Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cò Súng Tử Thần

“Cò súng tử thần” là một tiểu thuyết trinh thám kể về nhân vật chính “James Bond” đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế lại là một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế. James Bond đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ để biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ, đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế là lại một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế *** Loạt tác phẩm James Bond xoay quanh một nhân vật mật vụ người Anh hư cấu, được sáng tạo bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953. Fleming đã khắc họa Bond trong 12 cuốn tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện ngắn. Sau khi ông qua đời vào năm 1964, đã có tám tác giả tiếp tục viết tiếp các tác phẩm tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết chuyển thể về James Bond, bao gồm: Kingsley Amis, Christopher Wood, John Gardner, Raymond Benson, Sebastian Faulks, Jeffery Deaver, William Boyd và Anthony Horowitz. Forever and a Day của Anthony Horowitz, xuất bản vào tháng 5 năm 2018, là cuốn tiểu thuyết James Bond mới nhất. Ngoài ra, có thể kể đến loạt truyện viết về Bond thời trẻ của Charlie Higson hay Kate Westbrook với bộ ba tiểu thuyết dựa trên cuốn nhật ký của Moneypenny, một nhân vật từng xuất hiện trong loạt truyện. Nhân vật James Bond còn được biết tới với mã tên 007, được chuyển thể rộng rãi thành các tác phẩm truyền hình, phát thanh, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim ảnh. Loạt phim về James Bond hiện đang là loạt phim liên tục dài nhất mọi thời đại và thu về tổng doanh thu 7.04 tỉ đô la Mỹ, trở thành loạt phim có doanh thu cao thứ sáu lịch sử. Nó được khởi đầu vào năm 1962 bằng phần phim Dr. No với ngôi sao Sean Connery trong vai Bond. Tính tới năm 2020, loạt phim do Eon Productions sản xuất đã có 24 phần. Spectre (2015) là bộ phim James Bond gần nhất, có sự tham gia diễn xuất của Daniel Craig với lần thứ tư anh thủ vai mật vụ Bond trong loạt phim của Eon. Ngoài ra, còn có hai tác phẩm độc lập: Casino Royale (một phiên bản giễu nhại ra mắt năm 1967, với sự tham gia của David Niven) và Never Say Never Again (bản làm lại bộ phim do Eon sản xuất trước đó của Thunderball, ra mắt năm 1965, cả hai bản đều có sự tham gia của Connery). Năm 2015, với trị giá ước tính 19.9 tỷ đô la Mỹ, James Bond trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Các bộ phim về Bond nổi tiếng bởi một số điểm đặc trưng, như phần nhạc đệm với các bài hát chủ đề đã nhiều lần được đề cử Oscar và chiến thắng hai lần. Vài yếu tố xuyên suốt quan trọng khác bao gồm những chiếc xe hơi của Bond, các khẩu súng của anh và những thiết bị mà anh được Q Branch cung cấp. Mỗi phần phim cũng chú ý khắc họa mối quan hệ của Bond với nhiều phụ nữ khác nhau, đôi khi được gọi là các "Bond girl". *** Đó là lúc cả thế giới đã bão hòa. Mặt trời đã xuống tới đường chân trời, luồng ánh sáng đỏ mềm mại trườn trên lớp sóng triều, phía cao tít bên trên đàn chim đang vẽ nên những hình kỷ hà ngẫu nhiên trên bầu trời quang. Gió đã ngừng thổi và cái nóng buổi chiều trở nên ngột ngạt, ngập trong khói xăng và bụi. Xuyên qua bầu không khí đó, chiếc Crosley màu lam bất ngờ còn lại một mình chạy theo đường 13, hướng từ biển vào đất liền. Crosley là một chiếc xe nhỏ, xấu, mũi dài, khoang vuông, thân đã bị gỉ sét ăn thủng. Người lái xe, đang gập người trên vô lăng, mắt không rời khỏi con đường phía trước, đã mua nó với giá ba trăm đô la. Tay bán hàng thề thốt rằng chiếc xe có thể chạy sáu mươi cây số chỉ với ba lít xăng và còn có thể tăng tốc lên tám mươi ki lô mét một giờ. Tất nhiên là hắn nói dối… với hàm răng hoàn hảo và nụ cười thân thiện của một con phe tỉnh lẻ. Chiếc Crosley chẳng tăng tốc được thêm chút nào ngay cả trên đường lao dốc, nữa là ở đây, gần với bờ Đông Virginia, nơi địa hình đã trở nên bằng phẳng suốt nhiều cây số. Người lái xe có thể là một giáo sư hoặc một thủ thư. Gã có vẻ ngoài của một kẻ chủ yếu sống trong nhà với làn da xanh xao, những ngón tay ám nicotine và cặp kính theo thời gian đã từ từ chìm vào mũi cho đến khi trở thành một phần vĩnh viễn của khuôn mặt. Tóc gã đã thưa, lộ ra những vết đồi mồi trên trán. Gã là Thomas Keller. Mặc dù hiện đang mang hộ chiếu Mỹ, gã sinh ra tại Đức và vẫn nói tiếng mẹ đẻ trôi chảy hơn nói thứ tiếng của đất nước đã nuôi nấng gã. Không rời tay lái, Keller lật tay liếc nhìn chiếc đồng hồ quân sự Elgin 16 chân kính mà gã mua tại một cửa hiệu cầm đồ ở Salisbury, gần như chắc chắn bị vứt lại đó bởi một quân nhân đang gặp vận đen. Gã rất đúng giờ. Gã nhìn thấy lối rẽ ngay phía trước và bật xi nhan. Sau một giờ nữa thôi, gã nghĩ, gã sẽ có đủ tiền để mua một chiếc xe tử tế và một chiếc đồng hồ tử tế - đồng hồ Thụy Sĩ, tất nhiên, có thể là Heuer hoặc Rolex gì đó - và cuối cùng, một cuộc sống tử tế. Gã dừng lại trước một quán ăn, một cái hộp đẹp đẽ màu bạc trông như vừa mới lấy ra từ sau xe tải. Tên quán - Lucie - được uốn bằng đèn neon hồng ngay trên bốn món ăn đã định hình nền ẩm thực Mỹ đối với hầu hết cư dân của nó, bất kể là họ sống ở bang nào: Bánh kẹp, Xúc xích, Sữa lắc và Khoai chiên. Gã ra khỏi xe, áo sơ mi hơi bị dính vào lớp vỏ bọc ghế bằng nhựa vynil, và nhặt áo khoác để trên ghế trước. Gã đứng lặng một lúc trong không khí ấm nóng, lắng nghe một đoạn nhạc phát ra từ chiếc máy hát tự động, và nghĩ đến hành trình đã đưa gã đến đây. Thomas Keller vừa tốt nghiệp với tấm bằng vật lý và kỹ sư thì gặp được thứ rồi sẽ trở thành niềm đam mê lớn của đời gã. Chuyện xảy ra tại rạp Harmonie ở Sachsenhausen nơi gã cùng một cô gái xinh đẹp tới để xem bộ phim mới của Fritz Lang, Frau im Mond, Người đàn bà trên mặt trăng. Bộ phim bắt đầu được năm phút là gã đã quên tiệt cô gái, và vì thế, cả hy vọng được sờ soạng cô sau đó ngoài bãi đỗ xe của rạp. Thay vào đó, cảnh trên màn hình chiếu một quả tên lửa nhiều tầng đang rời khỏi quỹ đạo trái đất đã đánh thức thứ gì đó bên trong gã và từ đó trở đi hoàn toàn chiếm lĩnh gã. Có thể nói rằng gã đã được phóng đi, bằng một sức mạnh không thể cưỡng lại, đầu tiên là tới Đại học Tổng hợp Berlin, sau đó tới Verein für Raumschiffahrt - Hiệp hội Du hành Không gian - và cuối cùng là tới bờ biển Baltic và cảng biển Peenemünde. Khi đó, nghiên cứu tên lửa của Đức đã có tiến bộ hơn hẳn, vì mặc dù Hiệp ước Versailles bị nhiều người căm ghét đã đặt ra rất nhiều hạn chế đối với việc phát triển vũ khí nhưng du hành không gian lại được miễn trừ. Điều này tạo thuận lợi cho quân đội Đức, họ đã nhanh chóng nhận ra rằng tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng được phóng đi từ một bệ phóng tạm thời và tương đối đơn giản, có thể bay xa và nhanh hơn nhiều loại đạn pháo, đem tải trọng thuốc nổ của nó đến mọi thành phố lớn ở châu Âu. Keller ba mươi sáu tuổi khi gã gặp người phụ trách chương trình không gian của Đức: kỹ sư tên lửa (và là một thành viên SS-Sturmbannführer) Wernher von Braun. Con trai của một bá tước Phổ, von Braun xuất thân từ một gia đình đã từng tham chiến từ thế kỷ 13 và chưa bao giờ đánh mất những đặc trưng quý tộc của mình. Ông ta luôn đi lại khệnh khạng, quát mắng tất cả những ai tranh cãi với mình và có thể trở nên thô bạo lạnh lùng khi rơi vào một tâm trạng nhất định. Nhưng đồng thời ông ta lại vô cùng đam mê công việc, luôn đòi hỏi những điều tốt nhất từ bản thân và từ những người xung quanh. Keller kính trọng ông ta vậy nhưng cũng sợ hãi không kém. Tất nhiên, trong thời gian đó một tay hạ sĩ người Áo đã lên nắm quyền và nước Đức đang có chiến tranh. Nhưng chẳng có chuyện gì thực sự làm Keller quan tâm. Cũng giống như nhiều học giả và các nhà vật lý khác, những người bạn hiếm hoi, gã không quan tâm nhiều đến thế giới xung quanh, và nếu như Hitler lại chuyển tiền - mười một triệu mác Đức trích từ Không lực và quân đội - vào các thiết bị đánh chặn bằng tên lửa và tên lửa đạn đạo thì gã sẵn sàng lờ đi những mối bận tâm kém hấp dẫn khác của đảng Quốc xã. Thực sự là khi cuối