Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ma Cà Rồng Ở Dallas

Khi chàng ma cà rồng Bill Thompton tiếp nhận vị trí Điều tra viên khu vực Số Năm, Sookie Stackhouse mặc nhiên được những ma cà rồng quyền lực nhất vùng bảo vệ. Nhưng, được coi như món đồ thuộc quyền sở hữu của Bill, cô buộc phải sử dụng khả năng đọc tâm trí của mình để phục vụ những kẻ khát máu. Với điệp vụ đầu tiên trong vai trò một tay lính đánh thuê, cô phải lặn lội cùng Bill tìm lời giải đáp cho sự mất tích bí ẩn của một ma cà rồng đồng tính tận Dallas. Cô những tưởng mình chỉ cần đọc tâm trí một vài người thường nào đó. Cô cũng đã tưởng mình có thể bảo vệ những con người liên quan đến vụ việc. Chỉ có điều, mối nguy hiểm không phải lúc nào cũng chỉ đến từ phía ma cà rồng. Và, lý thuyết bao giờ cũng đơn giản hơn thực tế… Một lần nữa, chính mạng sống của cô lại bị treo trên đầu sợi tóc… Charlaine Harris (sinh 25/11/1951) sinh ra và lớn lên tại Tunica, Mississippi và hiện giờ đang sống ở Arkansas cùng chồng và ba người con. Bà sáng tác thơ, truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Chết trước hoàng hôn (Dead Until Dark) là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết ăn khách The Southern Vampire Mysteries (Bí ẩn ma cà rồng miền Nam), từng giành được giải Anthony Award cho Tác phẩm thần bí xuất sắc nhất 2001. Bộ tiểu thuyết này cũng được đạo diễn Alan Ball chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách nhiều năm liên tiếp True Blood. “Thật khó tưởng tượng ra cảnh ma cà rồng và người sói cùng lượn lờ ở mỗi góc đường, nhưng Harris đã biết cách khiến người đọc yêu thích, bị lôi cuốn và cuối cùng là mê mệt những câu chuyện của bà.” – The Monroe News-star “Một cuốn sách bạn muốn đọc trước giờ đi ngủ, chắc mẩm sẽ chỉ theo dõi hết chương đầu tiên, nhưng hóa ra lại chỉ dừng lại được khi đã đi đến trang cuối cùng.” – Alan Ball, biên kịch American Beauty và đạo diễn True Blood “Bằng sự hòa quyện của những pha hành động, tình cảm và các chi tiết hài hước, Harris đã tạo ra một thế giới sống động đầy tính hiện thực, tất nhiên, nếu không kể đến ma cà rồng và những sinh vật siêu nhiên khác.” – The Toronto Stars *** Andy Bellefleur đã say khướt. Chuyện này chẳng bình thường với Andy chút nào - tin tôi đi, tôi biết hết mấy tay nát rượu ở Bon Temps. Nhờ nhiều năm làm việc trong quán bar của Sam Merlotte, tôi đã quen mặt tất cả bọn họ. Nhưng Andy Bellefleur, người gốc địa phương và là thanh tra trong lực lượng cảnh sát ít ỏi ở thị trấn Bon Temps, thì trước giờ chưa từng say xỉn ở quán Merlotte. Tôi cực kỳ tò mò muốn biết vì sao tối nay lại là ngoại lệ. Vì Andy và tôi chẳng hề quen thân nên tôi không thể hỏi thẳng anh ta được. Nhưng vẫn còn vài cách khác mà, thế là tôi quyết định dùng các cách ấy. Mặc dù tôi luôn cố hạn chế sử dụng khiếm khuyết, hay tài năng của mình, muốn gọi sao cũng được, để tìm ra những thứ có thể ảnh hưởng đến tôi hoặc những thứ thuộc về tôi, nhưng đôi lúc sự tò mò lại thắng thế. Tôi hạ rào chắn tâm trí xuống để đọc suy nghĩ của Andy. Rồi tôi lại thấy hối hận. Sáng nay Andy đã tóm một tên bắt cóc. Gã đàn ông đó đã bắt cóc cô bé hàng xóm mới mười tuổi mang vào rừng hãm hiếp. Cô bé đó hiện đang ở bệnh viện, còn gã kia đang ở trong tù, nhưng tổn hại mà hắn đã gây ra thì chẳng thể nào khắc phục được. Tôi buồn đến phát khóc. Tội ác ấy chạm vào sâu thẳm quá khứ của chính tôi. Sự trầm uất của Andy làm tôi thấy thích anh ta hơn một chút. “Này Andy Bellefleur, đưa chìa khóa xe anh đây,” tôi nói. Gương mặt to bành của Andy ngước lên nhìn tôi, ngơ ngác. Sau một hồi lâu ngẩn ngơ để cho lời tôi nói thẩm thấu vào trí óc rối bời của mình, Andy thò tay lục túi quần kaki rồi đưa tôi một chùm chìa khóa nặng trịch. Tôi đặt thêm một ly bourbon pha coca trên quầy bar trước mặt anh ta. “Tôi mời,” tôi nói, rồi lấy điện thoại ở cuối quầy bar gọi cho Portia, em gái Andy. Hai anh em nhà Bellefleur sống ở một căn biệt thự lớn kiểu tiền Nội Chiến hai tầng màu trắng trước đây hẳn rất tráng lệ nhưng giờ đang xuống cấp, nằm trên con phố xinh xắn nhất trong khu vực đẹp nhất thị trấn Bon Temps. Trên đường Magnolia Creek, mọi ngôi nhà đều quay mặt ra phía dải công viên có dòng suối nhỏ len qua, bắc rải rác ngang con suối là những cây cầu hoa hòe hoa sói chỉ dành riêng cho người đi bộ; đường lộ chạy dọc hai bên công viên. Trên đường Magnolia Creek còn có vài căn nhà xưa khác nữa, nhưng tất cả đều được chăm chút hơn nơi ở của gia đình Bellefleur, căn Belle Rive. Việc duy tu căn nhà Belle Rive vượt quá khả năng chi trả của Portia, một luật sư, và của Andy, một cảnh sát, vì số tiền để duy trì căn nhà cùng đất đai vườn tược chung quanh đã hết từ lâu rồi. Nhưng bà của họ, Caroline, lại gàn bướng không chịu bán. Portia nhấc điện thoại sau hồi chuông thứ hai. “Portia à, tôi là Sookie Stackhouse đây,” tôi phải lên giọng để át đi âm thanh ồn ã trong quán bar. “Hẳn là cô vẫn đang ở chỗ làm.” “Phải rồi. Andy đang ở đây, say mèm rồi. Tôi đã thu chìa khóa xe của anh ấy. Cô đến đón Andy được không?” “Andy quá chén à? Hiếm nhỉ. Được rồi, tôi sẽ đến đó trong vòng mười phút,” cô ta hứa, rồi cúp máy. “Cô tốt bụng quá, Sookie,” tự nhiên Andy thốt lên. Anh ta đã nốc cạn ly rượu tôi vừa rót. Tôi gạt cốc ra chỗ khuất mắt, mong rằng anh ta không đòi thêm nữa. “Cảm ơn anh, Andy,” tôi nói. “Anh cũng là người tốt bụng mà.” “Bạn trai… đâu ấy nhỉ?” “Ngay đây này,” một giọng nói lạnh lùng đáp lại, và Bill Compton xuất hiện ngay đằng sau Andy. Tôi mỉm cười với anh qua đầu Andy lúc này đang gục xuống. Bill cao khoảng một mét tám, tóc và mắt cùng một màu nâu sẫm. Anh có bờ vai rộng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp như của người đã lao động chân tay suốt nhiều năm liền. Trước khi đi lính, Bill đã làm việc ở trang trại, đầu tiên là cùng bố, sau đó làm một mình. Trong cuộc Nội Chiến thì phải. “Chào M.B.!” Micah, chồng của Charlsie Tooten, cất tiếng. Bill phẩy tay đáp lại, Jason, anh trai tôi, thì chào hỏi vô cùng lịch sự, “Chào buổi tối nhé, ma cà rồng Bill.” Jason, trước đây không mấy sẵn lòng đón chào Bill bước vào gia đình nhỏ của chúng tôi, nhưng giờ lại thay đổi thái độ hoàn toàn. Trong thâm tâm tôi gần như vẫn nín thở chờ xem thái độ được cải thiện này có tồn tại mãi không. “Này Bill, anh là một tay hút máu tốt bụng đấy,” Andy nói vẻ đánh giá, rồi xoay người đối mặt Bill. Tôi lại nâng cấp quan điểm của mình về Andy khi say xỉn, vì khi tỉnh táo có bao giờ anh ta tỏ ra sẵn lòng chấp nhận ma cà rồng vào xã hội con người trên đất nước này đâu cơ chứ. “Cảm ơn anh,” Bill đáp bằng giọng khô khốc. “Với một tay nhà Bellefleur thì anh cũng đâu quá tệ.” Anh rướn người qua quầy hôn tôi. Đôi môi anh cũng lạnh như chính giọng nói. Phải làm quen với điều này thôi. Như khi ngả đầu lên ngực anh, chẳng ai nghe thấy được nhịp tim đập trong ấy. “Chào buổi tối, cưng à,” anh nói nhỏ. Tôi đẩy qua quầy bar một ly B trừ, loại máu nhân tạo được Nhật Bản phát chế, anh ngửa cổ nốc cạn