Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Sống Ngắn Ngủi

Rosamund Morgan còn rất trẻ, mới hai lăm tuổi. Nàng mồ côi cả cha lẫn mẹ và lại rất giàu có. Nàng thông minh, xinh đẹp, có bằng ưu về lịch sử và là một nghệ sĩ piano tài năng. Nhưng, nàng sắp chết vì bệnh máu trắng. Sự ra đi của Rosamund là điều không thể tránh khỏi, song một số người lại muốn nhận được chúc thư của nàng, sớm hơn và tìm cách để đạt được điều đó. Và rồi những người xa lạ ở đâu bỗng bước vào cuộc đời Rosamund - họ muốn gì, liệu điều này có tác động đến quãng đời còn lại của nàng và có ảnh hưởng đến các chúc thư mà bao người đang thèm muốn. ***   "Một căn nhà nhỏ xinh xắn, dễ thương - Jane đọc - Hai phòng khách, hai phòng ngủ, phòng làm việc, công trình phụ và giàn nho ngoài hiên. - Sao cơ? - Robert hỏi. Anh chuyển vị trí con tốt trên bàn cờ rồi liếc về phía tờ báo để trên bàn cà phê. - Sao cái gì? - Hay ho gì cái giàn nho ngoài hiên mà lại đưa vào nhỉ. Chỉ tổ làm tối nhà chứ được tích sự gì. Anh không hiểu là làm thế nào mà quân trắng có thể đi hai nước chiếu tướng được. Quân đen chắc là ngớ ngẩn rồi. Bao nhiêu? - Bao nhiêu cái gì? - Thì cái căn nhà xinh xắn em vừa nói ấy giá bao nhiêu tiền? - Một trăm ba nhăm ngàn bảng - Jane trả lời. - Tức là gấp 11,25 lần thu nhập hàng năm cùa cả anh và em à - Robert nói không chút lưỡng lự. Jane ném tờ Everting Standard sang cho anh, tờ báo đánh văng con tướng trắng khỏi bàn cờ. Anh lẳng lặng đặt nó lại vị trí cũ, liếc mắt sang tờ báo đặt trên bàn lần nữa và rồi chống cằm đăm đăm nhìn bàn cờ. Ở phía bên kia lò sưởi, Jane với nét mặt rầu rầu ngồi bó gối trong chiếc ghế bành nhìn sang anh. - Anh thật là ngớ ngẩn mới đi dạy văn học Anh trong khi có thể giải được những nước cờ bí như vậy và thậm chí tính toán không cần suy nghĩ. Nhất định anh phải có cách nào đó để có thể kiếm ra tiền chứ - Cô nói. - Thì anh có bằng về văn học Anh mà lị - Robert trả lời - Ngoài việc đó ra anh chẳng làm được gì khác đâu. - Nhưng bây giờ có ai cần đến những sinh viên tốt nghiệp ngành văn chương đâu, ngoài những trường dạy thêm đáng ghét chẳng có triển vọng gì. - Anh chẳng hiểu gì về máy tính cả và sẽ chẳng bao giờ học được - Robert nói - A! Con mã. Mày chết này! Có thế chứ. Rất cao thủ - Anh chăm chú nhìn bàn cờ một lúc vẻ rất hài lòng trước khi bỏ quân cờ vào hộp - Anh đang ở đây với em mà, cưng. Có thật là em đang thèm khát một cái chuồng thỏ xa hoa với những chùm nho xanh quanh cửa không? - Không nhất thiết là thế, nhưng em muốn có một ngôi nhà tươm tất. Em đã ngấy lên tận cổ cái cảnh sống nghèo nàn này rồi. - Mình không phải hoàn toàn nghèo. Và vẫn còn may là mình được sống tương đốì giữa London đấy. - Và may là mình còn đủ cơm mà ăn và may là cả hai đều còn có việc làm để không đến nỗi phải sống nhờ vào của bố thí chứ gì. Em biết, em biết, em biết! Và em chán cũng vì thế đấy. Em đã hai bảy, còn anh hai chín, và năm năm nữa chúng ta cũng vẫn chỉ vậy thôi nếu không nói là sẽ khốn khổ hơn vì mọi thứ cứ đắt lên còn công việc thì thậm chí cứ ngày một ít đi. Em cần tiền. Tiền thật sự cơ. Và em cần ngay bây giờ. Em không muốn sống trong cái căn hộ tồi tàn từ thời Victoria với cái kho để than sửa lại thành bếp này đâu. Thử tưởng tượng một cái kho than dùng để làm bếp giữa năm một nghìn chín trăm tám hai này mà xem! Thật nực cười. Thử hỏi xem có bao nhiêu người dùng kho để than làm bếp? - Anh không biết - Robert nói - nhưng chắc chắn là ta có thể tìm được từ các con số thông kê điều tra dân số. Trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống đã chắc mấy ai bằng mình.” - Ôi, đừng pha trò ngớ ngẩn thế nữa đi - Jane hét lên - Anh không hiểu em muốn nói gì à?" Robert ngước lên nhìn cô, gật đầu không nói. Anh là người đàn ông cao lớn, điềm đạm và có vẻ trẻ hơn so với tuổi. Còn Jane vào những lúc buồn nản như thế này trông lại có vẻ già hơn. Nhưng những khi cô vui vẻ và tràn trề hy vọng thì khuôn mặt bừng sáng đầy sinh khí làm cô trông trẻ hẳn ra và hấp dẫn hơn bất kỳ vẻ đẹp hình thức nào. Cô có mái tóc hung đỏ, đôi mắt xanh, cả người như toát lên sự nhanh nhẹn, tháo vát, trừ những lúc làm công việc của một y tá chăm sóc bệnh nhân, mà quả thực là cô làm việc này cũng rất tốt. Họ đã sống với nhau năm năm, vậy mà chính Jane lại là người không muốn tổ chức đám cưới. - Chưa được - cô luôn nói vậy mỗi khi Robert đề nghị làm đám cưới - Em cảm thấy chưa ổn định lắm. Hãy đợi đến khi chúng mình kiếm được căn nhà tử tế một chút.” Anh cảm thấy hơi đau lòng khi nghe cô nói vậy, nhưng rồi cô thường xuyên nói ra những điều làm anh tổn thương. Robert không bao giờ để lộ ra là mình cảm thấy đau lòng. Cuộc sống đã dạy anh phải giấu tình cảm thật của mình. Khi còn là một đứa bé mới hai tuần tuổi, một viên cảnh sát đã nhặt được anh trong buồng điện thoại công cộng gần ga Waterloo, và trong mấy tháng sau đó nhà của anh là Bệnh viện Trẻ em. Các bác sỹ và y tá đã chiến đấu với tử thần, giành giật lại mạng sống cho cái hài nhi hấp hối ấy như thể nó là một hoàng thái tử, và khi họ đã hoàn thành phần việc của mình rồi thì họ giao lại nó cho Phòng Dịch vụ Xã hội. Nhận con nuôi, chứ không phải là đưa vào trại trẻ mồ côi, đang là trào lưu rất thịnh hành lúc bấy giờ, và trong mấy năm tiếp theo, đứa trẻ được chơi trong một căn phòng nhỏ cùng với một thằng bé Tây Ấn và một đứa trẻ Bắc Alien mồ côi, nó lớn phổng lên và tập đi, tập nói nhưng rất chậm. Gia đình tiếp theo nuôi nó được khoảng một năm, và cũng chính ở đây lần đầu tiên nó bắt đầu được biết thế nào là đau đớn, sợ hãi. Khi bà mẹ nuôi nó từ bỏ không tham gia Dịch vụ Xã hội, không phải do lỗi của bà mà là do lão chồng nghiện ngập, Robert lại bị chuyển đỉ, lần này là đến một nơi nương náu tạm thời do một giáo phái trông nom trong khi chờ đợi quyết định của các nhà chức trách xem phải làm gì với nó. Hóa ra đây lại là khoảng thời gian hạnh phúc duy nhất mà nó có được trong cả quãng đời niên thiếu cùa mình. Ánh nắng ấm áp chan hòa, bãi cỏ để chạy chơi, thỏ và mèo để chơi cùng thay vì căn nhà nhỏ bé chật chội sặc mùi sợ hãi. Hơn tất cả là một khuôn mặt với mái tóc sẫm màu, tuy xanh xao nhưng đôi mắt luôn nhìn thẳng vào nó mỗi khi người đó gọi tên nó, làm cho nó lần đầu tiên hiểu được rằng nó đích thực là Robert, và rằng trên thế gian này còn có người cũng biết đến điều đó, và rằng nó vẫn phải là Robert - mỗi ngày một lớn lên và mạnh khỏe thêm. Nó chẳng bao giờ học cách đặt tên cho một khuôn mặt, nhưng lại biết gắn liền khuôn mặt đó với một thứ tình cảm mà mãi đến tận sau này nó mới biết là tình yêu. Và khi khuôn mặt và giọng nói đó biến mất thì nó lại bị chuyển đi một lần nữa vì đó chỉ là một giải pháp tạm thời cho nó và còn có nhiều trẻ em khác có điều kiện khó khăn hơn cần được giúp đỡ - nó đã học được cách cảm nhận mất mát, đau buồn và tuyệt vọng. Và cả nghệ thuật để tồn tại. Để không bị tổn thương, anh hãy làm một kẻ vô cảm. Để khỏi bị thất vọng thì tốt nhất là đừng có hy vọng. Hãy tự tạo ra xung quanh mình một vỏ bọc dễ chịu để mọi đau khổ bên ngoài không thể xuyên qua, và trong cái vỏ bọc đó chỉ có bản thân mình, tuy cách biệt nhưng an toàn. Đó là hành trang sinh tồn của Robert Fenniman, cái tên được đặt theo người cảnh sát hôm đó đã tìm thấy anh và người bác sỹ chịu trách nhiệm chính trong việc cứu sống anh hồi ấy. Tính cách ôn hòa, điềm đạm chính là một phần đáng kể để hình thành nên cái vỏ bọc bảo vệ đó. Jane đã không nhận thấy điều này mặc dù cô luôn có cảm giác rằng cô sẽ chẳng bao giờ thực sự hiểu anh, cũng như là anh sẽ chẳng bao giờ biết được sự thật về cội nguồn của mình. Lịch sử ra đời của anh làm cho cô nửa lo âu, nửa bị mê hoặc, và không thể hiểu được làm sao anh có thể điềm tĩnh và thờ ơ đến vậy. Quá khứ của cô chẳng có gì là bí mật cả, nhưng về nhiều phương diện thì cuộc sống của cô lại hoàn toàn không ổn định, cũng giống như anh vậy. Bố cô đã từng là một nhà sáng chế, một người đàn ông bừa bãi và kỳ quặc mang chút hơi hướng thiên tài, nợ nần triền miên để rồi bắt đầu lại từ con số không. Mẹ cô thường xuyên bỏ đi rồi lại trở về với ông, và hiện giờ đang rất thỏa mãn sống một cuộc sống góa bụa ở một thị trấn nhỏ ven biển phía Nam, trông nhà cho ông em độc thân, hưởng thú điền viên và chơi bài brít. Jane thích mẹ theo cái cách cáu kỉnh của riêng cô, song lại luôn trở về mệt mỏi hơn bao giờ hết sau mỗi chuyến đi thăm bà và luôn miệng kêu ca về cuộc sống nghèo nàn và tự mãn quá quắt của mẹ. - Anh nghĩ là thể nào ông chú Walter của em cũng sẽ để lại cho em một ít tiền khi ông ấy mất - Robert nói. Họ thường nói với nhau những câu chuyện đại loại như vậy. Jane đã không mảy may hình dung được rằng sự bất mãn biểu lộ mãnh liệt ấy của cô đã chạm tới nguồn gốc của sự thiếu tự tin và bức bốì sâu thẳm trong anh. - Ông ấy thì làm gì có cái gì đáng giá - Jane nói vẻ khinh miệt. - Có cái nhà đấy thôi. - Cái nhà gỗ bé tẹo rẻ tiền giữa cả đống đến bốn trăm cái nhà cũng tồi tàn như nó ấy à. Không! Xin cảm ơn. - Em có thể bán nó đi mà. Robert với tay lấy cái hộp nhựa đỏ đựng các quân cờ, cảm giác đó làm anh thấy thỏa mãn. Anh đã nghĩ ra giải pháp đương đầu với vấn đề này và điều đó làm anh hài lòng. Nó tựa như một cái cọc chắc chắn cho anh bấu víu trong cơn phẫn nộ của Jane. - Cái nhà ấy có bán cũng chẳng mua nổi một túp lều ỏ London chứ đừng nói đến cái kho để than - Jane ước đoán. Robert biết rằng tốt hơn hết là họ nên chuyển đi khỏi London. Anh im lặng chờ đợi, đầu óc bị ám ảnh bởi nước đi tuyệt đẹp của con mã, trong khi Jane thao thao nói về những mơ ước đẹp đẽ hoang tưởng. Khi ván cờ hết nước đi, điều này thì chẳng mấy vì cơn giông tố có vẻ như trở nên tệ hơn bao giờ hết, anh sẽ lẩn tránh bằng cách tự nhủ mình bằng câu nói vĩ đại của Macbeth. "Ngày mai, ngày mai và ngày mai ..." Điều này chẳng dễ chịu gì, ngoài sự lo sợ trống rỗng đen tối với ý nghĩ mất Jane. Nhưng dù sao thì nó cũng giúp cho anh giữ được bình tĩnh để đánh giá và đối mặt với sự thật. Cuối cùng thì cơn bão cũng qua đi. Jane lại gần và ngồi xuống sàn bên cạnh cái ghế anh đang ngồi, dụi đầu vào gốỉ anh như một chú mèo hiền lành bày tỏ tình cảm với chủ.  - Em xin lỗi, anh yêu - Giọng cô nghẹn lại. - Anh cũng xin lỗi - Một tay vuốt mái tóc cô, tay kia vẫn cầm cái hộp đựng các quân cờ, anh nói: Anh thấy chỉ có một cách duy nhất để có thể giải quyết được vấn đề này - Thông thường trong những dịp như thế này anh thường đưa ra giải pháp như là cặp vé hạng nhất đi xem nhạc kịch ở Covent Garden hay một kỳ nghỉ cuối tuần ở Paris. Những “giải pháp” thường xuyên này, cùng với sách, đĩa nhạc và quần áo mới cho Jane, đã xóa sạch những gì hiện là nỗi ám ảnh của Jane về việc muốn có một “ngôi nhà xinh xắn”. Đã từ lâu, Robert nghiệm ra rằng cuộc trò chuyện tế nhị về các khoản vay nợ chẳng bao giờ được hưởng ứng cả. Đôi khi anh cũng có ý nghi ngờ rằng những mong ước cùa Jane là không tưởng, nhưng đề cập đến vấn đề này với cô hay cố gắng dưới bất kỳ hình thức nào để cô không ảo tưởng nữa có khác gì đưa quan hệ của họ đến bờ vực thẳm. - Cách gì, anh yêu? - Jane vừa hỏi vừa xích lại gần. Thay vì định nói “Chúng mình đến Caprice ăn tối đi”, anh bỗng sửng sốt và kinh hãi khi nghe thấy những lời mình thốt ra: - Hãy bỏ anh và tìm cho mình một người đàn ông có thể mua cho em tất cả những gì em muốn”. Không chỉ lời nói, cả giọng nói dường như cũng khác: chua chát, cay đắng, giận dữ và đau khổ, một giọng nói mà Jane thậm chí không hề biết đến và Robert nghĩ là đã hoàn toàn bị lãng quên trong suốt nhiều năm qua. Điều đó như thể Macbeth và các quân cờ đã quá căng thẳng để vượt qua cơn bão vừa kết thúc đến mức phá vỡ lớp vỏ bọc của anh. Jane co rúm người lại, trườn ra xa như thể anh đã đánh cô. - Anh nghĩ thế thật đấy à? Có phải anh muốn tống khứ em đi cho rảnh nợ không? Họ chằm chằm nhìn nhau trong giây lát, người này thấy rõ nỗi sợ hãi trong ánh mắt của người kia, và rồi họ ôm chầm lấy nhau như chẳng bao giờ có thể chia lìa. Tốỉ hôm sau, cũng vào tầm ấy, Jane về nhà và thông báo rằng cô đã suy nghĩ rất nghiêm túc rồi và đã quyết định phải chấm dứt cằn nhằn Robert, không rền rĩ với anh nữa và phải tự làm điều gì đó để có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Đừng lo - cô nói thêm – Em sẽ không làm điều gì sai trái đâu, không bao giờ, dù bất cứ giá nào.” - Phúc đức quá - Robert uống cạn và rót thêm một ly nữa. Sống với Jane, người ta rất dễ mất đi những thói quen tiết kiệm. Trước khi gặp cô, anh thấy bằng lòng với những gì mình có. Hay nói khác đi, với anh một chút thôi cũng đã là nhiều rồi. Trong suốt mười năm sau khi bà mẹ nuôi, người đã nói với anh bằng giọng nói đem lại ý nghĩa lớn lao cho cái tên của anh ra đi, Robert đã có quá nhiều cơ hội để củng cố thêm cái vỏ bọc của mình. Chẳng có sự đốỉ xử thô bạo nào, nhưng vô cảm thì quá nhiều và thiếu thốn tình thương và niềm động viên. Rồi cuối cùng, khi bước vào tuổi mười sáu, anh được ông bà Quaker, cả hai đều là giáo viên đã nghỉ hưu nhận chăm sóc. Lòng tốt không dễ xúc động của họ rất thích hợp với Robert và họ cũng đã mở ra cho anh một cuộc sống trí tuệ. Dưới sự khuyến khích và hưóng dẫn của họ, anh bắt đầu đọc, học và trải qua các kỳ thi. Luôn rất thích ứng, luôn sẵn sàng điều chỉnh theo bất cứ điều gì anh muốn để anh chàng Robert trong vỏ không bị sợ hãi, anh nhanh chóng học được cách cảm thấy thoải mái khi đến trường. Cha mẹ nuôi vui mừng khi anh có giấy gọi vào đại học, và anh sung sướng cho họ và cho mình. Anh có thể và đã cảm nhận được lòng biết ơn, nhưng lại không thể nào cảm thấy hay bày tỏ tình yêu đốì với họ. Cũng may là họ không đòi hỏi điều này. Trong căn nhà tĩnh lặng của họ không có chỗ cho những cảm xúc mạnh mẽ. Nhẹ nhàng và lòng tốt; tôn trọng sở thích cá nhân của người khác, ưa thích đọc sách và tôn trọng sự thật là những bài học mà Robert đã học được từ gia đình cuối cùng nuôi anh này. Anh quen nhiều trong trường đại học nhưng không có bạn thân. Chẳng ai ghét anh song cũng chẳng có ai chú ý gì nhiều đến anh. Anh chẳng bao giờ gây ra điều gì rắc rốỉ, và luôn hòa nhập ở bất cứ nơi nào anh đến. Nhưng luôn luôn anh chỉ như một khán giả theo dõi diễn biến cuộc sống của những người xung quanh mà thôi: niềm hy vọng và sự sợ hãi, tình yêu và sự căm ghét - nhưng không bao giờ tham gia vai nào trong đó. Tránh những cảm xúc mạnh mẽ để không bị đau khổ, tránh những hy vọng cao xa vì chúng chỉ mang lại toàn thất vọng: đó là những bài học ban đẩu mà anh không bao giờ quên. Vì anh luôn tỏ ra điềm tĩnh và mãn nguyện, ở anh không bao giờ có dấu hiệu nào cho thấy sự cô đơn hay bất hạnh, nên thầy cô giáo cũng như các bạn sinh viên của anh đều cho rằng chắc chắn là anh có thân với một ai đó. Lối sống tách biệt nhưng không bất hạnh từ thời học đại học này đã theo anh đến khi ra đi làm. Robert chẳng có mục đích nào khác ngoài kiếm sống bằng cái cách mà sẽ không làm phật lòng ông bà Quaker, và đức tính kiên nhẫn cùng khiếu hài hước của anh rất thích hợp với nghề giáo và các bạn đồng nghiệp. Anh dạy ngôn ngữ và văn học Anh cho sinh viên nước ngoài, tham dự vào các hoạt động xã hội khi cần, nhưng không hề có quan hệ thân thiết với bất cứ một ai. Thời gian rỗi anh dành để đọc sách, chơi cờ, đi dạo một mình và thăm cha mẹ nuôi. Và rồi trong buổi liên hoan do một đồng nghiệp tổ chức, ai đó đã giới thiệu anh với Jane, cô chợt đến như một vầng nắng chói lòa phá vỡ cuộc sống khổ hạnh của anh, mang lại hơi ấm và làm tan đi sự cằn cỗi trong anh. Cô không để cho anh lảng tránh như những cô gái khác. Cô thích anh; cái vẻ bề ngoài lạnh lùng của anh như một thách thức với cô - cô yêu thích chính cái vẻ thách thức ấy ở anh, và cô quyết định phải làm cho anh chú ý đến mình, phải yêu mình. Trong hành trang của Robert, trong tất cả những bài học trường đời mà anh đã học, chẳng có điều gì dạy anh phải làm thế nào để chống trả những cuộc công kích dữ dội như vậy cả. Càng cố lẩn tránh, càng bị cuốn đi mạnh hơn. Và cuối cùng thì anh chẳng còn muốn trốn chạy nữa mà bước ra khỏi tình trạng vô thức như mặt đất thức dậy vào mùa xuân, và để cô dẫn dắt cuộc đời mình. Bây giờ thì anh không thể hình dung được cuộc sống mà không có Jane và cũng chẳng còn đường thoái lui. Anh đã phá vỡ cái nguyên tắc an toàn của bản thân và phải trả giá. Điều khá kỳ quặc là, gần gũi nhau như vậy nhưng Jane chưa bao giờ thành công trong việc đột nhập vào bên trong cái vỏ bọc của Robert. Có lẽ sẽ chẳng ai làm được điều đó. Có lẽ những tổn thương hồi nhỏ đã ăn quá sâu vào tâm hồn anh nên khó ai có thể hàn gắn lại được. Robert cũng phần nào hiểu được điều này và đôi khi anh cảm thấy giữa họ vẫn còn thiêu thiếu cái gì đó và rằng anh cần phải cởi mở hơn đốì với cô, chí ít là như cô luôn cởi mở về cuộc sổng và tâm tư của mình vậy. Anh trả lời cô những câu hỏi về quá khứ của mình với vẻ bình thản vốn có nhưng không bao giờ kể cho cô nghe về khuôn mặt và giọng nói đã ăn sâu vào tiềm thức anh trong nhiều năm qua. Đó là một thế giới huyền bí, quá mong manh và quý giá mà anh không muốn cho Jane biết đến. Cô phải cố phân tích nó từ xa, và anh đã bỏ lỡ điều gì đó mà ở một khía cạnh nào đó, thậm chí gần gũi với anh hơn cả bản thân Jane. Như vậy là vì một lý do nào đó, giữa họ đã có một hố sâu ngàn cách. Những khoảng quan trọng trong cuộc đời và cảm xúc mà họ chẳng thể gặp nhau. Nhưng về cơ bản là họ cần cho nhau và điều này giúp họ có thể tránh không nhìn vào cái khoảng cách đó. Tối nay cả hai người đều có vẻ như rất ý thức được mối nguy hiểm đang rình rập và thu mình lại trong sự cố gắng vượt qua ý nghĩ ảm đạm về buổi tối hôm trước. - Em không hiểu làm sào mà anh lại trở thành một công dân đáng kính như vậy - Jane nói giọng âu yếm - Điều này trái với mọi nguyên tắc xã hội học. Với sự dạy dỗ như anh được hưởng, chí ít anh phải là một thanh niên ngỗ ngược, và hiện giờ lẽ ra phải là một tên tội phạm nguy hiểm mới đúng. - Có lẽ phải vậy - Anh vừa cười vừa nói. - Tiếc là chẳng được cái may mắn như thế. Nếu cần làm điều gì bất hợp pháp thì chắc em sẽ phải làm một mình rồi. - Chắc không phải là em đang nghĩ đến việc ám sát các bệnh nhân giàu có đấy chứ - Robert bỡn cợt hỏi. - Đúng rồi, em đã nghĩ vậy đấy - cô trả lời anh cũng bằng giọng hài hước vậy - nhưng mà điều đó sẽ chẳng có tác dụng gì trừ phi họ để lại cho em thật nhiều tiền trong chúc thư, phải không?" Đôi mắt cô sáng long lanh trong tâm trạng hân hoan, tinh nghịch. - Anh không tin - Robert nói - Em mà nghỉ việc ở bệnh viện là rất tiếc đấy." - Em chẳng có sự lựa chọn nào khác sau cái lần cuốỉ cùng cãi lộn với bà quản lý bệnh viện. Và có khối điều đáng nói về dịch vụ chăm sóc bệnh nhân. Môi trường khác này, chọn được thời gian cho mình này, và ... - ... các bệnh nhân tư giàu có này, Robert cắt ngang - Anh biết em muốn nói gì rồi. Em định chiếm lòng tin cùa một bà lão ốm yếu nào đó để rồi nẫng đồ nữ trang của bà ta chứ gì. - Đúng là hiện có nhiều trường hợp thế thật - Jane nói giọng đã nghiêm túc hơn - Em có thể hiểu sự cám dỗ cùa nó, nhưng sẽ không bao giờ em làm vậy đâu. Đây là lợi dụng sự ốm yếu của người ta trong khi người ta tin tưởng giao cho mình chăm sóc. Nếu ai đó có chủ tâm muốn cho em một món quà thì đó lại là việc hoàn toàn khác. Chắc chắn không phạm pháp đúng không, em hứa với anh thế đấy, và điều đó chắc chắn chỉ đem lại thêm niềm vui cho người ta thôi chứ không phải là bớt đi đâu.’ - Anh có thể được biết đó là gì không? - Chỉ khi nào nó ảnh hưởng đến anh dưới bất kỳ hình thức nào thôi. Không phải bây giờ. - Nếu thế thì anh sẽ đi nấu vài món cho bữa tối đây để em đỡ phải vào cái kho than đó. Cô vênh mặt lên và đưa cho anh một túi đầy thức ăn vừa mua về. “Có thịt bê và một ít bột mua tận cái cửa hàng mới lộng lẫy ở phố Hampstead High đấy. Công việc ngày hôm nay của em phải đi qua phố ấy mà, em sẽ kể cho anh nghe lúc chúng mình ăn tối. Tối qua em thật đáng ghét phải không? Em sẽ nghĩ cách đền anh nhé.” “Cứ làm như mình còn bé lắm ý” - Robert nghĩ thầm khi mang túi đồ ăn vào bếp, tuy nhỏ nhưng rất tiện nghi. Trên thực tế thì khối người London còn phải thèm rỏ rãi căn nhà cách ga Paddington không xa của họ. Các buồng tuy nhỏ nhưng được sửa sang lại rất hoàn hảo; tàu qua lại hơi ồn một chút nhưng ở mãi cũng thành quen, và cặp vợ chồng trung niên trên gác thân thiện mà kín đáo. Thậm chí họ còn có một khoảnh khoảng vài mét để làm vườn và còn có vài tiếng được hưởng ánh nắng chiều trong những tháng hè. Điều lo ngại chính của Robert là hiện nay chủ nhà, một người có tuổi, lập dị nhưng nhân từ, có thể chết và họ sẽ phải chịu sự quản lý của một công ty bất động sản. Lúc bấy giờ thì Jane sẽ có lý do chính đáng để phàn nàn. Anh đặt thịt vào trong vỉ nướng và ao ước không biết đến lần thứ bao nhiêu là Jane có thể sẽ thấy hạnh phúc như anh, hài lòng như anh với những gì họ hiện có. Nhưng anh hiểu rằng mong muốn này cũng là không tưởng giống như sự thèm muốn không giới hạn của Jane đối với một cuộc sống xa hoa. Anh phải chấp nhận những ước mơ và hy vọng hão huyền của cô, cũng như cô phải chấp nhận thực tế là anh sẽ chẳng bao giờ kiếm được nhiều tiền cả. Khi yêu ai thì người ta phải chấp nhận những điều khó chịu này thôi. Và rốt cuộc, trong hoàn cảnh của anh, điều may mắn là Jane đã không yêu cầu anh phải là người trưởng thành trong khuôn phép, với một người có tuổi thơ như anh, lẽ ra anh đã không dám bước chân vào lĩnh vực tình ái nữa kia. Có lẽ anh đã điên khi yêu và phơi bày cái sinh vật nhút nhát trong vỏ bọc ra trước mọi thế lực phá hoại. Và tối qua, một cái gì đó đã rạn nứt. May mắn là Jane đã kịp nhận ra và nhanh chóng giúp anh sửa lại vết nứt đó. Vì thế bây giờ họ đang quay trở lại những gì đã qua, không bao giờ dự kiến cho bất kỳ tương lai hiện thực nào cả, chỉ mơ mộng (trong trường hợp của Jane) hay trốn tránh trong các con số và quân cờ (trong trường hợp của bản thân anh) và thu xếp các giải pháp nho nhỏ cho mình như thể họ là một cặp bé thơ không tình yêu cố gắng bù đắp lại cho nhau những gì mà cuộc đời đã không dành cho họ. Nhưng chúng ta không thể cứ sống mãi như thế này được, Robert nghĩ trong khi xé gói đậu đông lạnh; chúng ta sẽ không thể che mãi cái vết rạn ấy bằng một tờ giấy. Nỗi hoang mang sợ hãi lại tăng lên cùng với ý nghĩ về một cuộc sống không có Jane. Anh đấu tranh tư tưởng, tự nhủ rằng mọi cái không thể hoàn toàn giống như trước khi có cuộc tranh cãi tối qua được bởi vì chẳng có ai hai lần tắm trên cùng một dòng sông, nhưng sự khác biệt không có nghĩa là tồi hơn. Có lẽ cuối cùng thì Jane cũng bắt đầu hiểu ra rằng tính khí của cô đã có tác động đến anh. Có lẽ cô sẽ phải cố gắng để dung hòa. Thực tế là những cuộc tán gẫu như vậy về việc kiếm tiền từ những bệnh nhân giàu có có thể là bước khởi đầu của quá trình dung hòa đó. Trong chốc lát, anh không tin là cô đã có một kế hoạch cụ thể trong đầu, ngoại trừ mong muốn rất hợp lý là đến lúc nào đó nhận được một món quà mà thôi Robert rất thích nấu nướng, và với những ý nghĩ vui sướng ấy, anh với tay lấy mấy quả cà chua cùng một ít cải xoong để tô màu cho bữa ăn, và gọi với lên nhà bảo Jane sắp xếp bàn ăn. Cũng chẳng có gì phải làm nhiều ngoài việc dọn chồng sách báo và đẩy mấy cái ghế bành lại gần lò sưởi. Jane vui vẻ làm mà không cằn nhằn như mọi khi về chỗ ở và phòng ăn chật chội. - Mâm cơm tuyệt đẹp - Jane tán dương sau một hai phút im lặng - Khi nào chán dạy học anh có thể chuyển sang làm đầu bếp được đấy, nghề này chẳng bao giờ lo thất nghiệp cả. Robert không thấy có ẩn ý gì trong nhận xét đó nên không có phản ứng gì. - Anh không hế phản đốì, nhưng anh tin là giờ thì họ cần em cung cấp thực phẩm cả năm cho trưòng đấy. - Em sẽ không nhận làm cho họ nếu anh có ý định tự mình mở một tiệm ăn nhỏ.” Họ không ngừng tranh luận sôi nổi về vấn đề này cứ như định thực hiện những việc đó thật. Robert phân vân không biết đó có phải là một phần nỗ lực của Jane trong việc chỉ ra rằng cô cũng có thể thực tế trong việc làm ăn kiếm tiền. Dường như anh thấy rằng mình cũng cần phải cố gắng để làm được như vậy, và anh đề nghị cô kể cho anh nghe về người bệnh ở Hampstead, vì anh có cảm giác là cô đang muốn được anh hỏi. Jane kể chi tiết cho anh nghe, và Robert quên bẵng đi sự căng thẳng giữa hai người và quên đi nỗi sợ hãi của mình. Họ ngồi sang ghế bành trước lò sưỏi uống cà phê, và Robert theo dõi biểu hiện diễn biến tình cảm của Jane trong khi nghe câu chuyện thương tâm và bi thảm của một kiếp người. Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Ngắn Ngủi của tác giả Anna Clarke.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Hè Thứ Hai Của Quần Jeans May Mắn
