với bút danh Phạm Minh Ngọc) sang tiếng Việt. Hẳn nhiên đây là một bản dịch chất lượng, không cắt xén, đầy đủ và bám sát. Đến năm 2010, NXB ngầm, Giấy Vụn, đã in cuốn “Trại Súc Vật” của Phạm Nguyên Trường, và đến 2016, bản này lại được một NXB ngầm khác là Vô Danh in lại có kèm cả bản gốc tiếng Anh. NXB Vô Danh cũng chính là nơi in lại bản 1984. Chuyện ở Nông Trại Người dịch: An Lý Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn xuất bản. Một bản dịch âm thầm ra đời vào năm 2013 khiến cả đất nước ngỡ ngàng, là bản dịch thứ 5 trong tiếng Việt. Không ai biết từ đâu nhờ ai vào lúc nào một ngày “Câu chuyện nông trang” lừng lững xuất hiện ở quầy sách khắp nơi trong cả nước, và chỉ trong một thời gian ngắn tạo ra một cơn bão (trong tách trà ????), khi đến cả báo quân đội cũng đưa tin về nó. Nhìn lại những ngày tháng ấy nhà Z vẫn còn chút ngỡ ngàng vì không khí sục sôi bạo liệt của đồng bào, và mọi thứ nhanh chóng rơi vào im lặng khi bản in chính thức một lần và mãi mãi ấy ngừng ấn bản. Bản dịch An Lý là một bản dịch tốt, bám sát. Và khi so với bản dịch đầu tiên và bản của Phạm Nguyên Trường, có một đặc điểm rõ ràng dễ nhận thấy, chính là ngôn ngữ ở những thuật ngữ đặc biệt, được điều chỉnh để mang tính ám chỉ rõ rệt hơn cả, những thuật ngữ cực quen thuộc với những người đã sống trong xã hội chủ nghĩa hơn nửa thế kỷ, chứ không phải chỉ vừa mới mấy chục năm như hồi đồng bào đọc bản dịch đầu tiên những năm 1950. Chẳng hạn, ta có thể tìm thấy cụm: độc tài cai trị, có thể tìm thấy từ “Đại hội” để chỉ những buổi họp của các con vật ở trong kho, có thể tìm thấy từ “nghị quyết” để chỉ những quyết định đầu tiên từ ngày khởi nghĩa của toàn trại, những “làm theo năng lực,” “phần tử nguy hiểm gây tác động xấu”, “Cha già”. Đặc biệt bài thơ ca ngợi Nã Phá Luân thì chắc ai cũng thấy là nhại rõ rệt bài Khóc Stalin của Tố Hữu và đặc biệt có âm hưởng giống hệt bài thơ lục bát của bản 1950 đầu tiên. 6. Nhờ comment của bạn Trang Nguyen, bản dịch này tên là “Muông cầm trại”, do Hà Minh Thọ dịch, xuất bản ở Đông Âu Tiệp Khắc từ hồi những năm 1990. Độc giả chắc đã biết đến sự tồn tại của bộ phim hoạt hình “Animal Farm” do chính CIA tài trợ, và nếu đọc sâu hơn nữa, chẳng hạn về sự ra đời của cuốn Bác sĩ Zhivago ở Nga (có cả một cuốn sách về câu chuyện này), nhờ sự tài trợ và xúc tiến của CIA, khi in bản tiếng Nga Bác sĩ Zhivago để tìm mọi cách tuồn vào nước Nga trong thời Chiến tranh lạnh, khi mà cuốn sách bị cấm xuất bản, và thậm chí có cả lời đồn thổi Ủy ban trao đổi Nobel đã trao cho Boris Pasternak dưới sự tác động của CIA, thì việc ra đời của bản dịch “Animal Farm” ở Việt Nam, trở thành cực kỳ hấp dẫn. Dĩ nhiên tất cả chỉ là giả thuyết. Mời các bạn đón đọc Trại Súc Vật của tác giả George Orwell & Phạm Minh Ngọc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngày Cuối Tuần Định Mệnh - Henry Denker