rồi liếm môi. Gần như ngay lập tức trông anh hồng hào hẳn. “Cuộc họp sao rồi cưng?” tôi hỏi. Bill đã ở Shreveport hầu như cả đêm hôm nay. “Anh sẽ kể cho em sau.” Tôi hy vọng những chuyện liên quan đến công việc của anh không quá bi thương như chuyện của Andy. “Được thôi. Em mong là anh sẽ giúp Portia dìu Andy ra xe cô ấy. Cô ấy đến kia kìa,” tôi nói, hất đầu về phía cửa. Đấy là lần đầu tiên tôi không thấy Portia vận bộ đồng phục váy công sở, sơ mi, áo khoác, tất dài cùng giày đế bệt. Portia đã thay quần jean xanh và một chiếc áo lạnh Sophie Newcomb nhàu nhĩ. Thân hình Portia to cao như người anh mình, nhưng cô có mái tóc màu hạt dẻ dài và dày. Chăm sóc cho mái tóc mình đẹp đẽ là một nét đặc trưng của bản thân mà Portia chưa muốn từ bỏ. Cô chỉ đưa mắt khắp đám đông om sòm chăm chăm tìm một thứ. “Ôi, anh ấy xỉn quá rồi, hay nhỉ,” cô thốt lên, thẩm định tình trạng ông anh trai của mình. Portia cố phớt lờ Bill, người đang làm cô thấy hết sức khó chịu. “Chuyện này không xảy ra thường xuyên đâu, nhưng nếu đã muốn uống thật là anh ấy sẽ uống quắc cần câu luôn.” “Portia này, Bill có thể dìu anh ấy ra ngoài xe giúp cô,” tôi nói. Andy cao và đậm người hơn Portia, rõ ràng là nặng quá sức cô em gái. “Tôi nghĩ mình có thể tự lo được,” Portia quả quyết với tôi, vẫn không thèm nhìn qua Bill, lúc này đang nhướn mày nhìn tôi. Thế là tôi để cô vòng tay qua người ông anh trai, cố nhấc anh ta ra khỏi ghế. Andy vẫn ì ra đó. Portia liếc nhìn quanh tìm Sam Merlotte, chủ quán bar, tuy anh này có vẻ ngoài nhỏ thó gầy gò nhưng thật ra lại rất khỏe. “Sam đang đi pha chế rượu cho một buổi tiệc kỷ niệm ở câu lạc bộ ngoại ô mất rồi,” tôi nói. “Tốt hơn hết là cứ để Bill giúp đi.” “Ừ thôi cũng được,” cô luật sư cứng nhắc đáp, mắt nhìn chăm chăm lên mặt gỗ quầy bar bóng loáng. “Cảm ơn rất nhiều.” Trong chớp mắt Bill đã xốc Andy lên đi ra phía cửa, mặc cho hai chân Andy cứ muốn nhũn như chi chi. Micah Tooten bật dậy mở cửa, để Bill có thể dìu Andy thẳng ra ngoài bãi đỗ xe. “Cảm ơn cô, Sookie,” Portia nói. “Tiền rượu anh ấy đã trả hết chưa?” Tôi gật đầu. “Được rồi,” cô nói, vỗ nhẹ tay xuống bàn để ra hiệu là cô về đây. Cô phải nghe hàng đống lời khuyên đầy thiện chí khi theo bước Bill ra khỏi cửa chính của quán Merlotte. Đó là lý do vì sao mà chiếc Buick cũ kỹ của thanh tra Andy Bellefleur lại đỗ trong bãi xe quán Merlotte suốt đêm đến tận ngày hôm sau. Sau này hẳn anh ta sẽ thề rằng dĩ nhiên không có ai trong chiếc Buick ấy khi mình bước ra khỏi xe đi vào quán. Hẳn anh ta cũng sẽ khai rằng trước đó do quá bận tâm về cơn hỗn loạn nội tâm nên đã quên khóa cửa. Đâu đó trong khoảng thời gian từ tám giờ tối, khi Andy bước vào quán Merlotte, đến mười giờ sáng hôm sau, khi tôi đến để giúp mở cửa tiệm, xe của Andy đã có thêm một hành khách mới. Người này chắc chắn sẽ gây ra một nỗi xấu hổ trầm trọng cho viên cảnh sát. Hắn đã chết. Đáng lẽ ra tôi không nên đến đây làm gì. Đêm trước tôi đã làm ca khuya, và nhẽ ra tối hôm sau tôi lại phải làm ca khuya nữa. Nhưng Bill đã yêu cầu tôi đổi ca với một đồng nghiệp khác, bởi anh cần tôi đi cùng đến Shreveport, và Sam đã không phản đối. Tôi đã nhờ chị bạn Arlene đổi ca với tôi. Hôm ấy là ngày nghỉ của chị, nhưng Arlene luôn muốn kiếm những món tiền boa hậu hĩnh hơn khi làm việc ca tối, nên chị đồng ý đến quán vào lúc năm giờ chiều. Kỳ thực, lẽ ra Andy đã phải đến lấy xe buổi sáng hôm đó, nhưng anh ta vẫn còn quá váng vất không đủ sức làm trò buộc Portia cho quá giang đến quán Merlotte, quán này thì không nằm trên đường tới đồn cảnh sát. Cô bảo buổi trưa sẽ đến đón anh ở chỗ làm, và cả hai sẽ dùng bữa ở quán. Sau đó thì anh ta có thể lấy xe. Thế nên chiếc Buick, cùng vị hành khách câm lặng của mình, đã phải chờ lâu hơn thời gian cần thiết mới được phát hiện. Tôi đã ngủ khoảng sáu tiếng đêm trước đó, nên cảm thấy trong người khá khỏe khoắn. Hẹn hò với ma cà rồng có thể sẽ làm khó cho sự cân bằng của bạn nếu bạn thực là người sống về ban ngày, như tôi đây này. Tôi giúp mọi người đóng cửa quán, rồi về nhà với Bill trước một giờ sáng. Hai chúng tôi cùng tắm trong bồn tắm nước nóng nhà anh, rồi làm vài chuyện khác nữa, nhưng tôi đã đi ngủ sau hai giờ một chút, và mãi đến gần chín giờ sáng mới thức dậy. Lúc đó thì Bill đã xuống lòng đất từ lâu rồi. Tôi uống thật nhiều nước, nước cam cùng một viên vitamin tổng hợp và một viên bổ sắt vào bữa sáng, đó là chế độ dinh dưỡng của tôi kể từ khi Bill bước vào đời tôi và mang theo (cùng với tình yêu, trò phiêu lưu, lẫn sự phấn khích) mối đe dọa triền miên của chứng thiếu máu. Thời tiết đang dần trở nên mát mẻ hơn, tạ ơn Chúa, khi tôi ngồi trước hiên nhà Bill, mặc áo len móc dài tay và chiếc quần dài màu đen mà chúng tôi vẫn mặc làm việc ở quán Merlotte mỗi khi trời quá lạnh không thể mặc quần soóc được. Chiếc áo sơ mi đánh gôn trắng của tôi có thêu chữ BAR MERLOTTE’S bên ngực trái. Khi đang đọc lướt qua tờ báo buổi sáng, một phần tâm trí khác của tôi giúp tôi nhận ra một thực tế rõ ràng là cỏ mọc không nhanh như trước kia. Có vẻ như một vài ngọn cỏ bắt đầu ngả màu dần. Tình trạng sân bóng trong trường trung học chắc hẳn sẽ khá xấu vào tối thứ Sáu tới đây. Mùa hè ở Louisiana cứ dùng dằng mãi không dứt, kể cả ở miền Bắc Louisiana cũng thế. Mùa thu đến rất miễn cưỡng, cứ như thể bất cứ lúc nào mùa thu cũng có thể bỏ cuộc để lại nhường chỗ cái nóng hầm hập của tháng Bảy vậy. Nhưng tôi vốn mẫn cảm, và có thể điểm mặt được những dấu hiệu của mùa thu vào buổi sáng hôm nay. Mùa thu và mùa đông đến có nghĩa là đêm được dài hơn, thời gian ở bên Bill được lâu hơn, và giấc ngủ được thêm vài giờ nữa. Nên tôi đi làm với tâm trạng vui vẻ. Khi thấy chiếc Buick vẫn còn đỗ một mình trước quán bar, tôi nhớ lại chầu rượu say bí tỉ bất thường của Andy tối qua. Phải thú thật rằng, tôi đã mỉm cười khi nghĩ đến cảm giác của anh ta sáng nay. Ngay khi chuẩn bị vòng xe ra đằng sau để đỗ xe cùng với những nhân viên khác, tôi nhác thấy cửa sau của xe Andy mở he hé. Nếu cứ để như vậy thì đèn trần chắc chắn sẽ sáng hoài, phải không nào? Và ắc quy xe anh ta sẽ cạn mất. Và chắc hẳn anh ta sẽ cáu điên lên, rồi phải vào trong quán bar mà gọi xe đến cẩu đi, hoặc nhờ ai đó làm nóng xe cho mình… nên tôi đỗ xe vào bãi rồi ra khỏi xe, cứ để máy nổ. Hóa ra đây lại là một sai lầm tai hại vì lạc quan quá mức. Tôi ẩy cánh cửa vào, nhưng nó chỉ nhích tới có một phân. Thế nên tôi tì cả người vào cánh cửa, nghĩ rằng nó sẽ dập khóa lại và tôi có thể đi làm việc khác. Nhưng một lần nữa, cánh cửa không chịu sập lại. Tôi sốt ruột giật toang cửa ra để xem thứ gì kẹt trong cửa xe. Một luồng hôi thối ùa tràn ra bãi đỗ xe, một mùi hôi thối chết chóc. Tôi nghẹn họng mất hết tinh thần, vì tôi chẳng xa lạ gì với mùi hôi thối ấy. Tôi thò đầu vào trong băng ghế sau của xe, tay bịt chặt miệng, dù rằng làm thế cũng chẳng ngăn được thứ mùi này. “Ôi, trời ơi,” tôi thì thào. “Ôi, chết tiệt.” Lafayette, tay bếp làm một ca ở quán Merlotte, đã bị nhồi vào ghế