Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thiếu Phụ Đam Mê - Émile Zola

Emile Zola là nhà văn lớn của nước Pháp nửa cuối thế kỷ XIX. Cùng với Guy de Maupassant, ông là một trong hai tác giả được công chúng Pháp tìm đọc nhiều nhất thời bấy giờ. Sách của ông đa phần đều thuộc loại ăn khách. Năm 1867, Zola cho xuất bản tác phẩm "Thiếu phụ đam mê". Lần này, ông đã được người đời "để mắt" tới, nhưng không phải vì giá trị thực của cuốn sách mà bởi nó bị mang tiếng là đi sâu vào khai thác các yếu tố dâm ô và bạo lực. Nhiều bài công kích cuốn sách xuất hiện trên báo chí khiến trong suốt các năm từ 1868 tới 1870, Zola phải bỏ ra nhiều công sức để viết bài "gỡ gạc"… *** Đầu đường Guenégaud, nếu đi từ bến cảng sang, người ta sẽ thấy ngõ Cầu Mới, một loại hành lang hẹp và tối tăm chạy dài từ đường Mazarine đến đường sông Seine. Ngõ này quá lắm chừng ba mươi bước bề dài và hai bước bề rộng, được lót bằng những tấm đan vàng nhợt, cũ sờn, bong ra, tiết một mùi ẩm mốc nồng nặc, còn khung viền quanh vuông vức, đen vì cáu bẩn. Vào những ngày hè đẹp, khi ánh mặt trời nặng nề chói chang trên các đường phố thì một luồng sáng trắng nhợt rơi xuống các cặp kính bẩn và lê lết thảm hại trong ngõ. Còn những ngày mùa đông khắc nghiệt, những buổi sáng sương mù, các cửa kính chỉ hắt bóng tối dày đặc xuống mặt đường nhầy nhụa, thứ bóng tối bẩn thỉu và ghê tởm. Bên trái, những cửa hiệu u ám, thấp lè tè, nằm khuất lấp để tránh những làn hơi lạnh từ hầm rượu. Ở đó có các quầy hàng sách cũ, đồ chơi trẻ con, các quầy hàng giấy bồi mà hàng hoá xám xỉn vì bụi bặm phô bày lờ mờ trong bóng tối, những tủ kính tạo bằng những ô vuông nhỏ lấp lánh ánh phản chiếu nhợt nhạt kỳ lạ của hàng hoá, đàng kia, sau các quầy hàng, các cửa hiệu tràn ngập bóng tối là bấy nhiêu lỗ hổng âm u lắc lay những bóng hình kỳ dị. Bên phải, một bức tường chạy dài suốt ngõ mà các chủ hiệu đối diện để sát vào nó những tủ bày hàng nhỏ hẹp, đồ vật linh tinh, hàng hoá bị bỏ quên ở đó từ hai chục năm nay nằm chỏng chơ dọc theo những tấm ván mỏng xỉn màu nâu tớm lợm. Một bà hàng nữ trang giả trụ ở một những chiếc tủ quầy hàng đó, bán những chiếc nhẫn giá mười lăm xu được xếp đặt khéo léo trên một miếng đệm nhung màu xanh, trong đáy chiếc hộp bằng gỗ đào hoa tâm. Phía trên mái kính, bức tường sừng sững vươn lên, đen đúa trát vữa vụng về, như mắc chứng phong sùi loang lổ đầy những vết sẹo. Ngõ Cầu Mới không phải là chỗ để dạo chơi. Người ta dùng nó để tránh đường vòng, tiết kiệm một vài phút. Đó là những người bận rộn mà nỗi lo âu duy nhất là đi nhanh và đi thẳng về phía trước . Người ta thấy ở đó có những người học việc mang tạp dề, những cô thợ mang túi đồ khâu, những người đàn ông và đàn bà tay xách nách mang, những người già lê bước trong bóng hoàng hôn ảm đạm phủ trên các mặt cửa kính, những nhóm trẻ con tan trường qua đó gây thành đợt xôn xao khi tiếng guốc gõ nhịp trên các tấm đan lót đường. Trong ngày, chỉ có tiếng chân khô khan và hối hả khua vang trên đá một cách bất thường gây bực dọc, còn thì không ai nói năng, không ai dừng chân lại, mỗi người theo đuổi sự bận tâm của riêng mình, đầu cúi thấp, chân bước dồn, không một cái liếc mắt vào các cửa hiệu đó. Những người bán hàng với vẻ bồn chồn nhìn những khách bộ hành mà do điều thần kỳ nào đó, dừng lại bất chợt trước quầy hàng của họ. Vào chiều tối, ba ngọn đèn hơi đốt được bọc trong các lồng đèn nặng chịch vuông vức, toả ánh sáng cho ngõ. Những ngọn đèn treo lơ lửng trên khung kính hắt những vệt sáng lạc lõng, tạo chung quanh chúng những chùm tia nhợt nhạt leo lét, chừng như sẵn sàng tắt ngấm đi. Ngõ có cái vẻ âm u của một nơi chốn vắng vẻ đầy bất trắc, với những đám tối phủ trên mặt đất lát, những làn hơi ẩm ướt bốc lên từ mặt đường, như thể một đường hầm được soi sáng lờ mờ bởi ba ngọn đèn tang. Các chủ hiệu bằng lòng với những tia sáng yếu ớt từ các ngọn đèn hơi đốt này hắt xuống các khung kính của họ, trong tiệm chỉ thắp một ngọn đèn chụp khác được đặt ở một góc sâu, và người qua đường có thể vì thế phân biệt được những gì bên trong các hốc tối vào lúc ban ngày đó. trong bóng dáng đen nhợt của các mặt tiền, khung cửa kính của một hàng giấy bồi sáng rực lên, hai ngọn đèn đá chọc thủng bóng tối bằng hai vệt sáng vàng, và ở phía khác, một ngọn nến cắm giữa đĩa dầu lấp lánh ánh sáng bên trong hộp nữ trang giả. Bà hàng đang gà gật phía sau quầy, đôi bàn tay khuất dưới tấm khăn choàng. Đã vài năm nay, đối diện với bà hàng đó