Một tiếng gọi khẩn thiết vang lên làm rung cả mấy bức tường của khoa Cấp cứu: - Cho xin bác sỹ Forrester! Có người bị trúng đạn! Khẩn cấp đấy! Ngay lúc ấy, hai hộ lý nhao vào phòng cấp cứu ở đầu hành lang. Trong một buồng dành làm chỗ khám, bác sỹ Kate đang khám cho một bệnh nhân. Cô ngẩng đầu và quay về phía một nữ y tá: - Tôi xong rồi đây. Cô đưa mẫu máu này đến khoa Xét nghiệm và báo cho tôi ngay khi có kết quả. Kate Forrester lao ra khỏi buồng và chạy dọc hành lang. Mái tóc vàng xổ ra bao quanh khuôn mặt không trang điểm và chiếc blu nhàu nát chứng tỏ cô đã nhiều giờ liền làm việc không ngơi tay ở phòng cấp cứu. Trong bệnh viện lớn này của New York, những đêm thứ bảy và chủ nhật luôn luôn là những đêm bận rộn vất vả, nhất là đêm nay lại càng bận, vì bác sỹ trực cùng với Kate bị một cơn cảm cúm quật ngã đã phải nằm liệt giường. Người được phân công đến giúp Kate thì giờ này vẫn chưa có mặt. Giống như nhiều bạn đồng nghiệp trẻ trong những trường hợp tương tự, Kate đành tự mình xoay xoả, cố gắng làm hết sức mình trong những điều kiện làm việc có nhiều khó khăn không ai có thể tin nổi. Khi Kate chạy ngang qua buồng C, một nữ y tá gọi giật giọng: - Bác sỹ Kate, khi nào chị rảnh tay một chút … Nhưng Kate không dừng lại mà chạy thẳng tới buồng cấp cứu, nơi có một cậu con trai mười bốn tuổi đang mất máu. Chẳng may cho cậu bé, lại tình cờ đứng giữa làn đạn của hai tay anh chị đang xung đột với nhau ở một phố không xa bệnh viện. Biết rằng bác sỹ Forrester cùng một lúc chỗ nào cũng có người gọi, nữ y tá Adélaide Cronin quay về buồng C để hỏi sơ qua một bệnh nhân nữ mới đến một số câu. Là một y tá giỏi đã có hơn mười sáu năm trong nghề, Cronin muốn nói chuyện riêng với bệnh nhân - một cô gái mười chín tuổi có bộ tóc nâu. Nhưng không hiểu sao, mẹ cô cứ nhăm nhăm ở bên cạnh, không chịu rời con nửa bước lấy cớ để trông nom cô. Sau khi đã cân nhắc, bà Cronin hỏi cô gái: - Xin cô cho biết cô bị đau ra sao? Lập tức bà mẹ cắt ngang: - Tôi muốn chị mời một bác sỹ đến đây ngay. Con tôi cần phải được hưởng những chăm sóc tốt nhất. - Tôi đã báo bác sỹ Forrester. - Không, tôi yêu cầu con tôi phải được bác sỹ trưởng trực tiếp khám. Tốn kém bao nhiêu, chúng tôi cũng có thể trả! Chị hiểu chứ? - Tôi e rằng vào giờ này, nhất lại là tối thứ bảy, ông ta sẽ không đến - bà Cronin phản bác lại - Và bây giờ - Bà quay ra nói với cô gái - cô hãy nói điều gì đã khiến cô phải tới đây? - Con tôi đau do những cơn nôn oẹ - Bà mẹ vội giải thích. Thông cảm những sợ hãi do quá lo cho con của bà mẹ, bà Cronin ngoảnh về phía bà ta với vẻ mặt ân cần, khoan dung. - Thưa bà … - Stuyvesant - Bà mẹ cô gái tiếp lời - Bà Claude Stuyvesant. Cái tên đủ nổi tiếng để bà Cronin nhận ra ngay lập tức. Tuy nhiên, hiểu rằng mình sẽ phải làm gì, bà vẫn không thay đổi thái độ. - Bà Stuyvesant, những lời khai này sẽ được đưa vào hồ sơ bệnh án của con bà. Cho nên chừng nào cô ấy còn nói được thì tốt hơn hết là bà cứ để cô ấy tự nói, bằng chính những lời của mình. Bởi như thế sẽ càng chính xác hơn thôi. Bác sỹ sẽ cần đến nó để tiến hành chẩn đoán, vì vậy tôi xin bà … - Mong bà thứ lỗi. Bà mẹ rời khỏi bàn khám, nơi con bà đang được đặt nằm. Tóc cô gái trẻ xoã ra bết vào trán đang rịn mồ hôi, hơi thở cô nhè nhẹ, từng hồi đứt khúc, người cô căng ra. Trong khi lẳng lặng ghi nhận những triệu chứng suy sụp cả thể chất lẫn tinh thần ấy, bà Cronin nắm tay cô bắt mạch và đo huyết áp. ... Mời các bạn đón đọc Ngày Cuối Tuần Định Mệnh của tác giả Henry Denker.