cùng đã đến được Peenemünde, lúc những quả tên lửa V-2 đầu tiên rời bệ phóng vào mùa hè năm 1944, gã chưa từng nghĩ đến sự chết chóc và tàn phá mà chúng sẽ đem đến với trọng tải một tấn của mình. Gã là một nghệ sĩ và đây là tấm toan của gã. Việc ngắm nhìn các vụ phóng đã cho gã một giây phút xuất thần tinh khiết: những đám mây khói trắng đầy những tia lửa nhỏ từ bộ đánh lửa đột nhiên đổ xô lại với nhau thành một ngọn lửa đỏ rực rỡ, dây cáp bung ra và một tạo vật xinh đẹp, lịch lãm được tung lên bầu trời. Những rung động xuyên qua gã. Làn da gã dường như sống dậy, gã cảm thấy phấn khích khi biết rằng mình là một trong số ít các kỹ thuật viên đã giúp tạo ra nó, rằng các động cơ sẽ tạo ra công suất đáng kinh ngạc 800.000 mã lực và rằng tên lửa sẽ sớm đạt được năm lần tốc độ của âm thanh. Đám dân thường London sẽ không thể biết gì về sự hoàn hảo, về thiên tài vĩ đại của thứ vũ khí đã giết họ. Thường thì Keller không thể kiềm chế được mình. Gã rơi những giọt lệ của niềm vui thuần khiết. Một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc, Keller tự hỏi không hiểu gã có phải đối mặt với hậu quả nhất định nào đó hay không. Thực ra gã đã có mặt khi von Braun đầu hàng người Mỹ và sau đó bị họ thẩm vấn vì cũng nằm trong Danh sách Đen nổi tiếng, mật danh dành cho các nhà khoa học và kỹ sư Đức có vai trò quan trọng đặc biệt. Nhưng gã không quá lo lắng. Những gì von Braun và nhóm của ông ta đã tạo ra quá có giá trị đối với Đồng minh và gã tin rằng công việc của họ bằng cách nào đó vẫn sẽ được tiếp tục. Gã đã đúng. Hai người họ được thả cùng một ngày. Cùng với hơn một chục nhà khoa học và kỹ thuật viên khác họ đã được đưa ra khỏi nước Đức trên cùng một chuyến bay, và cuối cùng đã tới Fort Bliss, một căn cứ quân sự Mỹ gần Al Paso, nơi mà với những ông chủ mới và trong một số trường hợp ít ỏi khác - nhân thân mới, họ lại tiếp tục công việc từ đúng chỗ trước đó họ đã bị ngắt quãng một cách thô bạo. Giờ Keller năm mươi tư và đã đi gần hết sự nghiệp. Gã sống ở Mỹ đã mười hai năm nhưng chưa bị ai nhận nhầm là người Mỹ. Gã có diện mạo và hình thể của một người nước ngoài, vụng về và chậm chạp. Lối nói chậm rãi và nặng khẩu âm luôn tiết lộ nguồn gốc của gã ngay khi gã bắt đầu mở miệng. Cũng chẳng quan trọng lắm. Chiến tranh đã đủ xa rồi. Người ta cũng chẳng còn quan tâm nữa. Vả lại, trong ý thức gã đã đồng hóa theo cách tốt hơn - và điều đó làm cho gã hoàn toàn thỏa mãn. Ba năm sau khi đến Mỹ, gã lấy một cô tiếp viên Mỹ bán cocktail mà gã gặp ở El Paso làm vợ và hai người họ chuyển đến sống trong một ngôi nhà phong cách thuần Mỹ gần Salisbury, bang Maryland. Keller được thuê làm giám sát viên tổng hợp trong Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân (NRL) tại bãi phóng tên lửa của cơ quan này trên đảo Wallops. Gã vừa ra khỏi văn phòng một giờ trước. Giờ thì gã đã đến nơi. Gã bước vào quán và ngay lập tức cảm thấy cái mát lạnh của điều hòa không khí, đúng lúc máy hát tự động phát một bài mới của Everly Brothers. Tạm biệt tình yêu Tạm biệt hạnh phúc… Keller không quan tâm đến âm nhạc Mỹ nhưng gần như không thể thoát được giai điệu này suốt mấy tháng nay. Gã cảm thấy lời bài hát có vẻ lạc quẻ một cách lạ lùng, vì gã đến đây với hy vọng và kỳ vọng vào điều hoàn toàn trái ngược. Người gã đến gặp đang chờ gã ở đúng chỗ mà hắn đã nói, cái bàn cạnh cửa sổ góc. Hắn mặc bộ vét hiệu Brooks Brothers, áo sơ mi cài hết cúc và đi giày lười, kiểu trang phục thường xuyên của hắn. Hắn đến sớm. Trên mặt bàn có một tờ báo và hắn đã điền được một phần trò ô chữ. Keller biết đến hắn với tên gọi Harry Johnson, nhưng gã không chắc đấy có phải tên thật của hắn hay không. Gã giơ tay chào, hơi lúng túng bước trên nền gạch đỏ trắng đến phía bên kia của cái bàn. Đến phút cuối gã mới nhận ra mình đã quên khoác áo vét. Thôi kệ, đằng nào thì cũng đã quá muộn. Gã quyết tâm không làm gì tỏ ra thiếu chuẩn bị hoặc vụng về. Gã đặt cái áo lên ghế bên cạnh. “Anh thế nào, Keller?” Johnson nói đều đều, giọng Manhattan. “Tôi ổn, cảm ơn anh.” Harry Johnson trẻ hơn gã đến mươi mười lăm tuổi, nhưng trông lại có vẻ già dặn hơn với khuôn mặt dài quá mức, má đầy nếp nhăn và mái tóc bạc cắt ngắn. Hắn đang xoay cái bút bi giữa những ngón tay. Trên một ngón tay, hắn đeo chiếc nhẫn vàng có khắc hình. “Thủ đô của Venezuela là gì?” hắn hỏi. “Sao cơ?” Keller sửng sốt. “Thứ chín từ trên xuống, thủ đô của Venezuela. Từ bảy chữ cái bắt đầu bằng chữ C.” “Tôi không biết,” Keller cáu kỉnh nói. “Tôi không chơi ô chữ.” “Này, không sao. Tôi chỉ hỏi thôi mà.” Johnson rời mắt khỏi ô chữ. “Thế nào, xong rồi chứ?” Lần này thì Keller hiểu ý hắn. Đây là lần thứ tư họ gặp nhau. Keller vẫn nhớ lần đầu tiên, một cuộc gặp có vẻ như tình cờ trong một quán rượu trung tâm Salisbury. Johnson bằng cách nào đó đã ở đó, ngay ghế bên. Không thể biết được hắn vào từ lúc nào. Họ đã nói chuyện với nhau. Johnson nói hắn là một doanh nhân, cũng có thể đúng là vậy thật nhưng thực sự thì nó cũng gần như chẳng có ý nghĩa gì. Hắn có vẻ phấn khích khi biết Keller là một nhà khoa học ngành tên lửa và sau ly thứ hai - Johnson đòi được trả tiền - hắn đưa ra một loạt câu hỏi đầy quan tâm nhưng vô hại, không có gì khiến cho gã phải nghi ngờ. Đương nhiên mọi thứ đã được sắp xếp từ trước. Hắn đã biết tất cả về Keller từ trước khi họ mở miệng nói chuyện với nhau. Đến cuối buổi tối hai người đã thu xếp gặp nhau lần nữa. Sao lại không cơ chứ? Johnson là một người bạn tốt, và khi ra về hắn gần như vô tình nói rằng mình có thể đề nghị việc này. “Có thể kiếm cho anh một ít tiền. Mới chợt nghĩ vậy thôi. Lần sau ta trao đổi nhé.” Nhưng đến lần sau đó hắn không nói gì. Họ so sánh vợ con, gia đình, lương lậu, khát vọng. Toàn là những câu chuyện của đàn ông, mặc dù người nói chính vẫn là Keller. Chỉ đến lần thứ ba khi họ đã hiểu nhau rõ hơn thì Johnson mới đưa ra lời đề nghị của mình. Đáng ra khi đó Keller phải tới gặp cảnh sát, hoặc hợp lý hơn nữa là phòng An ninh Hải quân ở phía Nam đảo Wallops. Tất nhiên là gã không làm thế. Johnson, hay những người đứng sau hắn, đã chọn Keller vì họ biết gã sẽ không làm thế. Có khi họ đã tìm hiểu gã nhiều tháng trời rồi. Chính xác thì họ là ai? Keller không quan tâm. Cũng chính chứng chỉ nhìn tầm gần này đã giúp gã qua được cuộc chiến. Gã không có nhu cầu nhìn toàn cảnh. Không quan trọng. Gã đơn giản chỉ tập trung vào đề nghị được đặt ra cho mình và hai trăm năm mươi ngàn đô la, miễn thuế, mà gã có thể có được nếu như làm theo đề nghị đó. Gã đồng ý gần như ngay lập tức và chỉ cần một buổi gặp nữa để thảo luận chi tiết. Rất thẳng thắn. Điều mà gã được đề nghị làm không hề dễ dàng. Nó cần có sự hiểu biết sâu sắc về cơ học chất rắn và ứng suất kéo - nhưng đó chính là lĩnh vực chuyên môn của gã. Và sau khi gã đã đo đếm tỉ mỉ mọi yếu tố thì bản thân công việc này vẫn là một vấn đề. Nhưng may mắn thì gã cũng sẽ có được bốn hoặc năm phút một mình. Có rủi ro đáng kể - nhưng phần thưởng cũng lớn. Đó là tính toán ban đầu của gã. “Thế là xong rồi chứ?” “Phải.” Keller gật đầu. “Nhiệm vụ hóa ra lại dễ hơn tội tưởng nhiều. Tôi từng được vào xưởng lắp ráp trong lúc tập dượt cứu hỏa.” Gã dừng lời. Gã đã lộ ra sự nhiệt tình quá mức và khiến điều gã đã làm được có nguy cơ mất giá. “Tất nhiên là tôi phải làm nhanh. Người ta luôn luôn tăng cường an ninh trong khi chuẩn bị phóng. Và phải làm rất cẩn thận. Có khả năng, anh hiểu chứ, người ta sẽ đi kiểm tra vào phút chót. Việc tôi làm cần phải… unsichtbar.” Gã tìm từ trong tiếng Anh. “Tàng hình.” “Động cơ sẽ hỏng chứ?” “Không. Nhưng nó sẽ không hoạt động tử tế. Lượng thuốc phóng được bơm vào buồng đốt sẽ không đủ. Tôi đã giải thích điều đó cho anh rồi. Kết quả sẽ đúng như mong muốn.” Hai người cùng im lặng khi hầu bàn đưa cà phê và nước lạnh đến. Hai cuốn thực đơn để mở trước mặt. Họ không có ý định ăn uống gì. “Thời điểm phóng thì thế nào?” Johnson hỏi. Keller nhún vai. Gã không thích cà phê. Gã đã nốc hết bao nhiêu lít món này từ khi đến Mỹ, trong lúc hút thuốc và làm việc thâu đêm? Gã đẩy cái cốc sang một bên. “Vẫn còn mười hai