là một cửa hiệu với ván lát tường màu xanh ve rịn mùi ẩm mốc từ mọi kẽ hở. Bảng hiệu làm bằng một tấm ván dài và hẹp, trên có hàng chữ màu đen: Tiệm tạp hoá, và trên một trong những khung kính cửa hiệu có ghi tên phụ nữ: Thérèse Raquin, bằng chữ đỏ. Hai bên cửa kính lún sâu vào, được phủ giấy xanh lơ. Vào ban ngày chỉ có thể phân biệt hàng bày bán trong một cảnh tranh tối tranh sáng hơi dịu. Một bên có ít hàng vải, những chiếc mũ bonnet xếp nếp giá hai ba francs một cái, những tay áo và cổ cồn mousseline, rồi những chiếc áo đan, vớ dài, vớ ngắn, dải đeo. Món nào cũng ngả vàng và nhăn nhúm treo thảm hại trên những móc của dây sắt. Tủ kính từ trên xuống dưới vì thế đầy những mớ giẻ trăng trắng mang dáng vẻ ảo não trong đám tối lờ mờ. Những chiếc mũ mới, màu trắng sáng hơn, tạo thành những bệt nổi lên trên nền xanh của giấy phủ vách. Và những chiếc vớ ngắn màu mè móc dọc trên một thanh ngang trở thành những đốm tối nhạt nhoà mơ hồ giữa hàng vải mousseline. Ở góc khác, trong một tủ kính nhỏ hơn, những cuộn len xanh to kềnh chồng chất, những nút áo màu đen gắn trên các tấm bìa trắng, những chiếc hộp đủ màu và đủ cỡ, những lưới bao tóc có hột cườm bằng thép bay trên những khoanh giây xanh nhạt, những bó kim đan, những mẫu trướng, những cuộn ruban, một đống hổ lốn các đồ vật xỉn mờ hẳn đã nằm ở đó từ năm hoặc sáu năm nay. Mọi màu sắc đã ngả thành xám bẩn, trong chiếc tủ mà bụi bặm và ẩm thấp đã huỷ hoại này. Vào buổi trưa mùa hè, khi mặt trời chói chang trên các quảng trường và đường phố thì người ta thấy đàng sau những chiếc mũ của một tủ kính khác một khuôn mặt thiếu phụ xanh xao và trầm lặng. Khuôn mặt hiện ra mơ hồ trong bóng tối tràn ngập của tiệm. Dưới vầng trán thấp gầy nối tiếp một chiếc mũi dài, hẹp và thon, môi như hai vệt mảnh của một đoá hồng phai lạt, và chiếc cằm ngắn nổi gân, với đường nét mềm mại và đầy đặn tựa trên cổ. thân hình nàng khuất trong bóng tối, chỉ xuất hiện khuôn mặt một màu trắng nhợt nhạt, mắt trũng sâu đen lánh mở rộng và như thể bị át đi bởi mớ tóc dày màu tối. Khuôn mặt ấy trong nhiều ở đó, bất động và bình thản, giữa hai chiếc mũ bonnet in vết rỉ của thanh treo ẩm mốc. Buổi tối, khi đã lên đèn, có thể thấy được bên trong cửa hiệu. Nó rộng hơn là sâu ở một đầu có một quầy nhỏ, đầu kia, một cầu thang trôn ốc dẫn đến các phòng của tầng thứ nhất. Các tủ kính, tủ thường, những hàng các tông dựa sát vào tường, bốn chiếc ghế dựa vào một chiếc bàn bổ sung vào mớ đồ đạc trong nhà. Căn phòng có vẻ trần trụi, lạnh lẽo, hàng hóa được đóng gói, dồn chặt vào các góc, không rơi vãi đây đó cùng với những màu sắc loè loẹt tươi vui của chúng. Thông thường, có hai người phụ nữ ngồi sau quầy. Người thiếu phụ trẻ với khuôn mặt trầm lắng và một người già mỉm cười thiu thiu ngủ. Bà này chừng sáu mươi tuổi, khuôn mặt đầy đặn và bình thản, trắng lên dưới ánh sáng ngọn đèn. Một con mèo vằn to tướng, ngồi xổm ở một góc quầy hàng nhìn bà ta ngủ. Ở chỗ thấp hơn, một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi ngồi trên ghế dựa đọc sách hoặc thì thầm với thiếu phụ. Anh ta nhỏ người, còm cõi, dáng điệu uể oải, tóc màu hoe nhạt, râu cằm lơ thơ, mặt lấm tấm những vết hoa, có vẻ như một đứa trẻ bệnh hoạn được nuông chiều. Trước mười giờ một chút, người đàn bà thức giấc. Họ đóng cửa tiệm lại và cả gia đình lên gác. Con mèo vằn đuổi theo chủ kêu gừ gừ cọ đầu vào tay vịn cầu thang. Trên đó nhà có ba phòng. Cầu thang dẫn đến một phòng ăn cũng được dùng làm phòng khách. Bên trái là một lò sưởi bằng sành nằm ở một hóc tường, đối diện dựng thẳng một tủ búp phê, rồi những chiếc ghế dựa xếp dài theo tường, một chiếc bàn tròn rất rộng choán giữa phòng. Phía trong cùng, sau vách kính là một bếp nấu ăn đen đúa. Bên cạnh phòng ăn là hai phòng ngủ. Người phụ nữ già sau khi ôm hôn con trai và con dâu, rút vào phòng riêng. Con mèo ngủ trên chiếc ghế dựa ở bếp. Hai vợ chồng đi vào phòng ngủ của mình. Phòng này có một cửa thứ hai hướng đến một cầu thang trổ ra ngõ qua một lối đi tối tăm và chật hẹp. Người chồng lúc nào cũng run rẩy vì sốt đã đặt mình xuống giường trong lúc đó người vợ trẻ mở ô cửa sổ để khép cánh cửa chớp lại. Nàng dừng lại vài phút đối diên với bức tường lớn đen đúa, trát vữa thô nhám, sừng sững trải dài một bên ngõ hẻm. Nàng dạo tia mắt nhìn mơ hồ bức tường đó, rồi câm lặng, đến lượt mình trở vào giường nằm, với dáng vẻ khinh miệt dửng dưng. ... Mời các bạn đón đọc Thiếu Phụ Đam Mê của tác giả Émile Zola.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hoàng Tử Rắn - Elizabeth Hoyt