sau. Trần truồng. Chính bàn chân nhỏ màu nâu của Lafayette với những móng chân sơn màu mận chín đã ngăn không cho cánh cửa đóng sập lại, và chính cái xác của Lafayette đã tạo ra thứ mùi xóc cả óc đó. Tôi vội nhảy phắt ra sau, lẩy bẩy leo vào xe mình rồi lái vòng ra phía sau quán, bấm còi inh ỏi. Sam chạy ra từ phía cửa dành cho nhân viên, tạp dề cột quanh eo. Tôi tắt máy xe và lao bắn ra ngoài nhanh đến nỗi chính bản thân còn không nhận thức được mình đã ra khỏi xe, và tôi ôm choàng lấy anh như một chiếc tất tích điện. “Chuyện gì thế?” Tiếng Sam vang lên trong tai tôi. Tôi ngửa người ra sau ngước nhìn anh, chẳng phải ngước lên quá cao làm gì vì Sam hơi nhỏ con. Mái tóc vàng hoe hoe đỏ của anh lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sớm. Cặp mắt xanh biêng biếc đang mở to khiếp đảm. “Lafayette đó,” tôi nói, bắt đầu thút thít. Khóc lóc thì kỳ cục, ngớ ngẩn và vô tích sự thật, nhưng tôi không kìm lại được. “Anh ấy chết rồi, trong xe của Andy Bellefleur ấy.” Vòng tay của Sam siết chặt sau lưng tôi khi anh lại kéo tôi sát vào lòng. “Sookie, thật tiếc là em đã phải nhìn thấy cảnh ấy,” anh bảo. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát. Lafayette tội nghiệp.” Việc làm đầu bếp ở quán Merlotte không nhất thiết đòi hỏi tay nghề bếp núc cao siêu gì, vì Sam chỉ bán vài món sandwich và khoai tây chiên, nên vị trí này thay người luôn. Nhưng bất ngờ thay, Lafayette lại là người làm việc ở đây được lâu nhất. Lafayette là người đồng tính, đồng tính kiểu hoa hòe hoa hoét, kiểu trang-điểm-và-để-móng-tay-dài. Người dân miền Bắc Louisiana vẫn còn khó chấp nhận được chuyện này hơn dân ở New Orleans, nên tôi ngờ rằng Lafayette, một người da màu, đã phải hứng chịu khó khăn gấp đôi. Mặc cho - hay nhờ vào - những khó khăn đó, anh ấy vẫn luôn vui vẻ, lém lỉnh khôi hài, thông minh, và là đầu bếp giỏi thực thụ. Anh ấy đã chế một loại xốt đặc biệt để ướp hamburger, và người ta gọi món burger Lafayette khá thường xuyên. “Anh ấy có người thân nào ở đây không nhỉ?” tôi hỏi Sam. Chúng tôi tự giác rời nhau ra và rảo bước về phía tòa nhà, vào văn phòng của Sam. “Anh ấy có một tay anh em họ nào đó,” Sam vừa nói vừa nhấn 9-1-1. “Làm ơn đến quán Merlotte trên đường Hummingbird ngay,” anh nói với người trực tổng đài. “Có một xác chết đàn ông trong xe ở đây. Phải, trong bãi đỗ xe, ngay trước cửa quán. À, chị cũng làm ơn báo cho Andy Bellefleur đi. Xe của anh ta đấy.” Từ chỗ đang đứng, tôi có thể nghe thấy tiếng trả lời bai bải ở phía đầu dây bên kia. Danielle Gray và Holly Cleary, hai phục vụ bàn ca sáng, bước vào qua cửa sau, cười hô hố. Hai cô này đều đã ly dị lúc hai lăm hai sáu tuổi, là bạn với nhau từ thuở thiếu thời, có vẻ như đều khá hài lòng với công việc này miễn là được làm việc cùng nhau. Holly có một cậu con trai năm tuổi đang học mẫu giáo, còn Danielle có một cô con gái bảy tuổi và một cậu con trai chưa đến tuổi đi học để ở nhà cho bà trông khi cô ấy đến quán Merlotte làm việc. Tôi chẳng bao giờ gần gũi được với hai người phụ nữ này - dù rằng họ cũng sàn sàn tuổi tôi - bởi họ luôn chăm chắm quan tâm tới nhau mà thôi. “Có chuyện gì vậy?” Danielle hỏi khi cô ta nhìn thấy mặt tôi. Khuôn mặt choắt và đầy tàn nhang của cô ta lập tức trở nên lo lắng. “Sao xe của Andy ở trước cửa quán vậy?” Holly hỏi. Có thời cô ấy đã cặp kè với Andy Bellefleur, tôi chợt nhớ ra. Holly có mái tóc vàng tém ngắn lòa xòa quanh mặt như những cánh hoa cúc dại héo rũ, và làn da đẹp nhất mà tôi từng thấy. “Anh ta ngủ qua đêm trong xe à?” “Không phải,” tôi đáp, “mà là người khác kia.” “Ai?” “Lafayette ở trong xe.” “Andy để một tay lập dị da đen ngủ trong xe của mình sao?” Câu này của Holly, người khi nào cũng thẳng thừng vô duyên. “Chuyện gì đã xảy ra với anh ta thế?” Câu này của Danielle, người thông minh hơn trong hai cô. “Tụi này không biết nữa,” Sam đáp. “Cảnh sát đang trên đường đến đây.” “Ý anh là,” Danielle nói, thật chậm rãi từng chữ một, “anh ta đã chết.” “Phải,” tôi bảo cô ta. “Đó chính xác là ý của tụi này.” “Này, một giờ nữa là chúng ta phải mở cửa rồi,” Holly chống tay lên bờ hông tròn trịa của mình. “Chúng ta sẽ xử lý chuyện này ra sao đây? Nếu cảnh sát cho chúng ta mở cửa, ai sẽ làm bếp chứ? Mọi người vào quán, họ sẽ muốn dùng bữa trưa.” “Tốt hơn là cứ chuẩn bị sẵn sàng đi, để đề phòng thôi,” Sam nói. “Dù tôi đang nghĩ là mãi đến chiều mình mới được phép mở cửa kia.” Anh vào văn phòng để bắt đầu gọi cho mấy tay đầu bếp thay thế. Thật lạ lẫm khi phải làm những việc chuẩn bị thường ngày trước khi mở cửa quán, cứ như thể Lafayette sẽ đi vào bất cứ lúc nào cùng một câu chuyện về buổi tiệc nào đó mà anh ấy đã tham dự, như mới vài ngày trước đây anh cũng đã đi vào như thế. Tiếng còi hụ của xe cảnh sát vang vọng từ con đường chạy ngang qua trước quán Merlotte. Tiếng bánh xe nghiến lạo xạo trên bãi xe rải sỏi của Sam. Đến khi chúng tôi hạ hết ghế xuống, bày biện bàn ăn, cuộn thêm vài bộ dao nĩa dự phòng vào khăn ăn để sẵn sàng thay thế cho những bộ dao nĩa đã được dùng đến, thì cảnh sát bước vào. Quán Merlotte nằm ngoài phạm vi thị trấn, nên viên cảnh sát trưởng địa phương, Bud Dearborn, sẽ đảm trách vụ này. Bud Dearborn là một người bạn rất thân của ba tôi trước kia, giờ đây mái tóc đã điểm bạc. Ông có khuôn mặt bèn bẹt, như người mang mặt chó Bắc Kinh, và đôi mắt nâu mờ đục. Khi ông bước vào cửa trước quán, tôi nhận ra Bud vẫn còn đang đi đôi bốt nặng nề và đội chiếc mũ lưỡi trai đội bóng Saints. Chắc hẳn ông bị gọi đến khi vẫn đang làm việc ngoài nông trại. Bud đi cùng Alcee Beck, viên thanh tra da màu duy nhất trong lực lượng cảnh sát địa phương. Da Alcee đen đến nỗi chiếc sơ mi trắng của anh ta sáng lóa lên vì tương phản. Chiếc cà vạt được thắt ngay ngắn, bộ vét hết sức chỉnh tề. Còn đôi giày da thì được đánh bóng loáng lấp lánh. Bud và Alcee thay phiên nhau coi quản trong vùng… ít nhất thì cũng có vài người quan trọng hơn để giữ cho khu vực này còn hoạt động. Mike Spencer, giám đốc công ty mai táng kiêm nhân viên pháp y của địa phương, cũng là người có vai vế trong địa phương, là bạn thân của Bud. Tôi sẵn sàng đánh cuộc rằng lúc này Mike đã ra ngoài bãi xe, tuyên bố Lafayette tội nghiệp đã chết. Bud Dearborn hỏi, “Ai là người phát hiện ra cái xác?” “Tôi đây.” Bud và Alcee liếc nhìn nhau đầy ẩn ý và bước về phía tôi. “Sam à, bọn tôi mượn văn phòng của cậu được chứ?” Bud hỏi. Không cần đợi Sam trả lời, ông ta hất đầu ra dấu cho tôi đi vào. “Chắc chắn rồi, thẳng vào trong ấy đấy,” ông chủ của tôi đáp khô khốc. “Em ổn chứ, Sookie?” “Không sao đâu mà, Sam.” Tôi không chắc điều này có thật hay không, nhưng Sam có phản ứng kiểu gì với cái yêu cầu này thì cũng gặp rắc rối hết, vô ích thôi. Mặc dù Bud ra dấu cho tôi ngồi xuống, tôi lắc đầu khi ông ta và Alcee an vị trên hai cái ghế trong văn phòng. Bud, tất nhiên là ngồi trên cái ghế to bành của Sam, còn Alcee thì giành lấy chiếc ghế phụ vẫn còn ngon, chiếc ghế vẫn còn lại chút ít nệm lót ấy. “Kể cho chúng