Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chữ A Màu Đỏ - Nathaniel Hawthorne

Đọc tác phẩm “Chữ A màu đỏ” của Nathaniel từ đầu tới cuối tôi đều cảm thấy trong mình tràn dâng những cảm xúc mãnh liệt. Cái cách kể chuyện và miêu tả tâm lý nhân vật với những đoạn độc thoại nội tâm gay gắt của người phụ nữ ngoại tình chính là những trang văn in dấu sâu đậm nhất trong tôi. Tôi đã phải tập trung tất cả mọi trí lực và cảm xúc của mình để theo dõi câu chuyện hấp dẫn này. Một câu chuyện cảm động về nghị lực, sự can đảm và tình yêu cuộc sống vô bờ bến của một người phụ nữ trót mang tội trong xã hội.  Với tôi, nó cũng thật sự là một câu chuyện quá đẹp giữa cuộc sống này, nó đem lại cho tôi nhiều tin yêu, nhiều mạnh mẽ và nhiều hi vọng. Những cuốn sách đã trải qua thăng trầm của thời gian để còn lại, để sáng hơn và đem đến cho những độc giả của hôm nay nhiều trải nghiệm sâu sắc hơn. Một câu chuyện về “Chữ A màu đỏ” khép lại, nhưng đã đem lại cho tôi cái nhìn thấu hiểu hơn đối với số phận và nghị lực của những người phụ nữ ngoại tình. Những người phụ nữ ấy không phải ai cũng xấu xa và đáng trách. Họ có những tâm tư thầm kín mà chỉ khi có được sự thấu hiểu và đồng cảm thực sự chúng ta mới có thể hiểu được. Đây là một trong số những câu chuyện nghiệt ngã nhất về số phận của người phụ nữ mà tôi đã từng được biết. Tôi đã đọc cuốn sách với tâm trạng bế tắc, đau đớn, hận thù và hoàn toàn bất lực. Ngay khi bắt đầu đọc “chữ A màu đỏ” tôi đã ngưỡng mộ cô. Tôi chăm chú theo dõi từng bước chân của chị trên hành trình mà chị đang đi. Tôi không rời mắt khỏi con người chị và những người xung quanh chị dù chỉ một giây phút. Và tôi đã nhận ra rằng ánh mắt của những người bên cạnh chị khi nhìn theo chị đã dần khác. Tôi không còn cảm thấy cái ánh mắt ngột ngạt hằn học và căm giận nữa. Tôi bắt gặp một ánh mắt yêu thương, tha thứ, và đồng cảm. Quả thực cuộc sống, tình yêu và sự hi sinh trong sáng của cô đã khiến cho cộng đồng không thể quay lưng với cô nữa. Cô sống giản dị, điềm đạm như biết bao nhiêu người đàn bà khác. Người đời không còn trách cô nữa. Tôi nghĩ đó là điều đương nhiên cô đáng nhận được với những gì mà cô đã trải qua. Tấm lòng nhân hậu đã khiến cho chữ A màu đỏ trên người cô trở thành một dấu vết phai nhòa của quá khứ xa xôi, mà hiện tại khi nhìn về phía cô gái đã từng mang tiếng ngoại tình, chửa hoang ấy người ta chỉ cảm tháy lòng yêu thương, vị tha, và một nguồn an ủi đồng cảm vô tận với số phận của những người phụ nữ trong xã hội này. *** Chữ A màu đỏ, tiểu thuyết của Nathaniel Hawthorne, xuất bản năm 1850, đã được nhiều nhà phê bình đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn học thế giới. Câu chuyện xảy ra ở Boston, thủ phủ ban Massachuselle (thuộc miền New England đông bắc nước Mỹ) trong những năm 1640, vào một thời mà xã hội miền này bị giam hãm trong vòng luật lệ và giáo lý nghiệt ngã của nhà thờ Thanh giáo. Một người phụ nữ tên là Hester Prynne, vì một đứa con hoang, đã bị kết án bêu trên bục tội nhân ba tiếng đồng hồ trước công chúng và chịu hình phạt mang một chữ A màu đỏ cài trên ngực cho đến hết đời. chữ A màu đỏ là dấu sỉ nhục về tội ngoại tình (chữ A là chữ đầu từ Adultery : tội ngoại tình). Không ai ngờ được rằng người bố của đứa con hoang ấy lại là người đảm nhiệm phần hồn của Hester Prynne, mục sư Arthur Dimmesdale, một giáo sĩ trẻ đầy tài năng, được con chiên ngưỡng mộ như một vị thiên thần. Hester Prynne chịu đựng nỗi nhục nhã đau đớn. Còn Arthur Dimmesdale, bị sự dày vò khủng khiếp của lòng hối hận, ngày một gầy mòn xanh xao. Thế nhưng quần chúng không hề hay biết gì cả, vẫn sùng kính anh như một vị thánh sống. Giữa lúc đó, xuất hiện thêm một nhân vật, hình thành đủ bộ ba trong diễn biến xung đột của câu chuyện. Đó là chồng của Hester, một con người tuổi đã xế chiều, khô lạnh, dị dạng, mà Hester không hề yêu. Lão đã sống cuộc đời lang bạt, nay vừa đến đây thì thấy vợ trên cái bục ô nhục. Lão bắt đầu một cuộc săn tìm kẻ tình địch để báo thù. Buộc vợ thề không bao giờ lộ tung tích của lão ra, lão đội cái tên giả Roger Chillingworthe, xuất hiện giữa cộng đồng Thanh giáo Boston với danh nghĩa là một thầy thuốc. Như vậy là tác giả Nathaniel Hawthorne đã bắt đầu câu chuyện ở chỗ mà phương sách xử lý cốt truyện cổ truyền thường kết thúc. Mối quan tâm của Hawthorne không phải là ở giai đoạn diễn biến một cuộc tình duyên éo le, mà là ở tâm lý của các nhân vật trong giai đoạn tiếp sau đầy khủng hoảng quyết liệt, và những vấn đề triết lý sâu xa rút ra từ những tình tiết trong cảnh huống ấy. Hester Prynne nhẫn nhục chịu đựng nỗi đau đớn ê chề trước sự ghê sợ khinh bỉ và nhục mạ của mọi người. Chị không bỏ đi nơi khác để làm lại cuộc đời, mà tiếp tục ở lại giữa mảnh đất đã ruồng rẫy chị, coi đó là một định mệnh. Chị giữ một phong cách giản dị khổ hạnh, tích cực lao động kiếm sống cho mình và cho đứa con gái nhỏ. Con người bị xã hội khinh rẻ đã thể hiện một tấm lòng nồng hậu và nhân đạo, tự nguyện làm một bà phước, tận tụy săn sóc cưu mang những người nghèo khổ, ốm đau. Sau những năm dài, cuộc sống trong sáng của chị đã biện hộ cho chị. Dần dần người ta có thiện cảm với chị, tha thứ cho lỗi lầm của chị. Chữ A màu đỏ chỉ còn là một dấu vết của quá khứ đã lùi xa về phía sau, biến thành một biểu tượng mang một ý nghĩa khác : ý nghĩa của sự tích cực, của lòng thương người, của nguồn an ủi. Trong suốt thời gian Hester Prynne triền miên chịu sỉ nhục thì mục sư Arthur Dimmesdale cũng triền miên day dứt, hối hận trong lòng. Sự hối hận thôi thúc anh bộc bạch tội lỗi, nhưng anh không đủ dũng khí, chỉ dùng được những lời ám chỉ để tự phê phán. Nhưng anh càng tự phê phán thì người ta lại càng kính trọng anh. Và anh thấy khổ sở tự ghê tởm mình. Quá trình dày vò dai dẳng ấy làm anh ngày càng héo hon tiều tụy. Lão Roger Chillingworthe từ khi xuất hiện ở Boston đã tiếp cận Dimmesdale, ngỏ ý muốn chữa bệnh cho anh. Những diễn biến đặc biệt trong sự đau ốm của thể chất và tâm thần anh làm lão sinh nghi, càng quyết tâm thâm dò, tìm hiểu. Nhân dân Boston vui mừng vì Thượng đế đã cho một vị bác sĩ y khoa lỗi lạc đến chăm sóc sức khỏe người mục sư mà họ xiết bao yêu quý. Người ta bố trí cho lão ở chung một nhà với Dimmesdale. Bằng sự sắc sảo của một đầu óc thông thái và quỷ quyệt, lão đã dần dần phát hiện và đi đến khẳng định anh chính là kẻ tình địch mà lão đang săn tìm. Thế là từ đấy lão bám sát anh, báo thù theo cách của lão, dùng mọi thủ đoạn kích động hành hạ cho Dimmesdale thêm đau đớn. Bảy năm đằng đẳng trôi qua với