“Ôi, thiên thần tàn nhẫn” “Sao ông lại gọi tôi như thế? Đó có phải là tên mà ông đặt cho nhiều quý bà của ông ở London không?” Lucy nói. “Không, chỉ có nàng thôi”. Hắn chạm đầu ngón tay - chỉ một đầu ngón tay – vào má nàng. Làn da nàng ấm áp, ngay cả trong không khí ban đêm, và mịn, rất mịn màng. Nàng bước tránh ra ngay. “Tôi không tin ông”. Nàng có nghe thấy hơi thở hổn hển của mình? Hắn nhe răng cười như con quỷ trong bóng đêm, nhưng không trả lời. Chúa ơi, hắn ước có thể đơn giản là kéo nàng vào vòng tay, mở đôi môi ngọt ngào của nàng ra, cảm nhận hơi thở nàng trong miệng hắn, và ngực nàng tì vào ngực hắn. Hắn đứng lại và liều bước một bước về hướng nàng, cho đến khi họ gần như chạm vào nhau và nàng phải quay khuôn mặt tái nhợt ra nhìn hắn. Một lọn tóc nàng xổ ra vượt qua khoảng cách một vài inch giữa họ và vuốt ve cổ họng hắn. Nàng với tay ra, ngập ngừng, rồi chạm nhẹ nhàng một đầu ngón tay vào má hắn. Hắn cảm nhận được luồng run rẩy từ cơ thể truyền xuống tận những đầu ngón chân. *** Bộ sách Princess Trilogy gồm có: The Raven Prince (Hoàng tử quạ), The Leopard Prince (Hoàng tử báo), The Serpent Prince (Hoàng tử rắn),   The Ice Princess (Công chúa Băng). *** Maiden Hill, Anh Quốc Tháng 11/1760 Người đàn ông chết trên chân của Lucinda Craddock-Hayes có vẻ giống như một vị thần tử nạn. Apollo, hay giống Mars hơn, một kẻ gây chiến, giấu mình dưới hình hài một con người, bị đẩy xuống từ thiên đường và được một cô gái tìm thấy trên đường về nhà. Ngoài trừ việc các vị thần hiếm khi chảy máu. Hoặc trong trường hợp này là chết. “Ông Hedge,” Lucy gọi to. Nàng liếc nhanh quanh con đường chính độc nhất từ thị trấn Maiden Hill tới nhà của Craddock-Hayes. Nó vẫn giống như lúc trước khi nàng tìm thấy anh ta: hoang vắng, chẳng có ai ngoài nàng; người đầy tớ nam của nàng đã đi khuất sau nàng; và thi thể kia đang nằm trên cái hào. Bầu trời sà xuống thấp và ảm đạm màu xám mùa đông. Ánh sáng đã bắt đầu tắt, dù vẫn chưa đến 5 giờ. Những hàng cây trụi lá bên đường, tĩnh lặng và lạnh lẽo. Lucy rùng mình và cố gắng khép chặt áo choàng sát vào vai hơn. Người chết nằm sõng xoài, trần truồng, và úp mặt xuống. Đường rạch dài trên lưng đọng lại thành khối máu trên vai phải anh ta. Bên dưới là cặp mông rắn chắc; đôi chân cơ bắp rậm lông; và có vẻ thanh lịch kỳ lạ, với bàn chân khoẻ mạnh. Nàng chớp mắt và quay lại nhìn chằm chặp vào mặt anh ta. Ngay cả khi chết anh ta cũng vẫn đẹp trai. Đầu anh quay sang một bên, để lộ một phần gương mặt nam tính: mũi dài, gò má cao, và chiếc miệng rộng. Một đường rạch chia đôi hàng lông mày trên con mắt khép lại của anh ta. Mái tóc cắt ngắn áp sát vào da đầu, chỉ trừ những chỗ bết lại vì máu. Tay trái đặt thõng trên đầu, và trên ngón tay trỏ có cảm giác là đã có một chiếc nhẫn ở đó. Kẻ giết người hẳn đã lấy đi nó cùng với mọi thứ khác. Xung quanh thi thể bùn đã vẹt đi, dấu vết của gót ủng đóng sâu xuống ngay cạnh bên mông của người chết. Ngoài cái đó ra thì hề chẳng có dấu hiệu của người nào đó đã liệng vứt anh ta như rác thải. Lucy cảm thấy dòng nước mắt khờ khạo nhỏ ra từ mắt nàng. Điều gì đó về cái cách mà anh ta bị kẻ giết người bỏ lại, trần truồng và mất danh giá, có vẻ là một sự sỉ nhục kinh khủng với người đàn ông. Chuyện này thật đau buồn đến không thể chịu đựng nổi. Cô nàng ngu ngốc, nàng tự khiển trách mình. Nàng nhận ra mình phải trở nên kiên quyết, bình tĩnh hơn. Vội vàng, nàng gạt nước mắt ẩm ướt trên má đi. “Đầu tiên cô phải tới thăm nhà Joneses và tất cả những người bé nhỏ nhà Joneses, những kẻ làm bộ làm tịch đáng ghét. Sau đó chúng ta phải leo lên đồi tới nhà Bà Già Hardy – mụ già bẩn thỉu, không hiểu vì sao mụ ta vẫn còn chưa lên giường với một cái xẻng. Và đã hết chưa? Chưa, đó chỉ mới là một nửa thôi. Rồi, rồi cô sẽ cần phải gọi cửa nhà linh mục. Và còn tôi thì lôi cái của đông cứng này trong suốt thời gian đó.” Lucy ngăn lại thôi thúc dụi mắt. Hedge, người giúp việc của nàng, đội một chiếc mũ ba sừng dính mỡ lệch lạc trên mái tóc bạc sửng sốt. Cái áo choàng đầy bụi của ông và cái áo chẽn đều nhơ nhuốc như nhau, và ông ta đã chọn đôi vớ dài với đường chỉ viền màu đỏ tươi để làm nổi bật hai đầu gối lệch ra ngoài, không nghi ngờ gì đó là đồ thải ra của cha. Ông ta thốt lên một cách kiềm chế bên cạnh nàng: “Ôi trời, vẫn chưa chết!” ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Tử Rắn của tác giả Elizabeth Hoyt.