tôi nghe về lần cuối cùng cô gặp Lafayette còn sống đi,” Bud gợi ý. Tôi suy nghĩ. “Anh ấy không làm việc tối qua,” tôi nói. “Mà là Anthony. Anthony Bolivar.” “Ai thế nhỉ?” Vầng trán rộng của Alcee nhăn lại. “Không nhận ra cái tên đó.” “Anh ta là bạn của Bill. Anh ta đang lang bạt qua vùng này, và cần một công việc. Anh ta có kinh nghiệm.” Anh ta đã làm việc tại quán ăn trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. “Ý cô là tay đầu bếp tạm thời ở đây là một ma cà rồng? “Thì sao chứ?” tôi hỏi lại, khóe miệng cong lên ương bướng, lông mày nhíu lại, và tôi biết rằng khuôn mặt mình đang dần toát lên vẻ giận dữ. Tôi đang cố hết sức để không phải đọc tâm trí của họ, cố bằng mọi giá để hoàn toàn không thông tâm gì cả, nhưng việc này không dễ dàng. Bud Dearborn thì thường thường thôi, nhưng Alcee thì phóng suy nghĩ ra cứ như kiểu ngọn hải đăng truyền phát tín hiệu vậy. Ngay lúc này đây anh ta đang tỏ vẻ ghê tởm và kinh sợ. Trong thời gian trước khi gặp Bill, và nhận ra anh quý trọng khiếm khuyết của tôi - là tài năng, như cách anh nhìn nhận - tôi đã cố hết sức để dối gạt bản thân và lừa phỉnh mọi người rằng tôi thực sự không biết “đọc” tâm trí. Nhưng kể từ khi Bill giải thoát tôi khỏi lao tù nhỏ bé mà tôi tự xây lên cho bản thân, thì tôi đã thực tập và trải nghiệm, trong sự khuyến khích của Bill. Vì anh, tôi đã mô tả thành lời những thứ mà mình đã và đang cảm nhận suốt hàng mấy năm trời. Có vài người gửi đi những thông điệp hết sức mạnh mẽ, rõ ràng, như Alcee đây. Còn đâu thì hầu hết mọi người lúc này lúc khác, như Bud Dearborn vậy. Theo như những gì tôi biết thì chuyện này phụ thuộc rất nhiều vào việc cảm xúc của họ mãnh liệt đến đâu, mức độ tỉnh táo của họ ra sao, thời tiết như thế nào. Còn có vài người thì kín như bưng đến nỗi gần như không thể biết được họ đang nghĩ gì. Có lẽ tôi có thể đọc được tâm trạng của họ, nhưng tất cả chỉ có vậy. Tôi đã thừa nhận rằng nếu được chạm vào người khác khi cố đọc tâm trí họ, thì bức tranh trở nên sáng sủa hơn - như sử dụng đường truyền cáp sau khi dùng ăng ten ấy. Và tôi cũng phát hiện ra rằng nếu mình “gửi” những hình ảnh thư giãn cho người ta, thì tôi có thể len lỏi vào tâm trí của họ dễ như bỡn. Tôi thì không muốn thâm nhập vào suy nghĩ của Alcee Beck chút nào. Nhưng tôi đang hoàn toàn miễn cưỡng đón nhận bức tranh toàn cảnh về phản ứng mê tín đến độ cực đoan của Alcee khi anh ta nhận ra có một ma cà rồng làm việc ở quán Merlotte, về nỗi khiếp sợ của anh ta khi phát hiện ra tôi là người phụ nữ mà anh ta đã nghe nói đang hẹn hò với ma cà rồng, về lời kết tội từ trong sâu thẳm của anh ta cho rằng tên đồng tính công khai Lafayette là một nỗi ô nhục cho cộng đồng người da màu. Alcee đoán rằng ai đó hẳn là muốn chơi khăm Andy Bellefleur, khi tống xác của một gã đồng tính da màu vào xe của Andy. Alcee đang băn khoăn không rõ Lafayette có bị nhiễm AIDS không, rồi liệu làm sao đấy mà con virút ấy có thấm vào ghế xe Andy và cứ tồn tại ở đó không. Alcee sẽ bán xe ngay, nếu đó là xe của anh ta. Nếu chạm vào Alcee, hẳn là tôi sẽ biết được luôn cả số điện thoại và cỡ áo ngực của vợ anh ta nữa. Bud Dearborn nhìn tôi kỳ kỳ. “Chú vừa nói gì ạ?” tôi hỏi. “Phải. Ta thắc mắc không biết cháu có gặp Lafayette ở đây suốt tối qua không. Anh ta có ghé vào quán uống ẩm gì chăng?” “Cháu chẳng bao giờ gặp anh ấy ở đây cả.” Ngẫm lại chuyện này, thì tôi chẳng bao giờ thấy Lafayette uống rượu. Lần đầu tiên, tôi mới nhận ra rằng mặc dù đám người đến ăn trưa có cả người da màu và người da trắng, nhưng những vị khách đến quán buổi tối hầu như rặt là người da trắng. “Anh ta hay tụ tập ở đâu?” “Cháu chịu.” Tất cả những câu chuyện Lafayette kể đều được thay đổi tên họ để bảo vệ danh tính những người vô tội. À ừ, thực ra, là những kẻ có tội thì đúng hơn. “Lần cuối cùng cháu gặp anh ta là khi nào?” “Đã chết, nằm trong xe.” Bud cáu kỉnh lắc đầu. “Lúc còn sống cơ, Sookie à.” “Hừmm, cháu nghĩ là… cách đây ba ngày. Anh ấy vẫn ở đây khi cháu đến làm ca của mình, và bọn cháu chào nhau. À, anh ấy có kể cho cháu nghe về một buổi tiệc mà mình đã đến dự.” Tôi cố nhớ lại chính xác những lời của anh. “Anh ấy bảo đã đến một ngôi nhà nơi diễn ra đủ kiểu làm tình hoang đàng trụy lạc.” Hai người đàn ông há hốc nhìn tôi. “Vâng, anh ấy đã bảo thế đấy! Cháu cũng không biết chuyện đó có bao nhiêu phần sự thật.” Tôi hình dung ra khuôn mặt của Lafayette khi anh ta kể tôi nghe chuyện này, cái cách anh ta điệu đà đặt ngón tay ngang môi ngụ ý rằng anh ta sẽ không nói cho tôi biết bất kể cái tên hay địa điểm nào cả. “Cháu không nghĩ là người khác phải biết chuyện này à?” Bud Dearborn trông bàng hoàng. “Đó là một bữa tiệc riêng tư. Sao cháu phải kể cho người khác chứ?” Nhưng kiểu tiệc tùng như thế không được phép diễn ra trong địa phận của hai người này. Hai người đàn ông vẫn chằm chằm nhìn tôi. Bud hỏi qua kẽ răng, “Lafayette có kể cho cháu nghe gì về chuyện sử dụng ma túy trong buổi gặp gỡ ấy không?” “Không, theo cháu nhớ thì không.” “Bữa tiệc đó được tổ chức ở nhà người da trắng hay người da đen?” “Da trắng,” tôi đáp, rồi lại ước gì mình đã lấy cớ không biết. Nhưng Lafayette đã thật sự ấn tượng với ngôi nhà - mặc dù không phải vì căn nhà mỹ miều hay to lớn gì. Thế sao anh ấy bị ấn tượng đến thế? Tôi không chắc Lafayette sẽ thấy ấn tượng với những thứ gì, anh đã sinh ra, lớn lên và mãi đến bây giờ vẫn trong cảnh nghèo khó, nhưng tôi chắc chắn rằng anh ấy đã kể về nhà của một người da trắng nào đó, vì anh ấy có nói, “Tất cả ảnh trên tường đều chụp những người trắng như hoa huệ và mỉm cười như cá sấu.” Tôi không kể lời nhận xét đó ra cho đám cảnh sát, và họ cũng không hỏi gì thêm. Rời khỏi văn phòng của Sam, sau khi giải thích lý do trên hết vì sao xe của Andy lại ở trong bãi xe, tôi trở ra đứng sau quầy. Tôi không muốn quan sát những gì đang diễn ra ở bãi đỗ xe, và chẳng có khách hàng nào để phục vụ cả, vì mọi lối vào bãi đỗ xe đã bị cảnh sát chặn hết rồi. Sam đang sắp xếp những chai rượu đằng sau quầy, vừa đi vừa phủi bụi chúng, còn Holly và Danielle đã ngồi phịch xuống một bàn ở khu vực hút thuốc để Danielle có thể hút một điếu. “Mọi chuyện thế nào?” Sam hỏi. “Cũng chẳng có gì nhiều. Họ không thích nghe chuyện Anthony làm việc ở đây, và họ cũng không ưa những gì em kể về bữa tiệc mà Lafayette cứ lải nhải hôm trước ấy. Anh có nghe thấy anh ấy kể với em không? Cái vụ làm tình tập thể ấy?” “Có, anh ta cũng kể mấy chuyện đó với anh nữa. Buổi tối hôm đó với anh ta hẳn là đã lắm. Nếu quả thật là có bữa tiệc kiểu đó.” “Anh nghĩ rằng Lafayette bịa chuyện sao?” “Anh không nghĩ ở Bon Temps lại có nhiều buổi tiệc kiểu tạp chủng, lưỡng tính thế đâu,” anh đáp. “Nhưng đó chẳng qua là vì không có ai mời anh cả thôi,” tôi nói thẳng ra. Tôi băn khoăn không hiểu liệu mình có biết tí gì về những chuyện diễn ra nơi thị trấn nhỏ bé này không. So ra với tất cả mọi người ở Bon Temps thì tôi phải là người biết rõ mọi thứ từ trong ra ngoài, vì mọi thông tin ít nhiều gì