ngày nữa từ hôm nay. Tôi đã xem dự báo. Thời tiết tốt. Nhưng thời tiết thì không bao giờ chắc chắn được. Hướng và tốc độ gió rất quan trọng, và nếu như điều kiện không thích hợp thì…” Gã hạ giọng bỏ lửng câu nói. “Nhưng đấy không phải chuyện tôi quan tâm. Tôi đã làm điều anh yêu cầu. Anh có đem tiền không?” Người đàn ông kia không nói gì. Hắn nhìn chằm chằm gã người Đức. Sau đó hắn chìa tay ra và gỡ cặp kính mát gài trên túi áo phía trước. Đó là tín hiệu cho thấy công việc của họ đã kết thúc. “Dưới gầm bàn có một cái cặp.” “Còn tiền thì sao?” “Trong đấy hết.” Johnson toan ra về nhưng Keller ngăn hắn lại. “Tôi phải nói với anh một chuyện,” gã nói. “Quan trọng đấy.” Gã đã tập dượt điều sắp nói. Gã khá tự hào về cách nói mà gã đã nghĩ ra, về việc gã đã suy nghĩ điều đó thật kỹ càng. “Tôi sẽ không đếm tiền. Tôi sẽ coi như đã đủ. Nhưng đồng thời, tôi phải cảnh báo anh. Tôi không biết ai thuê anh, tôi không quan tâm. Rõ ràng là anh làm việc cho những người nghiêm túc. Nhưng một phần tư triệu đô là rất nhiều tiền. Cược đặt rất cao. Và vì sự an toàn của bản thân mình anh có thể chọn cách bịt miệng tôi lại. Không phải khó lắm, phải không? Theo tôi hiểu, có thể trong cái cặp ấy có thuốc nổ và tôi có thể chết trước khi ra đến xe. Hoặc có thể sẽ có tai nạn giao thông.” “Thế nên tôi muốn anh biết rằng tôi đã ghi lại tất cả những gì xảy ra giữa chúng ta với nhau và tất cả mọi thứ tôi được yêu cầu thực hiện. Không những tôi miêu tả anh, tôi còn chụp ảnh. Tôi mong là anh sẽ tha thứ cho sự lừa đảo nhỏ này của tôi, nhưng tôi chắc chắn anh sẽ thông cảm cho tình thế của tôi. Tôi cũng ghi lại thông tin về xe của anh, biển số xe. Tất cả những thứ đó được gửi ở chỗ một người bạn của tôi và gã đã được dặn là sẽ chuyển tất cả cho cơ quan có thẩm quyền nếu có điều gì đó đáng ngờ xảy ra cho tôi. Anh hiểu tôi nói gì chứ? Sẽ không có chuyện tên lửa bị hỏng nữa. Và dù cảnh sát phải tốn chút thời gian để tìm ra anh thì họ cũng đã biết về sự tồn tại của anh và sẽ theo anh mãi mãi.” Johnson yên lặng nghe hết. Keller nói xong Johnson ngờ vực chằm chằm nhìn gã. Đó là lần đầu tiên hắn thể hiện cảm xúc thực của mình. “Anh nghĩ chúng tôi là ai?” hắn hỏi. “Anh nghĩ chúng tôi là gangster à? Tôi phải nói với anh, Tom, anh đọc nhầm loại sách rồi. Chúng tôi yêu cầu anh cung cấp cho chúng tôi một dịch vụ. Anh cung cấp cho chúng tôi dịch vụ đó và anh đã được trả tiền. Nhân tiện mà nói, anh nhầm rồi. Một phần tư triệu đô cũng không phải quá nhiều trong chuyện này. Anh sẽ gặp lại chúng tôi chỉ trong trường hợp anh không làm như chúng ta đã thỏa thuận - và nếu đúng như vậy, trong trường hợp ấy, cuộc sống của anh rất có thể sẽ bị nguy hiểm một chút. Nhưng cho dù anh không tin chúng tôi thì chúng tôi vẫn có niềm tin tuyệt đối nơi anh.” Hắn ném vài đồng xu ra bàn để thanh toán tiền cà phê, cuộn tờ báo lại rồi đứng lên. “Tạm biệt.” “Chờ đã…” Keller cảm thấy xấu hổ. “Caracas,” gã nói. “Caracas?” “Ô chữ còn thiếu của anh. Thủ đô Venezuela.” Johnson gật đầu. “Tất nhiên rồi. Cảm ơn anh.” Keller nhìn hắn đi khỏi. Đúng là bài phát biểu của gã có chút khoa trương, được lấy cảm hứng từ mấy bộ phim gã từng cùng xem với vợ. Và nó cũng không thật. Không có bản ghi nào về những gì đã xảy ra, không có ảnh, không có người bạn nào đang chờ để đến gặp cảnh sát. Gã chỉ nghĩ rằng sự đe dọa này có thể là đủ để bảo vệ mình khi cần. Liệu gã có sai không? Liệu gã có tự biến mình thành thằng ngốc không? Sau đó gã nhớ đến tiền. Gã mò mẫm dưới gầm bàn và cảm thấy các khớp tay mình va phải thứ gì đó đặt sát tường. Cái cặp! Gã kéo nó ra và bật khóa, hé mở vừa đủ để có thể liếc vào trong. Có vẻ có đủ tiền trong đó: tiền năm mươi đô, được buộc thành cọc gọn gàng. Gã đóng cặp, khoác áo vét lên rồi vội vã ra ngoài. Không có dấu hiệu nào của Harry Johnson ngoài bãi đỗ. Gã ra xe, ném chiếc cặp vào ghế trước rồi chui vào xe. Mất hai mươi phút để gã lái xe về đến nhà, nơi gã biết Gloria đang chờ gã. Nghĩ đến Gloria, gã mỉm cười và thư giãn một chút sau tay lái. Xét cho cùng, mọi thứ đều là cho nàng. Nàng trẻ hơn gã mười lăm tuổi, thấp và hơi mũm mĩm theo cái cách làm gã thấy phấn khích, ngực và hông lúc nào cũng căng đầy dưới lớp quần áo. Khi hai người gặp nhau thì nàng đã ở giữa độ tuổi hai mươi, và khi gã kể với nàng về mình thì nàng thấy rạo rực. Này là một người đàn ông được đưa lậu từ châu Âu đến, làm việc cho một cơ sở nghiên cứu tuyệt mật chế tạo tên lửa không gian. Nó giống như tình tiết trong những cuốn sách bìa mềm nàng thích đọc, và mặc dù thực ra gã là người Đức, thiếu hấp dẫn và đôi khi có những yêu cầu làm nàng đau, điều đó có vẻ cũng chẳng quan trọng gì. Họ đã hạnh phúc khi lấy nhau và cả hai đã cùng quyết định chuyển lên phía Bắc, chọn Salisbury vì gần đảo Wallops. Họ đã mua nhà và cùng chọn nội thất. Nhưng từ đó trở đi mọi việc giữa họ đã không còn mấy tốt đẹp. Họ không thể có con, nàng thì phát chán vì ngôi nhà, vì cái công việc quản lý một nhà hàng địa phương hầu như không có khách trừ những ngày cuối tuần. Nàng không muốn nghe bất cứ điều gì về tên lửa và dạo này nàng chỉ miễn cưỡng đến xem các vụ phóng. Nhưng Keller vẫn còn yêu nàng. Dĩ nhiên là gã si mê nàng. Theo một cách nào đó, gã coi nàng như biểu tượng cao nhất về vị thế, sự công nhận đối với công trình của đời người. Nàng là một người vợ Mỹ. Gã xứng đáng có nàng. Gã kể với nàng về người bạn mới của mình, Harry Johnson, về đề nghị gã nhận được. Có nằm mơ gã cũng không dám nhận nếu như không có sự chấp thuận của nàng. Gã mừng là gã đã làm như vậy. Tiền cược là vô cùng cao. Gã sẽ phạm một tội ác mà nếu bị phát hiện gã sẽ bị kết tội phản quốc. Nhưng ngay từ đầu Gloria đã tỏ ra quyết tâm hơn cả gã, thúc giục gã khi lòng dũng cảm của gã không còn. Hàng tuần nay hai người họ đã trao đổi về tương lai mà họ sẽ xây dựng cùng nhau, về việc họ sẽ làm gì với số tiền, họ phải thận trọng để không tiêu hết nó quá sớm ra sao. Keller thấy hình như vợ gã đã biến đổi. Giờ thì gã nhớ lại được nàng như thế nào khi lần đầu tiên gã để mắt đến nàng. Tất cả năng lượng và lebensfreude - sức sống - của nàng đã quay trở lại. Và nàng lại khôi phục được sự thèm khát giường chiếu, hiến dâng cho gã với sự buông thả như trong đêm tân hôn của họ. Nàng đang đợi gã ngoài cửa căn nhà gỗ một cửa sổ. Đó là một ngôi nhà như bước thẳng ra từ catalogue nhà đất với khu vườn gọn gàng phía trước và dãy hàng rào màu trắng. Keller đỗ xe trên lối vào nhà và lại với nàng, tay xách cặp. Họ hôn nhau trên ngưỡng cửa. Nàng mặc chiếc váy hoa ban ngày, chiết eo. Mái tóc vàng óng của nàng đổ những lọn xoắn lên vai. Ngay lúc đó Keller thèm muốn nàng hơn bao giờ hết. “Anh làm được rồi,” nàng nói. “Phải.” “Anh đếm chưa?” “Ở đây cả mà. Không cần.” “Anh phải đếm chứ.” “Mình có thể đếm trong nhà.” Họ cùng nhau vào nhà, vào phòng khách gọn gàng có sofa, bàn cà phê và chiếc ti vi phủ tấm che cửa lật. Họ mở cặp và đếm tiền. Gloria đứng tì vai và mông vào gã, gã vòng tay ôm nàng. Khi đã chắc chắn mọi thứ đều ổn, nàng vặn người hôn má gã. “Em đã để sâm banh sẵn trong tủ lạnh rồi đấy,” nàng nói. Gã theo nàng vào bếp, đứng đó trong khi nàng lục lọi ngăn kéo. “Không thấy cái mở nút chai chết tiệt ấy đâu cả,” nàng nói. Hắn lại chỗ nàng, và chỉ khi tới nơi thì hắn mới nhớ ra là để mở sâm banh thì đâu có cần đến mở nút chai, và đó cũng là lúc nàng quay lại còn gã thì cảm thấy có cái gì đó đè vào mình. Gã cúi nhìn và thấy, không thể nào như vậy, một cái cán dao thò ra từ bụng mình. Hẳn phải có nhầm lẫn gì rồi. Không thể như thế được. Nhưng khi ngẩng lên và nhìn thấy mắt nàng thì gã biết đây chính là sự thật. Gã cố gắng cất tiếng nhưng máu đã ộc ra từ cơ thể, và cùng với nó là hơi thở và sự sống của gã. Vẫn còn ôm lấy nàng, gã khuỵu xuống, rồi, khi nàng bước sang một bên, gã đổ vật xuống sàn. Gloria nhìn xuống gã và rùng mình. Không phải cảnh tượng máu gã tràn trên lớp vải sơn làm ả ghê sợ. Mà là ký ức về đôi bàn tay gã trên thân thể ả, mùi chua chua trong hơi thở của gã. Chẳng còn gì nhiều để làm. Ả đã mua sẵn xăng. Ả vẩy xăng lên tay chồng đã chết, lên bếp, phòng khách, cầu thang. Rồi ả lấy chiếc va li, đóng gói vài thứ định mang theo và đổ tiền vào trong. Cuối cùng, ả bật diêm. Ả lấy chiếc Crosley của chồng, cho dù đấy là một cái xe kinh khủng. Ít nhất thì ả cũng có thể trông chờ vào nó để đến California, nơi ả dự tính sẽ bắt đầu cuộc đời mới. Ả đi tới cuối con phố và rẽ ra đường lớn mà không nhìn lại. Và thế là không nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên khi chúng bùng lên phía sau mình và làn khói đang lan tỏa vào không khí ban đêm.   Mời các bạn đón đọc Cò Súng Tử Thần của tác giả Anthony Horowitz & Phạm Hồng Anh (dịch).  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mắt Quạ Tinh Tường