sự im lặng chịu đựng của Hester, với nỗi thống khổ khắc khoải trong tâm hồn Dimmesdale mà lão Chillingworth đã nhai xé cho ngày càng trầm trọng, khiến sức khỏe của anh suy sụp chỉ còn như ngọn lửa chập chờn sắp lụi tàn. Hester Prynne thấy giấu kính tông tích lão chồng cũ không phải là tránh được tai họa cho Dimmesdale, nên chị rút bỏ lời thề, nói cho Dimmesdale rõ sự thực. Hai người nhận thấy âm mưu báo thù của lão Chillingworth còn xấu xa hơn nhiều so với tội lỗi của họ. Họ bàn tính cùng nhau bỏ đi thật xa, làm lại cuộc đời. Nhưng Roger Chillingworth biết được ý đồ ấy. Vậy là chỉ còn một nơi để thoát khỏi tay lão : đó là bục tội hình. Ngay sau buổi thuyết giáo của Dimmesdale trong một ngày hội tụ tập đông đảo quần chúng, Dimmesdale gọi Hester và con gái cùng bước lên bục tội hình, nơi mà bảy năm về trước, Hester một mình chịu hình phạt. Đứng trên bục, Dimmesdale bộc lộ lỗi lầm của mình trước đám đông bàng hoàng sững sốt. Vượt qua được ngưỡng cửa của cuộc đấu tranh nội tâm ghê gớm, dành được chiến thắng trong cơn thống khổ cực độ, chàng mục sư trẻ gục xuống trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay của Hester Prynne. * Đọc Nathaniel Hawthorne, chúng ta tiếp xúc với một phong cách đặc biệt, với những diễn biến phức tạp, mãnh liệt trong chiều sâu tư duy, tâm hồn nhân vật. Tác giả kể chuyện, nêu những tình tiết xảy ra rồi phân tích, gợi lên những điều triết lý sâu sắc trong tâm khảm, trong tính cách của từng người, từng lớp người, hoặc của quảng đại quần chúng. Giá trị các tác phẩm của Nathaniel Hawthorne là ở sự phân tích tỉ mỉ, sâu rộng về nội tâm. Hawthorne thừa kế truyền thống nghiêm ngặt của nhà thờ Thanh giáo ; ông quan tâm đến cái mà các nhà thần học thường gọi là “tội lỗi vốn có” của loài người (original sin). Nhưng ông đả phá tính hẹp hòi, cố chấp và tàn ác của nhà thờ Thanh giáo New England. Những tác phẩm của ông thấm nhuần tính nhân đạo sâu sắc. Vấn đề tội lỗi là đề tài được lặp đi lặp lại trong nhiều cuốn truyện của Hawthorne nhưng sự chú ý của Hawthorne không phải là ở bản thân tội lỗi mà là tập trung vào tác động tâm lý do tội lỗi gây ra. Trước con mắt của Hawthorne, tội lỗi lớn nhất Chữ A màu đỏ không phải là tội ngoại tình của Hester Prynne, cũng không phải là tội của Dimmesdale, mà là tội của Roger Chillingworth đã xúc phạm vào cõi thiêng liêng trong tâm hồn Dimmesdale. Hawthorne đã miệt mài để hết tâm trí vào cuộc tranh luận kéo dài năm này sang năm khác về bản chất con người. Trong thế kỷ đương thời, có một dòng tư tưởng lãng mạn tích cực, nhấn mạnh rằng con người bẩm sinh là tốt. Quan điểm này, xuất phát từ Jean Jacques Rousseau và người đề xướng quan điểm này trong văn học Mỹ là Emerson. Hawthorne không lãnh đạm trước sức quyến rũ của tư tưởng tích cực này. Việc Hawthorne xử lý tính cách nhân vật Hester Prynne trong Chữ A màu đỏ tỏ rõ một tấm lòng đồng tình thương cảm. Hester là một phụ nữ cương nghị. Chị không hối hận về hành vi ngoại tình với mục sư Dimmesdale. Chị cũng không đồng tình với nỗi cắn rứt lương tâm của Dimmesdale. Chị nói với Dimmesdale : “Điều chúng ta đã làm có một tính thánh hóa của riêng nó”. Khi chị ngồi với chàng mục sư trong rừng, chị đã bứt chữ A màu đỏ ra khỏi ngực mình và vứt xuống đất. Việc Hester vứt cái dấu sỉ nhục ấy đi là sự “nổi loạn” của chị. Thế nhưng, câu chuyện cũng viện ra nhiều lý lẽ để bảo vệ luật pháp và lương tâm. Dimmesdale không còn tìm cách trốn đi như đã dự tính, mà trái lại, Dimmesdale đã bước lên bục tội hình, bộc lộ thẳng thắng lỗi lầm trước công chúng rồi chịu chết, yên tâm đã chiến thắng bản thân. Các tiểu thuyết của Hawthorne cho hư danh là mọi tội lỗi lớn, dù đó là để bảo toàn thanh danh mình (như Dimmesdale, đóng vai đạo đức giả suốt bảy năm trời). Con người chỉ có thể được “cứu vớt” nhờ sự khiêm nhường, chịu khuất phục ý trí của Đấng thiên liêng. Sự khiêm nhường là yếu tố hòa hợp, cân bằng trong mối quan hệ giữa người với người. Hawthorne đặc biệt nổi bật ở quan điểm về cái thiện và cái ác bên trong một con người. Trong nhiều truyện ngắn và truyện dài sáng tác cả trước và sau Chữ A màu đỏ, cũng như trong truyện này, Hawthorne đã luôn luôn nghiền ngẫm về những mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau giữa cái tốt và cái xấu, về cái xu hướng hòa làm một hoặc đảo chỗ cho nhau giữa hai nhân tố ấy trong từng cá nhân. Dưới một bề ngoài mô phạm đạo đức, bên trong vẫn có những điều đáng hổ thẹn, thậm chí những vết nhơ và tội ác ; ngược lại, dưới cái bề ngoài tội lỗi bị khinh bỉ và bị lên án, lại có một tâm hồn nhân ái, vị tha. Một đặc điểm khác của Hawthorne là tài sử dụng thành thạo lối phúng dụ - tức diễn đạt ngụ ý (allegory) – và lối dùng hình ảnh tượng trưng (symbolism`. Phép diễn đạt ngụ ý và bằng tượng trưng của Hawthorne đặc biệt thành công trong câu chuyện về chữ A màu đỏ, mà nhiều đoạn đã lộ rõ ý của tác giả muốn mô tả thành một truyền thuyết. Mỗi địa điểm, mỗi nhân vật và mỗi sự kiện đều mang một ý nghĩa sâu rộng hơn. Bục tội hình – như một đoạn đầu đài – mang ý nghĩa của sự trừng phạt trong đoạn đầu câu chuyện, và mang ý nghĩa của sự chuộc tội trong đoạn cuối. Rừng hoang là một nơi mà con người sa vào con đường lầm lạc về mặt tinh thần đạo lý. Khóm tầm xuân trước cửa nhà tù, mụ già Hibbins, v.v…, đều mang một ngụ ý. Bản thân chữ A màu đỏ là tượng trung cho tội ngoại tình; ; nhưng còn hơn thế, nó tượng trưng cho mọi tội lỗi ; và khi người ta càng mở rộng tầm của nó ra xa thêm, thì nó lại tượng trưng cho tất cả mọi lỗi lầm và yếu kém ngăn trở sự vận động thỏa đáng của xã hội loài người. Và oái oăm thay, cái chữ A màu đỏ sỉ nhục ấy lại tiến đến chỗ biến thành một biểu tượng mang ý nghĩa khác hẳn : ý nghĩa của lòng nhân ái, của nguồn an ủi, ý nghĩa của chiếc thánh giá trên ngực người nữ tu sĩ, trước con mắt của những tín đồ Thanh giáo khắc nghiệt! Ở Hawthorne, sự sụp ngã của một con người là sự sụp ngã có phúc. Qua tội lỗi và đau khổ, con người đạt tới một chiều sâu tâm hồn và một chiều rộng nhãn quan, mà nếu không va vấp và chịu sự hành xác thì không thể nào đạt tới được. Nathaniel Hawthorne còn có một khả năng nhạy bén về thuật kết cấu câu chuyện (architectonic sense). Cấu trúc của truyện chữ A màu đỏ chặt chẽ. Bốn nhân vật (Hester Prynne, Arthur Dimmesdale, Roger Chillingworth, và bé Pearl) gắn chặt vào nhau trong cái mạng tơ vò của một cảnh huống cuộc đời dường như không thể nào có giải pháp. Việc tác giả sử dụng với một sự sắp đặt cố ý cái bục bêu tội nhân ở ba lớp chủ yếu của câu chuyện (đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn kết) tạo ra sự thống nhất về diễn biến một quá trình diễn biến phát triển chậm rãi nhưng không khoan nhượng đến điểm tột đỉnh là cuộc thú tội của Dimmesdale trước công chúng. Phong cách viết đi vào cõi nội tâm, phân tích những điều triết lý sâu sắc bên trong tinh thần của sự vật khả năng phát triển ý nghĩa của các hình ảnh tượng trưng, cộng với kỹ năng viết điêu luyện – tất cả những đức tính nói trên đã tạo nên cái hay đặc thù của Hawthorne và đã làm cho các tác phẩm của ông được đánh giá cao, gây được sức thuyết phục mạnh mẽ đối với những độc giả từ giữa thế kỷ 20 trở về sau. Hawthorne đã được xem là một nhà văn lớn, một trong những nhà viết tiểu thuyết có tài năng nhất trong nền văn học Mỹ. * Nathaniel Hawthorne sinh năm 1804 ở Salem, bang Massachusetts (miền đông bắc nước Mỹ) thuộc một dòng họ người Anh đã đến đây từ năm 1630 và đã góp phần tạo ra khu định cư đầu tiên của thuộc địa Anh ở miền này, mà những người thực dân Anh đầu tiên đặt tên là “nước Anh mới” (New England). Tại miền này, vào cuối thế kỷ thứ 17, tức khoảng 100 năm trước cuộc Cách mạng nước Mỹ, một số tín đồ Thanh giáo cuồng tín cho rằng con người có thể bán mình cho quỷ dữ và trở thành phù thủy. Thân sinh ra ông nội Nathaniel Hawthorne sống vào thời ấy, là một quan tòa Thanh giáo khắc nghiệt đã kết án treo cổ nhiều người bị gán cái tội ấy. Một trong những nạn nhân của ông đã phát một lời trù rủa độc địa cho ông ta và con cháu ông ta sau này. Những sự kiện này đã có ảnh hưởng lớn tới suy nghĩ của Nathaniel Hawthorne và tác động đến các sáng tác của ông. Bố của Hawthorne là một thuyền trưởng, chết trong một chuyến đi biển, lúc Hawthorne mới bốn tuổi. Tâm trạng đau buồn đã khiến người mẹ tự tách biệt khỏi xã hội, sống ẩn dật. Nếp sống đó cũng có ảnh hưởng tới Nathaniel Hawthorne sau này. Khi đang học ở trường đại học Bôdân (Bowdoin), năm 1828, Hawthorne đã bắt đầu tập viết văn và mang hoài bão muốn trở thành nhà văn lớn. Sau khi tốt nghiệp đại học trở về Salem, Hawthorne trong một thời gian dài vẫn giấu kín bút danh, đóng kín cửa đọc sách, nghiên cứu rèn luyện tư duy và khả năng văn học. Mùa hè, ông đi thăm nơi này nơi nọ trong miền New England, hòa mình vào quần chúng ở các phiên chợ và các cuộc tụ tập, quan sát, tìm hiểu cuộc sống. Trong quá trình tự đào tạo ông đã viết nhiều truyện ngắn, nhưng thường viết xong, ông lại hủy bỏ. Mãi đến năm 1837, ông mới cho ra mắt được cuốn sách đầu tiên mang tên ông. Đó là cuốn Những truyện kể lại vài lần (Twice told tales) tập hợp một số truyện ngắn mà ông đã viết trong những năm qua. Ông xin vào làm ở Sở Thuế quan Boston. Năm 1842, ông cưới vợ và về sống ở một ngôi nhà mục sư cổ tại Concord (cũng bang Massachusetts) trong bốn năm, tiếp tục viết. Một tập truyện ngắn ra đời cuối thời kỳ này với nhan đề “Những mảng rêu từ một ngôi nhà mục sư cổ” (Mosses from an Old Manse) 1846. Chính thời kỳ này đã được ông nhắc đến trong phần mở đầu cuốn Chữ A màu đỏ. Là một đảng viên dân chủ, ông được chính quyền Đảng Dân chủ của Tổng thống Polk cho vào làm ở Phòng Thuế quan Salem. Ba năm sau, Đảng Uých (Whig) lên cầm quyền, ông mất việc. Trong nỗi chán ngán, ông đã ngồi viết Chữ A màu đỏ. Hôm ngồi đọc lại bản thảo cuốn truyện đã hoàn thành này, nhiều lần ông ứa nước mắt. Phải tóm bắt được những giây phút như thế mới hiểu thấu được tâm hồn ông. Cuốn Chữ A màu đỏ đã lập tức làm ông nổi tiếng không những ở Mỹ mà ở cả nước Anh vốn khó tính đối với tác phẩm của các nhà văn Mỹ. Những năm tiếp theo vẫn là thời kỳ đỉnh cao cuộc đời sáng tác của Nathaniel Hawthorne. Ông đã viết cuốn Ngôi nhà bảy đầu hồi (The House of the Seven Gables) cũng là một tác phẩm trứ danh (1851), cuốn Câu chuyện tình ở Blithedale (The Blithedale Romance) (1852), một số truyện cho trẻ em như Cuốn sách kỳ diệu cho các bé gái bé trai (Wonder Book for Girls and Boys) (1852) và Những truyện kể về rừng rậm cho các bé gái bé trai (Tanglewood Tales for Girls and Boys) (1853). Năm 1853, Tổng thống Mỹ Franklin Pierce, bạn học cũ của Hawthorne, cử ông đi làm lãnh sự Mỹ tại Livơpun (Anh). Gia đình ông sang ở Anh từ 1853 đến 1858. Sau đó ông đi du lịch sang lục địa châu Âu. Trong thời kỳ này, Nathaniel Hawthorne viết thêm cuốn Thần Đồng nội bằng cẩm thạch (The Marble Faun) (1860). Đây là cuốn truyện viết hoàn chỉnh cuối cùng của ông, nói về cái thiện và cái ác trong lòng người. 1860, Hawthorne cùng gia đình trở về Mỹ. Những truyện ông viết về cuối đời đều dở dang, chất lượng sút kém. Một lý do nào đấy, không xác định được, đã làm khô cạn tài năng sáng tạo của ông. Nathaniel Hawthorne mất năm 1864, vừa tròn 60 tuổi. Sau khi ông mất, bạn bè tập hợp lại những đoạn bản thảo chưa hoàn thành, xuất bản một số cuốn : Septimius Pelion (1872), “Mối tình Dolliver” (1876), Bí mật của bác sĩ Grimghawe (1883) và Dấu chân tổ tiên (1883). Nói về sáng tác của Hawthorne, người ta không quên nhắc đến những tác phẩm ông viết cho trẻ em. Ông đã đưa một sắc thái hoàn toàn mới mẽ vào nền văn học phục vụ thiếu nhi. Không phải với phương pháp mượn một câu chuyện kể để răn dạy, thuyết giáo con trẻ, ông đã trân trọng viết cho thiếu nhi như viết cho người lớn, có chiều sâu tư tưởng và lực truyền cảm mạnh mẽ. Cuốn sách viết cho thiếu nhi của ông được nhiều người biết tiếng nhất là cuốn Những truyện kể về rừng rậm cho các bé gái bé trai (1853). Nhà văn lớn này đã cống hiến cho thiếu nhi, cũng như đã phục vụ cho người lớn, tài năng đầy chất thơ và tri thức sâu sắc của mình về bản chất con người. NGƯỜI DỊCH Mời các bạn đón đọc Chữ A Màu Đỏ của tác giả Nathaniel Hawthorne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Tàu Trắng - Chyngyz Torekulovich Aytmatov