cũng sẵn ra đấy, nếu tôi muốn bới móc tìm hiểu, “Ít nhất thì, theo em đây là lý do chứ nhỉ?” “Ừ đấy là lý do đấy,” Sam đáp, khẽ mỉm cười với tôi trong lúc chùi một chai whiskey. “Em nghĩ thiệp mời của em cũng bị thất lạc ở bên bưu điện mất rồi.” “Em có nghĩ rằng Lafayette trở lại đây tối hôm qua là để kể cho anh hoặc em nghe về bữa tiệc đó không?” Tôi nhún vai. “Có lẽ anh ta chỉ hẹn gặp ai đó ở bãi đỗ xe thôi. Dù sao thì, ai cũng biết quán Merlotte ở đâu mà. Mà anh ấy đã lấy lương chưa?” Đã cuối tuần rồi, thường thì đây là lúc Sam trả tiền cho bọn tôi. “Chưa. Có lẽ anh ấy đến cũng vì chuyện đó, nhưng anh định hôm sau mới đưa cho anh ta. Hôm nay này.” “Em thắc mắc không biết ai đã mời Lafayette đi dự tiệc.” “Câu hỏi hay đấy.” “Anh không nghĩ rằng anh ta ngu đến nỗi cố tống tiền ai đó chứ nhỉ?” Sam cọ cọ lớp gỗ giả trên mặt quầy bằng một chiếc giẻ sạch. Quầy đã sạch bóng lên rồi, nhưng anh vẫn cứ thích luôn chân luôn tay, tôi nhận thấy thế. “Anh không nghĩ vậy,” anh nói sau một hồi suy nghĩ. “Không thể nào, họ hẳn đã chọn nhầm người rồi. Em biết Lafayette tám đến cỡ nào mà. Anh ta không chỉ kể cho chúng ta nghe việc mình đi đến một buổi tiệc như thế - anh dám cá là anh ta không được phép kể - mà còn muốn lợi dụng buổi tiệc để làm tiếp những chuyện mà mấy người khác, à ừ, mấy người tham gia ấy, sẽ phải khó chịu.” “Kiểu như là, giữ liên lạc với những người cũng từng tham gia bữa tiệc ấy? Nháy mắt đưa tình với họ ở chốn đông người?” “Đại loại như thế.” “Em nghĩ rằng nếu ta có làm tình với ai đó, hoặc xem họ làm tình với nhau, ta sẽ cảm thấy rằng mình ngang hàng với họ.” Tôi không quả quyết lắm khi nói ra điều này, vì không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy lắm, nhưng Sam lại đang gật gù. “Điều Lafayette mong muốn nhất là được mọi người chấp nhận bản chất con người mình,” anh nói, và tôi buộc phải đồng ý. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Ở Dallas của tác giả Charlaine Harris & Thiện Hoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kiếm Tôn
Một kiếm độc nhất vô nhị! Một kiếm làm bá chủ thiên hạ! Ai không phục cứ tới! Chư Thiên Thần Phật, sinh tử không màng!  Nhất Kiếm Độc Tôn! *** Thanh thành! Từ đường Diệp gia! … - Tiên tổ ở trên, Diệp Huyền vô tài vô đức… Từ giờ trở đi, tước vị Thế tử của Diệp Huyền, chuyển cho Diệp Lang kế thừa. Người cất tiếng nói, chính là một lão giả hắc bào. Sau lưng lão không xa, là một thiếu niên đang đứng, khóe môi nhếch lên, nở nụ cười nhàn nhạt. Người này, chính là Diệp Lang được nhắc tới. Mà hai bên, đều là Trưởng lão Diệp gia. - Tại sao? Đúng lúc này, một thanh âm có chút sợ hãi đột nhiên vang lên. Đám người theo tiếng nhìn lại, ngoài cửa có một tiểu nữ hài, tuổi chừng mười hai mười ba, hai tay nắm chặt mép áo, sắc mặt còn có một tia trắng nhợt bệnh tật, nhìn qua có chút suy yếu, trong mắt còn mang theo một tia e sợ. Tiểu nữ hài này tên Diệp Linh, cũng là thân muội muội của Diệp Huyền còn lại trong lời lão giả hắc bào nói, lần này nghe gia tộc muốn tước vị Diệp Huyền, lập tức mặc kệ trên người đang có bệnh mà chạy tới. Lão giả hắc bào cau mày: - Diệp Linh, ngươi muốn làm gì! Tiểu nữ hài tên Diệp Linh hơi khom người thi lễ, e sợ lên tiếng: - Đại trưởng lão, ca ca Diệp Huyền của ta là Thế tử, vì sao ngươi vô duyên vô cớ muốn tước vị của hắn? Đại trưởng lão lạnh lùng nhìn lại: - Đây là đại sự của gia tộc, không có chỗ cho ngươi chen miệng! Xuống! Hiển nhiên Diệp Linh có chút e ngại, không dám nhìn thẳng Đại trưởng lão, nhưng nàng cũng không rời đi, hít một hơi thật sâu, bước vào trong từ đường, lần nữa thi lễ với Trưởng lão hai bên: - Chư vị Trưởng lão, ca ca ta ở Nam Sơn tranh đoạt quặng mỏ với Lý gia, giờ hắn đang liều mạng vì gia tộc, sinh tử coi nhẹ, mà cũng lúc này, gia tộc lại vô duyên vô cớ tước vị trí Thế tử của hắn, chuyện này thực sự không công bằng. - Càn rỡ! Đại trưởng lão đột nhiên cả giận: - Tước hay không tước vị của hắn, còn chưa tới phiên một tiểu nha đầu như ngươi nói. Người đâu, kéo nàng ra ngoài cho ta. Đúng lúc này, tân nhiệm Thế tử Diệp Lang đột nhiên cười nói: - Nên phạt ba mươi trượng, lấy đó làm răn đe! Đại trưởng lão lạnh lùng nói: - Vậy thì phạt ba mươi trượng! Rất nhanh, hai tên thị vệ Diệp gia vọt tới. Diệp Linh nắm chặt hai tay, có chút tức giận nói: - Không công bằng, ca ca ta vì gia tộc mà vào sinh ra tử, thời thời khắc khắc đều liều mạng vì lợi ích Diệp gia, gia tộc làm vậy quá không công bằng với hắn… Một tên thị vệ nhìn qua tân nhiệm Thế tử Diệp Lang, hắn biết, cơ hội biểu hiện của hắn tới. Thị vệ cười lạnh: - Lang thiếu gia kế thừa vị trí Thế tử, chính là chúng vọng sở quy, ngươi ồn ào cái gì? Nói xong, hắn nâng tay đánh lên mặt Diệp Linh. Ba! Một cái tát vang lên thanh thúy, má phải Diệp Linh lập tức đỏ hồng sưng lên, có điều, nàng không khóc, chỉ gắt gao bưng lấy má phải. Diệp Lang liếc mắt đánh giá tên thị vệ kia, cười nói: - Ngươi tên là gì? Thị vệ kia vội vàng thi lễ: - Thuộc hạ Chương Mộc, bái kiến Thế tử. Diệp Lang gật nhẹ: - Không tồi, sau khi ta thành Thế tử, cũng cần thân vệ với, sau này ngươi làm thân vệ cho ta đi. Nghe vậy, Chương Mộc lập tức mừng rỡ, vội vàng thi lễ thật sâu: - Thuộc hạ nguyện vì Thế tử mà xông pha khói lửa, muôn chết không từ! Diệp Lang khẽ gật đầu: - Mang xuống đi, người này nhiễu loạn từ đường, không cần lưu thủ, hiểu chứ? Chương Mộc nhìn thoáng qua Diệp Lang, thấy sát ý trong mắt đối phương, hắn hiểu, lập tức tóm tóc Diệp Linh kéo ra ngoài. Đúng lúc này, không biết Chương Mộc nhìn thấy cái gì, đột nhiên dừng lại. Mà đám người trong từ đường, cũng dồn dập quay đầu nhìn ra ngoài. Từ ngoài cách từ đường không xa, một thiếu niên nhanh chóng bước tới, một bộ võ phục nhẹ nhàng nhưng đã sớm rách tung tóe, khắp nơi đều là máu. Người tới, chính là Diệp Huyền gấp gáp chạy từ Nam Sơn trở về! Thấy Diệp Huyền, khóe miệng Diệp Lang hơi vểnh lên một nụ cười âm trầm, mà đám Trưởng lão trong từ đường, cũng đều khẽ nhíu mày lại. Đại trưởng lão híp mắt, vẻ mặt âm trầm tới đáng sợ, không biết đang suy nghĩ gì. Nơi xa, Diệp Huyền vừa nhìn thấy Chương Mộc kéo tóc Diệp Linh, sắc mặt lập tức trở nên dữ tợn: - Ai cho ngươi gan chó đụng tới muội muội ta? Chương một nhìn thấy Diệp Huyền, sắc mặt lập tức đại biến, vội vàng nhìn về phía Diệp Lang, đang muốn nói chuyện, đã thấy Diệp Huyền cuồng nộ vồ tới, còn chưa kịp phản ứng, một quyền đã đập tới trước mặt. Ầm! Chương Mộc choáng váng, thân hình lảo đảo té ngã. Mà Diệp Huyền cũng khogn dừng tay, lần nữa vọt tới, đúng lúc này, Diệp Lang trong từ đường đột nhiên cả giận: - Diệp Huyền, hắn là người của ta, ngươi dám… Diệp Huyền đạp một cước, giữa ngực Chương Mộc, dí chặt đối phương xuống mặt đất. Phốc! Chương Mộc lập tức hộc máu. Nhìn thấy cảnh này, sắc mặt Diệp Lang càng thêm khó coi, mà Diệp Huyền lại ngẩng đầu nhìn hắn, gằn giọng nói: - Người của ngươi? Nói xong, bỗng lại đạp một cước lên mặt Chương Mộc.   Mời các bạn đón đọc Kiếm Tôn của tác giả Thanh Phong Loan Thượng.