Gia Đình Penderwick Ở Phố Gardam - Jeanne Birdsall
Sau màu hè sôi động ở Arundel, gia đình Penderwick lại trở về tổ ấm của mình trên phố Gardam. Nhưng, một cuộc phiêu lưu mới đã chờ sẵn các cô gái nhà Penderwick: lá thư màu xanh bí ẩn của người mẹ quá cố, thái độ kỳ cục của người dì thân yêu, những cuộc hẹn hò úp úp mở mở của bố, sự xuất hiện của những người hàng xóm mới vô cùng thú vị và cả một gã Người - Bọ rình rập quanh khu phố…Và trên tất cả là Kế-Hoạch-Cứu-Bố với những tình huống dở khóc dở cười… Nhẹ hàng, hài hước, trong sáng và hấp dẫn, Gia đình Penderwick ở phố Gardam có thể coi như làn gió mát mùa hè và ngọn lửa ấm áp mùa đông. *** “Một cuốn sách để yêu qúy và để giữ ở gần giống như tấm chăn ấm áp thân thương bạn quấn quanh người cho khỏi lạnh.” - School Library Journal “Thật vô cùng thú vị khi được dành thời gian cho những nhân vật có sức lôi cuốn mạnh mẽ này, những cô gái sinh động đến nỗi người đọc sẽ cảm thấy được cả làn gió thổi bay mái tóc họ khi họ tung hoành trên sân bóng.” - Publisher Weekly “Cuốn sách thứ hai này còn hay hơn cuốn đầu tiên. Đối với các bậc phụ huynh đang tìm kiếm những cuốn sách giống như những cuốn họ đã đọc thời thơ ấu và đối với các bạn trẻ tìm cách thoát khỏi thế giới hư cấu đầy bạo lực để đến với một thế giới ngọt ngào và giản dị hơn, thì đây là lựa chọn sáng suốt.” - Matt Berman *** Gia đình Penderwicks là một trong những bộ truyện yêu thích nhất, một trong những câu chuyện về tình cảm gia đình đáng yêu nhất. Nói chung đây là một tập truyện với nhiều thông điệp và cảm xúc. Gia đình Penderwicks gồm có: Lũ trẻ nhà Penderwicks Gia đình Penderwicks ở phố Graham The Penderwicks at Point Mouette The Penderwicks in Springs ... *** Tác giả: • Giải thưởng Sách quốc gia Mỹ cho Văn chương dành cho thiếu nhi. • Giải Sự lựa chọn của Goodreads cho Sách thiếu niên & Nhi đồng hay nhất. Jeanne Birdsall sinh 1951, Philadelphia, Pennsylvania, Hoa Kỳ. Là một trong những nhà văn thiếu nhi được yêu mến nhất trong những năm gần đây. Bà hiện sống tại Bang Massachussetts, cùng với chồng, bốn con mèo, một con thỏ, một chú sên cảnh, và một chú chó tên là Cagney. Jeanne Birdsallđã viết về tác phẩm của mình: "Khi lên mười hay mười một tuổi gì đó, tôi đã hết cả sách đọc. Tuần nào tôi cũng đến thư viện, hy vọng các tác giả yêu thích của mình vừa cho ra lò một tác phẩm mới. Hay thậm chí tuyệt hơn cả là tôi sẽ tìm được một tác giả mới trong thể loại sách mà tôi ưa thích nhất. Nhưng hầu như tuần nào tôi cũng phải đem về nhà những quyển sách đã đọc rồi, nhiều cuốn đã được đọc đến tám, chín, hay mười lần. Khi ấy tôi đã tự hứa với chính mình rằng một ngày kia tôi sẽ trở thành một nhà văn, để cho những bạn đọc như tôi có thêm một vài cuốn sách mới để khám phá và thưởng thức. “Lũ Trẻ Nhà Penderwick" chính là tác phẩm đầu tay của tôi." — The Penderwicks: A Summer Tale of Four Sisters, Two Rabbits, and a Very Interesting Boy (2005) — The Penderwicks on Gardam Street (2008) — Flora's Very Windy Day (2010) — The Penderwicks at Point Mouette (2011) — Lucky and Squash (2012) — The Penderwicks in Spring ( 2015) *** Mẹ ở trong bệnh viện với em bé mới sinh gần một tuần nay rồi. Mặc dù ba cô bé nhà Penderwick vẫn đến thăm mẹ hàng ngày - có khi hai lần một ngày - nhưng như thế vẫn không đủ. Chúng muốn bà về nhà. “Khi nào hả mẹ?”, Jane, đứa nhỏ nhất, hỏi. “Em đã hỏi mẹ năm lần rồi và mẹ không biết”, Rosalind nói, em là chị cả và cảm thấy rõ trọng trách nặng nề của mình, dù em mới lên tám. “Cho cháu bế Batty được không, dì Claire?”. Dì Claire, em gái của bố, cẩn thận trao em bé cho Rosalind, và cô bé nghĩ được ôm các bé sơ sinh quả là một trong những niềm vui tuyệt vời nhất trên đời, ngay cả khi em bé đang ngủ và không biết mình đang được bế. “Mẹ ơi, ít nhất thì mẹ về thăm nhà thôi có được không? Mẹ không cần phải đem em bé theo đâu”. Skye là con thứ, giữa Rosalind và Jane, và là đứa con duy nhất được thừa hưởng mái tóc vàng và cặp mắt xanh của mẹ. Hai đứa kia đều có mái tóc quăn sẫm màu và mắt nâu giống bố - giống cả dì Claire nữa. Còn em bé thì dù mới chỉ có một mớ tóc lơ phơ nhưng có vẻ như khi lớn lên tóc cũng sẽ sẫm màu. “Khi mẹ về nhà, cưng à, thì mẹ e là em Batty sẽ về cùng mẹ đấy”, mẹ chúng cười đáp. Rồi bà đột nhiên ngưng cười và áp tay bào bên sườn. “Cửa hàng lưu niệm nào!”, dì Claire kêu lên, nhảy ra khỏi ghế. “Sao ba đứa không chạy đến cửa hàng lưu niệm và mua cho mình món quà gì đó đi?”