Pháo Đài Trắng
Pháo đài Trắng, cuốn tiểu thuyết mang lại tên tuổi cho Orhan Pamuk, là câu chuyện về một học giả trẻ tuổi người Ý. Bị cướp biển bắt ở giữa Venice và Naples, anh bị đem ra bán đấu giá ở chợ nô lệ Istanbul. Một nhà bác học Thổ Nhĩ Kỳ muốn học hỏi các tiến bộ khoa học và tri thức phương Tây đã mua anh về. Nhưng rồi họ khi họ bị ràng buộc bởi những tội lỗi và bí mật của nhau, khi mối quan hệ của họ trở nên ngày càng phức tạp, cả chủ nhân và nô lệ bỗng phát hiện ra rằng họ đều là thành viên của quân đội Hoàng gia, và rằng cả hai đều đang trong cuộc hành trình rồi cuối cùng sẽ dẫn họ tới Pháo đài Trắng.  *** Nhận định   “Một ngôi sao mới đang lên ở phương Đông—Orhan Pamuk. Pháo đài Trắng là một trong số rất ít những tiểu thuyết tạo ra được một thế giới hoàn chỉnh và độc lập bằng tài năng khác thường… Ông là một người kể chuyện tài hoa như Sê-hê-ra-zát vậy.” - New York Times “Lịch lãm và có sức nặng… Sẽ không ngoa chút nào nếu so sánh Pamuk với Kafka và Calvino; cũng nghiêm túc như thế, cũng duyên dáng, cũng tinh tế như vậy. Ta có mọi bằng chứng về điều đó” - Independent “Tiểu thuyết gia tiên phong của Thổ Nhĩ Kỳ và ở bất cứ đâu cũng là một trong những nhân vật thú vị nhất trong làng văn… Một người kể chuyện hàng đầu.” Times Literary Supplement “Pháo đài Trắng tuyệt vời không phải bởi nó đã tái hiện một thời đại, mà vì nó đã khám phá bí mật cá nhân con người và trên hết vì Pamuk đã gói gọn những suy tư đó trong một câu chuyện đơn giản đến nhường ấy.” - Guardian ‘Một cuốn sách kỳ lạ và tài tình về sự đau đớn trong quá trình tự khám phá bản thân. Và trong suốt thiên tiểu thuyết, người ta có thể chứng kiến sự pha trộn siêu việt của những gì Pamuk thực sự thấy bằng con mắt của một kẻ quá hướng về Tây phương trong khi bề ngoài lại quá thiên về Trung Đông. Trong khoảnh khắc, Đông- Tây đã gặp gỡ.” New York Times ‘Cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Orhan Pamuk về những ảnh hưởng ngoại lai… đã đem đến cho chúng ta một cái nhìn điềm tĩnh và thành kiến một cách tao nhã vào kết quả của phát tán văn hóa. Tác phẩm phảng phất âm hưởng của Calvino, nhưng cách viết và thế giới quan của tác giả lại gần hơn với Kazuo Ishiguro.” - Independent *** Mùa Hè năm 1982, tôi tìm được tập bản thảo viết tay ấy dưới đáy một chiếc rương bụi bặm ở Gebze (một thành phố gần Istanbul, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ), khi lục lọi hàng tuần theo thói quen trong đám "hồ sơ" lộn xộn của chính quyền thành phố, ngập đầy những sắc lệnh, chiếu chỉ, văn tự, biên bản tòa án và các báo cáo công vụ. Với tấm bìa trang nhã bằng thứ giấy vân cẩm thạch có những hoa văn mơ hồ, gợi nhớ về giấc mộng nào đó, được viết bằng nét chữ rõ ràng, dễ đọc, tập bản thảo ấy nổi bật hẳn lên giữa đám công văn giấy tờ bạc phếch và lập tức khiến tôi chú ý. Bàn tay ai đó, chắc là có chủ ý, muốn khêu gợi tính tò mò của tôi, đã viết trên trang thứ nhất cái tựa đề: "Con nuôi người thợ làm chăn". Tôi hài lòng đọc nhanh hết tập sách mà bên lề các trang giấy có những hình người đầu bé xíu vẽ bởi bàn tay con trẻ, mặc