Đại Nam Dị Truyện
Năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi ba, huyện Cốc Dương, trấn Sơn Tây, đêm rằm tháng Bảy. Một gã phù thủy đang lập trận thu nạp âm binh giữa bãi chôn người. Phạm Đình Quyết, dòng dõi của một gia đình chín đời làm nghề khâm liệm đã vô tình chứng kiến cảnh tượng kinh dị này. Từ đây, hắn bắt đầu bước chân vào một thế giới chưa từng biết. Hắn dần dần khám phá ra bí mật của gia đình mình. Và thân phận thực sự của hắn, một Lạc Vu Điện Súy của Trấn Quốc Hội, nơi tập hợp những phù thủy cao tay, những nhà huyền thuật xuất sắc đang âm thầm bảo vệ Đông Kinh trước sự tấn công của giáo phái Hàng Long tà đạo từ ngoại bang. Một câu chuyện về thế giới của phù thủy, vong hồn, bùa ngải, huyền thuật, tà thuật. Kinh dị, huyền bí, li kỳ, nhưng cũng đầy hào sảng. *** Hắn đã vượt qua ngôi làng ấy. Ngôi làng mà người ta gọi là ngôi làng ma. Hắn đã vượt qua nghĩa địa ấy. Nghĩa địa của ngôi làng ma. Bây giờ hắn đứng trước một rặng tre lớn. Trên khuôn mặt hắn, mồ hôi chảy thành từng hàng, thậm chí ngay cả trong cái không khí lạnh lẽo này. Khuôn mặt ấy, cái khuôn mặt nhợt nhạt vì vừa trải qua một trận chiến mà trước khi dấn thân vào, hắn cũng không thể tin chắc mình có thể vượt qua hay không, bấy giờ có chút co giật. Cả đời hắn xuất hiện hai cơn co giật như thế, lần đầu tiên là vào một đêm mưa. Một ánh chớp lóe lên, kéo dài trên bầu trời. Mặc dù đã chuẩn bị trước, nhưng hắn vẫn giật mình khi tiếng sấm vang lên sau đó vài khoảnh khác. Hắn đã bật chăn, vụt dậy, đẩy cửa chạy sang phòng bố mẹ hắn. Thật lạ, trong căn phòng, đèn vẫn sáng. Hẳn là đã khuya lắm rồi, nhưng đèn vẫn sáng. Cơn tò mò làm hắn không bước vào ngay mà ghé mắt qua cửa để nhìn. Hắn thấy bố hắn đang ngồi ngay ngắn trên ghế, tay cầm một chiếc thìa, xúc ăn một vật gì đó. Một chậu cây cảnh đặt trong phòng che khuất món ăn của bố hắn, món ăn mà cứ nhìn theo cách ăn của bố hắn thì hẳn là ngon lành lắm. Khi ấy hắn đẩy cửa vào, toan làm mặt giận với bố vì không cho mình ăn cùng. Khi ấy, hắn thấy món ăn khoái khẩu của bố hắn. Đó là một cái đầu người! Trên bàn, một cái đầu người được đặt ngay ngắn trên đĩa. Phần đỉnh của cái đầu bị cắt phạt đi nhưng không quá sâu, như thể nếu cắt sâu quá thì “thức ăn” sẽ bị rớt ra vậy. Hắn có thể thấy được cái cán thìa nhô lên từ cái lỗ ấy. Như thể khi ăn xong người ta không đặt thìa xuống mâm mà đặt vào trong bát vậy. Khuôn mặt đờ đẫn của người chết không hề vương chút máu nào, hẳn là người ta đã rửa sạch trước khi sử dụng. Nhưng trên khuôn mặt ấy, ánh mắt trợn ngược của người chết không được vuốt mắt cho thấy nỗi hãi hùng của những giây phút cuối cùng khi sống. Cái miệng há hốc càng xác nhận cho sự kinh hãi ấy. Có cái bớt nhỏ trên trán người chết. Cái bớt nhỏ này, lại tô điểm cho sự kinh hoàng của hắn càng trở nên kinh hoàng hơn. Cái bớt xanh nhỏ bé này, là của mẹ hắn! Hiển nhiên, bố hắn khi nãy đã xúc lấy não của mẹ hắn mà ăn. Năm thìa! Bố hắn ăn toàn bộ bộ não của mẹ hắn chỉ trong năm thìa. Khi ấy, hắn mới năm tuổi. Năm thìa, hắn nhớ rất rõ, bởi từng chi tiết của bữa ăn diễn ra trong đầu hắn một cách tỉ mỉ đến hàng ngàn lần. Tận đến bây giờ, mỗi khi thức giấc, hắn vẫn có thói quen lẩm bẩm đếm từng thìa… Lần thứ hai, khi cơ mặt hắn co giật, chính là bây giờ. Trên đùi trái của hắn, máu đã ướt đẫm đến tận đôi giày vải. Hắn hiểu, nhờ vết thương chí mạng ấy, mà hắn sống sót. Hắn lê từng bước chân nặng nhọc vào bên trong lũy tre tối tăm. Có một tiếng hát ru văng vẳng đâu đó… Phía trên cái gò đất cao chưa đến hai trượng này, một cây đa khổng lồ đen đúa trong đêm đầy những rễ đâm từ trên cao xuống đất như một con quái thứ đang tìm cách chui xuống đất. Có một ngôi nhà nhỏ nằm lọt trong những móng vuốt ấy. Ngôi nhà sáng đèn. Cái thứ ánh sáng phát ra từ ngôi nhà nhỏ này quá mỏng manh yếu ớt so với bóng tối hùng vĩ bao trùm lấy nó, thành ra, nó chỉ đủ sức cho thấy những rặng tre đung đưa một cách ma quái khắp nơi xung quanh ngôi nhà Hắn bước chậm rãi đến trước cửa, toan đẩy ra. Chợt bên trong có tiếng nói yếu ớt vọng ra: – Hồ Nguyên Tấn, ngươi cũng có thể vượt qua “mê hồn địa” của ta thực ư? Hồ Nguyên Tấn lại đáp: – Tại hạ có uống một viên “đoạn trường[1] tễ”. Có tiếng cười nhạt bên trong nhà. – Chỉ có thế thôi sao? Hồ Nguyên Tấn bấy giờ đáp: – Tại hạ… Tại hạ… phải tự đâm vào đùi mình, chân bên phải, hẳn là… thành tật rồi. Tấn lại nhói đau, trên đùi hắn, con dao nhọn vẫn xuyên ngang qua đùi, khiến cho mỗi khi cử động, hắn đều cảm thấy đau thấu tâm can. Máu vẫn không ngừng rỉ ra trên đôi dao ấy. Trong nhà vang lên một tràng cười lớn, tuy yếu ớt nhưng cực kỳ ma quái, một tiếng nói cất lên: – Hay lắm, uống thuốc độc để cơn đau đớn giúp ngươi được tỉnh táo hơn, đến khi không chịu được thì tự đâm vào chân mình để cả hai cơn đau cùng hợp lực khống chế sự mê muội, từ đó thoát qua được “mê hồn địa” của ta. Cái nghĩa địa này, không dùng được nữa. Nói rồi tiếng ở trong nhà bật lên một tràng cười sảng khoái, như thể vừa được xem một vở tuồng hay vậy. – Ngươi đã mất công như thế, để ta cho ngươi xem cái ngươi vất vả đi tìm. Ngươi hãy vào đây… Hồ Nguyên Tấn nghe nói thế thì hít một hơi rất sâu, đẩy của bước vào. Trong nhà, tất cả mọi vật dường như đều được làm từ gỗ, một cái ban thờ lớn chiếm đến nửa gian nhà, một cái sập gụ lớn bóng lộn chắc nịch, bên trái có một tủ sách lớn với vô số sách sắp đầy, một bộ bàn ghế mà trên bàn vẫn còn bày một ấm trà có lẽ mới pha vì vẫn còn có thể thấy mùi thơm ngào ngạt và bốc khói từ ấm, tất cả đều được làm bằng gỗ, được khảm ốc rất cầu kỳ và tinh xảo nhưng vẫn tránh được sự diêm dúa dễ thấy ở đồ khảm ốc. Mọi đồ vật được sắp xếp rất gọn gàng, ngăn nắp và sạch sẽ, chắc hẵn vẫn được thường xuyên lau dọn tỷ mỉ. Phía bên phải ngôi nhà có một cánh cửa nhỏ ngăn giữa hai phòng. “cạch” một tiếng, Tấn thấy cánh cửa này mở ra, để lộ ra bên trong một căn phòng hẳn cũng chỉ thắp một ngọn nến trong đó. Bóng đen vừa mở cửa đứng nguyên ở đó như mời hắn vào. Trống ngực hắn đập thình thịch, nhưng đích đã ở rất gần làm tâm trí hắn nhộn nhạo. Hắn bước tới gần cánh cửa, từ đây hắn có thể thấy rõ hơn bóng đen đứng đó. Đấy là một dáng hình phụ nữ mềm mại, yểu điệu nhưng hơi gầy gò, đầu nàng hơi cúi xuống đúng như cung cách của một người dưới, mái tóc người này không búi lên như những người phụ nữ Đại Nam thời ấy vẫn làm, mà xõa tóc che đi phần lớn khuôn mặt. Mặc dù thân hình người này tao nhã nhưng khi đến gần, hắn có thể thấy rõ hơn nước da nhợt nhạt đến xanh xao của nàng. Hắn biết nàng là ai. Đột nhiên nàng ngẩng cao đầu, để lộ bộ mặt xương xẩu và đôi mắt mở to, đôi mắt này thâm quầng mà đục ngàu máu rất hung tợn, nó không hề có lòng đen mà chỉ dày đặc những tia máu kết thành một màu đỏ thẫm cho cả đôi mắt. Trên gương mặt ấy, đôi môi cũng tái ngắt đi đến thâm đen như vừa đi giữa trời lạnh. Hàm răng đều đặn như những hạt lựu đỏ au những máu… Hiển nhiên, đó là một ma nữ. Ma nữ này vùng lên toan nhảy xổ vào Tấn. Tấn bình thản nhìn nó. Ngay lúc này phía bên trong có tiếng quát: – Mai con, đừng làm thế, không ích gì đâu. Ma nữ nghe thấy thế lại thôi không nhảy vào hắn nữa. Nó vẫn gầm ghè như một con chó bị chủ quát nhưng vẫn chỉ chực tấn công người khách lạ. Đầu ma nữ hơi cúi xuống theo lệnh người trong nhà nhưng đôi mắt vẫn hướng lên một cách giận dữ làm phần trắng trong con mắt chiếm đến quá nửa, khiến cho vẻ dữ tợn càng tăng thêm bội phần. Tấn dường như không quan tâm đến ma nữ này, thản nhiên lướt qua trước mặt nó. Nhưng ngay khoảnh khắc hắn lướt qua như thế, ma nữ liền thét “Á” một tiếng man dại, bật ngược về sau đến một trượng. Tấn không thèm quay mình lại, chỉ đưa mắt nhìn quanh căn phòng. Chợt lại có một tiếng “Á” vang lên. Nhưng đây không phải là tiếng của ma nữ, mà là tiếng của Hồ Nguyên Tấn. Dưới ánh đèn leo lét nhảy múa một cách ma quái, hắn mở to đôi mắt đến hết mức có thể. Trong chốc lát, hắn quên cả cơn đau, bởi hắn thấy một thứ kinh dị nhất từ trước đến giờ. “Thứ đó”, đang nằm trên giường! [1] Thuốc làm đứt ruột Mời các bạn đón đọc Đại Nam Dị Truyện của tác giả Phan Cuồng.