. “Chúng cháu không có tiền”, Jane nói. “Dì sẽ cho các cháu”. Dì Claire lấy một tờ giấy bạc trong ví ra đưa cho Skye. “Rosalind, tốt hơn hết là cháu để Batty lại đây. Em bé còn nhỏ quá, chưa đến hàng lưu niệm được”. “Dù sao thì có lẽ chúng cháu sẽ mua quà cho em bé”. Rosalind miễn cưỡng đặt em bé vào cái nôi màu trắng cạnh giường của mẹ. “Không đủ tiền cho cả nó đâu”, Skye nói. “Cư xử cho khéo nào!”, mẹ em nói. Nhưng dì Claire mỉm cười và đưa cho Skye thêm ít tiền nữa. “Giờ thì đi đi, lũ cướp biển tham lam của dì!”. Dì Claire là mẫu người họ hàng hoàn hảo nhất trên đời - dì yêu và hiểu trẻ con, nhưng lại không có con để khiến dì phải sao nhãng mấy cô cháu gái. Vì vậy không đứa nào trong số mấy chị em bận tâm khi bị dì gọi bằng đủ thứ tên. Thật ra, Skye còn có vẻ hãnh diện vì được gọi là cướp biển, thẳng tiến đến cửa hàng lưu niệm với dáng vẻ oai phong của người thủy thủ. Rosalind nắm tay Jane bám theo sau, vẻ kém hùng dũng hơn, vừa đi vừa chào những cô y tá mà mấy chị em đã trở nên thân thiết trong suốt tuần vừa rồi. Cửa hàng nằm ngay cuối hành lang, sau một khúc quanh - mấy chị em biết rõ đường, vì chúng đã đến đó nhiều lần, nhưng chưa lần nào có nhiều tiền như thế này. Dì Claire thật hào phóng. Đủ để mỗi cô gái kiếm được ít nhất là một báu vật nho nhỏ. Skye đi thẳng đến chỗ bán đồng hồ đeo tay, vì em luôn ao ước có được một chiếc màu đen. Jane ngắm nghía các thứ - lần nào em cũng làm như vậy - rồi dừng lại ở chỗ bán búp bê, hệt như mọi lần. Rosalind chọn một chú chó đen nhồi bông cho Batty, rồi tiến về tủ đồ trang sức. Anna, cô bạn thân nhất của em, vừa mới có một chiếc nhẫn màu ngọc lam, và Rosalind nghĩ sẽ không gì bằng nếu em cũng có một chiếc y như thế. Nhưng khi đến chỗ đồ trang sức thì mắt em không bị hút về phía những chiếc nhẫn, mà lại hướng về sợi dây chuyền vàng mỏng mảnh treo năm trái tim - trái tim lớn nhất ở giữa, mỗi bên là hai trái tim nhỏ hơn. Em nhìn giá tiền, nhẩm tính trên đầu ngón tay, nhẩm lại lần nữa cho chắc, rồi gọi hai đứa em đến. “Mình nên mua cái dây chuyền kia cho mẹ”, em nói. “Nhưng như thế thì sẽ tốn hết chỗ tiền bọn mình có”, Skye đã đeo một cái đồng hồ màu đen ở cổ tay. “Chị biết, nhưng mẹ sẽ thích nó. Trái tim lớn là mẹ, còn bốn trái tim nhỏ là ba đứa bọn mình và em bé”. “Trái tim này là em”, Jane nói, chỉ vào một trong bốn trái tim nhỏ. “Chị Rosalind ơi, có phải mẹ vẫn đang ốm không?”. “Ừ”. “Vì Batty à?”. “Vì bệnh ung thư”, Rosalind trả lời. Em ghét cái từ đó, ung thư. “Có nhớ bố đã giải thích cho bọn mình thế nào không? Nhưng mẹ sẽ chóng khỏi thôi”. “Tất nhiên là thế rồi”, Skye dữ dằn nói. “Bố nói các bác sĩ đang làm tất cả những gì có thể, và họ là những bác sĩ giỏi nhất trên toàn vũ trụ”. “Được rồi”, Jane nói. “Em biểu quyết là chúng mình mua sợi dây chuyền cho mẹ”. “Tầm bậy thật!”. Skye biến đi, rồi quay lại, không đeo đồng hồ mà đi cùng một cô bán hàng, cô ấy đặt sợi dây chuyền vào một cái hộp có đính chiếc nơ con bướm. Giờ thì Rosalind sốt ruột muốn quay về với mẹ và Batty. Nhưng Skye và Jane đã trông thấy cô y tá chúng yêu quý nhất, cô Ruben, người lúc nào cũng có thời gian để cho chúng ngồi xe đẩy. Biết hai đứa sẽ không sao khi ở cùng cô Ruben, Rosalind vội vã đi xuôi hành lang, bước chậm lại khi đến gần phòng mẹ. Nhưng thay vì bước vào thì em lại chần chừ ở ngoài cửa, vì em có thể nghe thấy tiếng mẹ và dì đang rì rầm nói chuyện - nghe giống như một trong những cuộc trò chuyện của người lớn mà trẻ con không được phép lảng vảng xung quanh. Rosalind biết em có nghe thì cũng không phải là hư, vì tiếng rì rầm quá nhỏ, không thể hiểu được. Nhưng rồi hai người phụ nữ cất cao giọng, và Rosalind không thể không nghe rõ từng từ họ thốt ra. “Không, chị Lizzy, không”, dì Claire đang nói. “Nói đến chuyện này bây giờ là quá sớm. Như thể chị đã bỏ cuộc rồi ấy”. “Em biết là chị sẽ không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi không còn chút hi vọng nào nữa mà, Claire. Chỉ cần em hứa là nếu chị không qua khỏi, thì ba hay bốn năm nữa, em sẽ đưa lá thư của chị cho anh Martin. Em biết là anh ấy quá nhút nhát đến nỗi nếu không được động viên thì sẽ chẳng dám hẹn hò đâu, và chị thì không thể chịu đựng nổi khi nghĩ rằng anh ấy sẽ phải chịu cảnh cô độc”. “Anh ấy còn có bọn trẻ kia mà”. “Nhưng rồi một ngày kia chúng sẽ lớn lên và…”. Câu nói bị cắt nửa chừng, vì cô Ruben đã xuất hiện với Skye và Jane, hai cô bé đang chen chúc trên một chiếc xe đẩy, vừa hò hét vừa cười khúc khích. Hai đứa lao ra khỏi xe và chạy vào phòng trong khi Rosalind đi theo, chậm chạp hơn, cố gắng hiểu xem những điều mình vừa nghe thấy nghĩa là thế nào. Mẹ em nói nếu bà không qua khỏi nghĩa là sao? Và tại sao bố em lại phải hò hẹn? Em thấy trong người lạnh ngắt đi đến nỗi toàn thân run rẩy, và càng bủn rủn hơn khi thấy dì Claire lén bỏ một chiếc phong bì màu xanh vào túi. Đó có phải lá thư mẹ em đã nhắc đến không? Skye và Jane ồn ào phấn khích vì được đi xe đẩy lại