Đây là cuốn thứ hai trong seri bốn cuốn sách về Hội chị em gồm bốn cô gái tuổi teen Lena, Tibby, Carmen và Bridget. Họ đã trưởng thành lên nhiều sau mùa hè trước cùng Cái quần may mắn và tiếp tục phải đối mặt với những tình huống mới trong mùa hè này. Bridget vẫn chưa phục hồi hẳn sau chuyện với Eric từ mùa hè trước và quyết định đến Alabama nghỉ hè ở chỗ người bà ngoại chưa từng gặp mặt. Carmen bực khi thấy mẹ mình lại hẹn hò, ngay khi nó hẹn hò lần đầu tiên. Tibby tham gia một trại làm phim và cần Cái quần giúp nó phân biệt được ai thành thật, ai giả dối. Lena shock khi thấy anh bạn trai người Hy Lạp từ mùa hè trước, Kostos, đến Mỹ. Mỗi cô gái đều cần Cái quần và cần nhau trên đường tiếp tục phát triển cá tính riêng độc đáo của mình. “Một cái hé mắt nhìn vào cuộc sống hàng ngày của những người bình thường, những người có tính cách, phong cách, tiểu sử và mơ ước riêng. Tình yêu, tình bạn, sự tận tụy và trung thực là những yếu tố rất quan trọng ở đây, và Brashares đã kết hợp lại tất cả một cách hoàn hảo.” -BookPage “Một phần tiếp nối đáng giá... đọc dí dỏm và duyên dáng.” - Voice of Youth Advocates “Chân thực và hấp dẫn.” -Publishers Weekly *** CHÚNG TA, HỘI CHỊ EM, BẰNG VĂN BẢN NÀY ĐẶT RA CÁC QUY TẮC DƯỚI ĐÂY ĐỂ QUẢN LÝ VIỆC SỬ DỤNG CÁI QUẦN DU LỊCH: 1. Không bao giờ được giặt Cái quần. 2. Không được phép xắn gấu quần lên. Rất quê. Sẽ không có lúc nào làm thế mà trông lại không quê. 3. Không bao giờ nói từ “péo” khi mặc Cái quần. Không bao giờ được có ý nghĩ “Mình béo” khi mặc Cái quần. 4. Không được để một anh chàng nào cởi Cái quần (tuy nhiên có thể tự cởi trước mặt anh chàng). 5. Không được phép ngoáy mũi khi đang mặc Cái quần. Tuy nhiên, có thể vô tình quệt lỗ mũi mà thực ra là ngoáy mũi. 6. Khi họp mặt, phải tuân theo các thủ tục khi ghi lại quãng thời gian mặc Cái quần như sau: * Ghi lại nơi thú vị nhất mà bạn đã ở khi mặc quần trên ống quần bên trái. * Ghi lại điều quan trọng nhất xảy ra với bạn trên ống quần bên phải. (Chẳng hạn như, “ Tôi đã ở cùng anh họ tôi Ivan khi mặc Cái quần Du lịch này.”) 7. Phải thường xuyên viết thư cho các chị em khác trong hội trong suốt mùa hè, cho dù bạn có vui vẻ như thế nào khi không có họ bên cạnh. 8. Phải chuyển Cái quần cho các thành viên khác trong hội theo đúng quy ước của hội. Nếu không tuân theo sẽ bị đá đít thật mạnh khi họp hội. 9. Không được nhét áo vào Cái quần và đeo thắt lưng. Xem điều 2. 10. Hãy nhớ : Cái quần = Tình yêu. Hãy yêu quý bạn bè. Hãy yêu quý chính mình. PHẦN MỞ ĐẦU Ngày nảy ngày nay có bốn cô gái cùng chung nhau một cái quần. Mỗi cô có một vóc dáng, khổ người khác nhau nhưng cái quần vừa với tất cả bọn họ. Có thể bạn cho rằng đây là một chuyện tưởng tượng tầm phào. Nhưng tôi biết đó hoàn toàn là sự thật, vì tôi chính là một trong số họ - một trong các chị em sở hữu Cái quần Du lịch. Hè năm ngoái, chúng tôi tình cờ phát hiện ra sự kỳ diệu của cái quần ấy. Lần đầu tiên trong đời, bốn chúng tôi xa nhau. Carmen đã kiếm được cái quần tại một chỗ bán đồ cũ và thậm chí còn chẳng buồn mặc thử. Đang định vứt đi thì, cũng thật tình cờ, Tibby xỏ thử. Đầu tiên là Tibby, sau đó lần lượt tới tôi, Lena, rồi đến Bridget, và Carmen. Ngay khi Carmen kéo quần lên, chúng tôi hiểu rằng có một điều kỳ diệu đang xảy ra. Một cái quần mà cả bốn chúng tôi đều mặc vừa - ý tôi là thực sự vừa vặn - thì không phải là một cái quần bình thường. Nó không hoàn toàn thuộc về thế giới của những thứ người ta có thể nhìn thấy và nắm bắt. Em gái tôi, Effie, tuyên bố không tin vào những điều kỳ diệu, và có lẽ tôi cũng thế. Tuy nhiên sau mùa hè đầu tiên với Cái quần Du lịch thì tôi đã tin. Cái quần Du lịch không chỉ là cái quần bò đẹp nhất từng thấy trên đời, mà nó còn vô cùng thoải mái, tốt bụng và thông minh. Hơn nữa, nó còn khiến bạn trông thật hấp dẫn. Chúng tôi, những thành viên của Hội chị em, đã là bạn từ trước khi có Cái quần. Chúng tôi biết nhau từ trong bụng mẹ kia. Mẹ chúng tôi học cùng một lớp aerobics dành cho các bà bầu và đều được dự kiến đến cữ vào đầu tháng Chín. Tôi cho rằng việc này có thể làm sáng tỏ đôi điều về chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều có chung cảm tưởng rằng chúng tôi đã bị cốc vào đầu quá nhiều khi ở trong bụng mẹ. Chúng tôi lần lượt ra đời trong vòng khoảng mười bảy ngày, đầu tiên là tôi, hơi sớm hơn một chút, vào cuối tháng Tám, và cuối cùng là Carmen, hơi muộn hơn một chút, vào giữa tháng Chín. Bạn có biết người ta coi chuyện sinh ra cách nhau vài phút của bọn trẻ sinh đôi quan trọng thế nào chưa? Cứ như là chuyện đó có ảnh hưởng ghê lắm ấy. Đó, chúng tôi cũng thế. Chúng tôi rút ra một kết luận có ý nghĩa hết sức quan trọng, tôi lớn nhất - là đứa chín chắn, bao bọc cả bọn, còn Carmen thì non nớt, trẻ con nhất. Mẹ chúng tôi trở nên thân thiết với nhau. Cho tới tận khi đi học mẫu giáo, tuần nào chúng tôi cũng chơi cùng nhau khoảng ba ngày. Các bà mẹ tự gọi chính mình là những nhân vật tháng Chín, và rốt cuộc, chuyển lại cái tên ấy sang chúng tôi. Mẹ chúng tôi thường tụ tập ở sân nhà một trong bốn mẹ, cùng nhau uống trà đá và ăn cà chua bi. Chúng tôi chỉ có chơi và chơi suốt, thi thoảng cũng choảng nhau chút xíu. Thành thật mà nói thì ngay từ hồi đó tôi đã nhớ là mẹ của các bạn cũng như mẹ mình vậy. Chúng tôi, bốn cô con gái, đôi khi tưởng nhớ về thời kỳ đó như một thời vàng son. Dần dần, khi chúng tôi lớn lên, tình bạn của các bà mẹ chúng tôi không còn như xưa. Rồi mẹ của Bee qua đời, vậy là có một lỗ hổng lớn mà không ai biết cách lấp đi cả, hoặc có lẽ không ai có đủ dũng cảm để làm thế. Từ bạn bè có vẻ như không đủ để miêu tả những gì chúng tôi cảm thấy về nhau. Khi bốn đứa nói chuyện chúng tôi thường quên mất ai bắt đầu từ đâu và người khác kết thúc chỗ nào. Khi Tibby ngồi cạnh tôi trong rạp chiếu phim, nó đá gót vào cẳng chân tôi mỗi khi phim đến những đoạn buồn cười hay đáng sợ. Thường thì tôi chẳng để ý gì cho đến khi vết bầm tím xuất hiện ngày hôm sau. Trong giờ học lịch sử, Carmen thường lơ đễnh véo lớp da ở khuỷu tay tôi. Bee tựa cằm vào vai tôi khi tôi cố gắng cho nó thấy cái gì đó trên máy vi tính, lập cập hai hàm răng vào nhau khi tôi quay sang giải thích điều gì đó. Chúng tôi giẫm lên chân nhau không biết bao lần (và, ừ thì đúng, tôi có bàn chân cũng hơi to thật). Trước khi Cái quần Du lịch xuất hiện, chúng tôi không biết phải làm thế nào để được ở bên nhau trong những lúc chia xa. Chúng tôi không nhận ra rằng mình đã lớn hơn, khỏe hơn, cao hơn trong khoảng thời gian ở bên nhau. Chúng tôi học được điều đó từ mùa hè đầu tiên ấy. Suốt cả năm, chúng tôi chờ đợi và tự hỏi không biết mùa hè thứ hai sẽ ra sao. Chúng tôi học lái xe, cố gắng lo học hành và chuẩn bị cho kỳ thi PSAT(1). Effie đã yêu (vài lần) còn tôi thì đang cố thoát khỏi tình yêu. Brian trở thành một hình ảnh quá thường thấy ở nhà Tibby, còn Tibby thì ngày càng ít muốn nói về Bailey hơn. Carmen và Paul thì từ anh em con bố dượng và mẹ kế đã chuyển thành bạn bè. Tất cả chúng tôi đều lo lắng và yêu thương để mắt đến Bee. Trong khi chúng tôi đang mỗi người một việc thì Cái quần nằm lặng lẽ ở tầng trên tủ quần áo của Carmen. Chúng tôi thống nhất quan điểm, đó là một Cái quần mùa hè. Chúng tôi luôn tính cuộc đời mình bằng mùa hè. Ngoài ra, với quy ước không được giặt, chúng tôi không muốn dùng Cái quần nhiều quá. Nhưng không một ngày mùa thu, mùa đông hay mùa xuân nào trôi qua mà tôi không nghĩ về Cái quần, đang nằm cuộn tròn trong tủ của Carmen, an toàn tích lũy khả năng kỳ diệu của nó để sẵn sàng khi chúng tôi cần. Mùa hè này bắt đầu không như mùa hè trước. Trừ Tibby chuẩn bị theo học chương trình làm phim tại một trường cao đẳng ở Virginia, còn lại, chúng tôi đều nghĩ mình sẽ ở nhà. Tất cả đều háo hức muốn xem Cái quần làm những gì khi không bị mang đi du lịch. Nhưng những kế hoạch của Bee chẳng bao giờ nguyên xi như ban đầu. Vậy là, ngay từ đầu, mùa hè đã không diễn ra như chúng tôi mong đợi. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Thứ Hai Của Quần Jeans May Mắn của tác giả Ann Brashares.