CON TÀU TRẮNG của Chyngyz Torekulovich Aytmatov là một câu chuyện buồn kể về một cậu bé có những ước mơ không ai hiểu được. Bố mẹ chia tay, cậu ở với ông ngoại Mômun già nua ở một trạm gác rừng hẻo lánh. Cậu bé sống bằng những món ăn đơn giản và tâm hồn chất chứa những những huyền thoại và truyền thuyết đẹp đẽ mà ông Mô-mun kể. Trong đó có câu chuyện về Mẹ Hươu Sừng.Theo truyền thuyết, Hươu sừng Maran đã cứu bộ lạc Kirghidi khỏi bị diệt vong và được coi là tổ mẫu của người Kirghidi. Đây là huyền thoại từ ông Mômun. Còn cậu bé cũng có một huyền thoại của riêng mình- Con tàu trắng".Những khi trèo lên núi tìm bóng con tàu trắng, nó cứ mơ cái ngày nó bước xuống sông, biến thành cá và bơi ra biển, bơi thẳng ra chỗ con tàu trắng để gặp người bố làm thuỷ thủ của nó và bảo: Bố ơi, con là con của bố đây!" Nhưng cậu bé mơ mộng phải đối mặt với một thế giới không huyền thoại và đầy bạo lực. Ông ngoại bị ép phải bắn con hươu Maran mà cậu tin là Mẹ Hươu Sừng...Kẻ ép ông cậu bắn hươu tàn nhẫn hơn, đem cho cậu phần thịt xẻ từ con hươu Maran đã chết... Bi kịch đầu tiên xảy ra với ông già Mô mun.Vì cháu trai của ông "không hề ngờ rằng ông nó nằm đây để đền nợ về câu chuyện hoang đường của mình về Mẹ Hươu Sừng, rằng do bị cưỡng ép, ông đã giết chết những gì mà chính ông đã gieo vào tâm hồn thằng bé khiến nó suốt đời không quên – ông đã xúc phạm đến lòng tôn kính tổ tiên, đến lương tâm và những lời dạy bảo của chính ông, nó có biết chăng rằng ông làm việc đó là vì người con gái khốn khổ của ông, là vì nó, đứa cháu trai của ông…Và bây giờ, ngã gục vì đau xót và nhục nhã, ông già nằm như người bị giết, mặt úp sấp, không đáp lời thằng bé." Bi kịch thứ hai xảy ra nặng nề hơn với cậu bé."Không ai nhận thấy thằng bé từ trên giường tụt xuống và ra khỏi nhà. Nó vừa kịp rẽ vào góc nhà là ói mửa liền. Thằng bé vịn vào tường, rên rỉ, khóc qua làn nước mắt, nó nức nở nghẹn ngào, lẩm bẩm: Không, thà làm cá còn hơn. Ta sẽ bơi đi nơi khác. Thà ta làm cá còn hơn." Cậu bé muốn đi tìm Con tàu trắng... Con tàu trắng như là một bài thơ dài .Sự băn khoăn, tiếc nuối và nỗi đau ẩn trong từng trang sách. Ngay cả ở nơi sơn cùng thủy tận ta cũng không còn chốn nương thân. Khi đối diện với cô đơn, cùng lúc có thể ta phải đối diện với sự hiển hiện của các ác làm tan vỡ mọi giấc mộng đẹp nhất. Dường như khi đau đớn và tổn thương hiện hữu, chỉ có sự tỉnh táo mới cứu nổi ta. *** Nó có hai huyền thoại. Một của riêng nó, không ai biết. Chuyện kia do ông kể. Rồi chẳng còn huyền thoại nào cả. Ở đây xin thuật lại câu chuyện đó. Năm đó nó vừa tròn bảy tuổi, mới lên tuổi thứ tám.. Mở đầu, nó được mua một chiếc cặp, chiếc cặp giả da mầu đen, có chốt kim loại bật tanh tách luồn qua móc gài. Có túi ngoài để đựng các thứ lặt vặt. Tóm lại là một chiếc cặp học trò hết sức bình thường mà lại rất lạ kỳ. Có lẽ mọi chuyện đều bắt đầu từ đó. Ông nó mua cái cặp ở ô tô bán hàng lưu động khi chiếc ô tô đó đến đây. Chiếc ô tô đó đưa hàng đến bán cho những người chăn gia súc trong núi, dôi khi cũng tạt vào trạm gác rừng của ông cháu nó ở hẻm Xan-Tasơ. Từ trạm gác này, khu rừng cấm qua các khe hẻn và các sườn dốc leo lên tận thượng nguồn. Ở xóm trạm gác chỉ có ba gia đình. Tuy vậy, ô tô bán hàng đôi khi vẫn ghé thăm những người coi rừng. Là một thằng bé duy nhất trong cả ba hộ, bao giờ nó cũng là người trước tiên trông thấy chiếc ô tô bán hàng. -Xe đang đến đấy, - Nó vừa gào ầm lên vừa chạy tới các cửa lớn và cửa sổ.- Ô tô bán hàng đến đấy. Con đường cho xe chạy tới đây khởi đầu từ ven hồ Ix xưc-Kun, luôn luôn qua các khe núi và bờ sông, toàn đá và ổ gà. Cho xe chạy trên con đường như thế không phải là dễ dàng gì. Đến núi Karaun, đường từ đáy lũng hẹp lên trên cao, rồi lại đổ xuống theo sườn núi dựng đứng trơ trụi, chạy dài mãi đếnn sân nhà những người gác rừng. Núi Karaun ở ngay cạnh xóm, mùa hè ngày nào thằng bé cũng chạy lên núi chiếu ống nhòm nhìn ra hồ. Ở đấy, bao giờ cũng nhìn thấy hết mọi thứ trên đường cái, rõ như trên lòng bàn tay: cả người đi bộ, cả người cưỡi ngựa, cà cố nhiên cả ô tô. Lần ấy vào một ngày hè nóng bức, thằng bé tắm trong cái đập nước của mình và từ đấy nó nhìn thấy chiếc ô tô tung bụi trên sườn dốc. Cái đập ở ria bãi sông, trên đá sỏi. Ông nó chất đá đắp nên cái đập ấy. Nếu như không có cái đập thì chưa biết chừng thằng bé đã mất mạng từ lâu. Thì có lẽ như bà nó nói, nước sông đã rửa trắng xương nó từ lâu và cuốn trôi tuột ra hồ Ix xưc-Kun, cá và các loài thủy tộc tha hồ mà ngắm nghía. Sẽ chẳng ai tìm kiếm và đau buồn xót thương nó. Bởi vì ai bảo đi nhảy xuống nước làm gì, vả chăng người ta cũng chẳng thiết gì nó lắm. Hiện thời chuyện đó chưa xảy ra. Chứ nếu xảy ra chuyện chẳng lành thì không chừng bà sẽ chẳng nhảy xuống cứu nó đâu, thật thế đấy. Nếu nó là máu mủ ruột thịt thì chẳng nói đằng này bà lại bảo nó là người dưng. Mà người dưng thì dù có nuôi nấng chăm sóc thế nào đi chăng nữa cũng vẫn cứ là người dưng. Người dưng nước lã…Ừ, nhưng nếu nó không muốn là người dưng thì sao? Tại sao chỉ có nó bị coi là người dưng? Có thể không phải nó, mà chính bà mới là người dưng thì sao? Nhưng chuyện ấy sau này sẽ nói, cả chuyện đập nước cũng để sau…     Vậy là nó nhìn thấy chiếc ô tô bán hàng từ xa, chiếc xe đang xuống núi, bụi cuốn bốc lên đường theo sau xe. Thằng bé mừng quýnh lên, như thể là nó biết chắc là nó sẽ được mua chiếc cặp. Nó lập tức lên cạn, xỏ đôi chân gầy guộc vào ống quần, và người còn ướt nước, tái ngắt ( nước sông vẫn lạnh) , nó chạy trên con đường mòn về sân, để là người đầu tiên báo tin người bán hàng đang tới. Thằng bé chạy nhanh, nhảy qua những bụi cây và chạy vòng qua những khối đá tảng nếu không đủ sức chạy qua, không dừng lại lấy một giây ở bất cứ chỗ nào: dù là bên những đám cỏ cao hay bên những khối đá, mặc dù nó biết đấy hoàn toàn không phải là những vật thông thường. Chúng có thể bực tức và ngáng chân cho ngã, “ô tô bán hàng đã đến rồi. Tớ sẽ trở lại sau.”- nó vừa chạy vừa nói với” Lạc đà nằm” (đấy là tên nó đặt cho khối đá hoa cương có bướu lún sâu dưới đất đến ngang ngực.). Bình thường, không bao giờ nó đi qua mà không vỗ vào bướu con “Lạc đà” của mình. Nó vỗ về con lạc đà như chủ vỗ về con vật, như ông nó vỗ về con ngựa thiến cộc đuôi của ông, nhân đi qua thì tiện tay làm thế thôi, như có ý bảo: mày đợi đây nhé, tao đi có việc một lúc. Nó có khối đá ’Yên ngựa": khối đá nửa trắng nửa đen, đốm khoang , lưng oằn xuống có thể ngồi lên như cưỡi ngựa. Còn có khối đá “Chó sói”, rất giống con chó sói lông màu nâu đốm bạc, ót rất khoẻ, gồ trán nặng nề. Thằng bé thường len lén bò tới gần và nhắm bắn. Nhưng khối đá nó thích nhất là “chiếc xe tăng”- khối đá kiên cố vô cùng, ở ngay cạnh sông, chỗ bờ bị xói mòn. Nom cứ như “Chiếc xe tăng” sắp từ trên bờ lao xuống nước, bò đi và sông sẽ sủi réo , tung lên những đợt sóng nhào trắng xoá. Trên màn ảnh, xe tăng cũng từ trên bờ lao xuống nước và bò đi…Thằng bé ít được xem phim, nên nó nhớ như in tất cả những gì đã được xem khi ông đèo cháu đến xem phim ở trại quốc doanh nuôi vật giống, trại này thuộc địa khu lân cận, phía bên kia núi. Chính bởi thế trên bờ sông mới xuất hiện “Chiếc xe tăng” sẵn sàng lao xuống nước, vựơt qua sông. Ngoài ra còn có những khối đá khác, “có hại” hoặc “hiền từ”, thậm chí “ranh mãnh” hay “đần độn”. .. Mời các bạn đón đọc Con Tàu Trắng của tác giả Chyngyz Torekulovich Aytmatov.