được đem sợi dây chuyền tặng mẹ, mẹ rất thích sợi dây chuyền và khi đeo nó vào, trông mẹ thật đẹp, đến nỗi không ai nhận thấy Rosalind đang ngồi tránh sang một bên, tái nhợt, im lặng. Rồi sau đó, quá nhanh, một cô y tá vào phòng với cái xe đẩy nom rất đáng sợ, và nói rõ cả bà mẹ lẫn em bé đều cần được nghỉ ngơi. Mấy chị em đành miễn cưỡng hôn tạm biệt mẹ. Rosalind đợi đến cuối cùng. “Gặp lại mẹ ngày mai, mẹ nhé”, em thì thầm. Có lẽ đến mai em sẽ hỏi được những câu cần hỏi - về niềm hi vọng, về bố phải chịu cảnh cô đơn, và về lá thư màu xanh đáng sợ nọ. Nhưng Rosalind không bao giờ hỏi được những câu hỏi của mình, và chúng nhanh chóng bị đẩy sang bên và bị quên lãng, vì khi ngày mai đến, mẹ em đột ngột yếu đi thay vì khỏe lên. Bất chấp cố gắng hết mình của các bác sĩ giỏi nhất, chỉ trong vòng một tuần, mọi niềm hi vọng đã tiêu tan hết. Elizabeth Penderwick có đủ thời gian để tạm biệt chồng và các con gái trong một buổi tối hết sức đau đớn, nhưng chỉ vừa đủ mà thôi. Bà mất trước lúc bình minh ngày hôm sau, với bé Batty lặng lẽ nằm yên trong vòng tay. Mời các bạn đón đọc Gia Đình Penderwick Ở Phố Gardam của tác giả Jeanne Birdsall.
Biên Thành - Thẩm Tùng Văn
Truyện vừa - hay cũng có thể được coi là một đoản thiên tiểu thuyết xót xa buồn về cảnh vật và những con người Trung Hoa xưa cũ của nhà văn nổi tiếng Thẩm Tùng Văn. Câu chuyện diễn ra tại một bến đò lặng lẽ vùng biên thành miền Tây Hồ Nam - nơi cô bé Thúy Thúy sống với người ông quản đò sau cái chết của mẹ. Mặc dù chỉ mới 14 tuổi nhưng Thúy Thúy đã trở thành một thiếu nữ phổng phao, xinh đẹp, được nhiều chàng trai để ý, trong đó có hai anh em nhà ông chủ bến: cậu cả Thiên Bảo và cậu hai Na Tống. Trước tấm chân tình của hai anh em đối với cô cháu gái, ông ngoại cô bé cảm thấy vô cùng sung sướng nhưng cũng không giấu nổi những lo lắng cho tương lai. Đặc biệt là khi cô bé vẫn thờ ơ với chuyện cưới xin. Sự thực thì trái tim cô bé đã rung động trước tấm lòng và tiếng hát của cậu hai Na Tống nhưng Na Tống đang bị gia đình ép lấy một cô gái con nhà gia thế… Thẩm Tùng Văn được coi là “tiểu thuyết gia trữ tình lớn nhất của Trung Quốc hiện đại”. Biên thành như là một bài thơ mang giọng điệu hoài cổ với âm hưởng buồn man mác. Những cảnh vật đồng nội, những con người nhỏ bé trong tác phẩm của ông như những hình ảnh nhạt nhòa trôi dần đi và cuối cùng mất hút trong dòng chảy thời gian và nhịp điệu gấp gáp của cuộc sống hiện đại. Biên thành khiến người đọc ngậm ngùi bởi tác phẩm “tràn trề cái thiện nhưng đều không gặp may. Vì không gặp may nên cái thiện chất phác ấy cuối cùng khó tránh khỏi bi kịch” (Thẩm Tùng Văn). Dưới văn phong của ông, ngôn ngữ Trung Hoa đã tìm được vẻ đẹp của mình và vẻ đẹp ấy cũng đã được chuyển ngữ thành công bằng thứ tiếng Việt giản dị, trong sáng và khúc chiết của dịch giả Phạm Tú Châu. *** Nhận định “Vẻ đẹp tạo hình của Biên thành – thiên tiểu thuyết có nhân vật chính là một ông lão và cô cháu gái này luôn được giới phê bình nhấn mạnh; nó làm ta nghĩ tới một bức tranh Trung Hoa cổ điển, và mời gọi ta trở lại kiếm tìm một thế giới trữ tình đã mất của những ai chài, của đồng nội… Một kiệt tác của một tác giả quan trọng.”  - SDM - “Bị khuất đi nhiều bởi những đồng nghiệp nổi tiếng có lối viết thiên về chính trị như Lỗ Tấn hay Lão Xá… Tác phẩm của Thẩm Tùng Văn đan dệt phức tạp, giàu có tầng lớp và trữ tình. Trung Hoa của quá khứ và hiện tại sống động trong văn ông một cách tự nhiên như vốn thế. Nỗi buồn thấm qua nhưng cảnh đồng quê… có gì đó không chắc chắn và cũng nhiều hy vọng... Trong khi Lỗ Tấn là nhà ký sự của siêu ý thức xã hội thì Thẩm giống như một nhà nhân loại học, và trong ý nghĩa này, dương như ông gần với độc giả hiện đại hơn. Trong khi những người khác hướng đến một xã hội Trung Hoa của tự phê bình, của các thay đổi, thì Thẩm, một cách đẹp đẽ và giản dị, chỉ cho ta cuộc sống vốn dĩ vẫn hiện hữu như thế đó. Tác phẩm của ông là sự hoà quyện giữa nỗi buồn sâu xa cho quá khứ, hy vọng cho tương lai, và hơn tất cả, là vẻ đẹp và sự trong sáng của cõi sống hiện tại”.  - Matthew W.Baker - *** Thẩm Tùng Văn (1902 - 1988) là nhà văn hiện đại nổi tiếng của Trung Quốc. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan võ đời Thanh; quê huyện Phượng Hoàng tỉnh Hồ Nam, bà nội là người dân tộc Miêu. Bắt đầu sáng tác từ năm 1924, kể từ đó cho tới những năm 40 của thế kỷ trước, ông đã viết một số lượng lớn đáng kinh ngạc về đủ các thể tài, từ tản văn, thơ, kịch, tùy bút, chính luận, truyện ký, truyện dài, song chủ yếu là truyện vừa và ngắn. Đề tài trong truyện của ông có diện rất rộng, từ nông thôn xa xôi, hẻo lánh tới đô thị phồn hoa, nội dung tư tưởng cũng cực kỳ phong phú. Trong số đó, những truyện viết về cuộc sống và số phận của dân tộc thiểu số vùng biên khu giữa bốn tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quý Châu là giàu đặc sắc nghệ thuật nhất. Tiêu biểu trong số đó là truyện vừa Biên thành. Biên thành (Thành trên núi) làm nổi bật bi kịch của cái thiện. Khác hẳn với mẫu hình bi kịch huỷ diệt của cái vĩ đại và cái cao cả ở Phương Tây, xuất hiện trong truyện đều là những con người bình thường hiền lành, chất phác. Số phận của họ đúng như tác giả nói: “Mọi thứ đều tràn trề cái thiện nhưng đều không gặp may. Vì không gặp may nên cái thiện chất phác ấy cuối cùng khó tránh khỏi bi kịch”. Nhà văn Nhật Bản Takashi Shizuka thì nhận xét: “Xem ra dưới giọng văn hết sức bình tĩnh, e rằng đã ẩn giấu sự phê phán và phản kháng sâu sắc - ít nhất cũng là sự chán ghét nền văn minh hiện đại, đó chính là chủ ý của tác phẩm”. Biên thành, cũng như nhiều tác phẩm khác của Thẩm Tùng Văn, từ lâu đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, do đó được biết rộng rãi trong bạn đọc ngoài Trung Quốc. Ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên Biên thành được dịch. *** Ngày Tết Đoan ngọ, đàn bà con trẻ nơi đây đều mặc áo mới, trên góc trán dùng rượu ngâm hùng Hoàng[15] viết một chữ Vương. Bất kỳ người nào đến ngày này cũng được ăn cá, ăn thịt. Khoảng mười một giờ sáng, toàn thể dân Trà Đồng đều đã ăn cơm trưa; ăn xong, mọi nhà trong thành đều khoá trái cửa, cả nhà ra khỏi thành tới bờ sông xem chèo thuyền. Ai có người quen ở cửa phố bờ sông, có thể đứng bên cửa gác sàn mà xem, nếu không thì đứng ở cửa Cục thuế quan hoặc ra bến đò mà xem. Thuyền rồng trên sông lấy một chỗ nào đó làm điểm xuất phát, trước Cục thuế quan là đích, bởi vì ngày này các sĩ quan, nhân viên thu thuế và những người có địa vị ở địa phương đều đứng xem ở trước Cục thuế quan. Trước đó mấy ngày, mọi người đã chuẩn bị cho cuộc đua thuyền. Chia tổ, chia bang xong, nhóm nào nhóm nấy tự chọn ra những trai tráng lanh lợi và chắc khoẻ nhất, tập tiến thoái ở chỗ nước sâu. Hình thức của thuyền cũng khác với thuyền gỗ thường ngày, hình thể nhất loạt phải dài và hẹp, hai đầu ngỏng cao, thân thuyền vẽ những đường chỉ dài màu hồng và đỏ thắm. Thường ngày, những thuyền này được gác trong hang khô ráo bên sông, khi dùng đến mới kéo xuống nước. Mỗi thuyền có thể ngồi từ mười hai đến mười tám tay chèo, một người dẫn đầu, một tay trống và một người đánh thanh la. Mỗi người chèo cầm trong tay một mái chèo ngắn, theo nhịp trống nhanh hay chậm mà chèo thuyền về phía trước. Người dẫn đầu ngồi ở mũi thuyền, đầu bịt một vuông khăn đỏ, tay cầm hai ngọn cờ lệnh nhỏ vẫy sang trái hoặc phải, chỉ huy thuyền tiến hoặc lùi. Tay trống và tay thanh la phần nhiều ngồi ở giữa thuyền, thuyền vừa khởi động bèn tùng tùng cheng cheng gõ trống và đánh thanh la theo nhịp đơn thuần để điều tiết nhịp chèo của các tay chèo. Thuyền chèo nhanh hay chậm không thể không dựa vào nhịp trống, cho nên khi hai thuyền đua nhau găng nhất thì trống đánh dồn như tiếng sấm, lại thêm người xem đứng hai bên bờ hò reo trợ oai, khiến ai nấy đều nghĩ tới tiếng trống trong trận thuỷ chiến trên sông Lão Hạc của Lương Hồng Ngọc[16]. Hồi Ngưu Cao[17] bắt sống Dương Ma trên sông cũng trong trận thủy chiến có trống đánh cầm trịch. Thuyền nào về trước một chút đều được lĩnh thưởng ở trước Cục thuế quan; một tấm lụa đỏ, một tấm ngân bài, bất kể treo hoặc chít trên đầu một người nào đó trên thuyền đều nói lên vinh dự nhờ cả thuyền biết hợp tác. Mỗi khi có thuyền về trước đều có một anh lính rách việc nào đó đứng bên bờ nước đốt một tràng pháo Ngũ bách hưởng để mừng thắng lợi. Đua thuyền xong, ngài Trưởng doanh lính thú trong thành muốn vui cùng dân chúng, tăng thêm niềm phấn khởi trong ngày Tết bèn cho thả xuống sông loài vịt đực lớn con, cổ dài, lông đầu xanh mướt, cổ buộc dải lụa đỏ, quân dân người nào bơi giỏi thì xuống sông đuổi vịt. Bất kể ai bắt được vịt thì vịt là của người ấy. Thế là một trò vui mới được thay đổi trên sông, trên mặt sông đâu đâu cũng là vịt, đâu đâu cũng có người bơi đuổi theo vịt. Cuộc đua tranh giữa thuyền và thuyền, giữa người và vịt kéo dài đến tối mới kết thúc. Ông quản bến - Long đầu đại ca Thuận Thuận, hồi trẻ là tay bơi lội cực giỏi, đã xuống sông đuổi vịt thì dù có thế nào cũng không chịu trở về tay không. Nhưng khi con trai thứ của ông là Na Tống ngoài mười hai tuổi đã biết xuống sông, lặn một hơi đến bên con vịt rồi bỗng chồm người từ dưới nước nhô lên tóm ngay lấy vịt thì người làm cha bèn nói như chữa thẹn. - Hay lắm, việc này đã có các con làm, cha bất tất phải xuống sông nữa! ... Mời các bạn đón đọc Biên Thành của tác giả Thẩm Tùng Văn.