Quần Jeans May Mắn
Nhẹ nhàng với những tình tiết gần gũi tới mức bạn hình dung từng nghe tới đâu đó, Quần jeans may mắn kể một câu chuyện tuyệt hay về tình bạn mà không cần chạm tới những mỹ từ bóng bẩy. Ngay từ đầu cuốn sách, bốn cô gái trẻ tuổi 15 đã giới thiệu họ là tất cả của nhau mà không cần phải nói ra điều đó. Bốn người bạn rất khác nhau. Một cái quần Jeans may mắn. Và một mùa hè xa Chúng ta, Hội chị em, bằng văn bản này đặt ra các quy tắc dưới đây để quản lý  việc sử dụng Cái Quần Du Lịch: 1. Không bao giờ được giặt cái quần. 2. Không đựơc phép xắn gấu quần lên. Rất quê. Sẽ không có lúc nào làm thế mà trong lại không quê. 3. Không bao giờ nói từ "péo" khi mặc Cái quần. Không bao giờ được có ý nghĩ "Mình béo" khi mặc Cái quần. 4. Không đựơc để anh chàng nào cởi Cái quần (tuy nhiên có thể tự cởi trước mặt anh chàng). 5. Không được phép ngoáy mũi khi đang mặc Cái quần. Tuy nhiên, có thể vô tình quệt lỗ mũi mà thực ra là ngoáy mũi. 6. Khi họp mặt, phải tuân theo các thủ tục khi ghi lại quãng thời gian mặc Cái quần như sau: 7. Phải thừơng xuyên viết thư cho các chị em khác trong hội trong suốt mùa hè, cho dù bạn có vui vẻ như thế nào khi không có họ bên cạnh. 8. Phải chuyển Cái quần cho các thành viên khác trong hội theo đúng quy ứơc của hội. Nếu không tuân theo sẽ bị đá đít thật mạnh khi họp hội. 9. Không được nhét áo vào Cái quần và đeo thắt lưng. em điều 2. 10. Hãy nhớ: Cái quần = Tình yêu. Hãy yêu quý bạn bè. Hãy yêu quý chính mình. "Một nhóm bạn gái trung thành vô cùng hấp dẫn; cộng thêm cái quần hoàn hảo biến giấc-mơ-thành-sự-thực và bạn không thể để mất. Bạn tốt, giống như những cái quần tốt, sẽ mang lại cho bạn cảm giác thần kỳ; Brashares kết hợp cả hai và tạo nên một cuốn sách vui tươi, tràn đầy cảm xúc." - The Horn Book Magazine "Một cuốn truyện được dẫn dắt bởi bốn giọng kể đan xen duyên dáng sẽ khiến bạn đọc nghiến ngấ Lối miêu tả của Brashares sinh động đến độ độc giả có thể nhìn thấy cả rừng ôliu ở Hy Lạp và bầu trời lấp lánh ánh sao ở Baja." - The Book Report *** Ann Brashares, sinh năm 1967, lớn lên ở Chevy Chase, bang Maryland và từng theo học ngành Triết học tại trường Cao đẳng Barnard, một nhánh thuộc Đại học Columbia ở thành phố New York. Sau khi tốt nghiệp cao đẳng, cô trở thành biên tập viên, dự định sẽ dành một năm đi làm kiếm tiền để tiếp tục học lên đại học ngành Triết. Nhưng vì quá yêu nghề Ann Brashares đã không học đại học nữa mà ở lại New York làm việc trong nhiều năm rồi trở thành nhà văn chuyên nghiệp sau tác phẩm đầu tay Quần jeans may mắn. Ngay sau khi ra đời, Quần jeans may mắn đã thành công rực rỡ về mặt thương mại, được dựng thành phim năm 2005 và đưa tác giả của nó vào hàng ngũ các nhà văn có sách bán chạy nhất trên toàn thế giới. Brashares chủ yếu viết cho giới trẻ. Cùng với bốn cuốn sách về hội chị em: Quần jeans may mắn, Mùa hè thứ hai của Quần jeans may mắn, Girls in Pants: The third Summer of the Sisterhood, Keep in touch: Letters, Notes, and More from the Sisterhood of the Traveling Pants, cô còn viết hai tiểu thuyết cho người lớn nữa là Forever in Blue: The fourth Summer of the Sisterhood và The last Summer (of you and me). Cô còn là tác giả của các cuốn sách khá nổi tiếng khác như Linus Torvald - kẻ nổi loạn trong lĩnh vực phần mềm và Steve Job nghĩ khác. Brashares hiện đang sống tại New York với chồng - Jacob Collin, con trai một giáo sư dạy triết của cô từ hồi học cao đẳng, là một họa sĩ khá thành danh ở Mỹ - và ba con. *** PHẦN MỞ ĐẦU Ngày xửa ngày xưa có một cái quần. Đó là cái quần thuộc loại rất cơ bản, jeans, màu xanh lơ tự nhiên nhưng không phải là màu xanh mới cứng mà bạn thường xuyên thấy vào ngày đầu tiên đến trường. Nó là một cái quần màu xanh mềm mại, hơi bạc một chút ở đầu gối và đũng, và có những gợn sóng màu trắng ở gấu quần. Cái quần hẳn đã có một cuộc sống tốt đẹp trước khi gặp chúng tôi. Bạn có thể nói như vậy. Tôi thì nghĩ một cửa hàng bán đồ cũ xét theo khía cạnh nào đó cũng đại loại như một nơi nhốt chó mèo lạc vậy. Bất kỳ cái gì bạn mua ở đó cũng có rất nhiều điểm thừa hưởng từ những người chủ cũ của chúng. Cái quần của chúng tôi không giống như một chú cún con lạc mẹ gào khóc từ sáng đến đêm. Nó giống như một chú chó đã lớn mà gia đình nhà chủ rất yêu quý nhưng phải chia tay vì dọn đến một khu nhà mới, hoặc có thể chuyển đến sống ở Hàn Quốc (à mà có phải là Hàn Quốc không nhỉ?), nơi người ta thỉnh thoảng ăn thịt chó ấy. Tôi có thể thấy cái quần đã không đến với chúng tôi từ một bi kịch. Nó chỉ đơn giản chứng kiến một trong những chuyển biến bình thường nhưng đau đớn của cuộc đời. Đó hóa ra chính là Hành trình của Cái quần. Đó là một cái quần quý phái, nhưng khiêm tốn. Bạn có thể liếc qua nó và nghĩ “Ừ, một cái quần,” hoặc bạn có thể dừng hẳn lại và nhìn ngắm thật kỹ sự kết hợp tài tình của màu sắc và các đường may. Cái quần chẳng buộc bạn phải say mê nó. Cái quần chỉ vui vẻ làm trọn một nhiệm vụ bình thường là che mông bạn mà không làm cho nó trông to hơn kích cỡ thực tế. Tôi thu nhận cái quần ở một cửa hàng bán đồ cũ phía ngoại vi Georgetown, cửa hàng này kẹp giữa một cửa hàng bán nước (chẳng biết các bạn thế nào, chứ tôi thì có sẵn nước ở nhà, không phải mua bao giờ!) và một cửa hàng bán thực phẩm tự nhiên có tên là Yes! (1). Bất cứ khi nào đứa nào trong chúng tôi nhắc đến Yes! (và chúng tôi nhắc đến ngay khi có thể), chúng tôi bao giờ cũng hét lớn Yes! hết cỡ mà cổ họng cho phép. Tôi đi đâu cũng đi cùng Lena và em gái nó, Effie, và mẹ của hai đứa. Effie đến đó mua một chiếc váy cho buổi khiêu vũ của sinh viên năm thứ hai. Effie không thuộc tuýp con gái có thể mua một cái gì đó màu đỏ dây rợ loằng ngoằng như mỳ ống ở cửa hàng Bloomingdale như nhiều cô gái khác. Cô này phải mua cái gì đó cổ điển cơ. Tôi mua cái quần chủ yếu bởi vì mẹ của Lena ghét các cửa hàng bán quần áo cũ. Bà nói quần áo cũ là dành cho người nghèo. “Mẹ nghĩ nó bẩn lắm, Effie,” bà liên tục nói mỗi lần Effie kéo thứ gì đó xuống khỏi mắc áo. Tôi ngầm đồng ý với bà Kaligaris, điều này làm tôi hơi xấu hổ một chút. Thật lòng mà nói tôi yêu thích sự sạch sẽ của quần áo nhãn hiệu Express, nhưng tôi đành phải mua một cái gì đó vậy. Cái quần gập gọn gàng một cách vô tội trên một chiếc giá gần quầy thanh toán. Tôi cho là cái quần đã được giặt sạch. Hơn nữa, nó chỉ có 3,49 đôla kể cả thuế. Tôi chẳng buồn mặc thử, như bạn có thể thấy đấy, tôi chẳng để ý lắm đến chuyện mua bán này. Mông của tôi đã có những quy chuẩn nhất định dành cho quần rồi. Effie chọn ra một chiếc váy nhỏ nhắn vô cùng không thích hợp với khiêu vũ, và Lena tìm ra được một đôi giày kỳ quặc trông như có vẻ đã thuộc về cụ tổ của ai đó. Bàn chân Lena to, phải cỡ 9,5 hay gì đó. Đó là phần duy nhất không hoàn hảo ở nó. Tuy nhiên tôi thích đôi bàn chân ấy. Và tôi không thể không nhăn mặt khi nhìn đôi giày nó chọn. Mua quần áo cũ đã là quá rồi, nhưng quần áo có thể giặt được, còn giày cũ thì sao? Khi về đến nhà tôi nhét cái quần vào đáy tủ quần áo và chẳng còn nhớ đến nó nữa. Cái quần tái xuất hiện vào một buổi chiều trước khi tất cả chúng tôi mỗi đứa đi nghỉ hè một ngả. Tôi sắp sửa đến Nam Carolina chơi với bố, Lena và Effie sẽ đến chơi với ông bà ở Hy Lạp hai tháng, Bridget sắp sửa bay đến trại tập bóng đá ở Baja California (nghe tên thế mà cuối cùng hóa ra lại ở