Chuyện Tình Vượt Thời Gian - Dục Hồng Y
Nhuốm màu sắc lãng mạn lẫn giả tưởng, tiểu thuyết 'Chuyện tình vượt thời gian' đưa người đọc vào không gian giao thoa giữa quá khứ, hiện tại, nơi diễn ra chuyện tình tay ba kịch tính. Mới ngày đầu tiên nhập học, Lâm Tiểu Ngư đã vô tình “đắc tội” với hội trưởng hội học sinh trường Trung học phổ thông Phác Thiện. Kết quả, đêm đó cô nàng phải ngủ ở ngoài công viên gần trường học. Trong lúc Lâm Tiểu Ngư đang “say giấc nồng” thì bỗng nhiên có một thứ gì đó rất nặng đè lên người cô. Khi cô choàng tỉnh giấc thì thấy trên người mình là một anh chàng khôi ngô tuấn tú trong bộ trang phục thời cổ đại, nai nịt gọn gàng, lưng đeo một thanh kiếm. Anh chàng đó tự xưng là Sai dịch đại nhân triều đại nhà Thanh, tên là Thượng Quan Cảnh Lăng… Để giúp Thượng Quan Cảnh Lăng nhanh chóng thích nghi với cuộc sống hiện đại và để trang trải cuộc sống, Lâm Tiểu Ngư dự định tìm cho anh ấy một công việc. Hội trưởng Tả Mạc Phong vô tình phát hiện ra Thượng quan Cảnh Lăng ở trong trường cùng với Lâm Tiểu Ngư nên đã “ra thỏa thuận” với Lâm Tiểu Ngư rằng chỉ cần cô ấy tham gia vào Hội học sinh thì anh ta sẽ giúp Thượng Quan Cảnh Lăng có cơ hội được làm huấn luyện viên câu lạc bộ võ thuật của trường. Lâm Tiểu Ngư không còn cách nào khác đành "đau khổ" chấp nhận thỏa thuận đó và "chịu đựng" những ngày tháng bị Tả Mạc Phong "hành hạ". Cứ ngỡ Tả Mạc Phong là "khắc tinh" của Lâm Tiểu Ngư khi thường xuyên săm soi để bắt nạt cô. Để được yên thân cô đã miễn cưỡng chấp nhận là người yêu của hắn. Sau đó, cũng không biết từ lúc nào Tả Mạc Phong đã bị sự thông minh, tinh nghịch của cô "hớp hồn".  Câu chuyện tình tay ba giữa Thượng Quan Cảnh Lăng, Lâm Tiểu Ngư, Tả Mạc Phong diễn ra đầy phức tạp bởi "tình trong như đã mặt ngoài còn e". Yếu tố giả tưởng được lồng ghép khá thành công khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn và kịch tính.  *** Triều đại nhà Minh, năm Kiến Văn thứ hai (năm 1400 sau Công nguyên), tại vách núi Khiếu Vân, huyện Thanh Tùng. Đêm về khuya, những đám mây lặng lẽ trôi qua dưới ánh trăng, càng làm cho màn đêm thêm mờ ảo. Trên vách đá dựng đứng có hai bóng đen đang quyết đấu với nhau. “Quân Lưu Ca, hôm nay ta nhất định phải đưa hạng gian tặc hoang dâm như ngươi về quy án!” Nói dứt lời, bóng đen ấy giơ thanh kiếm trong tay lên chĩa thẳng vào yếu huyệt của đối phương. Ánh trăng sáng lọt qua đám mây rọi vào khuôn mặt anh ta, trên người khoác bộ trang phục của sai dịch, nai nịt gọn gàng, mặt mũi khôi ngô, tướng mạo phi phàm. Nhưng điểm thu hút nhất chính là khí chất anh hùng toát ra trên khuôn mặt ấy. Người được gọi tên là Quân Lưu Ca có thân hình cường tráng hơn một chút, hắn vung kiếm đỡ lấy mũi kiếm đang lao về phía mình. Ánh sáng của thanh kiếm hắt lên mặt hắn, dù không thật rõ nhưng cũng đủ để người ta nhận thấy một đôi mắt nhỏ gian manh đầy tà khí. Nếu nói theo sách tướng số thì loại người có đôi mắt này là kẻ đê hèn vô sỉ, dâm đãng lăng loàn. “Thượng Quan Cảnh Lăng, tôi và ngài không thù không oán, ngài hà tất phải chèn ép tôi đến vậy?” Quân Lưu Ca cảm nhận được sức mạnh của đối phương đang dồn lên thanh kiếm, không còn cách nào khác đành phải lên tiếng van xin. Viên sai dịch Thượng Quan Cảnh Lăng không thèm đáp lời, càng dồn sức vào thanh kiếm trên tay. Quân Lưu Ca hoảng hốt, vội lăn xuống dưới hòng tránh lưỡi kiếm của đối phương. Thượng Quan Cảnh Lăng không bỏ qua, tiếp tục tấn công tới tấp, khiến Quân Lưu Ca vội vã bỏ chạy. Để bắt được tên vô lại Quân Lưu Ca, Thượng Quan Cảnh Lăng đã phải bám theo hắn gần nửa tháng. Nay hắn ở ngay trước mặt, sao có thể dễ dàng để hắn chạy thoát như vậy? Viên sai dịch tự nhủ, phải tóm gọn tên hoang dâm đã hủy hoại thanh danh, hại đời biết bao cô gái nhà lành này. Quân Lưu Ca vừa tháo chạy, vừa lầm bầm than khổ, phía trước là đường cụt, còn nơi nào để thoát nữa đây. Thiết nghĩ, bản thân hắn cũng có thể coi là cao thủ trong số những tên vô lại, không ngờ lại bị một tên sai dịch vô danh tiểu tốt đẩy đến tình cảnh này, thật đen đủi! “Phía trước không còn đường chạy, tốt nhất là ngươi nên ngoan ngoãn nhận tội.” Thượng Quan Cảnh Lăng rút kiếm chặn đứng con đường thoát thân của Quân Lưu Ca. Quân Lưu Ca đứng bên vách đá cheo leo, nhìn phía sau là vực sâu, phía trước là lưỡi kiếm sắc bén của Thượng Quan Cảnh Lăng. Hắn không còn đường thoát thân, cũng không cam tâm đầu hàng, phải làm thế nào đây? Viên sai dịch tiến lại mỗi lúc một gần, hắn hét to một tiếng rồi buông thanh kiếm trong tay. “Sai dịch đại nhân tha mạng, tôi xin đầu hàng!” Quân Lưu Ca lập tức cúi thấp đầu. Mặc dù thấy Quân Lưu Ca đã buông kiếm đầu hàng, song Thượng Quan Cảnh Lăng vẫn hoài nghi, không dám khinh suất, thận trọng xách kiếm tiến đến trước mặt tên tội phạm, định còng tay hắn lại. Đột nhiên, một đám sương mù bay lên, xộc thẳng vào mắt Thượng Quan Cảnh Lăng. Hóa ra nhân lúc viên sai dịch tiến lại gần, Quân Lưu Ca đã dùng hết sức mình phả khói mê chuyên dùng để tấn công các cô gái vào mắt đối phương. Thượng Quan Cảnh Lăng phản xạ rất nhanh song đôi mắt vẫn bị khói mê làm cay xè. Tranh thủ khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Quân Lưu Ca tung một nắm đấm vào ngực Thượng Quan Cảnh Lăng. Dù mắt không nhìn thấy nhưng vì đã có đề phòng từ trước, viên sai dịch lùi lại phía sau theo đường quyền, khiến sức mạnh trong nắm đấm của đối phương giảm bớt một nửa. Tuy vậy, nắm đấm của Quân Lưu Ca vẫn đủ mạnh để khiến Thượng Quan Cảnh Lăng thổ huyết. Nguy hiểm hơn, phía sau viên sai dịch là vách núi cheo leo, chỉ cần lùi một bước nữa là rơi xuống vực sâu. “Quân Lưu Ca, ta có làm ma cũng không tha cho ngươi.” Thượng Quan Cảnh Lăng rướn người cố hết sức ném chiếc còng tay về phía đối phương, còng chặt cổ tay Quân Lưu Ca nhằm tiêu diệt tận gốc mối họa này. Lúc này, cả hai đều rơi xuống vách núi. Đột nhiên, qua lỗ thủng trên vạt áo của Thượng Quan Cảnh Lăng bỗng xuất hiện một luồng sáng xanh. Luồng sáng vây quanh lấy hai người họ, trong nháy mắt, cả hai biến mất trong luồng sáng ấy. ... Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Vượt Thời Gian của tác giả Dục Hồng Y.