Bản Đàn Thôn Dã - André Gide
La Symphonie Pastorale của tác giả André Gide có nhiều bản dịch tiếng Việt, trong đó bản dịch của Mai Kim Ngọc lấy tên Bản Đàn Thôn Dã, bản dịch của Ðoàn Văn Khanh lấy tên Khúc Nhạc Đồng Quê, còn một bản dịch nữa của Bùi Giáng thì có tên là Hòa Âm Điền Dã. Cuốn sách nào của Gide cũng mang chất hàm hỗn dị thường, là khởi từ duyên cớ đó. Dịch Gide thật là một điều đáng ngại. Ông trích dẫn lơ thơ một câu trong Kinh Thánh, một câu của Saint Paul - nhưng ông "rút một dây" mà chấn động cả một rừng... *** Đã ba hôm nay tuyết rơi không ngớt cơn, đường sá hoàn toàn bế tắc. Tôi không đi tỉnh R. làm lễ như thông lệ một tháng hai lần đã mười lăm năm qua. Sáng nay tại nhà thờ Breville chỉ có ba chục tín đồ tới. Nhân dịp rảnh rỗi bất đắc dĩ vì không ra được khỏi nhà, tôi ngồi ôn lại từ đầu sự việc đã xui khiến tôi đón Gertrude về nuôi. Tôi đã dự định viết ra đây từng bước nhỏ sự phát triển của tâm hồn ngoan đạo này mà tôi đã mang từ bóng đêm u tối ra như với mục đích duy nhất để tôn quý và yêu thương. Cám ơn Thượng Đế đã giao phó cho tôi nhiệm vụ. Câu chuyện khởi đầu đã đúng hai năm sáu tháng. Hôm đó tôi đi Chaux-de-Fonds về, có con bé lạ mặt vội vã tới tìm tôi để dẫn đi thăm một bà cụ sắp chết cách đấy bẩy cây số. Xe còn thắng ngựa, tôi bảo con bé lên ngồi sau khi với cây đèn bão mang theo, e rằng chắc phải đến đêm mới xong việc. Tôi vẫn tự cho là mình thông thạo vùng này, vậy mà vừa quá khúc rẽ sau sơn trại Saudraie, con bé chỉ cho tôi một con đường ngang tôi chưa từng phiêu lưu rẽ vào. Tuy nhiên quá đó hai cây số, phía tay trái, tôi nhận ra một cái hồ có phong cảnh huyền bí mà hồi nhỏ tôi đã đôi lần tới trượt băng. Khoảng mười lăm năm nay đã không trở lại vì không có mục vụ nào ở đây. Có ai hỏi có lẽ tôi cũng không còn biết hồ ở đâu, lại cũng không nghĩ đến nữa nên chi khi bất thần thấy hồ sáng chói trong ráng chiều huy hoàng tôi tưởng như thấy lại cảnh cũ từ một giấc mơ. Con đường chạy dọc theo con sông nhỏ một quãng, để cắt ngang cuối rừng và men theo một bãi đầm lầy. Chỗ này thì chắc chắn là tôi chưa bao giờ đặt chân tới. Mặt trời từ từ lặn và tôi chạy xe trong bóng hoàng hôn đã một lúc khá lâu, sau cùng con bé chỉ cho tôi bên đồi một căn nhà tranh tưởng như bỏ hoang nếu không có làn khói mảnh bốc lên, màu xanh trong bóng râm chuyển thành màu vàng óng của nắng chiều. Tôi buộc ngựa vào cây táo gần nhà rồi theo chân con bé bước vào một căn phòng tối, nơi bà cụ vừa mãn phần. Tôi sững người vì quang cảnh trang trọng, cũng như sự tĩnh lặng, và vẻ trang nghiêm của giây phút. Có người đàn bà dáng còn trẻ đang quỳ bên giường. Con bé người làm mà tôi đã tưởng là cháu bà cụ bước tới cuối phòng châm ngọn đèn khói um, rồi lặng lẽ tới đứng bên giường. Trên đường tới đây, tôi đã gợi con bé mà chỉ được trả lời vài câu vắn tắt. Người đàn bà quỳ bây giờ đứng dậy. Bà không phải người nhà như tôi đoán, mà chỉ là chỗ hàng xóm tốt bụng, bạn vớì bà cụ, khi được báo tin là bà cụ sắp đi đã sốt sắng sang giúp đỡ và tình nguyện ở lại canh thi hài. Bà bảo bà cụ đi nhẹ nhàng không đau đớn gì. Chúng tôi bàn tính về tang lễ cho người mãn phần. Trong miền đất hẻo lánh này, nhiều lần tôi đã phải tự tay cắt đặt mọi chuyện cho tang gia. Tôi thoáng thấy không yên tâm vì phải giao phó căn nhà dù nghèo hèn này cho người hàng xóm và con bé người làm. Đây chỉ là mái tranh xơ xác, nhưng biết đâu lại chẳng có bảo vật cất giấu trong xó xỉnh nào. Lo vậy, nhưng thật ra tôi cũng không làm gì hơn được. Tôi hỏi xem ai là người thừa kế. Bà hàng xóm bấy giờ cầm cây nến bước tới góc nhà, và tôi nhận ra lờ mờ có người ngồi xổm bên bếp lửa, mớ tóc dày che hết khuôn mặt. Bà giải thích: “Tôi nghe đứa ở kể thì con bé mù này là cháu bà cụ; hình như gia đình chỉ có vậy, vỏn vẹn hai bà cháu. Chắc rồi phải đưa nó đi cô nhi viện thôi. Nếu không, biết ai trông nó bây giờ.” Tôi lúng túng thấy bà lớn tiếng bàn bạc về số phận con bé ngay trước mặt nó, sợ những lời sống sượng làm nó buồn lòng. Tôi nhỏ nhẹ nhắc khéo bà nên có chút tế nhị: ... Mời các bạn đón đọc Bản Đàn Thôn Dã của tác giả André Gide.