Mexico. Ai mà biết được?). Tibby sẽ ở nhà. Đây là mùa hè đầu tiên mà chúng tôi mỗi đứa tản mác một ngả, và tôi nghĩ điều này làm tất cả chúng tôi có một cảm giác gì đó lạ lùng và xao xuyến. Mùa hè năm ngoái, tất cả chúng tôi đều chọn học môn lịch sử nước Mỹ vì Lena bảo rằng học vào mùa hè dễ có điểm cao hơn. Tôi chắc là Lena đã có điểm cao hơn. Mùa hè trước đó tất cả chúng tôi đều là CIT(2) ở Trại Gỗ Tròn trên bờ biển Đông Maryland. Bridget huấn luyện bóng đá và dạy bơi, Lena làm việc với lớp nghệ thuật và đồ thủ công, còn Tibby lại một lần nữa kẹt cứng trong bếp. Tôi trợ giúp cho buổi hội thảo về kịch cho đến khi mất bình tĩnh nghiêm trọng với hai đứa nhóc chín tuổi quỷ quái và được trao trả về với nhiệm vụ liếm và dán phong bì ở văn phòng của trại. Lẽ ra họ có thể cho tôi nghỉ thẳng luôn, nhưng tôi nghĩ bố mẹ chúng tôi đã trả tiền cho họ để chúng tôi được làm việc ở đó. Những mùa hè trước đó là một vài ký ức mờ nhạt của những lọ dầu bôi người, Sun-In_ và việc căm ghét cơ thể mình (tôi thì ngực lớn còn Tibby lại không có ngực) ở bể bơi công cộng Rockwood. Da tôi trở nên sẫm hơn; nhưng không một sợi tóc nào trở nên vàng óng như tôi mong đợi cả. Và trước đó nữa thì… Ôi trời, tôi chả biết chúng tôi đã làm gì nữa. Tibby đã tham dự ngày cộng đồng của một trại hè và góp sức xây những ngôi nhà giá rẻ. Bridget học tennis suốt ngày. Lena và Effie vầy nước ở bể bơi suốt ngày này sang ngày khác. Còn tôi thì trung thực mà nói hình như đã xem TV suốt. Tuy nhiên ít nhất thì chúng tôi cũng cố gặp nhau vài tiếng một ngày, và vào cuối tuần thì chúng tôi không hề tách khỏi nhau. Có những năm đặc biệt hơn: mùa hè mà gia đình Lena xây bể bơi, mùa hè mà Bridget bị thủy đậu và làm tất cả chúng tôi bị lây. Mùa hè mà bố tôi dọn nhà đi. Vì một vài lý do nào đó, cuộc đời của chúng tôi đã được ghi dấu bằng những mùa hè. Trong khi Lena và tôi học ở trường tiểu học công thì Bridget học ở một trường tư với một lô những đứa nhóc khác, và Tibby vẫn học ở trường Embrace, cái trường bé tí kỳ lạ, nơi học sinh ngồi trên các túi đậu chứ không ngồi ở bàn học và cũng chẳng có điểm số nào cả. Mùa hè là thời gian cuộc sống của chúng tôi giao thoa với nhau hoàn toàn, là thời gian chúng tôi có ngày sinh nhật, là thời gian rất nhiều chuyện quan trọng xảy ra. Trừ năm mà mẹ của Bridget qua đời. Đó là vào dịp lễ Giáng sinh. Chúng tôi đã là một “hội” từ trước khi ra đời. Tất cả bốn đứa chúng tôi đều sinh ra vào cuối mùa hè; rải rác cách nhau mười bảy ngày: Lena đầu tiên, cuối tháng Tám, và tôi cuối cùng, giữa tháng Chín. Điều này không hẳn là một sự trùng hợp, vì những lý do mà tôi sẽ kể sau đây. Vào mùa hè chúng tôi sinh ra, các bà mẹ của chúng tôi đã tham gia học một lớp aerobic dành cho phụ nữ có bầu (cứ thử hình dung mà xem) ở một nơi gọi là trung tâm Gilda; họ là những người thuộc nhóm tháng Chín (Lena chui ra hơi sớm một chút). Aerobic lúc đó cực kỳ phổ biến. Tôi cho là các thành viên khác của lớp đều sẽ không sinh con trước mùa đông, nhưng các bà bầu thuộc nhóm tháng Chín thì bụng đặc biệt to, đến độ giáo viên lo rằng họ sẽ nổ tung bất cứ khi nào. Giáo viên này đã phải thay đổi chương trình học dành riêng cho họ. “Nào các bà mẹ tháng Chín!” bà này sẽ gầm lên, đấy là theo lời mẹ tôi kể. “Chỉ làm bốn động tác đại diện thôi, nhìn đấy! Cẩn thận đấy.” Người hướng dẫn aerobic này tình cờ lại có tên là April(3), và theo lời của mẹ tôi thì họ đều ghét bà này lắm. Các bà mẹ tháng Chín bắt đầu la cà đi chơi sau khi tan lớp, tụ tập than thở về những đôi chân bị xuống máu sưng phồng, về việc họ đã béo ú ra thế nào và cười đùa về bà April. Sau khi chúng tôi sinh ra - trùng hợp thay toàn là con gái, cộng với hai anh trai sinh đôi của Bridget - họ đã tự lập ra nhóm hỗ trợ các bà mẹ nhỏ của riêng mình và để kệ cho chúng tôi lăn lộn trong chăn chơi với nhau trong khi họ than thở về việc không ngủ được và việc họ vẫn béo phì như thế nào. Sau một thời gian thì nhóm hỗ trợ tan rã, nhưng vào những mùa hè khi chúng tôi một, hai và ba tuổi, họ vẫn đưa chúng tôi đến Rockwood chơi. Chúng tôi sẽ tè trong bồn tắm trẻ con và giành đồ chơi của nhau. Tình bạn của các bà mẹ sau này đã trở nên xấu đi. Tôi không rõ tại sao. Tôi cho là vì cuộc sống của họ trở nên phức tạp hơn. Hai người trong số họ đi làm trở lại. Bố mẹ của Tibby chuyển đến sống ở trang trại gần Rockville Pike. Có lẽ các bà mẹ của chúng tôi chưa bao giờ thực sự có nhiều điểm chung lắm, trừ việc có bầu gần như cùng thời điểm. Ý tôi là khi nghĩ về họ ta sẽ thấy đó là một nhóm kỳ lạ: mẹ của Tibby, một người có quan điểm cấp tiến và trẻ tuổi; mẹ của Lena, một người Hy Lạp tham vọng và rất hay tham gia các hoạt động xã hội ở trường; mẹ của Bridget, một cô người Alabama trẻ; và mẹ tôi, một người Puerto Rico với một cuộc hôn nhân trắc trở. Nhưng vào lúc đó, họ có vẻ như là bạn của nhau. Tôi thậm chí còn có thể nhớ đôi chút về việc đó. Hiện giờ các bà mẹ chúng tôi duy trì một tình bạn được xếp hạng đâu đó dưới các ông chồng, con cái, sự nghiệp, nhà cửa và tiền bạc. Ở đâu đó giữa việc phơi nắng ngoài trời và thưởng thức âm nhạc. Đối với chúng tôi thì không thế. Mẹ tôi bảo tôi “Hãy chờ đến khi các con nghiêm túc với trường học và các cậu trai. Hãy chờ đến khi các con bắt đầu cạnh tranh mà xem.” Nhưng mẹ đã nhầm. Chúng tôi không để điều đó xảy ra với chúng tôi đâu. Cuối cùng thì tình bạn của các bà mẹ cũng không phải là tình bạn của các bà nữa, mà chuyển thành tình bạn của chúng tôi, các cô con gái. Các bà mẹ thì như thể những cặp vợ chồng đã ly dị, không có gì chung trừ con cái và quá khứ. Thực sự thì họ có vẻ lúng túng với nhau, nhất là sau việc xảy đến với mẹ Bridget. Có gì đó như là nỗi thất vọng và có lẽ còn một vài điều bí mật giữa họ, vì vậy họ vẫn duy trì vẻ dè dặt với nhau. Chúng tôi bây giờ là các “nhân vật” tháng Chín. Những tháng Chín thực sự. Chúng tôi là tất cả của nhau. Chúng tôi không cần phải nói ra điều đó; điều đó đơn giản là sự thật. Đôi khi có vẻ như chúng tôi gần gũi đến độ trở thành một con người hoàn chỉnh duy nhất chứ không phải bốn người tách biệt. Chúng tôi thuộc những tuýp riêng: Bridget - con người thể thao, Lena - người đẹp, Tibby - kẻ nổi loạn, và tôi, Carmen, người… gì nhỉ? Cô gái cáu kỉnh. Nhưng là người quan tâm đến việc chúng tôi gắn bó với nhau nhất. Bạn có biết bí quyết là gì không? Đơn giản lắm. Chúng tôi yêu quý nhau. Chúng tôi tốt với nhau. Bạn có biết rằng điều đó hiếm thấy thế nào không? Mẹ tôi nói rằng mọi sự không thể thế mãi, nhưng tôi thì tin là mọi sự sẽ vẫn như thế. Cái quần như là một điềm báo vậy. Nó đại diện cho lời hứa mà chúng tôi hứa với nhau, rằng dù có xảy ra chuyện gì, chúng tôi cũng sẽ luôn gắn bó với nhau. Nhưng nó cũng đại diện cho một thách thức nữa. Ở mãi Bethesda, bang Maryland, và sống trong những ngôi nhà có điều hòa thì không đủ. Chúng tôi đã hứa với nhau rằng một ngày nào đó sẽ ra ngoài thế giới kia và cùng nhau khám phá nhiều thứ. Tôi có thể giả vờ là một con người sâu sắc, trung thành và đánh giá cao cái quần ngay tắp lự, hoặc tôi cũng có thể rất trung thực mà kể với bạn rằng tôi chính là người gần như đã ném nó đi. Nhưng việc đó khiến chúng ta cần lùi lại một thời gian để tôi có thể kể cho bạn nghe Cái quần Du lịch đã ra đời như thế nào. Mời các bạn đón đọc Quần Jeans May Mắn của tác giả Ann Brashares.