những bộ y phục đính chi chít cúc. Tập bản thảo khiến tôi rất thích thú, nhưng vì lười chép lại, nên lợi dụng sự tin cậy của người nhân viên, vốn rất trọng nể tôi và chẳng hề theo dõi, tôi giấu nó vào trong cặp, đơn giản là tôi đã đánh cắp quyển sách ấy trong đám giấy tờ mà ngay cả vị kaimakam (người đứng đầu một tỉnh hoặc một khu vực (tiếng Thổ) trẻ tuổi cũng không dám gọi là "hồ sơ lưu trữ". Thời gian đầu, tôi đọc đi đọc lại quyển sách nhiều lần mà không biết phải làm gì với nó. Sự hoài nghi của tôi đối với lịch sử vẫn còn chưa hết, nhưng tôi chú ý đến bản thảo không chỉ từ phương diện khoa học, văn hóa hoặc lịch sử, mà còn bởi rất thích lối hành văn của nó. Rồi điều đó khiến tôi phải nghĩ về tác giả của bản thảo. Khi tôi và các đồng sự buộc phải rời trường Đại học Tổng hợp, tôi quay về nghề cũ của ông tôi, vốn là một người từng xuất bản các bách khoa thư, và chính khi đó tôi đã nghĩ tới chuyện đưa một bài về tác giả tập bản thảo mà tôi tìm được vào cuốn bách khoa thư Những người nổi tiếng mà tôi phụ trách phần lịch sử. Tôi bắt đầu dành cho việc đó tất cả những giây phút rảnh rỗi, ngoại trừ thời gian làm bách khoa thư và nhậu nhẹt. Tôi tra cứu các nguồn tư liệu về giai đoạn ấy và thấy một số sự kiện được phản ánh trong sách không tương ứng với thực tế lịch sử. Chẳng hạn, trong thời gian năm năm Koprulu (Pasha Koprulu Mehmet (1575-1661): đại tể tướng dưới triều Mehmet IV) giữ chức tể tướng, đúng là ở Istanbul đã xảy ra một trận đại hỏa hoạn, điều đó cũng được phản ánh trong các tư liệu thành văn, nhưng trận dịch hạch được bản thảo đề cập đến, mà lại lây lan rộng đến mức tưởng chừng như đáng được ghi vào lịch sử, thì trong các văn bản ấy lại chẳng có lời nào nhắc đến. Tên tuổi nhiều vị đại thần được nêu không đúng, hoặc nhầm lẫn, một số vị bị thay tên đổi họ. Họ tên của các vị đại sư chiêm tinh không tương ứng vởi tên họ ghi trong Biên niên sử vủa triều đình, nhưng tôi không chú tâm lắm vào những chi tiết này, vì cho rằng đây là chủ ý của tác giả. Mặt khác, phần lớn các sự kiện lịch sử nêu trong bản thảo đều được khẳng định, có một số sự kiện còn trùng hợp khá chi tiết, chẳng hạn như vụ ám sát đại sư chiêm tinh Huseyn Etendi, diễn ra trong chuyến đi săn thỏ của hoàng đế Mehmet IV (Mehmet IV (1642-1693): vị sultan thứ 19 của đế quốc Ottoman (1299- 1923), tức Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, trị vì trong quãng thời gian 1648-1687), tại khu rừng gần cung điện Mirahor, điều đó cũng được sử gia Naimai ((1655-1716): nhà sử học Ottoman) nhắc đến. Tôi cho rằng tác giả bản thảo hẳn là một người mơ mộng và ham đọc sách, khi làm việc đã sử dụng các tư liệu tương ứng, đã đọc vô số sách vở và sau đó đưa một số chi tiết vào các ghi chép của mình. Những trước tác của Evlyia Chelebi mà tác giả có nhắc đến, rõ ràng là chỉ được ông ta đọc lướt, nhưng qua bản thảo thì chẳng rõ hai người có quen biết nhau hay không. Tôi vẫn không mất hy vọng tìm ra dấu vết của tác giả, nhưng các truy cứu trong những thư viện Istanbul đã khiến cho niềm hy vọng đó tan thành mây khói. Tôi không kiếm được