“Trong Mắt quạ tinh tường, Shane Peacock đã khéo léo tạo ra những tình tiết lí giải sự kín tiếng của ngài thám tử Sherlock Holmes khi nhắc đến gia đình mình. Ông đã thành công trong việc tạo ra một vụ án mạng gay cấn với tiết tấu hoàn hảo…cũng như gây ấn tượng với hình ảnh náo nhiệt của thành Luân Đôn thời nữ hoàng Victoria, khiến cho sự tàn bạo man rợ của khu East End hiện lên sống động qua từng trang sách.” Quill & Quire *** Đây là cuốn sách đầu tiên sau khoảng 10 năm mình chưa đọc một cuốn trinh thám nào tuy từ nhỏ cuốn nào mình đọc mình cũng đều thấy thích, nhưng lại ngại mua. Tự dưng năm nay nổi hứng muốn thay đổi chút thể loại và làm 2 em trong Series này. Một cuốn sách tuyệt vời vì mình hoàn toàn 'enjoy' nó. Sherlock Holmes thì nổi tiếng quá rồi, nhưng thực ra chưa cầm cuốn sách nào của Conan Doyla cả. Nhưng đọc xong cuốn này chắc phải có kế hoạch làm một bộ thôi. Theo ý kiến cá nhân của một người ít đọc truyện trinh thám cũng như không có đầu óc nhạy bén để suy nghĩ sâu xa thủ phạm là ai hay đoán trước tình tiết, mình cứ để cho tác giả dẫn dắt. Shane Peacock thật sự lôi kéo mình, từng chi tiết nhỏ được tiết lộ, manh mối đầy đủ dần, bất ngờ tăng lên, kịch tính dâng trào và cuối cùng thủ phạm cũng bị lôi ra vành móng ngựa và Holmes cũng mất mát không ít, nhưng CÔNG LÝ được thực thi là điều cốt lõi. Song nhiều khi anh hùng không được biết đến là điều hay xảy ra trong xã hội có phần mục ruỗng. Giá như khai thác kỹ hơn về suy nghĩ hay hành động của kẻ lái xe ngựa, câu chuyện có lẽ hoàn hảo hơn. *** "Thời niên thiếu của Sherlock Holmes" là bộ tiểu thuyết đầu tiên về quãng đời trẻ con của thám tử huyền thoại Sherlock Holmes. Ra mắt lần đầu năm 2007, bộ sách của Shane Peacock ngay lập tức thu hút sự chú ý của độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới và giành được hơn 40 giải thưởng danh giá: Giải thưởng Sách của năm của Hiệp hội Thư viện Canada, Top 10 truyện bí ẩn cho thiếu nhi, Giải thưởng Arthur Ellis cho thể loại truyện hình sự thanh thiếu niên, Huy chương vàng cho sách của năm của Tạp chí Foreward... Hình ảnh một Sherlock Holmes tài ba với trí thông minh nhanh nhạy, sự quan sát tinh tế, những phán đoán logic trong tác phẩm của Arthur Conan Doyle đã làm say mê biết bao thế hệ độc giả. Tuy nhiên, chưa có tác phẩm nào cho thấy, tài năng của Sherlock Holmes bắt đầu bộc lộ từ khi nào? Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống từ thời thơ bé có tác động tới Sherlock Holmes ra sao? Ngay cả bác sĩ Watson - người bạn thân thiết của Sherlock Holmes cũng "chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh… Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích…". Qua Thời niên thiếu của Sherlock Holmes, Shane Peacock lý giải những câu hỏi đó và giúp độc giả tiếp tục được đắm mình trong cảm giác hồi hộp gay cấn qua từng vụ án đầy kịch tính. Nhận xét về tiểu thuyết của Shane Peacock, tờ The Global and Mail cho rằng, tiểu thuyết của Shane Peacook dành cho độc giả trẻ, nhưng người lớn cũng cảm thấy thích thú với những cuộc phiêu lưu có tiết tấu nhanh, đầy kịch tính... Thời Niên Thiếu Của Sherlock Holmes gồm có: Mắt Quạ Tinh Tường Cú Ngã Tử Thần Cô Gái Bí Ẩn Hung Thủ Giấu Mặt Con Rồng Ma Quái Trưởng Thành ... Trong "Mắt quạ tinh tường", Shane Peacock đã khéo léo tạo ra những tình tiết lí giải sự kín tiếng của ngài thám tử Sherlock Holmes khi nhắc đến gia đình mình. Ông đã thành công trong việc tạo ra một vụ án mạng gay cấn với tiết tấu hoàn hảo... cũng như gây ấn tượng với hình ảnh náo nhiệt của thành Luân Đôn thời nữ hoàng Victoria, khiến cho sự tàn bạo man rợ của khu East End hiện lên sống động qua từng trang sách... (Quili & Quire) *** Shane Peacock là một nhà văn nhà báo đa tài, ông viết nhiều thể loại như tiểu thuyết, kịch, kịch bản phim, tiểu sử. Nhân vật trong các tác phẩm của Shane Peacock đều là những người lỗi lạc, làm được những việc phi thường. *** "Suốt trong quá trình quen biết lâu dài và thân thích với Sherlock Holmes, tôi chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh... Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích..." - Bác sĩ Waston, trích trong Người thông ngôn Hi Lạp. --- Án mạng xảy ra trong đêm tối tại khu Whitechapel nằm sâu về phía đông, nơi khuất xa những ngọn đèn khí đốt trên các tuyến phố chính. Đây là chốn cư ngụ của dân Do Thái và lớp người cùng đinh. Nơi những kẻ vô danh tiểu tốt của một đô thị vĩ đại nhất địa cầu sống như bầy cầm thú. Vụ án xảy ra chỉ trong tích tắc, như một nhát đâm của sự tàn nhẫn, bất công và bạo tàn. Nhiều giờ sau, tại khu Southwark phía nam dòng sông Thames, trong căn hộ xập xệ nằm trên cửa hiệu tồi tàn, một cậu bé miễn cưỡng thức dậy đón ngày mới. Sự công bằng không hiện diện ở nơi này. Nhưng hôm nay sẽ là ngày có tính quyết định đối với cậu bé, với vụ sát nhân và rất nhiều vụ án sau này. Không một ai chứng kiến một vụ án mạng tại Whitechapel. Nhưng trong màn đêm mịt mùng, những đôi mắt đen đã nhìn thấu tỏ. Và sáng hôm nay... một bậc thầy đã thức dậy. Mặt trời xuất hiện, rọi những tia nắng xuyên qua màn sương mù vàng vọt đang dần tan, chiếu lên đám người tuyền một màu nâu, lùm xùm nào mũ nón, nào quần áo cùng giày ủng đang rùng rùng di chuyển qua những chiếc cầu và dọc theo các con phố lát đá. Tiếng móng ngựa khua lọc cọc trên mặt đường hoà cùng tiếng rầm rập của các bánh xe sắt, tiếng chuyện trò râm ran và lời rao của những người bán hàng rong. Mùi ngựa trộn lẫn với mùi rác rưởi, than đá và khí đốt lan toả trong không khí. Phần đông mọi người đều tất tả đi đến một nơi nào đó trong buổi cuối xuân năm 1867 ấy. Giữa đoàn người đang từ bên mạn nam vượt qua dòng sông bẩn thỉu trên cây cầu đá, có một cậu bé cao gầy, da dẻ tái nhợt tựa như sắc giấy trên rìa các trang Thời báo Luân Đôn. Cậu mười ba tuổi, và lẽ ra đang ngồi học ở trường. Từ xa, trông cậu thật bảnh bao trong chiếc áo choàng màu đen dài, cà vạt, áo chẽn và đôi ủng đánh bóng. Nhìn gần, cậu có vẻ xơ xác và buồn bã, nhưng từ đôi mắt màu khói của cậu toát ra nét tinh anh. Tên cậu là Sherlock Holmes. Trong vô vàn tội ác ở Luân Đôn này, tội ác đêm qua tại Whitechapel có lẽ là vụ man rợ nhất. Nó sẽ làm thay đổi cuộc đời cậu. Một lát nữa đây nó sẽ đập vào mắt cậu. Và mấy ngày tiếp theo nó sẽ hút lấy cậu. Sherlock đến với những con phố nhộn nhịp và ồn ã này để tạm lánh các vấn đề của mình và tìm nguồn hứng khởi. Cậu quan sát những con người tiếng tăm giàu có để tìm hiểu xem điều gì khiến họ thành công và được trọng vọng như vậy. Vốn rất thính nhạy trước những sự kiện gay cấn và bức xúc, cậu luôn tìm chúng trên những tuyến phố chính ồn ã náo nhiệt này. Ngày nào cậu cũng ra đây theo cùng một lối. Đầu tiên cậu rời căn hộ trên gác của một hiệu nón cũ kĩ tại khu Southwark bẩn thỉu và đi về phía nam theo hướng trường học. Nhưng ngay khi khuất tầm mắt, cậu liền rẽ sang hướng tây rồi lỉnh lên phía bắc, cùng với đám đông băng qua sông trên cầu Blackfriars để đến với khu trung tâm tráng lệ của thành phố. Các cư dân của Luân Đôn lướt qua cậu như những đợt sóng. Mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình khiến cậu say mê. Sherlock Holmes là một cỗ máy quan sát. Sinh ra cậu đã như vậy. Chỉ trong chớp mắt cậu đã có thể khắc hoạ chân dung của một người nào đó. Cậu có thể nói ngay lí lịch của người này hoặc nghề nghiệp của người khác. Nhờ năng lực đó nên cậu khá nổi tiếng tại khu phố