Linh Hồn
Khi màn đêm buông xuống... Khi bóng tối và hơi lạnh giăng khắp thế gian, vạn vật chìm trong giấc ngủ êm đềm, thì có nhiều sinh vật mới bắt đầu trỗi dậy, hòa mình vào nhịp sống sôi động ở nửa bên kia của tự nhiên. Đó là những ma cà rồng. Bên trong hàng rào sắt hoa, được khoanh vùng biệt lập nhờ núi rừng rậm rà kỳ bí là một học viện xây dựng theo phong cách Gothic với những đỉnh tháp chuốt nhọn và những ô kính cửa sổ phủ màu để ngăn ánh nắng. Học viện ẩn dật, xa người thường và xa các đô thị lớn hiện đại này là nơi đào tạo các ma cà rồng trẻ tuổi, cũng là nơi chứng kiến những đắm say lãng mạn, những ghen tuông tị hiềm, và cả những hiểm nguy chí mạng trong cuộc sống của họ... Học Viện Ma Cà Rồng gồm có: Màn Đêm Sương Giá Hôn Bóng Hẹn Máu Linh Hồn Tận Hiến ... *** Sau khi đóng cọc vào tim Dimitri và hất anh xuống suối, Rose lịm đi mê man vì đớn đau và tuyệt vọng. Tĩnh dưỡng ít lâu, cô trở về học viện trong sự bao dung thấu hiểu của các thầy cô ở Thánh Vlad. Mong muốn xoá nhoà những ký ức bất hạnh, Rose lao vào luyện tập cần cù, đồng thời đón nhận niềm say mê của Adrian đẹp trai quý tộc. Cuộc sống chưa phục hồi nhịp điệu bình thường đã lại bắt đầu rung chuyển vì những lá thư tình vừa đắm đuối vừa đe doạ từ... người yêu cũ. Thật hi hữu, Dimitri đã thoát chết, lúc này tình yêu của anh đối với Rose biến thành cuồng vọng trả thù và chiếm hữu cực độ. Anh liên tục gửi thư khủng bố, hứa sẽ đến giết cô ngay khi cô hoàn thành khoá học và dời chân khỏi hàng rào pháp thuật của trường. Dòng máu chiến thần cùng ý chí cứng mạnh của Rose đời nào cho phép cô thụ động đợi anh đến tác oai tác phúc. Tốt nghiệp xong, dẫn theo Lissa và Eddie, Rose lao vào chuyến phiêu lưu liều lĩnh và phản nghịch nhất đời cô, để một là cứu rỗi Dimitri, hai là giải thoát anh khỏi sự vĩnh hằng, mãi mãi. *** Ma cà rồng là một trong những hình tượng hư cấu nổi tiếng và hấp dẫn nhất từng xuất hiện trong văn học. Cách đây 8 năm, bán nguyệt san Painted Bride từng thống kê rằng ma cà rồng đã xuất hiện hơn 9,5 triệu lần trong các tác phẩm văn học xuất bản bằng tiếng Anh tính từ năm 1819 (năm ra đời kiệt tác kinh điển về ma cà rồng Dracula của Bram Stoker). Con số đó, xét về mặt tương đối, chỉ đứng sau mật độ xuất hiện của Jesus Christ (hơn 100 triệu lần) cũng trong các tác phẩm văn học tiếng Anh. Từ gần 200 năm nay, ma cà rồng đã vượt xa khỏi phạm vi châu Âu, đem hình ảnh chiếc áo choàng đen, mắt máu, răng nanh cùng vết cắn nhọn của mình trở nên nổi tiếng thế giới. Hình ảnh ma cà rồng biến đổi khá nhiều nhờ trí tưởng tượng mỗi ngày một phong phú của tác giả, theo thị hiếu ngày một đa dạng của độc giả; xuất hiện trong nhiều thể loại hơn hẳn xưa kia, không chỉ giới hạn ở kinh dị, hình sự, phiêu lưu... mà lấn cả sang diễm tình, học đường và chick-lit. Các tác phẩm tiêu biểu từng được độc giả Việt Nam biết đến bao gồm Biên niên sử Ma cà rồng (Anne Rice), Chạng vạng (Stephanie Meyer), Bí ẩn phương Nam (Charlaine Harris). Còn Richelle Mead tạo nên khung cảnh và hệ thống nhân vật của mình bằng cách đánh bóng lại kho truyền thuyết nằm sâu dưới bụi dày thời gian ở Balkan và Romania, đưa chúng vượt biển sang Bắc Mỹ, tái sinh tại một trong những tiểu bang sôi động nhất Mỹ. Tuy bối cảnh là trái đất thời hiện đại, ở cách một thành phố sầm uất của nước Mỹ chỉ vài dặm đường, cũng có những nhân vật trẻ trung đẹp đẽ, Học viện Ma cà rồng là một không gian riêng biệt chỉ dành cho ma cà rồng. Con người hầu như không hay biết, không xuất hiện và nhất là không can thiệp vào sự hiện hữu của ma cà rồng. Mặc dù vậy, tác phẩm thực chất nhìn nhận lại chính con người chúng ta qua một bề ngoài mới, một bề ngoài siêu nhiên. Ma cà rồng của Mead gồm ba loại: Moroi (ma cà rồng sống), Strigoi (ma cà rồng chết) và Dhampir (ma cà rồng lai). Hai loại đầu sinh ra từ dân gian Romania, loại thứ ba từ dân gian vùng Balkan. Đây cũng là chi tiết chưa hề được chú ý khai thác ở bất cứ tác phẩm văn học đương đại nào về ma cà rồng. Bộ truyện Học viện Ma cà rồng gồm 6 cuốn, ghi lại những dốc cao và vực thẳm trong quãng thời gian rèn luyện trưởng thành của các Moroi và Dhampir trẻ tuổi tại một trường trung học bí mật. Phần lớn sự kiện diễn ra tại học viện Thánh Vladimir thuộc tiểu bang Montana. Ngôi trường theo phong cách Gothic này nằm lọt thỏm giữa những cánh rừng và núi đồi, thức dậy vào ban đêm, ngủ yên vào ban ngày. Quanh trường đặt các bùa chú bảo vệ, an ninh được bổ sung thêm nhờ sự tuần tra canh gác của các Giám hộ gốc Dhampir. Tháng 10/2010, công ty IPM cùng NXB Hội Nhà văn ấn hành tại Việt Nam 2 tập đầu tiên trong bộ truyện là Màn đêm và Sương giá. Màn đêm mở ra bằng cảnh Rose và Lissa bị các Giám hộ áp tải về học viện sau hai năm lẩn trốn trong thế giới loài người. Các nhân vật đều tuyệt mỹ, nhưng ai cũng xanh xao vì phải sống trong bóng đêm. Trên những giảng đường cổ kính, họ luyện tập khả năng điều khiển các sức mạnh tự nhiên như lửa, gió, đất hay nước. Sau những tấm rèm ký túc, họ quay cuồng trong các dạ tiệc, háo hức tìm hiểu những thu hút giữa nữ và nam. Vừa trẻ trung cuồng nhiệt, họ vừa tỉnh táo và thực dụng đến đáng sợ. Ai cũng biết trường học là bước đệm để tiến vào xã hội người lớn mai sau, vì thế tất cả sẵn lòng đắm say nhưng không ràng buộc, vui cười nhưng không thân thiết, bè phái phe nhóm nhưng không bao giờ tin tưởng. Sương giá dần dà đẩy câu chuyện lên một cao trào mới, dữ dội và bi thảm hơn. Các học sinh chuẩn bị bước vào xã hội con người, các biến động của đời thực va vào họ. Tình yêu, hận thù, dục vọng... lớp lớp tràn tới, đòi hỏi mỗi người phải biết ứng xử thích hợp và kịp thời. Theo truyền thuyết, ai đó sắp cưới mà chết, hoặc chết rồi mà còn hiện về làm tình với người mình sắp cưới thì sẽ biến thành Strigoi. Nhưng theo Mead, có rất nhiều cách để tạo ra Strigoi: chẳng hạn một Moroi giết chết người mình vừa hút máu, một Moroi hoặc một Dhampir bị Strigoi cắn... đều chắc chắn biến thành Strigoi, nói cách khác là cái ác rình rập khắp nơi, chỉ bất cẩn hoặc lỡ tay làm điều xấu thì sẽ mãi mãi trở thành kẻ xấu, không còn đường quay đầu trở lại. Bên cạnh các yếu tố sẵn có về dòng giống và sức mạnh thượng đẳng của ma cà rồng, Mead còn cấu tứ thêm rất nhiều yếu tố phi thực hấp dẫn. Đó là điếm máu, hôn bóng, thần giao cách cảm giữa hai linh hồn, là khả năng chuyện trò với người khác nhờ đi vào giấc mơ của họ. Ngoài những chi tiết cần đến trí tưởng tượng phong phú ấy, Học viện Ma cà rồng còn hấp dẫn nhờ kỹ năng viết đầy rung cảm của Richelle Mead khi đặc tả những khoảnh khắc xao động khôn cưỡng giữa Rose và Dimitri - nhất là trong cái đêm họ gần như thất thân với nhau, khi chạy máy quay theo những cú nhay cắn tàn bạo của Strigoi trên cần cổ bấy nát của Eddie, khi chậm rãi níu giữ những giây phút nặng nề cuối cùng của Mason... Tóm lại là một kỹ năng đem đến cho người đọc những phút phiêu linh vì đắm say, xót xa vì mất mát, uất nghẹn vì bất lực. Không chỉ là một tác phẩm tâm tình cho tuổi trẻ, Học viện Ma cà rồng còn là kết quả của sự tương tác đầy thấu hiểu với truyện dân gian, truyền thuyết cũng như khoa học quanh hình tượng nhân vật lâu đời và nổi tiếng ma cà rồng. *** Richelle Mead (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1976) là một tác giả best-seller người Mỹ với các tác phẩm thuộc dòng tiểu thuyết giả tưởng. Cô nổi tiếng khắp thế giới qua ba sê-ri sách vô cùng được độc giả yêu mến: Georgina Kincaid; Học viện ma cà rồng và Dark Swan. Richelle Mead đã có bằng Cử nhân Khoa học Xã hội và Nhân văn, Thạc sĩ Tôn giáo So sánh, Thạc sĩ Sư phạm và hiện tập trung cho sự nghiệp văn chương với kỷ luật khắt khe là cứ ba tháng phải hoàn thành bản thảo cho một cuốn sách mới. Mời các bạn đón đọc Học Viện Ma Cà Rồng Tập 5: Linh Hồn của tác giả Richelle Mead & Nguyễn Vũ Thủy Tiên (dịch).