một tài liệu hay quyển sách nào đã hiến tặng hoàng đế Mehmet IV trong khoảng thời gian từ năm 1652 đến năm 1680, cả ở thư viện trong cung điện Topkapi (cung điện hoàng gia ở Istanbul - thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ, nay là Viện Bảo tàng) cũng như các thư viện khác mà tôi đồ rằng chúng có thể đã được chuyển đến. Tài liệu duy nhất mà tôi đã gặp được trong các thư viện ấy là công trình của "nhà thư pháp thuận tay trái", được nhắc đến trong bản thảo. Tôi cố gắng theo dõi số phận của những công trình ấy, gửi vô số thư từ đến các trường đại học tổng hợp Ittaly, nhưng chỉ nhận được những hồi âm bực mình, còn những mưu toan tìm kiếm trong các nghĩa địa Gebze, Jennethisar và Uskudar con người đã viết nên cuốn sách mà không lưu lại tên họ mình đều chẳng mang lại kết quả mong muốn. Tôi chấm dứt các cuộc tìm kiếm và ngồi viết một bài cho bách khoa thư, dựa trên nội dung của bản thảo. Đunrg như tôi đoán trước, bài viết không được chấp nhận, không phải vì nó thiếu cơ sở khoa học, mà bởi người tôi đề cập đến là một nhân vật khuyết danh. Có thể chính vì thế mà mối quan tâm của tôi đối với quyển sách lại càng lớn hơn. Thậm chí tôi còn muốn thôi việc, mặc dù tôi rất yêu công việc và các đồng nghiệp của mình. Có thời, gặp ai tôi cũng nói về quyển sách, như thể không phải tôi phát hiện được, mà chính tôi đã viết ra nó. Để khêu gợi chú ý, tôi nói về ý nghĩa biểu trưng của quyển sách đó, nói rằng nó giống với hiện thực ngày nay, rằng càng đọc quyển sách ấy tôi càng hiểu thêm thời đại bây giờ. Sau những lời như vậy, đám thanh niên, chủ yếu là những người quan tâm đến chính trị, các mối quan hệ Đông-Tây và nền dân chủ đã chú ý đến quyển sách đó, nhưng chẳng bao lâu sau những người trẻ tuổi ấy, cũng như bạn bè tôi, đã quên lãng nó. Một ông giáo sư, bạn của tôi, đã đọc xong cuốn sách vì tôi chèo kéo, khi mang trả có nói rằng những câu chuyện như thế đầy rẫy trong các bản thảo chồng chất tại những ngôi nhà gỗ cũ kĩ trên các ngõ phố Istanbul. Cư dân của những ngôi nhà đó, nếu coi sách là Thánh thư Koran, thì sẽ cất nó lên nóc tủ, còn không, họ sẽ xé rời từng tờ ra để nhóm bếp lò. Và thế là, đọc đi đọc lại bản thảo hết lần này đến lần khác, được khích lệ bởi một cô gái đeo kính, điếu thuốc không lúc nào rời môi, tôi quyết định đem nó đi xuất bản. Độc giả sẽ thấy rằng khi dịch ra tiếng Thổ hiện đại, tôi đã không hề chú trọng đến phong cách, tôi cứ đọc vài câu trong nguyên bản để trên bàn, sau đó tôi đi sang một phòng khác, đến bên chiếc bàn khác, nơi tờ giấy trắng đang đợi, tôi ngồi xuống ghế và cố gắng diễn đạt nội dung vừa đọc bằng ngôn ngữ thời nay. Nhan đề quyển sách không do tôi đặt ra, mà là của nhà xuất bản đã đồng ý in nó, Chắc có người sẽ hỏi tôi, có ý nghĩa gì đặc biệt trong những lời đề từ in ở trang nhất hay không. Tôi cho rằng, thói quen tìm kiếm một mối liên hệ nào đó trong tất cả mọi thứ là căn bệnh của thời đại chúng ta. Và chính bởi cũng ngả theo căn bệnh chung ấy, tôi đã cho xuất bản câu chuyện này.   FARUK DARVINOGL Mời các bạn đón đọc Pháo Đài Trắng của tác giả Orhan Pamuk.