Cân Bằng Mong Manh - Rohinton Mistry
Cân bằng mong manh là tác phẩm về một Ấn Độ trong thời kỳ biến động mạnh mẽ thập niên 70, bao quát toàn bộ những sự tàn bạo và thối nát, phẩm giá và anh hùng tính của một trong những cái nôi văn minh nhân loại này. Địa điểm là một thành phố không tên bên bờ biển. Chính phủ vừa tuyên bố Tình trạng khẩn cấp. Trong bối cảnh đó, bốn con người hoàn toàn xa lạ - một quả phụ cứng cỏi, một cậu sinh viên trẻ bị dứt khỏi vùng đồi núi thanh bình đã sinh ra mình, và hai người thợ may phải trốn chạy khỏi tình trạng bạo lực đẳng cấp nơi quê nhà - bị dòng đời xô đẩy đến với nhau, bị buộc phải cùng chia sẻ một căn hộ chật chội và một tương lai bất ổn. Đẳng cấp, định kiến, trọng nam khinh nữ, sự bành trướng của các tập đoàn nước ngoài, chính phủ hỗn loạn, sự bất an đè lên những người dân bình thường không có gì "chống lưng"… là vũng bùn sâu mà mỗi nhân vật đều vùng vẫy thoát ra. Đã có lúc họ tưởng như đã đứng vững, vươn cao khỏi bùn lầy, nhưng thế đứng của họ là sự "cân bằng mong manh", có thể đổ sụp bất kỳ lúc nào.Tác phẩm xúc động, kịch tính, gợi nhiều cảm nghĩ sâu sắc về thăng trầm và nỗ lực trong đời người. *** Ám ảnh, bạo liệt, đau đớn, dữ dội là những tính từ để tôi có thể miêu tả về cảm xúc của tôi dành cho Cân Bằng Mong Manh. Quyển sách này thật sự không dành cho tôi, cho những người vốn dĩ đã là nạn nhân hay chứng kiến quá nhiều bi kịch về bất công, về sự tàn nhẫn, về sự độc ác hay từng treo ngược chính mình khi bị cuộc đời dồn ép và quấn quanh cổ mình sợi dây trách nhiệm, tình & lý, đúng & sai. 1. Cân Bằng Mong Manh giúp bạn thấy những đau khổ, cay đắng mà bạn đã & đang trải qua thật ra chỉ là một mảnh vải ghép trong một tấm chăn ghép được đặt tên bạn. Nên niềm vui niềm hạnh phúc cũng vậy, chúng sẽ là những mảnh vải ghép tạo nên sự thú vị của tấm chăn. Nếu chúng ta cắt hết những mảnh xấu đi, tỉa hết những đêm đáng sợ và chỉ may những mảnh đẹp lại với nhau thì kéo sẽ cùn, tấm chăn chỉ còn lại tí vải. Và chúng ta sẽ chỉ có một cuộc đời quá ngắn ngủi. Nói theo cách của Maneck thì : “Cuộc đời có nhiều thứ phức tạp lắm, khó mà lấy kéo chia được. Tốt xấu đan xen thế này. Như những ngọn núi của tớ chẳng hạn. Chúng đẹp lắm, nhưng cũng có thể gây lở tuyết”. Thế nên quy tắc cần ghi nhớ về cuộc sống qua triết lý tấm chăn vải ghép đó là cả tấm chăn quan trọng hơn rất nhiều so với bất kì ô vải đơn lẻ buồn tẻ xám xịt nào. 2. Cân Bằng Mong Manh giúp bạn mở lòng mình ra, ngồi xuống bên cạnh một người nào đó đủ kiên nhẫn, đủ thời gian, đủ tình yêu để nghe bạn kể lại thật chi tiết, thật rõ ràng, thật trung thực về cuộc đời của chính bạn. Điều này theo Valmik- người sửa bản in- là cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại của mỗi con người. Vì khi kể lại tường tận cuộc đời bạn cho một ai đó chịu lắng nghe, bạn sẽ tự nhắc mình nhớ bạn là ai để bạn không tự đánh mất chính mình, bạn giữ được màu sắc tươi sáng trong tâm hồn bạn dù đối diện với bất cứ nghịch cảnh nào . Luôn luôn hi vọng- hi vọng để đối trọng lại nỗi tuyệt vọng của chúng ta. Nếu không, chúng ta sẽ lạc lối. Cuộc đời của chúng ta chỉ là một chuỗi những tai nạn- một sợi xích leng keng kết từ những sự kiện tình cờ. Dù vô tình hay hữu ý, chúng nối dài mãi thành một tai hoạ lớn mà chúng ta gọi tên là cuộc đời. 3. Cân Bằng Mong Manh giúp bạn điều tiết lại những suy nghĩ hợm hĩnh đề cao bản thân bạn, những ý nghĩ ban ơn dành cho người thấp hơn bạn hay những câu nói chia sẻ cực kỳ sáo rỗng dành để chia buồn với ai đó. Vì có những nỗi buồn, sự đau đớn mà người khác chỉ cần sự im lặng của bạn, giọt nước mắt lặng lẽ của bạn , sự có mặt của bạn bên cạnh họ là đủ. Vì mọi lời chia sẻ đều sẽ là sáo rỗng, là thổi bùng ngọn lửa thiêu rịu chính họ khi họ đang cố gắng vượt qua nó. Như nỗi đau của Om, của Ishvar. Vì có những người chỉ cần bạn cùng chia đôi miếng bánh đang ăn dở của bạn, chia đôi cốc nước cùng uống với họ là đủ để họ biết ơn bạn. Đủ để họ hiểu bạn yêu quý họ, bạn tin tưởng họ và bạn xem họ như một gia đình. Người ta không cần nói quá nhiều lời yêu thương khi mà hành động lại vô cùng xa cách, dè chừng, nghi ngại. Vì chúng ta, tất cả chúng ta đều là quái thai – chúng ta là thế – tất cả lũ chúng ta. – Theo cách nghĩ của nhân vật Ông Trùm. Nên đừng bao giờ để “quái thai” bên trong bạn suy nghĩ và hành động, đừng đặt mình cao hơn người khác, đừng cho rằng mình xứng đáng được ăn trong một cái chén sạch không xứt mẻ, còn người khác thì không. *** Khi tôi yêu cầu những người bạn Ấn Độ của tôi nêu tên một cuốn tiểu thuyết đương đại thật hay về Ấn Độ, cái tên Cân bằng mong manh thường được nhắc đến. Mùa hè năm 2013, tôi sang Ấn Độ lần đầu và ở hơn một tuần tại Bombay - thành phố được Rohinton Mistry dùng làm bối cảnh cho tiểu thuyết Cân bằng mong manh. Hai tuần ngang dọc thành phố, tôi có cảm giác như sống trong một giấc mơ sắc màu: vây quanh tôi là những tấm sari sặc sỡ, những khoảng vai, cổ và cánh tay rám nắng, những trang sức lóng lánh, những tấm khăn dài hờ hững trùm lên suối tóc đen của những thiếu nữ Ấn Độ. Nhưng cũng chính ở Bombay, tôi không sao thoát khỏi cảm giác tất cả những người tôi nhìn thấy - người đàn ông bán cá dạo trong các khu chung cư, lũ trẻ tắm truồng trong khu ổ chuột bên sông, những người đàn bà bán hoa quả trong chợ, người dạy xiếc khỉ dọc bờ biển, các bà già quỳ rạp người trong các đền thờ, hay những phụ nữ giúp việc lặng lẽ trong các gia đình - đều là những nhân vật mà tôi đã gặp ở Cân bằng mong manh. Từng người trong số họ đều mang những câu chuyện đời thăm thẳm, là những người kể chuyện và nhà triết học đời sống tuyệt vời. Một cuốn tiểu thuyết có khả năng bắt được cuộc sống thật rồi làm bạn nhìn cuộc sống thật khác đi như Cân bằng mong manh dĩ nhiên là đáng đọc. Sách lấy bối cảnh là những thay đổi của Ấn Độ vào giữa thế kỷ 20, đặc biệt là khoảng đầu thập kỷ 70 khi chính phủ của thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi, trong một nỗ lực cứu mình khỏi bị mất quyền, đã ban bố một Tình trạng Khẩn cấp quốc gia. Trong thời kỳ khẩn cấp này, nhiều đảng phái và nhóm hoạt động chính trị bị bắt và bỏ tù, báo chí bị kiểm soát ngặt nghèo, nhưng đặc biệt nhất là một chiến dịch cưỡng chế triệt sản lạ lùng cộng với việc phá các khu ổ chuột để “làm đẹp” đất nước. Trên cái nền lịch sử đó, bốn cuộc đời với bốn xuất thân khác nhau đã hội tụ: Dina, một phụ nữ thuộc tầng lớp trên, muốn sống độc lập với người anh lắm điều sau khi chồng qua đời bằng cách gia công quần áo tại