Sushi Cho Người Mới Bắt Đầu
Sushi cho người mới bắt đầu là tác phẩm nổi bật của Marian Keys, một câu chuyện về giới trẻ độc thân sành điệu đô thị, diễn ra ở Dublin, nơi người ta sống, vui chơi rồi nhớ tiếc sự nghiệp và những mối tình của chính mình. Mọi chi tiết đắt giá nhất của thể loại chick-lit Anh đều tụ hội ở đây: những nhân vật nữ xinh đẹp nhưng rắc rối, một nàng sếp hách dịch nhưng tốt bụng, một chàng giám đốc điều hành thô lỗ đẹp trai,  những người bạn sôi nổi, và tất cả họ đều liên quan tới một chỗ làm việc vô cùng sành điệu: Colleen, phòng biên tập tạp chí mới dành cho phụ nữ.       “Được viết bằng lòng nhiệt tình, sự đam mê và những mảnh vui thích lấp lánh… nếu bạn thích đọc thứ gì đó nữ tính, Marian Keyes là lựa chọn tuyệt vời nhất.” - Big Issue “Keyes đã đoạt mất vương miện Nữ hoàng tiểu thuyết Ireland của Maeve Binchy. Cô là một người kể truyện tài hoa tột bực, đã kết hợp một cách tuyệt hảo giữa kiểu cách và bản chất, bi và hài, và hoàn toàn xứng đáng với vị thế tác giả những cuốn sách best-seller của mình. Cuốn sách tràn ngập những nhân vật tuyệt vời và các đoạn đối thoại sống động.” - Independent on Sunday “Marian Keyes là nữ hoàng của những cuốn tiểu thuyết  có hậu. Phong cách hài hước ấm áp, sành điệu ấy khiến cô trở thành một trong những nữ tác giả trẻ nổi bật nhất ở Anh và là tiếng nói của cả một thế hệ.” - Daily Mirror “Sự nhạy cảm của Keyes ẩn giấu cả sự sâu sắc lẫn niềm đam mê; cô hoạt bát mà tinh tế; và thực sự có tài trong những đoạn đối thoại và giọng văn.” - Ireland on Sunday  “Thú vị  và hài hước…  khẳng định vị trí nữ  hoàng tiểu thuyết lãng mạn của cô một cách không thể nghi ngờ.” - The Times “Cầm cuốn sách này lên đọc lướt qua và lời khuyên của tôi dành cho bạn là, đứng có kế hoạch gì khác nữa, bởi vì bạn sẽ không thể đặt nó xuống cho tới khi kết thúc nó…! Một cuốn sách thực sự hấp dẫn, với nhiều hóm hỉnh, kỹ năng và thấu hiểu hơn những cuốn cùng thể loại… Cô ấy xứng đáng với mọi lời khen thưởng.” - Sunday Express “Marian Keys mang lại thanh danh tốt cho tiểu thuyết đại chúng, một chiến công không dễ gì đạt được trong một lĩnh vực đầy rẫy những kẻ đạo văn và bất tài được trả quá nhiều tiền so với những gì họ bỏ ra.” - Independent on Sunday “Câu chuyện tình yêu tình yêu ấm áp đậm chất Ireland này được điểm xuyết bằng sự cảm thông và rất nhiều hài hước, một cuốn sách cần-phải-đọc với tất cả các fan của Keyes.” - Mail on Sunday ‘Marian Keyes vẫn ở phong độ đỉnh cao thường lệ với Sushi cho người mới bắt đầu.” - Elle *** Tặng Niall, Caitríona, Tadhg và Rita-Anne LỜI CẢM ƠN Xin cảm ơn biên tập viên tuyệt vời của tôi Lousie Moore cùng tất cả mọi người ở Michael Joseph và Penguin vì sự vất vả và lòng nhiệt tình của họ. Xin cảm ơn tất cả mọi người ở Poolbeg. Xin cảm ơn Jonathan Lloyd và tất cả mọi người ở Curtis Brown. Xin cảm ơn Caitríona Keyes, Mammy Keyes, Rita-Anne Keyes và Lousie Voss, những người đã đọc cuốn sách này ngay khi nó được viết ra và không ngừng đòi hỏi nhiều hơn nữa. Xin cảm ơn Eileen Prendergast, đặc biệt cảm ơn vì đã tặng tôi nhan đề cho cuốn sách này! Xin cảm ơn Siobhan Coogan vì những thông tin của người trong cuộc trên cương vị một người mẹ. Xin cảm ơn Cộng đồng Simon vì đã hào phóng chia xẻ thời gian và thông tin về tình trạng của những người vô gia cư. Xin cảm ơn Morag Prunty và tất cả mọi người ở Irish Tatler vì đã giúp tôi khám phá thế giới tạp chí. Xin cảm ơn tất cả những diễn viên hài mà tôi biết, không một ai trong số họ có chút gì giống như những nhân vật trong cuốn sách này! Xin cảm ơn khách sạn Clarence. Những người sau đây cũng đã giúp đỡ tôi rất nhiều bằng những lời khuyên và sự nhiệt tình của họ. Nếu như tôi có quên bất kỳ ai, xin hãy tha thứ cho tôi: Suzane Benson, Jenny Boland, Susie Burgin, Alish Connelly, Gai Griffin, Suzane Power, và Annemarie Scanlan. Xin cảm ơn, như thường lệ, Tony yêu quý của tôi, vì tất cả. *** PHẦN MỞ ĐẦU “Khốn nạn thật,” cô nhận ra. “Mình đang bị suy nhược thần kinh hay sao ấy.” Cô nhìn quanh chiếc giường mình đang nằm bẹp bên trên. Cơ thể đã-quá-lâu-không-tắm của cô duỗi ườn thõng thượt trên tấm khăn trải giường đã-quá-lâu-không-thay. Những chiếc khăn giấy, ướt nhoèn và vo viên lại, vương vãi khắp tấm chăn lông. Phủ đầy bụi trên mặt tủ ngăn kéo là một đống sô cô la chưa hề được động tới. Trên sàn rải rác những tờ tạp chí mà cô không thể nào tập trung đọc nổi. Chiếc tivi trong góc vẫn miệt mài chuyển tải những chương trình truyền hình ban ngày chĩa thẳng tới giường cô. Phải rồi, chắc cũng chỉ do suy nhược thần kinh mà ra thôi. Nhưng có gì đó không ổn. Cái gì nhỉ? “Mình cứ tưởng...” cô hắng giọng. “Thì thế, mình cứ đinh ninh là...” Rồi cô chợt hiểu. “Mình cứ tưởng mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn thế này...” Mời các bạn đón đọc Sushi Cho Người Mới Bắt Đầu của tác giả Marian Keyes.