Hẹn Máu
Khi màn đêm buông xuống... Khi bóng tối và hơi lạnh giăng khắp thế gian, vạn vật chìm trong giấc ngủ êm đềm, thì có nhiều sinh vật mới bắt đầu trỗi dậy, hòa mình vào nhịp sống sôi động ở nửa bên kia của tự nhiên. Đó là những ma cà rồng. Bên trong hàng rào sắt hoa, được khoanh vùng biệt lập nhờ núi rừng rậm rà kỳ bí là một học viện xây dựng theo phong cách Gothic với những đỉnh tháp chuốt nhọn và những ô kính cửa sổ phủ màu để ngăn ánh nắng. Học viện ẩn dật, xa người thường và xa các đô thị lớn hiện đại này là nơi đào tạo các ma cà rồng trẻ tuổi, cũng là nơi chứng kiến những đắm say lãng mạn, những ghen tuông tị hiềm, và cả những hiểm nguy chí mạng trong cuộc sống của họ... Học Viện Ma Cà Rồng gồm có: Màn Đêm Sương Giá Hôn Bóng Hẹn Máu Linh Hồn Tận Hiến ... *** Hẹn máu là một cơn ác mộng dài, khởi đầu từ lúc Dimitri bị cắn và biến đổi thành Strigoi, thành một kẻ cuồng quay trong tàn sát, quyền lực và nhục dục. Anh quên hết ý chí, lý tưởng và tình yêu, chỉ còn đủ minh mẫn để hiểu rằng mình và Rose không thể ở bên nhau được nữa. Vậy là anh vượt đại dương sang nửa kia bán cầu, tránh mặt Rose và lao vào kiếp sống vĩnh hằng tăm tối. Nhưng Rose không để anh yên. Cô bỏ học, đi khắp nơi truy tìm Dimitri với mục đích kết liễu anh, giúp anh chấm dứt cuộc đời u mê điên loạn. Xác Strigoi đổ như gạch lát trên đường Rose qua. Cô giết chúng để chuyển chiến thư cho Dimitri, để ai điếu mối tình chưa trọn vẹn, để trả thù cho những người cô thương quý. Chưa bao giờ Rose liều lĩnh đến thế và cũng chưa bao giờ bách chiến bách thắng đến thế. Nhưng thử thách lớn nhất vẫn còn ở trước mặt, Dimitri cuối cùng cũng xuất hiện. Chiếc cọc bạc đã sẵn trên tay, phải bao nhiêu căm hờn, tuyệt vọng và nhất là tình yêu mới đủ khiến cô đâm nó vào tim anh? *** Ma cà rồng là một trong những hình tượng hư cấu nổi tiếng và hấp dẫn nhất từng xuất hiện trong văn học. Cách đây 8 năm, bán nguyệt san Painted Bride từng thống kê rằng ma cà rồng đã xuất hiện hơn 9,5 triệu lần trong các tác phẩm văn học xuất bản bằng tiếng Anh tính từ năm 1819 (năm ra đời kiệt tác kinh điển về ma cà rồng Dracula của Bram Stoker). Con số đó, xét về mặt tương đối, chỉ đứng sau mật độ xuất hiện của Jesus Christ (hơn 100 triệu lần) cũng trong các tác phẩm văn học tiếng Anh. Từ gần 200 năm nay, ma cà rồng đã vượt xa khỏi phạm vi châu Âu, đem hình ảnh chiếc áo choàng đen, mắt máu, răng nanh cùng vết cắn nhọn của mình trở nên nổi tiếng thế giới. Hình ảnh ma cà rồng biến đổi khá nhiều nhờ trí tưởng tượng mỗi ngày một phong phú của tác giả, theo thị hiếu ngày một đa dạng của độc giả; xuất hiện trong nhiều thể loại hơn hẳn xưa kia, không chỉ giới hạn ở kinh dị, hình sự, phiêu lưu... mà lấn cả sang diễm tình, học đường và chick-lit. Các tác phẩm tiêu biểu từng được độc giả Việt Nam biết đến bao gồm Biên niên sử Ma cà rồng (Anne Rice), Chạng vạng (Stephanie Meyer), Bí ẩn phương Nam (Charlaine Harris). Còn Richelle Mead tạo nên khung cảnh và hệ thống nhân vật của mình bằng cách đánh bóng lại kho truyền thuyết nằm sâu dưới bụi dày thời gian ở Balkan và Romania, đưa chúng vượt biển sang Bắc Mỹ, tái sinh tại một trong những tiểu bang sôi động nhất Mỹ. Tuy bối cảnh là trái đất thời hiện đại, ở cách một thành phố sầm uất của nước Mỹ chỉ vài dặm đường, cũng có những nhân vật trẻ trung đẹp đẽ, Học viện Ma cà rồng là một không gian riêng biệt chỉ dành cho ma cà rồng. Con người hầu như không hay biết, không xuất hiện và nhất là không can thiệp vào sự hiện hữu của ma cà rồng. Mặc dù vậy, tác phẩm thực chất nhìn nhận lại chính con người chúng ta qua một bề ngoài mới, một bề ngoài siêu nhiên. Ma cà rồng của Mead gồm ba loại: Moroi (ma cà rồng sống), Strigoi (ma cà rồng chết) và Dhampir (ma cà rồng lai). Hai loại đầu sinh ra từ dân gian Romania, loại thứ ba từ dân gian vùng Balkan. Đây cũng là chi tiết chưa hề được chú ý khai thác ở bất cứ tác phẩm văn học đương đại nào về ma cà rồng. Bộ truyện Học viện Ma cà rồng gồm 6 cuốn, ghi lại những dốc cao và vực thẳm trong quãng thời gian rèn luyện trưởng thành của các Moroi và Dhampir trẻ tuổi tại một trường trung học bí mật. Phần lớn sự kiện diễn ra tại học viện Thánh Vladimir thuộc tiểu bang Montana. Ngôi trường theo phong cách Gothic này nằm lọt thỏm giữa những cánh rừng và núi đồi, thức dậy vào ban đêm, ngủ yên vào ban ngày. Quanh trường đặt các bùa chú bảo vệ, an ninh được bổ sung thêm nhờ sự tuần tra canh gác của các Giám hộ gốc Dhampir. Tháng 10/2010, công ty IPM cùng NXB Hội Nhà văn ấn hành tại Việt Nam 2 tập đầu tiên trong bộ truyện là Màn đêm và Sương giá. Màn đêm mở ra bằng cảnh Rose và Lissa bị các Giám hộ áp tải về học viện sau hai năm lẩn trốn trong thế giới loài người. Các nhân vật đều tuyệt mỹ, nhưng ai cũng xanh xao vì phải sống trong bóng đêm. Trên những giảng đường cổ kính, họ luyện tập khả năng điều khiển các sức mạnh tự nhiên như lửa, gió, đất hay nước. Sau những tấm rèm ký túc, họ quay cuồng trong các dạ tiệc, háo hức tìm hiểu những thu hút giữa nữ và nam. Vừa trẻ trung cuồng nhiệt, họ vừa tỉnh táo và thực dụng đến đáng sợ. Ai cũng biết trường học là bước đệm để tiến vào xã hội người lớn mai sau, vì thế tất cả sẵn lòng đắm say nhưng không ràng buộc, vui cười nhưng không thân thiết, bè phái phe nhóm nhưng không bao giờ tin tưởng. Sương giá dần dà đẩy câu chuyện lên một cao trào mới, dữ dội và bi thảm hơn. Các học sinh chuẩn bị bước vào xã hội con người, các biến động của đời thực va vào họ. Tình yêu, hận thù, dục vọng... lớp lớp tràn tới, đòi hỏi mỗi người phải biết ứng xử thích hợp và kịp thời. Theo truyền thuyết, ai đó sắp cưới mà chết, hoặc chết rồi mà còn hiện về làm tình với người mình sắp cưới thì sẽ biến thành Strigoi. Nhưng theo Mead, có rất nhiều cách để tạo ra Strigoi: chẳng hạn một Moroi giết chết người mình vừa hút máu, một Moroi hoặc một Dhampir bị Strigoi cắn... đều chắc chắn biến thành Strigoi, nói cách khác là cái ác rình rập khắp nơi, chỉ bất cẩn hoặc lỡ tay làm điều xấu thì sẽ mãi mãi trở thành kẻ xấu, không còn đường quay đầu trở lại. Bên cạnh các yếu tố sẵn có về dòng giống và sức mạnh thượng đẳng của ma cà rồng, Mead còn cấu tứ thêm rất nhiều yếu tố phi thực hấp dẫn. Đó là điếm máu, hôn bóng, thần giao cách cảm giữa hai linh hồn, là khả năng chuyện trò với người khác nhờ đi vào giấc mơ của họ. Ngoài những chi tiết cần đến trí tưởng tượng phong phú ấy, Học viện Ma cà rồng còn hấp dẫn nhờ kỹ năng viết đầy rung cảm của Richelle Mead khi đặc tả những khoảnh khắc xao động khôn cưỡng giữa Rose và Dimitri - nhất là trong cái đêm họ gần như thất thân với nhau, khi chạy máy quay theo những cú nhay cắn tàn bạo của Strigoi trên cần cổ bấy nát của Eddie, khi chậm rãi níu giữ những giây phút nặng nề cuối cùng của Mason... Tóm lại là một kỹ năng đem đến cho người đọc những phút phiêu linh vì đắm say, xót xa vì mất mát, uất nghẹn vì bất lực. Không chỉ là một tác phẩm tâm tình cho tuổi trẻ, Học viện Ma cà rồng còn là kết quả của sự tương tác đầy thấu hiểu với truyện dân gian, truyền thuyết cũng như khoa học quanh hình tượng nhân vật lâu đời và nổi tiếng ma cà rồng. *** Richelle Mead (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1976) là một tác giả best-seller người Mỹ với các tác phẩm thuộc dòng tiểu thuyết giả tưởng. Cô nổi tiếng khắp thế giới qua ba sê-ri sách vô cùng được độc giả yêu mến: Georgina Kincaid; Học viện ma cà rồng và Dark Swan. Richelle Mead đã có bằng Cử nhân Khoa học Xã hội và Nhân văn, Thạc sĩ Tôn giáo So sánh, Thạc sĩ Sư phạm và hiện tập trung cho sự nghiệp văn chương với kỷ luật khắt khe là cứ ba tháng phải hoàn thành bản thảo cho một cuốn sách mới. Mời các bạn đón đọc Học Viện Ma Cà Rồng Tập 4: Hẹn Máu của tác giả Richelle Mead & Nguyễn Vũ Thủy Tiên (dịch).