nhỏ của mình. Nếu có đồ vật gì bị thất lạc - một chiếc ủng, một cái tạp dề hay một khoanh bánh mì nóng giòn - cậu có thể nhìn các khuôn mặt, xem xét những chiếc quần, và khám phá các manh mối để chỉ ra thủ phạm, dù lớn hay nhỏ. Người đàn ông đang bước về phía cậu từng ở trong quân ngũ, có thể nhận ra điều đó nhờ bộ ria của ông ta. Ông ta đã từng dùng ngón trỏ tay phải chai sần ấy để bóp cò súng trường. Ông đi lính bên Ấn Độ - cậu từng thấy trong sách một biểu tượng của Ấn giáo giống như hình trang trí nằm trên chiếc măng séc bên trái kia. Cậu đi tiếp. Một phụ nữ đầu đội mũ vải sùm sụp đi lướt qua, tấm khăn quấn trên vai cô ta chạm nhẹ vào cậu. - Đi đứng cái kiểu gì đâu! - Cô ta lườm cậu, làu bàu. "Người này thực ra cũng dễ đoán thôi, Sherlock Holmes thầm nghĩ. Chị ta mới vừa bị thất tình. Nhìn cặp mắt thâm quầng, giọng nói cau có và thanh sôcôla giấu trong tay chị ta thì biết. Chắc chị ta quãng ba mươi tuổi. Trông có vẻ đang béo ra. Chị ta sống tại vùng ngoại ô Sussex, nơi duy nhất có loại đất sét nâu dính trên mũi đôi ủng đen kia." Sherlock Holmes luôn cảm thấy muốn biết hết mọi thứ. Cậu cần nhiều hơn những thứ ít ỏi mà cuộc sống đã mang lại cho mình. Một thầy giáo trong trường từng khen cậu giỏi giang. Cậu không coi chuyện đó là ghê gớm. "Giỏi về cái gì chứ?" Cậu tự nhủ. "Về việc sống nhầm chỗ và nhầm thời điểm à?" Tại phố Fleet, cậu thò tay vào trong một cái thùng rác bằng gang, lôi ra một nắm báo. Thời báo... nhét trở lại. Tin điện hàng ngày... nhét trở lại. Cảnh sát nhật báo... à, đây rồi. Rốt cuộc cũng có một tờ hoạ báo! Mọi cảm xúc mà Luân Đôn có thể tạo ra đều được thổi sức sống vào nhờ những bức vẽ trắng đen kích thước lớn. Cậu đọc toàn những loại báo tường thuật các chuyện gây xôn xao dư luận. Và tờ báo này, cùng với một câu chuyện hấp dẫn, đầy máu me bạo lực và bất công, sẽ chỉ ra định mệnh của cậu. Cậu giấu nó vào trong áo khoác. Tại quảng trường Trafalgar, Sherlock Holmes ngước mắt lên tìm kiếm lũ quạ. Thường thì chúng đậu thành hàng trên nóc khách sạn Morley. Nằm gần toà Northumberland House lộng lẫy, bên mạn đông nam của quảng trường, khách sạn Morley được lũ quạ chọn để tách xa khỏi những con bồ câu béo ú và đám đông gần đài phun nước. Cảnh tượng khiến cậu mỉm cười: Một trong những khách sạn sang trọng bậc nhất Luân Đôn, cùng với hàng quạ đậu trên nóc. Đó là loài chim Sherlock Holmes ưa thích. Cậu len lỏi giữa dòng người lưu thông trên đường, băng qua quảng trường tới các bậc thềm đá trước cửa nhà Triển lãm Nghệ thuật Quốc gia. Những con quạ cũng di chuyển. Đôi khi cậu nghĩ lũ chim đi theo mình. Một đôi quạ sà xuống và đậu bên cạnh cậu bé. - Chào hai cậu. Để xem tin tức hôm nay có gì nào. Cậu giở báo ra. Cái tít trên trang nhất đập thẳng vào mắt cậu. ÁN MẠNG! Bên dưới dòng tiêu đề là bức tranh minh hoạ ghê rợn tái hiện cảnh một người phụ nữ trẻ nằm trên một con phố của Luân Đôn, thân mình ngập trong vũng máu. Hai con quạ kêu toáng lên và bay đi mất. Sherlock đọc tiếp. Án mạng xảy ra ở giữa đêm khuya, tại phía đông của khu phố cổ. Không ai chứng kiến hay nghe thấy gì, dù chỉ là một tiếng hét. Hung khí la một con dao dài và sắc. Sherlock lật sang trang sau. Cậu đọc ngấu nghiến: một phụ nữ chưa rõ địa vị xã hội, không có cái tên nào được nhắc đến, không có kẻ thù nào được biết tới. Cậu nhận thấy cô ta trông giống mẹ mình. Cậu bé nghe thấy tiếng người qua đường xầm xì: - Con bé tội nghiệp. - Chắc hẳn là dân lề đường xó chợ, một đứa ngoại lai. - Lại cái thằng nhóc dễ sợ ngồi đó. Chỉ ước gì nó biến đi. - Mấy con chim lúc nãy là quạ à? Điềm gở đấy. - Bọn lưu manh. Một lũ du thủ du thực. Kìa, chúng đến đấy. Để tôi gọi cảnh sát. Cậu bé liếc mắt nhìn lên. Đó là nhóm bụi đời quảng trường Trafalgar. Cậu gần như có thể đánh hơi thấy bọn chúng. - Sherlock Holmes công tử, nếu tao không nhầm! Một thằng bé tóc đen mặt du côn lên tiếng. Cùng với nó là một nhóm trẻ bẩn thỉu, những bản sao thu nhỏ của thằng đầu đảng. Thằng bé mặc một chiếc áo choàng dài màu đen cũ mèm. Một cái mũ chóp cao sẫm màu vắt vẻo trên đầu nó. Còn trong tay nó là một chiếc gậy chống thô sơ. - Tao nghĩ mày đang chiếm chỗ của bọn tao đấy. Bọn trẻ chưa bao giờ ngồi ở đây. Hôm nay cũng sẽ như thế. - Giáo chủ thân mến của tôi... - Holmes đáp, vẫy tay chào nhóm Bụi đời -...cùng những người bạn. - Ít ra tao cũng có vài đứa bạn. - Ờ. - Biến mau! Nếu không chúng tao lại đập cho bây giờ. - Đồ con nai Do Thái! (Với những chữ n in nghiêng thì bạn hãy đọc thành l, còn chữ l in nghiêng thì ngược lại nhé. FEEN WATTPAD) Một thằng bé khó chịu tên Grimsby quát to. Holmes luôn ngán ngại thằng này. Hàm răng vàng ệch nhọn hoắt như răng chồn của nó trông cứ như sắp cắn người ta đến nơi. Sherlock đứng dậy, vuốt phẳng lại bộ quần áo cũ mèm. Cậu ghét thằng Giáo chủ, nhưng đồng thời cũng ngưỡng mộ nó. - Thấy cái này chưa? - Cậu hỏi, tay giơ tờ Cảnh sát nhật báo. - Đâm nủng bụng kìa, ghê chưa! Nàm khéo thật! - Grimsby thốt lên. Bọn trẻ cười rúc rích. - Vui gì mà cười! - Giáo chủ nạt cả bọn - Chuyện này không hay ho gì đâu. - Chuyện là thế nào? - Holmes hỏi, cậu thừa biết là thằng bé du đãng và băng nhóm của nó tường tận mọi tin đồn lan truyền trong các ngóc ngách của Luân Đôn. - Chỉ có dân đường phố biết... và biết với nhau thôi. - Giáo chủ nói - Tao không ưa cái... - Biết mà! - Sherlock thở dài. - Tôi biết... mấy người không ưa gì cái bản mặt của tôi. Có một chút tương đồng giữa hai cậu bé, mặc dù thằng thủ lĩnh nhóm Bụi đời lớn hơn một chút và nói giọng hơi pha âm sắc Ái Nhĩ Lan. Sự giống nhau ấy còn hơn bề ngoài u ám của hai đứa. Nó nằm trong cung cách bộc lộ bản thân và sự chỉn chu trong những bộ trang phục cũ sờn. Cả hai đều ý thức được điều đó, nhưng Giáo chủ không ưa gì chuyện này. - Mày sẽ không bao giờ là bụi đời được, Sherlock Holmes ạ. - Có chứ, tôi đang bụi đời lắm đây này. Một tay cảnh sát đang đi đến, cực kì bảnh choẹ với cái mũ cối trên đầu và chiếc áo khoác màu xanh dương có hàng khuy sáng bóng đều tăm tắp. Trong tay anh ta có một chiếc dùi cui. Viên cảnh sát canh chừng những cỗ xe đang chạy trên đường, tìm cơ hội tiến lại gần bọn trẻ. - Chuồn thôi! Giáo chủ rít lên, và bọn trẻ nhanh chóng biến đi. *-FEEN-* Đã năm giờ chiều, Sherlock vẫn còn muốn ở ngoài quảng trường, chưa chịu về nhà. Sao lại phải quay về với căn nhà buồn bã, chán chường, về với bố mẹ cậu chứ? Thà cứ ở ngoài này còn hơn. Ở đây cậu được ở gần với sự gay cấn và thành công. Tại đây cậu đã chứng kiến rất nhiều điều đáng kinh ngạc và đầy mê hoặc. Một lần cậu đã nhìn thấy chính Lewis Carroll đang cầm quyển Alice ở xứ sở thần tiên trong tay; một lần khác, nhà chính trị vĩ đại nhất nước, Disraeli, lặng lẽ rảo bước qua quảng trường; rồi người phụ nữ khổng lồ Anna Swan, với cái đầu vượt lên trên đám đông, ngôi sao đu dây Blondin, và ngài Dickens độc nhất vô nhị với chòm râu dê lốm đốm bạc và cặp mắt rực lửa. Cậu đã tận mắt thấy quảng trường chật cứng những người đối lập kêu gọi chính phủ sửa đổi đường lối, rồi có lúc lại đông nghẹt các công dân hô vang những thành tích của Đế chế. Cậu đã thấy những người cạo ống khối với bộ mặt đen nhẻm, những gã ăn mày gớm ghiếc, và cả những tên móc túi nữa. Tại sao phải về nhà kia chứ? Nhưng cậu vẫn phải về nhà. Khi tháp đồng hồ Big Ben tại toà nhà Quốc hội điểm năm giờ chiều, Sherlock Holmes phải chạy nhanh để về đến nhà trước bố mẹ, như thế họ sẽ tưởng cậu đã ở trường. Từ nhiều tháng nay cậu đã lừa dối hai người. Trong thâm tâm, cậu biết bố mẹ đang nghi ngờ mình ghê lắm. Chuyện này không thể tiếp diễn mãi được. Nếu cậu không đi học thì cậu sẽ phải đi lao động. Gia đình cần sự đóng góp của cậu. Cậu sẽ phải chấp nhận số phận của mình giữa những tầng lớp lao động nghèo khó của Luân Đôn. Mây đen đang kéo đến. Sherlock nhận ra tim mình đang đập dồn. Nó đã đập như thế kể từ lúc cậu mở tờ Cảnh sát nhật báo. Có thứ gì đó đang thiêu đốt tâm can cậu. Cậu nhìn xuống tờ báo, vo tròn nó, siết chặt hai chữ án mạng trong nắm tay của mình. Mời các bạn đón đọc Thời Niên Thiếu Của Sherlock Holmes Tập 1: Mắt Quạ Tinh Tường của tác giả Shane Peacock.