nhà; Maneck, một sinh viên đến ở trọ nhà Dina trong lúc theo học đại học; và hai bác cháu Ishvar và Om vốn xuất thân từ tầng lớp “hạ tiện” của xã hội đến làm thợ may thuê cho Dina. Họ gặp nhau trong căn hộ của Dina, biến căn hộ đó thành một gia đình bất đắc dĩ nhưng đầm ấm. Có điều, sự đầm ấm không kéo dài. Những cơn gió lịch sử của thời kỳ khẩn cấp nhanh chóng thốc vào, cuốn họ lên và quăng quật họ trong bất định. Bỗng nhiên, mỗi ngày của Ishvar, Om, Maneck, và Dina cùng với triệu triệu người Ấn Độ khác chỉ còn thu lại trong những ám ảnh triền miên: ở chỗ nào, ngủ tại đâu, ăn gì, làm thế nào sống sót, để không bị mang đi “triệt sản”? Bất hạnh rơi xuống đầu họ không ngơi nghỉ trong một đất nước mà công bằng và quyền cá nhân tạm thời không tồn tại và không miễn trừ ai nhưng đặc biệt tàn nhẫn với những người ở tầng đáy. Phẩm giá - và sự vị tha cùng hài hước - bỗng nhiên trở nên quá xa xỉ nhưng cũng vì thế mà càng quý giá. Kết thúc truyện, Dina rút cục đã phải trở về nhà sống dưới sự bảo trợ của anh trai; Ishva và Om trở nên hai người ăn xin què quặt sau khi bị cưỡng chế triệt sản; và Maneck, trong một cơn tuyệt vọng sau khi gặp lại Ishvar và Om, đã lao vào tàu hỏa tự tử như Anna Karenina của Tolstoy. Cân bằng mong manh là một cuốn sách không khoan nhượng khi nói về thân phận con người; vì thế mà nhiều nhà phê bình đã ví nó với các tác phẩm của Charles Dicken hay Leo Tolstoy. Một cuốn sách buồn nhưng cũng lấp lánh hy vọng - thứ hy vọng thực chứ không phải hy vọng của văn chương tô hồng. Rohinton Mistry đã rất tỉ mỉ, kiên nhẫn, vững vàng trong lột tả những định dạng khác nhau của sự thống khổ giống nhau và khao khát giống nhau khi làm người. Khi theo chân bốn nhân vật của cuốn sách này trong lúc câu chuyện cuộc đời họ mở dần, bạn chắc chắn sẽ lo lắng cho họ, khóc cười với họ như thể khóc cười cho người thân của mình hay cho chính mình. Không khác họ, mỗi chúng ta có lẽ đều đang cố gắng hết sức để tìm và duy trì một điểm cân bằng mong manh cho cuộc sống của mình - giữa hy vọng và tuyệt vọng, giữa hạnh phúc và bất hạnh, giữa cái có nghĩa và vô nghĩa, giữa cái thuộc về mình và cái thuộc về họ. Theo nghĩa đó, mỗi cuộc đời trở thành một kiệt tác vĩ đại, đáng trọng và đáng thương như nhau. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc của tủ sách “Cánh cửa mở rộng” tiểu thuyết Cân bằng mong manh của Rohinton Mistry qua bản dịch của Nguyễn Kim Ngọc. PHAN VIỆT Mời các bạn đón đọc Cân Bằng Mong Manh của tác giả Rohinton Mistry.
Ba Chàng Độc Thân - Danielle Steel
Gray, một họa sĩ già; Charlie, một tỉ phú chuyên làm từ thiện và Adam, một luật sư đang nổi như cồn tình cờ quen biết rồi trở thành những người bạn thân thiết. Do bị ám ảnh bởi những chuyện đau buồn trong quá khứ, cả ba đều rất sợ gắn bó lâu dài với phụ nữ, cho nên tuy đã lớn tuổi họ vẫn còn độc thân. Hàng năm, vào tháng 8, họ lại gặp nhau và tận hưởng một kỳ nghỉ tuyệt vời trên chiếc du thuyền Blue Moon của Charlie ở những vùng biển thơ mộng, những thành phố xa hoa, tráng lệ quanh Địa Trung Hải. Cũng thật tình cờ, ba người phụ nữ là Carole, Maggie và Sylvia đã bước vào đời họ, làm cho cuộc sống của họ hoàn toàn thay đổi. Những suy tư, trăn trở, ngờ vực… về tình yêu, hạnh phúc và một mái ấm gia đình đã làm họ rối trí, có lúc lâm vào bế tắc. Nhưng cuối cùng đám mây che phủ cuộc đời cô độc bấy lâu nay của họ đã bị xua tan bởi tình yêu chân thành của Carole, Maggie và Sylvia. Chiếc Blue Moon từ đây sẽ êm đềm lướt trên sóng nước đầy ắp hương tình lứa đôi của “ba chàng độc thân”. *** Thần tượng của hàng triệu độc giả nữ Danielle Steel rất “được lòng" phái đẹp toàn thế giới bởi những câu chuyện đầy tinh tế của bà khi viết về họ với sự thấu hiểu và đầy lòng trắc ẩn. Danielle Steel là một trong những nữ nhà văn thành công nhất và được xếp thứ tư trong danh sách 10 tác giả kiếm tiền giỏi nhất thế giới trong năm 2009-2010 của tạp chí Forbes với hàng trăm triệu USD. Là tác giả của đầu sách góp mặt trong danh sách bán chạy nhất của tờ New York Times trong 390 tuần liên tiếp, tài năng của Danielle Steel đã được công nhận Kỷ lục Guinness vào năm 2008. Ngoài viết tiểu thuyết, Steel còn là tác giả của 10 tập truyện tranh Max and Martha dành cho thiếu nhi và cũng là tác giả của Freddie - 4 cuốn sách về những tình huống khác nhau xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Danielle còn cho ra đời cuốn His Bright Light kể về cuộc sống cùng cái chết của chính con trai bà (Nicholas Trainna) và một tập thơ mang tên Love: Poems. Những tác phẩm của nữ nhà văn này luôn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của hàng triệu độc giả, đặc biệt là những độc giả nữ xem bà như thần tượng và háo hức chờ đợi từng cuốn tiểu thuyết của bà. Từ hình ảnh nhân vật Solange xinh đẹp buồn phiền vì hạnh phúc gia đình tan vỡ trong cuốn Những cánh hoa lạc loài (Kaleidoscope) đến hình ảnh một người phụ nữ mạnh mẽ, nghị lực dám vươn lên và chiến thắng nghịch cảnh để tồn tại như nhân vật Annabelle Worthington trong cuốn Người phụ nữ tốt bụng (A Good Woman); hay những suy nghĩ của nhân vật Jessie về tình yêu và niềm hạnh phúc vĩnh cửu trong cuốn Bây giờ và mãi mãi (Now And Forever) đến những nỗi đau xen lẫn vị ngọt của thứ tình yêu chân chính mà nhân vật India phải nếm trải trong cuộc hành trình tìm lại ước mơ và khát vọng sống của chính mình trong cuốn tiểu thuyết Nỗi đắng cay ngọt ngào (Bittersweet),… đều thể hiện ngòi bút tinh tế của Daniel Steel. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Mặt trời chiếu ánh nắng chói chang xuống boong chiếc du thuyền có tên Blue Moon. Chiếc du thuyền này có chiều dài 80m, được thiết kế rất đẹp và có đầy đủ tiện nghi. Trên du thuyền có hồ bơi, bãi đáp trực thăng, sáu phòng dành cho khách tuyệt đẹp và sang trọng; phòng chủ nhân có nơi dùng để chiếu phim. Thủy thủ đoàn gồm 16 người được huấn luyện rất giỏi. Chiếc Blue Moon - và chủ nhân - đã được các tạp chí về du thuyền trên thế giới đăng tải. Charlie Summer Harrington đã mua chiếc du thuyền này từ tay một ông hoàng Saudi cách đây sáu năm. Chiếc du thuyền chàng mua đầu tiên là một thuyền buồm dài 22m, khi mới 22 tuổi. Chiếc du thuyền ấy có tên là Dream. Hai mươi bốn năm sau, chàng vui hưởng cuộc sống trên chiếc du thuyền Blue Moon cho đến giờ. Charlie Harrington năm nay 46 tuổi, chàng nghĩ mình là người may mắn. Cuộc đời chàng dường như thoải mái về nhiều mặt. Năm 21 tuổi, chàng thừa hưởng một gia tài kếch sù, và từ ấy đến nay đã hai mươi lăm năm, chàng