Marley và Tôi
Bạn đang tìm kiếm một câu chuyện đầy cảm xúc và vui nhộn thông qua cuộc đời của một chú chó? Cuốn sách bán chạy Marley và Tôi: Cuộc sống và tình yêu với chú chó tồi tệ nhất thế giới của tác giả John Grogan sẽ mang đến cho bạn điều đó. John và Jenny, cả hai đều rất trẻ và họ yêu thương nhau, với một ngôi nhà lý trưởng và không quan tâm gì đến thế giới. Nhưng khi họ mang về nhà Marley, một chú chó con giống Labrador màu vàng để giúp họ tập tành làm cha làm mẹ trước khi thật sự sẵn sàng chào đón thành viên thứ ba trong gia đình – và cuộc sống của họ mãi không còn như trước nữa. Marley nhanh chóng lớn lên và trở thành một chú chó nặng chín mươi bảy pound nghịch ngợm với những trò phá phách không ngừng. Nhưng ẩn chứa bên trong sự quậy phá đó là một trái tim trong sáng và là một mẫu hình chung thủy về tình yêu và sự hiến dâng dành cho gia đình đang ngày càng phát triển thông qua việc làm mẹ, sinh con… Chú cũng chính là sợi dây gắn kết và là nhân vật quan trọng giúp đôi vợ chồng trẻ vượt qua được những giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc sống. Cuốn tự truyện này đã được chuyển thể thành phim truyện nhựa cùng tên với sự tham gia của hai diễn viên nổi tiếng Jenifer Aniston và Owen Wilson, đã công chiếu tại Việt Nam từ tháng 3/2009. Sách nhanh chóng trở thành international bestseller với 5 triệu bản đã được bán ra. Có mặt liên tục trong 76 tuần trong danh sách sách bán chạy nhất của thời báo New York Times, trong đó chiếm vị trí số 1 suốt 23 tuần. *** Hạnh phúc vì đã có Marley John Grogan và Jennifer hẳn là một trong những đôi tình nhân hạnh phúc bởi họ thực sự yêu nhau và hiểu được sự thiêng liêng của hai tiếng Gia đình. Để chuẩn bị cho sự xuất hiện của những đứa con bé bỏng, họ đã mua về một chú cún để “luyện tập” trước. Tên chú cún là Marley – được đặt theo tên huyền thoại nhạc reagge Bob Marley. Từ đây, rất nhiều chuyện bi hài diễn ra khiến cho John và Jennifer gắn bó với nhau hơn sau những tranh cãi và mâu thuẫn rất đỗi thường tình mà bất cứ cặp vợ chồng nào cũng gặp phải. Về phần Marley, chú chó này thì cực kì nghịch ngợm, phá phách khỏi phải nói! Này nhé, Marley luôn thích nhai ghế sô-pha trong nhà, mỗi lúc trời mưa kèm sấm chớp thì chú chó không ngừng tru tréo và hiếu động đến mức người dạy chó cũng phải “đầu hàng” ngay trong lần đầu tiên hai vợ chồng đem chú chó đến lớp. Đến cả người giúp việc, tuy chỉ vài ngày “chịu đựng” Marley cũng tuyên bố với đôi vợ chồng rằng: “Đã có 11 cơn bão từ ngày mấy người đi. Tôi là người nuôi chó chứ không phải một con chó. Con quỷ mang gương mặt chó này đã nhảy lên chân tôi và tè lên tấm thảm của quý vị”. Và khi 3 thiên thần nhỏ của John và Jennifer lần lượt chào đời, Marley đã từng khiến cho John quát tháo “Mày là chú chó tồi tệ nhất thế gian!” và Jennifer thì nổi sùng lên đòi John tìm cách tống khứ Marley đi vì tất cả những thói quen xấu của nó đang khiến cho cô trở nên kiệt sức. Nhưng cũng chính chú chó Marley đó đã ở bên xoa dịu nỗi buồn của Jennifer khi cô lần đầu tiên bị “mừng hụt” chuyện mang thai; cũng Marley đó đã chơi đùa với cả gia đình những ngày mùa đông tuyết phủ trắng trời; cũng Marley đó hàng chiều chạy ra đón 2 nhóc Patrick và Connor khi chúng đi học về; cũng Marley đó xuất hiện trong những bài báo “người thật, việc thật” của John đã được cắt dán thành album cẩn thận; cũng Marley đó đã hiện diện như thành viên thứ 6 của gia đình Grogan – luôn ở bên họ dù họ ở đâu, làm gì… Như một qui luật tự nhiên tất yếu, Marley rồi cũng phải ra đi vì tuổi già. Giây phút Marley lìa đời, John đã ở bên cạnh cho đến khi chú chó trút hơi thở cuối cùng. Cậu cả Patrick xem lại từng cuộn băng video có hình ảnh Marley chơi đùa với cả nhà. Jennifer lặng lẽ ngồi bên khung cửa sổ rơi nước mắt khi tất cả kí ức về Marley ùa về trong xúc cảm dạt dào. Marley đã được chôn cất trước nhà cùng những kỉ vật của những người yêu quí chú chó, để chú chó có thể vĩnh viễn gần bên với gia đình Grogan. Dưới ánh nắng mặt trời ấm áp trong buổi sáng đầu tiên không còn Marley vui đùa nữa, John dường như vẫn nhìn thấy hình bóng thân quen quanh quất đâu đấy. Rồi gia đình Grogan sẽ tiếp tục sống, bên nhau và chia sớt mọi niềm vui và nỗi buồn. Nhưng có một điều chắc chắn, đó là họ sẽ không bao giờ quên Marley! Đoạn kết Marley và tôi là những lời tự sự tận đáy lòng của John khiến khán giả bồi hồi xao xuyến thông qua chất giọng truyền cảm của nam chính Owen Wilson: “Một chú chó không đi xe đẹp hay mặc quần áo đẹp. Chỉ cần một cây gậy, thế là đủ. Một chú chó không quan tâm đến chuyện bạn giàu hay nghèo, bạn được học hành hay thất học, bạn thông minh hay bạn ngu ngốc. Hãy trao trái tim bạn cho nó và nó sẽ trao lại trái tim nó cho bạn. Có bao nhiêu người làm được như nó? Có bao nhiêu tình cảm trong sáng như nó? Có bao nhiêu người khiến bạn cảm thấy đặc biệt trong đời?”. Marley và tôi đã trao tặng cho người xem những cảm xúc tuyệt vời của tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình và truyền đạt đến người xem những bài học quý giá. Với mỗi gia đình, dù có biết bao những rắc rối xảy ra hàng ngày – giống như một chú chó cũng có những “thói hư tật xấu” gây bao phiền toái nhưng rồi mọi thứ sẽ đều ổn thỏa bởi đến cuối cùng, chính tình yêu sẽ hàn gắn tất cả và cũng sẽ chữa lành tất cả. *** Tưởng nhớ tới cha tôi, Richard Frank Grogan. Tinh thần dịu dàng của ông thắm đượm từng trang sách này. Lời nói đầu Con Chó Hoàn Hảo Mùa hè năm 1967, khi ấy tôi mới mười tuổi. Cuối cùng trước những lời van nài dai dẳng của tôi, bố cũng phải đầu hàng và cho tôi sở hữu một con chó của riêng mình. Chúng tôi đánh chiếc xe chở hàng của nhà tới vùng nông thôn Michigan, nơi có trang trại của một người phụ nữ thô kệch cùng bà mẹ già. Trang trại chỉ cung cấp duy nhất các loại chó nhà. Những con chó đủ mọi kích cỡ, hình hài, độ tuổi hay tính khí. Chúng chỉ có hai điểm chung: một là con lai không rõ dòng giống, còn hai là miễn phí với những gia đình tốt. Chúng tôi đã tới một trại nuôi chó lai. - Bây giờ, cứ từ từ mà chọn, con trai. Quyết định hôm nay của con sẽ sống cùng con nhiều năm nữa đấy. - Bố nói. Tôi nhanh chóng xác định những con chó lớn hơn chắc đã thuộc về những cơ sở từ thiện của ai đó. Ngay lập tức tôi chạy tới chuồng chó con. - Con nên chọn một con không nhút nhát. Thử lắc mạnh lồng xem con nào không sợ hãi - Bố tôi dạy. Tôi tóm lấy dây xích ở cửa lồng, giật rầm rầm. Cả tá chó con loạng choạng lùi lại, con nọ đè lên đầu con kia, thành một đống nhung nhúc lông lá. Chỉ còn duy nhất một con trụ lại. Nó màu vàng, có vệt lang trắng trước ngực. Nó xô vào cửa lồng, sủa ăng ẳng không tỏ vẻ sợ sệt. Nó nhảy cẫng lên, thích thú liếm ngón tay tôi qua lưới chắn. Đó thực là tình yêu sét đánh. Tôi mang nó về nhà trong một cái hộp các-tông, đặt cho nó cái tên Shaun. Nó là một trong những con chó đã cho loài chó một cái tên hay. Nó mau chóng nắm vững tất cả những mệnh lệnh tôi dạy và xử sự rất tốt. Tôi có thể đánh rơi mẩu bánh mỳ xuống sàn, nó sẽ không động đến cho tới khi tôi cho phép. Nó chạy đến mỗi khi tôi gọi, ở nguyên đó khi tôi bảo làm thế. Chúng tôi có thể thả nó ra ngoài một mình ban đêm, biết chắc rằng nó sẽ quay về sau khi lượn một vòng. Thi thoảng, chúng tôi có thể nhốt nó ở nhà một mình hàng giờ, tự tin nó sẽ không gặp tai nạn hay phá phách thứ gì đó. Nó chạy đua với ô tô nhưng không đuổi theo chúng, thả bộ bên cạnh tôi mà không cần buộc xích. Nó có thể nhảy xuống hồ nước nhà tôi rồi ngoi lên với những hòn đá to, lắm khi mắc kẹt trong hàm. Với nó không có gì vui hơn việc được đi xe ô tô, ngồi im ở ghế sau bên cạnh chúng tôi trong các chuyến dã ngoại của nhà, hài lòng ngó ra ngoài cửa xe, ngắm nhìn hàng giờ khung cảnh thế giới bên ngoài đang trôi đi. Có lẽ điều tuyệt nhất là tôi đã dạy nó kéo tôi quanh khu theo kiểu xe chó kéo, trong khi tôi ngồi trên xe đạp. Điều này làm đám bạn phải ghen tị với tôi. Chưa một lần nào nó đẩy tôi vào nguy hiểm. Nó ở bên khi lần đầu tôi hút thuốc (cũng là lần cuối cùng của tôi), và cả khi tôi lần đầu hôn bạn gái nữa. Nó đã ở ngay đó, bên cạnh tôi, trên ghế phụ khi tôi lần đầu lén lấy trộm chiếc Conrvair của anh trai để đi chơi. Shaun mạnh mẽ nhưng biết kiềm chế, rất tình cảm nhưng điềm tĩnh. Thậm chí nó còn có lối cư xử nhã nhặn cao quý, lùi vào bụi rậm trước khi ngồi xổm làm nhiệm vụ cá nhân, chỉ thò mỗi cái đầu ra ngoài. Nhờ có thói quen sạch sẽ này mà chúng tôi có thể an tâm dạo chân trần trên bãi cỏ. Họ hàng tới thăm vào cuối tuần rồi về nhà, cũng quyết mua một con chó. Họ cực kỳ ấn tượng với Shaun - còn gọi là “Thánh Shaun”, mỗi khi tôi gọi nó. Đó chỉ là một câu đùa trong nhà, chuyện phong thánh, nhưng hầu như chúng tôi đều tin thế. Sinh ra với lời nguyền của dòng dõi vô danh, nó là một trong hàng chục nghìn những con chó chẳng ai đoái hoài ở nước Mỹ. Nhờ một chút may mắn, nó đã được để mắt tới. Nó bước vào đời tôi và tôi cũng bước vào đời nó. Khi ấy, nó đã cho tôi tuổi thơ mà mỗi đứa trẻ đều xứng đáng được hưởng. Mối tình ấy kéo dài mười bốn năm. Khi nó chết, tôi đã không còn là một thằng bé con mang nó về nhà vào cái ngày hè ấy. Tôi đã là một người đàn ông, tốt nghiệp đại học và nhận việc đầu tiên ở bang. Saint Shaun đã ở lại khi tôi đi. Nó thuộc về nơi ấy. Bố mẹ, lúc đó đã nghỉ hưu, gọi báo tin cho tôi. Mẹ sau này có nói với tôi: - Suốt năm mươi năm lấy nhau, mẹ chỉ thấy bố con khóc duy nhất hai lần. Lần đầu là khi chúng ta mất Mary Ann (chị gái tôi, bị sinh non). Lần thứ hai là ngày Shaun chết. Saint Shaun của tuổi thơ tôi. Nó là một con chó hoàn hảo. Ít nhất là tôi sẽ nhớ nó biết nhường nào. Đó là Shaun, con chó đã dựng nên những chuẩn mực để tôi đánh giá tất cả những con chó khác sau này.   Mời các bạn đón đọc Marley và Tôi của tác giả John Grogan.