Nỗi Sợ - Stefan Zweig
Iren người phụ nữ đã có gia đình hạnh phúc, người chồng làm luật sư, hai đứa con, là quý bà giàu có, có mối quan hệ ngoại tình với chàng nghệ sĩ dương cầm, không vì thiếu tình cảm, tình dục mà là tò mò, được sự ngưỡng mộ từ người tình, làm người phụ nữ được tôn thờ, được yêu, đánh giá mình qua tình cảm của người khác. Chồng nàng là luật sư Frizt, người đam mê tâm lý học tội phạm, phát hiện ra vợ mình ngoại tình, F đã nhờ một người đàn bà giả làm vợ của chàng nghệ sĩ dương cầm, tống tiền Iren, với mong muốn vợ mình nhận ra tự quay lại với anh và con. Tâm lý sợ hãi, nỗi sợ bị phát hiện, sợ bị phơi bày lỗi lầm trước người thân, ám ảnh trong giấc mơ, sợ đi ra đường gặp người đàn bà tồng tiền, đẩy thần kinh Iren căng thẳng lên mức tột đỉnh, toàn thân đau nhức, sự ám thị về khuôn mặt, dáng người và hành động của chồng. “Nỗi lo sợ còn tồi tệ hơn sự trừng phạt, bởi vì sự trừng phạt là cái gì đích xác, dù nặng hay nhẹ vẫn tốt hơn sự căng thẳng ghê gớm của trạng thái lo sợ những gì chưa biết sẽ xảy đến” Frizt nói. Cuối cùng trong trạng thái căng thẳng tột cùng, Iren đã nghĩ đến giải pháp cuối cùng để thoát khỏi là tự tử. Frizt đã kịp ngăn nàng, và thú nhận sự thật anh đã thuê người đàn bà kia. Truyện có tình tiết gay cấn, miêu tả tâm trạng, trạng thái nhân vật có vẻ không giống thực lắm, hơi quá, nhưng mang lại cho người đọc tính hồi hộp, lôi cuốn.  *** Stéfan Zweig (28 tháng 11, 1881 - 22 tháng 2, 1942) là một nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch và nhà viết tiểu sử người Áo nổi tiếng trên thế giới. Ông sinh ra trong một gia đình khá giả gốc Do Thái ở thành phố Viên, Áo. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Thế chiến thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930 ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Tháng 2 năm 1942 , trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stéfan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Lẽ ra hai người không nên gặp nhau mới phải. Zweig xuất thân từ một gia đình tư sản giàu có thành Vienna. Còn Frederika thuộc thành phần viên chức quý tộc. Họ làm gì có điểm chung mà đụng đầu với nhau, ngoài niềm say mê văn học. Đời một người đàn ông có thể gặp rất nhiều phụ nữ phải lòng và yêu mình. Thế nhưng, ít khi chúng ta được gặp nhiều hơn một người phụ nữ thực sự là phúc lộc trời cho, dịu dàng, vị tha, dẫu rất đắng lòng nhưng cuối cùng luôn luôn tha thứ cho ta về những lầm lỗi trăng hoa... Tối mùa thu ấy ở London cơn mưa thu lạnh lẽo và tầm tã. Frederika như người mộng du đi trên phố, hai tay ôm trước ngực cái ô xếp tròn. Chị cứ thế lang thang, không rõ mục đích và phương hướng... Bỗng nhiên có một cặp khách qua đường đi ngang rồi vượt lên trước chị. Hai người trò chuyện với nhau rất to. Họ than phiền về chuyện chiến tranh. Họ nguyền rủa Hitler đã khiến họ phải lìa xứ. Mời các bạn đón đọc Nỗi Sợ của tác giả Stefan Zweig.