Vòng Đu Quay Đêm
“Sự thật chỉ có một. Đối tượng để khóc thương, đối tượng để chỉ trích, đối tượng để an ủi, tất cả đều là gia đình, chỉ vậy mà thôi.” Khu dân cư cao cấp Hibarigaoka rúng động bởi vụ án mạng xảy ra trong một gia đình hạnh phúc như tranh vẽ. Cha là nạn nhân, mẹ là nghi phạm, ba đứa trẻ nhà Takahashi đột ngột đối diện với một tương lai tàn khốc mà chúng chưa từng tưởng tượng ra. Trong quá trình bóc tách từng lớp bóng tối hòng tìm ra sự thật, chúng nhận ra những uẩn khúc của vụ án dần được phơi bày từ câu chuyện của chính những người sống ở nhà đối diện. Cuốn tiểu thuyết gây sốc lấy đề tài “gia đình” đến từ Minato Kanae – tác giả của kiệt tác “Thú tội”. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Minato Kanae là tiểu thuyết gia Nhật Bản, sinh năm 1973 tại Hiroshima. Năm 2007, với truyện ngắn Kẻ truyền đạo bà đã giành được giải Tác giả tiểu thuyết trinh thám mới lần thứ 29. Năm 2008 bà viết tác phẩm đầu tay Thú tội với chương đầu chính là truyện ngắn Kẻ truyền đạo, đứng vị trí thứ nhất trong Bảng xếp hạng top 10 truyện trinh thám năm 2008 của tuần báo Bunshun, sau đó giành được giải Booksellers’ Award lần thứ 6. Đến năm 2014, Thú tội lại được tờ Wall Street Journal của Mỹ chọn làm một trong 10 tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất. Năm 2012, truyện ngắn Sao trên mặt biển trong tập truyện Vọng hương của bà đã nhận giải Hiệp hội tác giả truyện trinh thám Nhật Bản lần thứ 65 trong hạng mục truyện ngắn. Năm 2016, tiểu thuyết Utopia của bà nhận giải Yamamoto Shugoro lần thứ 29. Những tác phẩm khác của Minato Kanae đã được xuất bản:   Thú Tội - Minato Kanae Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt Chuộc Tội Cảnh Ngộ Tất Cả Vì N Án Mạng Bạch Tuyết *** Một câu chuyện xảy ra tại 1 khu dân cư được coi là cao cấp, nằm trên 1 con dốc cao của 1 thành phố nào đó tại Nhật….những gia đình sống ở đó dường như có 1 cuộc sống đáng mơ ước, đáng ghen tỵ đối với người ngoài, nhưng sự thật thì không hẳn như vậy….ngay tại gia đình được cho là kiểu mẫu nhất tại khu dân cư này, lại xảy ra 1 vụ án mạng….và câu chuyện sau đó xoay quanh những người trong gia đình đó, và cả những gia đình khác trong khu dân cư….khi xảy ra biến cố, những ngóc ngách sâu thẳm và tối tăm nhất trong đời sống tưởng chừng lấp lánh như kim sa kia mới dần phơi bày, và nó ko tốt đẹp và yên bình như ngta từng tưởng!…. Trong Vòng đu quay đêm, Minato đã kể 1 câu chuyện nhiều tính người chân thật hơn so với những truyện trước đây (theo quan điểm cá nhân t)….dù rằng thực tế là t vẫn ko hoàn toàn đồng cảm được với tâm lý của những nhân vật trong truyện, nhưng ít ra t nhìn ra đâu đó bóng dáng của 1 xã hội thu nhỏ nơi đây….chúng ta vẫn nói: người giàu cũng khóc – hay đúng hơn là bất cứ ai, bất cứ gia đình nào cũng có những vấn đề riêng, nỗi đau riêng và người ngoài thì không hiểu đc….gia đình của Mayumi có những vấn đề mà ai cũng thấy rõ, như sự hỗn láo của đứa con gái, sự kìm nén của người mẹ và sự trốn tránh trách nhiệm, nhu nhược của người bố, nhưng bi kịch lại ko xảy ra ở gia đình cô, mà lại xảy ra với gia đình Takahashi, vì sao?….vì tâm lý con người thì thường mù quáng và chủ quan, thế nên ai cũng ko tránh khỏi việc đánh giá người khác bằng cái nhìn phiến diện của bản thân, thế nên cái vẻ hạnh phúc, êm ấm của nhà Takahashi có chăng chỉ là lớp vỏ ngoài, mà giấu bên trong đó là áp lực của người mẹ lên cậu con trai chỉ vì muốn ganh đua với người vợ quá cố của chồng, sự thiếu quan tâm của mẹ đến cô con gái và sự vô tư, vô tâm trong hành xử của ông bố….thật khó để đem lên bàn cân vấn đề của gia đình nào là nặng nề hơn, nhưng có lẽ việc cố duy trì lớp vỏ hạnh phúc khó khăn hơn, hoặc khả năng kìm nén của 2 người phụ nữ là khác nhau, nên cuối cùng bi kịch đã ko may xảy ra với nhà Takahashi!…. Minato cũng vẫn ko quên nói về vấn đề môi trường giáo dục của xã hội Nhật Bản, nơi sự cạnh tranh về thành tích học tập, về sự thành công là gánh nặng lên những đứa trẻ, và tạo ra những hệ lụy nặng nề…. Cá nhân t thích truyện này hơn Tất cả vì N hay Những đứa trẻ bị mắc kẹt, vì tính biểu tượng thể hiện khá rõ nét, như cái cách các nhân vật giải quyết vấn đề của mình….3 anh em nhà Takahashi, Keisuke – người chồng nhu nhược hay Ayumi, bạn thân của Hinako, họ là những người thuộc thế hệ trẻ hơn, nhưng trong những thời khắc phải đưa ra quyết định họ đã chọn cách trực tiếp có mặt, chứ ko tìm hiểu thông qua tin nhắn, gọi điện (Yoshiyuki bị bạn gái thu điện thoại, nên cậu chọn cách trực tiếp trở về gặp các em, Shinji ko mang điện thoại, và Hinako thì thường để điện thoại trong túi vì sợ hết pin, và thật may mắn do đó họ tình cờ đoàn tụ và giải quyết chuyện gia đình…. Keisuke trong thời khắc quyết định đã ko gọi điện về cho gia đình, thay vì thế anh chọn cách hành động có ích để giải tỏa tâm lý bản thân…. Ayumi ko nhắn tin cho Hinako mà chọn cách giúp Keisuke tháo gỡ đi những kỳ thị dành cho gia đình người bạn của mình….cuối cùng thì những hành động thiết thực đó đã mang lại kết quả tốt đẹp)…. Trong khi đó, bà Satoko – vốn dĩ là 1 bà già luôn ra sức bảo vệ truyền thống, thì lại chỉ có thể tìm cách an ủi sự cô đơn và tuyệt vọng của bản thân bằng cách duy nhất là gọi điện cho người con trai ở xa – người mà ngay việc nghe điện thoại từ mẹ cũng ko tha thiết gì!….với t, đó là 1 thông điệp rõ ràng rằng: trong 1 xã hội mà khoảng cách kết nối tâm hồn con người càng ngày càng xa nhau tỉ lệ nghịch với khoảng cách truyền đi của sóng điện thoại di động, thì trực tiếp tìm đến nhau là cách duy nhất để kéo những con người lại gần nhau hơn…. Một hình tượng nữa khá hay, đó là hình ảnh về vòng đu quay đêm!….tựa đề của truyện là Vòng đu quay đêm, xuất phát từ 1 công trình vòng đu quay khổng lồ (sắp) được khởi công gần khu dân cư Hibarigaoka, và công trình (chưa tồn tại) này thu hút sự mong chờ của mọi người, mong chờ cảm giác được lên vòng đu quay để ngắm nhìn thành phố….nhưng ko ai trong khu Hibarigaoka nhận ra, bấy lâu nay họ vẫn sống ở 1 nơi giống như vòng đu quay khổng lồ kia….khu dân cư nằm trên dốc cao, có thể nhìn trọn vẹn cảnh thành phố bên dưới…. vì vậy mỗi lần lên xuống dốc, chả phải cũng giống như quá trình lên xuống của vòng đu quay hay sao!?….thế nên, thay vì tưởng tượng đến niềm vui, niềm hạnh phúc chưa xảy đến, chi bằng hãy trân trọng và nâng niu cuộc sống mình đang có, và hạnh phúc với nó!…. Truyện của Minato nhìn chung là buồn….nhưng ít ra với Vòng đu quay đêm, điểm sáng đã le lói lên ở cuối con dốc đêm tưởng như dài vô tận ấy!….   Nguyễn Thành Tiến *** Cuộc sống quá mệt mỏi và đáng ghét vậy sao? Đọc xong quyển này mình thấy cuộc sống quả thật có quá nhiều áp lực. Nếu rơi vào hoàn cảnh vừa là nạn nhân cũng vừa là đối tượng công kích của dư luận khi bỗng dưng cha bị chết, mẹ là hung thủ giết người không biết sẽ phải đối mặt ra sao. Review VÒNG ĐU QUAY ĐÊM Tác phẩm không hoàn toàn là trinh thám mà nó là tâm lý xã hội thì đúng hơn. Và chủ đề của Vòng đu quay đêm là chủ đề về gia đình, những vấn đề về gia đình trong xã hội hiện đại. Gia đình là nền tảng của xã hội nhưng quả thật trong một gia đình cũng có quá nhiều áp lực và khủng hoảng. Cha mẹ thì áp lực trong việc nuôi dạy con cái, mong muốn những điều tốt đẹp tới cho con cái, đặt kỳ vọng, mong muốn vào con cái. Nhưng chính những kỳ vọng, mong muốn quá cao đó lại vô tình gây nên những áp lực không đáng có cho con cái khi cha mẹ thật sự không hiểu khả năng của con tới đâu. Mà nhiều khi họ không lắng nghe hay đối thoại cùng con để hiểu nhau, để cùng giải quyết vấn đề. Điều quan trọng là cách đối mặt, giải quyết những vấn đề gặp phải như thế nào để nó không gây ra những hậu quả đáng tiếc khi phải chịu đựng stress trong một thời gian quá dài rồi bùng phát ra. Mình không thể chấp nhận được bất cứ cách giải quyết nào của các nhân vật trong Vòng đu quay đêm. Người con thì quá hỗn láo và vô lý. Việc bị thi trượt vào trường danh tiếng dẫn tới xấu hổ, tự ti, tự tạo ra áp lực cho chính mình không thể là lý do để biện hộ cho sự hỗn láo, xấc xược với cha mẹ sinh ra mình như vậy được. (con cái mà gọi cha mẹ là ông nọ, bà kia, đòi hỏi này nọ, cãi lại nhem nhẻm nhem nhẻm một cách vô lý rồi lên cơn phá phách, ném đồ đạc trước mặt cha mẹ như vậy là không thể chấp nhận được). Người mẹ thì nuông chiều, coi đó là việc hiển nhiên, cứ thế chấp nhận rồi cho qua, không có biện pháp gì hiệu quả. Người cha thì theo chủ nghĩa “im lặng là vàng, nhẫn nhịn là bạc, lẩn tránh là thượng sách”, gặp vấn đề chỉ biết lảng tránh cho im chuyện không hề có biện pháp giải quyết nào cả, không có tiếng nói của một người cha trong gia đình một cách đúng nghĩa. Không biết có phải đó là chủ ý của tác giả khi xây dựng nên các tuyến nhân vật như vậy để người đọc có thể nhìn nhận, soi chiếu vào chính gia đình, cộng đồng mình đang sống hay không? Không dám nói nhiều sợ spoil nhưng cái kết của tác phẩm làm mình không thoả mãn. Trong tác phẩm cũng có một vài điểm sáng về tình người chứ không quá u ám như các tác phẩm mà mình đã đọc trước đó của Minato Kanae. Tác phẩm vẫn mang phong cách của Minato Kanae khi được nhìn dưới nhiều góc độ của các tuyến nhân vật. Tác phẩm không phải là không để lại suy ngẫm nhưng Vòng đu quay đêm không phải là tác phẩm xuất sắc của Minato Kanae. Binh Boog Mời các bạn mượn đọc sách Vòng Đu Quay Đêm của tác giả Minato Kanae & Nguyễn Hải Anh (dịch).