quản lý gia tài này với tinh thần trách nhiệm cao. Chàng đã đầu tư tài sản vào các nơi và điều hành cơ sở từ thiện của gia đình một cách hiệu quả. Chàng nghĩ rằng trên đời này hiếm có người sung sướng như mình, nên cố gắng hết sức để nâng cao cuộc sống của những người thiếu may mắn hơn, qua tổ chức từ thiện cũng như qua các lĩnh vực riêng tư. Chàng tin chắc mình có tinh thần trách nhiệm cao, ngay khi còn trẻ, chàng đã biết nghĩ đến người khác. Chàng luôn chăm lo cho đời sống của những thanh thiếu niên bất hạnh mà chàng biết. Cơ sở từ thiện mà chàng đang điều hành đã làm những việc rất ấn tượng về giáo dục, cung cấp thuốc men cho người nghèo, nhất là cho các nước đang phát triển, đồng thời chăm lo bảo vệ các thiếu nhi ở các thành phố cổ khỏi bị hành hạ. Charlie Harrington luôn lặng lẽ trong những công việc từ thiện. Nhưng chàng cũng xác nhận rằng mình đã quá được nuông chiều, và có cuộc sống nhiều khi quá phóng túng. Chàng đã chi hàng triệu đồng mỗi năm để lo cho sức khỏe của mọi người, và cũng chi một số tiền rất lớn để lo cho chính mình. Chàng không lấy vợ, không có con, biết cách hưởng thụ cuộc sống, và khi có dịp thuận tiện, chàng vui chơi với bạn bè. Hàng năm chàng luôn có kế hoạch cho việc vui chơi. Charlie cùng với hai người bạn thân, Adam Weiss và Gray Hawk, đi chơi suốt cả tháng Tám trên chiếc du thuyền của Charlie quanh vùng biển Địa Trung Hải, dừng lại ở bất cứ nơi nào họ muốn. Hp đã đi chơi như thế suốt mười năm qua. Họ luôn mong đợi cuộc hành trình này, nên tìm mọi cách để khỏi lỡ mất chuyến đi. Hàng năm cứ đến mùa nước cao, vào ngày một tháng Tám là Adam và Gray đáp máy bay đến Nice, lên chiếc Blue Moon đi chơi một tháng. Charlie thường ở trên thuyền từ tháng Bảy, thỉnh thoảng đến giữa tháng Chín hay cuối tháng Chín chàng mới trở về New York. Công việc ở cơ sở từ thiện hay các hoạt động tài chính đều được chàng điều hành từ trên du thuyền rất dễ. Nhưng tháng Tám là tháng dành để vui chơi. Và năm nay cũng không khác những năm trước. Chàng ngồi lặng lẽ ăn sáng phía sau boong khi chiếc du thuyền êm ả thả neo ở ngoài hải cảng St. Tropez. Đêm nay họ đã đi chơi khuya và về đến thuyền lúc bốn giờ sáng. Mặc dù đêm qua thức khuya, sáng nay Charlie vẫn dậy sớm, chuyện vui chơi chàng chỉ nhớ lờ mờ. Khi nào cuộc vui cũng có Gray và Adam tham dự. Trông ba người ai cũng thấy sợ, nhưng họ vui chơi vô hại. Họ khỏi bị ai dòm ngó vì ba người không ai có vợ và hiện cũng không có bạn gái. Họ đã thỏa thuận với nhau từ lâu rằng, dù hoàn cảnh của họ thế nào, họ cũng chỉ được lên tàu một mình, sống một tháng như dân độc thân, chỉ có đàn ông với nhau, sống xả láng với nhau. Họ không phải xin lỗi ai. Trong thời gian ngoài cái tháng vui chơi này? người nào cũng phải làm việc cật lực. Charlie là một nhà từ thiện, Adam là luật sư, còn Gray là họa sĩ. Charlie luôn mồm nói họ có quyền nghỉ vui chơi một tháng, đáng được hưởng cuộc du lịch hàng năm này. Hai trong ba người tự chọn cuộc sống độc thân. Charlie nhất quyết nói chàng không phải thuộc loại ấy. Chàng tuyên bố rằng tình trạng độc thân của chàng là có lý do, hoàn toàn vì vận đen đã xảy ra cho chàng. Chàng nói chàng muốn lấy vợ, nhưng chưa tìm ra được người vừa ý, mặc dù chàng luôn tìm kiếm. Nhưng chàng vẫn tiếp tục tìm với quyết tâm cao. Trong thời trai trẻ chàng đã đính hôn bốn lần, nhưng gần đây thì không và mỗi lần đều có chuyện không hay xảy ra khiến chàng không làm đám cưới được. Chuyện này khiến cho Charlie rất buồn và hết sức ân hận. Người vợ chưa cưới đầu tiên của Charlie đã ngủ với người bạn thân của chàng ba tuần trước ngày cưới, việc này đã gây ra cú sốc lớn cho đời chàng. Và dĩ nhiên chàng không có cách gì khác hơn là phải từ hôn. Khi ấy chàng đã 30 tuổi. Người vợ chưa cưới thứ hai thì sau khi hứa hôn với chàng đã sang làm việc ở bên Anh. Chàng cần mẫn sang thăm nàng, trong khi nàng vẫn ở lại bên ấy để làm cho tờ Vogue của Anh, không dành thì giờ về thăm chàng. Chàng kiên nhẫn chờ đợi nàng trong căn hộ chàng thuê để có thể cùng nàng chung vui. Hai tháng trước ngày cưới, nàng cho biết nàng muốn có nghề nghiệp, không muốn bỏ việc khi lấy chàng. Đây là việc rất quan trọng với chàng. Chàng muốn nàng phải ở nhà, nuôi con. Chàng không muốn lấy người làm việc, nên hai người chia tay nhau - dĩ nhiên vui vẻ chia tay, nhưng chàng hết sức thất vọng. Khi ấy chàng 32 tuổi, và vẫn muốn tìm cho ra người vợ như mình mơ ước. Một năm sau, chàng tin chắc mình, đã tìm ra người ấy - nàng rất tuyệt vời, bằng lòng bỏ trường y để lấy chàng. Họ cùng sang Nam Phi, trong những chuyến công tác cho cơ sở từ thiện, thăm viếng các trẻ em ở những nước đang phát triển. Họ có những điểm giống nhau, và sau sáu tháng gặp nhau, họ cử hành lễ đính hôn. Mọi việc đều suôn sẻ cho đến khi Charlie nhận ra rằng vị hôn thê của mình không rời khỏi người em gái song sinh, muốn đem theo cô ta mỗi khi họ đi đâu. Nhưng chàng và cô em song sinh của nàng không ưa nhau, mỗi lần gặp nhau, hai người thường cãi nhau rất kịch liệt. Chàng nghĩ rằng họ sẽ tiếp tục không ưa nhau, sẽ cãi cọ nhau mãi, cho nên đành rút lui, và người vợ chưa cưới bằng lòng. Nàng rất thương yêu cô em song sinh, nên không thể lấy người khinh bỉ em mình được. Một năm sau đó, nàng lấy người khác và cô em song sinh dọn đến ở chung với họ. Việc này làm cho Charlie thấy rằng việc chia tay cô ta là đúng đắn. Lần đính hôn sau cùng của chàng mới cách đây năm năm cũng đã kết thúc không sáng sủa gì. Nàng yêu Charlie, nhưng sau những lần tâm sự với chàng, nàng cho biết nàng không muốn có con. Dù nàng rất yêu chàng, nhưng vẫn không nhượng bộ chàng về việc này. Chàng tưởng sẽ thuyết phục được nàng, nhưng nàng cương quyết, nên hai người đành biến tình vợ chồng thành tình bạn. Chàng thường như thế. Chàng thườn g giữ tình bạn với những ai không bằng lòng kết hôn với chàng. Cứ đến mùa Giáng sinh là chàng nhận được rất nhiều thiệp chúc mừng do các phụ nữ đã từng thương yêu chàng và sau đó lấy người khác gửi đến. Chàng nhìn vào những tấm hình của họ và gia đình họ, chàng thấy tất cả đều giống nhau. Đấy là những phụ nữ đẹp, tóc vàng, có giáo dục, xuất thân từ những gia đình quý phái, theo học các trường tốt, và lấy những người chồng thích hợp. Trong các tấm thiệp mừng Giáng sinh, họ nhìn chàng cười tươi với những ông chồng có vẻ giàu sang và những đứa con tóc hoe đứng quanh bố mẹ. Chàng vẫn tiếp xúc với những người này, họ yêu mến Charlie và nhớ chàng mãi. ... Mời các bạn đón đọc Ba Chàng Độc Thân của tác giả Danielle Steel.