Mười Hai Chiếc Ghế - Ilya Ilf & E. Petrov
Mười hai chiếc ghế" của hai nhà văn Liên Xô I.Ilf và E.Petrov là một kiệt tác của nền văn học Liên Xô thuộc thể loại tiểu thuyết trào phúng, được xếp vào hàng các tác phẩm kinh điển khi các tác giả còn sống. Lấy bối cảnh năm 1927, bộ truyện kể lại một phi vụ làm ăn đầy kịch tính giữa I. Vorobyaninov , một cựu quí tộc của chế độ Sa hoàng và O.Bender, một tay lừa đảo có hạng.  Tác phẩm được viết bởi ILF, Ilia Arnoldovich (1897 – 1937) cùng với PETROV, Evgeny Petrovich (1903 – 1942) là hai nhà văn trào phúng người Odessa. Valentin Petrovich Kataev ( tiểu thuyết gia và nhà soạn kịch Nga và Liên Xô) được biết tới là người đã đề xuất ý tưởng tiểu thuyết "Mười hai chiếc ghế" cho em trai Yevgeni Petrov và Ilya Ilf. Đổi lại, Kataev yêu cầu tất cả các ấn bản và bản dịch tiểu thuyết này đều cần phải đề là tặng ông. Sức tưởng tượng, sự rung cảm và sức sáng tạo không ngừng của Kataev đã khiến ông trở thành một trong những nhà văn Xô Viết xuất sắc nhất. Sau "12 chiếc ghế" Ilf và Petrov còn viết tiểu thuyết "Con bê vàng" (Золотой телёнок). "Con bê vàng" là phần II (tiếp theo) của "12 chiếc ghế". Ostap Bender không chết sau khi bị cắt cổ trong "12 chiếc ghế" và lại bắt đầu cuộc phiêu lưu mới của một kẻ du thủ du thực. Vẫn những mánh lừa đảo, cách kiếm tiền rất thông minh như trong phần I, Ostap Bender làm phần II cũng không kém phần thú vị và hấp dẫn. Nhận định: “Toàn bộ cuốn truyện toát ra sự phê phán rất thâm thúy, sắc bén, nhưng rất nhẹ nhàng, thú vị, đối với các thói hư tật xấu của con người.” -Dịch giả Lê Khánh Trường *** Ilya Ilf (Ilya Arnoldovich Feinsilberg, tiếng Nga: Илья Арнольдович Файнзильберг, 1987-1937) và Yevgeny Petrov (Yevgeniy Petrovich Kataev/Katayev, tiếng Nga: Евгений Петрович Катаев, 1903-1942) Là hai nhà văn và nhà báo Nga, được biết đến qua cuốn tiểu thuyết trào phúng, “Mười Hai Chiếc Ghế" (1928). Ilya Ilf và Petrov cũng xuất bản một số lượng lớn các câu chuyện và phác thảo dưới bút danh "Tolstoyevsky" trong Xô viết tạp chí và báo chí. Nền văn học danh tiếng của hai nhà văn phụ thuộc chủ yếu vào tác phẩm hợp tác của họ - những cuốn sách khác đã không đứng trước sự thử thách của thời gian. Ilya Ilf (bút danh của Ilya Arnoldovich Fainzilberg), sinh tại Odessa, con trai của một nhân viên ngân hàng. Sau khi tốt nghiệp từ một trường học kỹ thuật vào năm 1913, sau đó ông làm việc trong văn phòng một kiến trúc sư, một nhà máy hàng không và một nhà máy lựu đạn tay. Ông cũng góp phần đóng góp cho một tạp chí hài, tên là Sindektikon. Năm 1923, ông chuyển đến Moskva, nơi ông được nhận là một thủ thư và ông đã viết bài cho các tờ báo và tạp chí hài hước khác. Hai năm sau đó ông trở thành một nhà báo cho các tạp chí Gudok và Moriak. Trong chuyến thăm của ông ở Trung Á, ông đã chứng kiến cuộc đụng độ giữa hải quan cũ và hệ thống mới, mà đã trở thành một trong những chủ đề Trung tâm của “Mười Hai Chiếc Ghế". Sau khi họp bàn với Petrov, ông bắt đầu viết với những mảng hài hước cho tờ Pravda và các ấn phẩm khác. Nghiên