Hội Chứng E
"Franck Thilliez đã khéo léo đưa khoa học và thần kinh học vào những tình tiết trinh thám xuất sắc trong Hội chứng E, từ đó dẫn dắt người đọc vào mê cung lắt léo của bộ não con người cùng tất cả những lệch lạc mà bộ não đó có thể nảy sinh..." - Tạp chí Elle Một bộ phim ngắn bí ẩn và độc hại khiến người xem đột ngột bị mù... Vậy là đủ để đi tong toàn bộ kỳ nghỉ hè của trung úy cảnh sát Lucie Hennebelle. Năm xác chết bị cắt xẻ tàn bạo được tìm thấy trong tình trạng mất não, mất mắt, và phân hủy đến khó lòng nhận dạng... Chẳng cần gì hơn thế để mời gọi thanh tra trưởng Franck Sharko đang trong kỳ nghỉ cưỡng chế phải quay trở lại đội Hình sự. Hai hướng điều tra cho cùng một vụ án duy nhấ sẽ kết hợp Hennebelle và Sharko, đưa họ đi từ những khu ổ chuột nhơ nhớp ở Cairo đến các trại trẻ mồ côi ở Canada, để rồi đối mặt với một tội ác có một không hai, một thực tế tàn bạo, hé lộ sự thật rằng tất cả chúng ta ai cũng đều có thể phạm phải điều tồi tệ nhất. Với Hội chứng E, Franck Thilliez thêm một lần nữa giúp chúng ta hiểu thế nào là kinh hoàng khi đưa chúng ta vào tâm hồn con người, vào cội rễ của bạo lực và cái ác. *** Thực ra nói tôi thích trinh thám cũng đúng, nhưng nếu chính xác hơn thì tôi thích Trinh thám, kinh dị có hòa trộn hoặc được lấy cảm hứng hay đan xen, thậm chí đào sâu các vấn đề về tâm lý xã hội, tâm lý con người, và bởi vậy nên tôi không thể bỏ qua cuốn Hội Chứng E, một cuốn trinh thám đáp ứng đủ mọi yêu cầu của tôi ngay từ trang giới thiệu. Truyện lấy bối cảnh chính ở nước Pháp, năm cái xác được tìm thấy bị chôn sâu dưới lớp đất, kinh khủng hơn là các nạn nhân đã bị khoét sạch nhãn cầu, não bị lấy đi, răng bị nhổ sạch, bàn tay bị chặt đứt. Thực ra khá là dễ đoán lý do vì sao các nạn nhân bị lấy đi những bộ phận đó, là răng và bàn tay thì để tránh bị nhận ra danh tính, còn não và mắt thì chắc chắn là để nghiên cứu rồi, vấn đề là nghiên cứu điều gì, và kẻ nào có thể tỉnh táo và bệnh hoạn đến mức làm những việc như vậy mà không run tay? Đó chính là vấn đề mà thanh tra Sharko phải tìm ra. Song song đó thì thông tin về một đoạn phim ma quái làm mù mắt người xem cũng được nữ cảnh sát Lucie tiếp nhận và điều tra. Hai người, hai hướng điều tra hoàn toàn khác nhau, lại dẫn đến một con đường chung nhất về câu trả lời cho tất cả mọi thứ. Cá nhân tôi rất thích quá trình điều tra của vụ án này, cảm giác rất thực tế, rõ ràng, và có một quy trình cụ thể, được sự hỗ trợ và liên kết của rất nhiều thành phần, từ cảnh sát, chuyên gia tâm lý học tội phạm, bác sĩ, nhà nghiên cứu… tất cả đều có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tìm ra những miếng ghép và đặt nó đúng chỗ, để từ đó hiện lên bức tranh kẻ thủ ác. Giống như đang chơi CoC vậy ;)). Một số truyện thì đề cao cảnh sát, một số khác thì lại đề cao vai trò thám tử, nhưng ở đây, mọi nhân vật từ chính đến phụ đều có vai trò quan trọng như nhau, không quá dìm hay quá nâng một bên nào, đó là điều khiến tôi hài lòng. Không có ai là thần thánh hay thông minh tài giỏi đến mức khiến người đọc khó chịu. Liên quan đến đoạn phim ma quái kia thì có chuyên gia phân tích phim, phục chế phim, liên quan đến não bộ và mắt nhìn của con người thì có những nhà nghiên cứu chuyên sâu, còn quá trình điều tra, những lý giải về tâm lý tội phạm thì đó là việc của hai nhân vật chính của chúng ta, Sharko và Lucie. Mọi thứ đều theo đúng logic và quy trình thực tế, giúp người đọc không bị ngợp và không có cảm giác khó chịu khi bị qua mặt hay đùa giỡn, kiểu như nhân vật chính là hiện thân của Superman hay vị thánh nào đó vậy! Quá trình điều tra vụ án này cũng đưa người đọc phiêu lưu qua không gian và thời gian, từ Pháp, đến Bỉ, rồi đến vùng đất xa lạ Ai Cập, hay Canada, từ vụ án ngày hôm nay mà lật giở lại những vụ án từ nhiều năm trước, rồi các vụ thảm án có thật trong lịch sử, những sự kiện tác động trực tiếp đến xã hội, rất nhiều rất nhiều chuyến phiêu lưu, mà đích đến chung nhất của tất cả những đường nhánh này đều là vụ án của hiện tại. Không dừng lại ở đó, mức độ đồ sộ của vụ án này còn nằm ở những lý giải và phân tích liên quan đến kỹ thuật làm phim, đến mắt và não bộ của con người. Bạn có tin không, có một kỹ thuật gọi là phim chồng phim, nhà làm phim sẽ dùng những thủ thuật về ánh sáng, màu sắc, sự tương phản và tốc độ chạy của cuộn phim mà ẩn giấu ở đó là một đoạn phim thật sự, không thể nhìn thấy bằng mắt thường, mà chính là Bộ não của chúng ta sẽ nhìn thấy, rất lạ đúng không? Mục đích của họ là khiến bộ não của chúng ta bị tác động trực tiếp từ những đoạn phim như vậy, mắt thì nhìn thấy một cô bé ngồi chơi trên chiếc xích đu thật yên bình, nhưng song song lúc đó, bộ não sẽ nhìn thấy đoạn phim bị ẩn giấu, đó là những đứa trẻ đang dùng tay không đập chết những con thỏ… Chính lúc đó thì não bộ chúng ta sẽ xuất hiện những xung động, khiến bản thân có cảm giác khó chịu mà không thể lý giải nổi. Lý giải sâu xa hơn, kỹ thuật này nếu xuất hiện phổ biến trong đời sống con người hiện nay, những đoạn quảng cáo bạn xem, những đoạn phim tưởng như vô bổ, nhưng rất có thể, có những hình ảnh ẩn giấu đang tác động trực tiếp đến não bộ của bạn, và khi một tác động nào đó đủ, thì nó sẽ khiến bạn có những suy nghĩ và hành vi như họ mong muốn mà chính bạn cũng không ý thức được. Thật sự đáng sợ! Những kẻ thủ ác của truyện đã lợi dụng kỹ thuật này, kết hợp với thuốc, và những âm thanh, giọng nói… để biến những đối tượng thí nghiệm của chúng trở nên bạo lực cực đoan, không biết sợ hãi, những người này sẽ trở thành những kẻ “táng tận lương tâm”, giết người không ghê tay, và không còn lương tri nữa. Nếu điều này được phổ biến và nhân rộng thì hậu quả sẽ như thế nào, cũng dễ đoán thôi… Vậy thì, Hội Chứng E là gì? Có thể nói đơn giản đó là hội chứng điên loạn bạo lực tập thể, mà có thể lân lan qua đường thần kinh, chứ không theo một mô thức cụ thể nào, có vẻ mông lung khó hiểu và khó tin nhỉ? Nhưng quả thật là tác giả có những dẫn chứng từ chính những sự kiện có thật trong lịch sử, quả thật thì tôi chưa tìm hiểu hay đọc sâu hơn về những sự kiện đó, nên cũng không biết là có lý giải nào khác hay không, trước mắt cứ tạm tiếp nhận phương án này của tác giả vậy… Vậy vấn đề đặt ra ở đây thì, nếu có thể tự mình tác động và tạo ra Hội chứng E thì sao? Những con người có Hội Chứng E thì hạch hạnh nhân trong não sẽ bị teo nhỏ, vậy, nếu có thể dùng thuốc, hay kích thích liên quan đến thần kinh để khiến hạch này teo nhỏ như ý mình muốn, vậy có phải là lúc đó mình sẽ tạo ra được một đội quân hiếu chiến, không biết sợ hãi, tàn nhẫn máu lạnh không? 500 trang truyện là sự kết hợp của quá trình điều tra, tìm hiểu sự thật và tất cả những vấn đề này, rất đồ sộ, rất to lớn, hoành tráng, nhưng lại rõ ràng và đáng tin vô cùng. Thực sự thì đọc xong tôi cũng không biết cái nào là thực, cái nào là tác giả hư cấu nữa, một lời khen dành cho tác giả, ông đã khéo léo dùng những điều thực tế để làm tiền đề cho câu chuyện của mình, từ nơi chốn, sự kiện, con người, thậm chí là các tổ chức như CIA, lính lê dương Pháp, chương trình MKUltra… tất cả những điều đó càng khiến cho câu chuyện của Hội Chứng E mang một màu sắc chân thực đến mức khiến người đọc nổi da gà! Đọc đến trang cuối thì điều đọng lại ở độc giả không còn là sự tàn nhẫn hay máu me của những vụ án, mà đó là suy ngẫm về những điều hiện diện ngay xung quanh đời sống có thể đang dần dần biến đổi bộ não của mình mà chính bản thân cũng không hề hay biết. Tôi tin rằng, đây là một thành công lớn của tác giả, không dùng máu me để câu khách, mà lại khiến người đọc phải ấn tượng và suy ngẫm rất nhiều về tác phẩm của mình. Một tác phẩm trinh thám đồ sộ, đáng được trải nghiệm, tôi mong rằng những tác phẩm khác của tác giả này sẽ sớm được xuất bản tại Việt Nam. Tôi thích cách mà ông đào sâu nghiên cứu để đưa đến cho người đọc cái nhìn sâu và kĩ nhất, không phải là cưỡi ngựa xem hoa, mà cẩn thận… cho đi bộ đào đất trồng hoa luôn đấy! Những tác giả đặt cả tâm huyết của mình vào tác phẩm, thật sự rất đáng để trân trọng. *** Chào cả nhà iu lại là mị đây, xin phép repost có chỉnh sửa review và ảnh của cuốn này tại đợt trước hổng có ưng lắm hị hị. . Hà Nội nóng nực và chói chang như màu của cái bìa cuốn sách ấy nên cũng được thể giới thiệu cho các bạn, đặc biệt là các bạn fan trinh thám quyển