cứu khoa học kéo dài gần chục năm. Ilya Ilf qua đời ngày 13 tháng 4 năm 1937 do bị bệnh lao, nơi ông đã ký hợp đồng trên hành trình của mình ở Hoa Kỳ. Yevgeny Petrov (bút danh của Yevgeny Petrovich Kataev) sinh tại Odessa, con trai của một giáo viên lịch sử. Ông tốt nghiệp năm 1920 từ một phòng tập thể dục cổ điển và bắt đầu sự nghiệp của mình như một nhà báo. Năm 1921 ông trở thành phóng viên báo tiếng Ukraina. Trước khi chuyển tới Moscow vào năm 1923, ông làm việc tại Cục điều tra hình sự Odessa. Petrov được bổ nhiệm làm phó tổng biên tập của tạp chí châm biếm Krasnyi perets và vào năm 1923, ông gia nhập đội ngũ nhân viên của tờ báo Gudok, một ấn phẩm cho các nhân viên đường sắt. Petrov đã không có tham vọng trở thành một nhà văn. Tuy nhiên, anh trai ông, nhà văn Valentin Kataev (1897-1986), khuyến khích ông soạn truyện ngắn, và một bộ sưu tập nhỏ đã được xuất bản vào năm 1924. Petrov kết hôn vào năm 1929. Từ năm 1932 ông đã góp phần vào tờ Pravda Krokodil. Năm 1925 Petrov đã trở nên quen với Ilya Ilf, người cũng làm việc cho Gudok. Cuốn sách đầu tiên của họ, “Mười Hai Chiếc Ghế" đã đạt được một thành công lớn. “Mười Hai Chiếc Ghế" xuất hiện trong thời gian tương đối tự do, khi kinh tế chính sách mới (NEPNEP) cho phép giới hạn doanh nghiệp tư nhân. Ý tưởng về những câu chuyện đã được đề xuất bởi Valentin Kataev. Ostap Bender - nhân vật chính đáp ứng trong cuộc phiêu lưu của mình là một kẻ cơ hội, quan chức, và kẻ lừa đảo và Sinbad thời kỳ NEP. Câu chuyện “Mười Hai Chiếc Ghế" đã lấy cảm hứng chuyển thể từ sân khấu và điện ảnh, không chỉ ở Liên Xô, nhưng cũng có ở Hoa Kỳ. Phiên bản phim của Mel Brooks từ năm 1970 đã nhận được nhiều sự đánh giá lẫn lộn của các nhà phê bình. Brooks là đạo diễn, viết kịch bản, tác giả của bài hát và tham gia trong một vai nhỏ. Mặc dù với tất cả các nỗ lực, sự hài hước của ông đã không mạnh như các nhà sản xuất (1968). 1933-1934 Ilf và Petrov viếng thăm Tây Âu. Họ đã gặp các nhà báo Nga nổi tiếng Ilya Ehrenburg ở Paris, và đã viết với ông một bộ phim hài, không tạo thành. Theo Ehrenburg, hài hước của Ilf là cay đắng; Petrov đã lạc quan, hài hước của mình là nhân đạo hơn và ông muốn tốt cho tất cả mọi người. Cái chết của Ilya Ilf là một sự khó khăn với Petrov, ông sau đó chỉ viết viễn tưởng. Tác phẩm của ông chủ yếu giới hạn là kịch bản phim và chỉnh sửa một bộ sưu tập của Ilf trong máy tính xách tay riêng (1937-1938). Năm 1940, ông gia nhập Đảng Cộng sản và trở thành biên tập viên của tạp chí Ogonyok. Vào năm 1941 Petrov viếng thăm Đức, nửa năm trước khi Đức Quốc xã tấn công Liên Xô, và nói: "Người Đức đang mệt mỏi của chiến tranh...". Trong thế chiến II Petrov đã phục vụ như là một phóng viên chiến tranh. Ông qua đời trong một máy bay rơi ở Sevastopol vào ngày 2 tháng 7 năm 1942. Báo cáo của Petrov từ trước đã được xuất bản dưới tiêu đề Frontovoi dnevnik (1942). ”Mười Hai Chiếc Ghế" được coi là một tôn giáo cổ điển và đã được tái bản nhiều lần.   Mời các bạn đón đọc Mười Hai Chiếc Ghế của tác giả Ilya Ilf & E. Petrov.