Hội Chứng E – một tác phẩm mà theo tớ đánh giá là rất đồ sộ về cả mặt hình thức và nội dung. Cảm giác khi đọc xong Hội Chứng E như kiểu khai phá ra cả một miền tri thức kỳ vĩ mới luôn á trời. . Franck Thilliez là một nhà văn trinh thám người Pháp, cuốn Hội Chứng E là phần thứ ba trong nguyên series sách được lấy luôn tên nhân vật chính – Franck Sharko – làm tựa đề. Nói là series nhưng may mắn là cuốn này có thể đọc riêng lẻ được nên khỏi lo vì không hiểu gì hết nhen. Quay trở lại nội dung chính của Hội Chứng E, tác phẩm mở đầu với việc hé lộ với khán giả một bộ phim kỳ quái, bí ẩn và độc hại có khả năng làm người xem đột ngột bị mù. Bộ phim này chính là nguyên nhân phá hỏng kỳ nghỉ của trung úy cảnh sát Lucie, buộc cô phải dấn thân vào điều tra gốc rễ của những thước quay gây ám ảnh đó. Cùng lúc ấy, năm xác chết bị cắt xẻ tàn bạo được tìm thấy trong tình trạng mất não, mất mắt và bị phá hủy một cách dã man để giấu đi thân phận của người xấu số, mời gọi thanh tra Franck Sharko quay trở lại đội Hình sự sau mấy năm tưởng như đã quen với công việc bàn giấy. Hai mạch truyện, hai hướng điều tra khác nhau song cuối cùng đều quy về một mối mang tên Hội Chứng E, hé lộ một thực tế và một trang sử tàn bạo, nơi giới hạn của con người dường như là vô tận, rằng bất cứ ai đều có khả năng thực hiện tội ác. Nội dung nom có vẻ hấp dẫn, nhích lun. Đọc Hội Chứng E của Franck Thilliez tớ liên tưởng ngay đến các tiểu thuyết trinh thámcủa tác giả Jeffery Deaver vì ấn tượng với lượng kiến thức khổng lồ của hai tác giả này quá thể, thật sự luôn ấy. Nếu các bạn muốn đọc một cuốn trinh thám siêu bự về kiến thức lịch sử, thần kinh học, tâm lý học và đặc biệt là muốn tu bổ trí não thêm về cách hoạt động của mắt dẫn truyền lên bộ não hay cách để tạo dựng ra một bộ phim-ẩn-trong-một-bộ-phim với những thuật ngữ chuẩn thì Hội Chứng E có đủ hết, không chê vào đâu được. Cảm giác như tác giả đã dành phần nhiều thời gian tìm tòi, chọn lọc và miệt mài đầu tư chất xám vào cuốn tiểu thuyết trinh thám này. Ban đầu tớ nghĩ là tớ sẽ – theo nghĩa đen – đọc một cách lê lết từng trang ấy nhưng mà không, tôi đã nhầm rồi quý dzị ạ, vì Hội Chứng E siêu siêu siêu cuốn, cứ phải lật lật giở giở để xem hướng điều tra của Lucie và Sharko rồi sẽ đi đến đâu, hé lộ ra những gì và tên tội phạm chủ mưu với bộ óc thông minh đi trước thời đại này là ai. Nghe có vẻ hơi sai sai khi dành cho hung thủ một lời khen ngợi như thế, nhưng quả đúng thật, tên này thông minh thấy gớm luôn không ai đọ được đâu.  Một điểm tớ thích nữa đó là sự vận hành của cốt truyện có tính liêt kết chặt chẽ với nhau với từng chi tiết trải dài từ quá khứ cho đến hiện tại, tất cả đều quy về một mối duy nhất mang tên Hội Chứng E, có những điều tưởng như không liên quan mà lại liên quan không tưởng. Kiểu wow, sao điều này có thể được nhỉ? Nhưng mà trong tác phẩm này thì nó có thể đấy các bạn tôi ơi.  Nhìn chung Hội Chứng E là tác phẩm đồ sộ cả về kiến thức lẫn nội dung. Siêu ấn tượng về khối lượng kiến thức của tác giả, thực sự ấy. Có yếu tố yêu đương trong này (thở dài cái thườn thượt) nhưng may là không nhiều đâu, nếu không máu xéo sắc của mị đã bùng cháy lên rồi. Dù sao đây cũng là trinh thám chứ hổng phải tiểu thuyết tình yêu gì cho cam hén. À có thắc mắc nhỏ không rõ do bản gốc hay do dịch (nhưng mị nghĩ là do bản gốc) mà trong đây nhiều lúc cảm thấy hơi bất hợp lý qua cách gọi một nữ trung úy cảnh sát gần 40 tuổi hai mụn con và góa chồng là “cô gái nhỏ”, cứ thấy hơi… Tóm cái quần lại thì quyển này hay, đoạn kết hẫng chút hơi buồn tí nhưng đừng bỏ qua ẻm vì Hội chứng E ổn lắm. Recommend cho các bạn mình nhớ. neverblossom *** gười đến đầu tiên. Ngay khi biết tin qua quảng cáo, từ sáng sớm, Ludovic Sénéchal đã lên đường và ngốn hết hai trăm ki lô mét ngăn cách vùng ngoại ô thành phố Lille với thành phố Liège trong khoảng thời gian ngắn kỷ lục. “Bán bộ sưu tập phim cũ 16mm, 35mm, câm và có âm thanh. Tất cả các thể loại, phim ngắn, phim dài, từ những năm ba mươi trở đi. Hơn 800 cuộn phim, trong đó có 500 phim tình báo. Trả giá tại chỗ…” Loại quảng cáo này khá hiếm gặp trên một trang mạng đa ngành. Thông thường, các chủ sở hữu vẫn bán qua các hội chợ, kiểu như Argenteuil, hoặc gửi bán đấu giá từng cuộn phim của mình trên eBay. Ở đây, lời quảng cáo chẳng khác nào rao bán một cái tủ lạnh cũ cần bỏ đi. Dấu hiệu tốt. Ở giữa trung tâm thành phố của nước Bỉ, Ludovic chật vật tìm chỗ đỗ xe, liếc mắt nhìn về phía số nhà rồi trình diện trước chủ nhân ngôi nhà, Luc Szpilman. Chừng hai mươi lăm tuổi, đi giày thể thao Converse, đeo kính lướt ván, mặc áo thun hiệu Bulls. Còn xỏ cả mấy chiếc khuyên nữa. - À vâng, anh đến vì mấy bộ phim. Đi theo tôi, chúng ở trên gác thượng. - Tôi là người đến đầu tiên chăng? - Những người khác hẳn cũng sắp đến thôi, tôi đã nhận được rất nhiều cuộc điện thoại. Tôi không nghĩ là mọi chuyện lại nhanh đến thế. Ludovic theo gót anh ta. Căn nhà đặc sệt phong cách vùng Flamand, với những màu sắc ấm áp và gạch lát sẫm màu. Các phòng được gắn kết với nhau xung quanh khoang cầu thang, phòng chính lấy sáng từ giếng trời. - Tại sao cậu lại vứt bỏ những cuốn phim cũ đó? Ludovic lựa chọn từ ngữ rất cẩn thận. Vứt bỏ, cũ… Vụ thương lượng đã bắt đầu. - Bố tôi mất hôm qua rồi. Ông ấy chưa bao giờ nói với ai là sẽ phải làm gì với chúng. Ludovic kinh ngạc: người cha già còn chưa được chôn xuống đất mà người ta đã lột sạch tài sản của ông ta. Vả chăng, đứa con trai ngớ ngẩn này cũng chẳng thấy ích lợi gì trong việc giữ lại những cuộn phim dài nặng đến cả hai mươi lăm cân, bởi ngày nay có thể lưu giữ số lượng hình ảnh nhiều gấp ngàn lần mà trọng lượng lại ngàn lần nhẹ hơn. Thật tội nghiệp cho một thế hệ bị hy sinh… Cầu thang dốc ngược, nhìn lên muốn gãy cổ. Khi đã lên đến gác thượng, Szpilman bật một bóng đèn công suất thấp. Ludovic mỉm cười, trái tim của nhà sưu tầm trong anh nảy lên một nhịp. Chúng nằm đó, được bảo vệ hoàn toàn khỏi ánh sáng tự nhiên… Những chiếc hộp đủ màu sắc xếp chồng lên nhau, hai chục hộp một, tạo thành những tòa tháp nhỏ. Mùi phim thật dễ chịu, gió uốn éo luồn lách giữa các giá. Một cái thang có bánh lăn cho phép lên tới những tầng giá trên cùng. Ludovic lại gần. Một bên là những cuộn phim 35mm, rất đồ sộ, và một bên là loại 16mm, loại khiến anh đặc biệt thích thú. Những chiếc hộp tròn được dán nhãn, sắp xếp một cách hoàn hảo. Những bộ phim câm cổ điển, những bộ phim dài từ thời hoàng kim của điện ảnh Pháp, đặc biệt là phim tình báo, chiếm số đông trên quá nửa các giá… Ludovic đưa tay cầm một cuộn phim. Người đàn ông nguy hiểm nhất thế giới, một công trình của John Lee Thompson về CIA và Trung Hoa cộng sản. Một bản sao đầy đủ, nguyên vẹn, được bảo quản khỏi độ ẩm và ánh sáng, chẳng khác nào một loại rượu nghìn năm. Thậm chí còn có cả những dải băng thể hiện độ pH trong các hộp, nhằm kiểm soát độ axít. Ludovic khó khăn lắm mới kìm được nỗi xúc động. Chỉ riêng kho báu này cũng đáng giá đến năm trăm euro trên thị trường. - Bố cậu rất mê phim tình báo đúng không? - Còn nữa cơ, anh chưa nhìn thấy tủ sách của bố tôi đâu. Thuyết âm mưu và bộ sậu của nó. Gần như ám ảnh ấy. - Cậu bán chúng giá bao nhiêu? - Tôi đã tìm hiểu trên Internet. Tính ước chừng thì khoảng một trăm euro một cuộn phim. Nhưng mục đích của tôi là tất cả mớ này biến mất càng nhanh càng tốt, tôi cần chỗ. Thế nên chúng ta có thể thương lượng. - Tôi rất hy vọng thế. Ludovic tiếp tục lùng sục. - Hẳn là bố cậu phải có một phòng chiếu riêng? - Vâng, sắp tới chúng tôi sẽ cải tạo nó. Vứt bỏ đồ cũ, thay đồ mới vào. Màn hình LCD và rạp hát gia đình công nghệ mới nhất. Tôi sẽ bố trí cho ban nhạc của tôi ở đây. Ngán ngẩm trước thái độ thiếu tôn trọng đó, Ludovic đi vòng sang bên phải, lật đi lật lại các chồng phim, đắm mình trong mùi phim. Anh phát hiện ra phim của Harold Lloyd, Buster Keaton, rồi, xa hơn một chút, là những phim kiểu như Hamlet hoặc Đại úy Fracasse. Anh những muốn mua hết, nhưng mức lương của một nhân viên an sinh xã hội và những khoản phí thuê bao khác nhau - Meetic*, Internet, truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh - chỉ để lại cho anh một khoản eo hẹp để chi tiêu mỗi tháng. Thế nên anh phải lựa chọn. Anh lại gần chiếc thang. Luc Szpilman cảnh báo: - Anh nên cẩn thận. Bố tôi đã ngã xuống từ chính chiếc thang đó, và bị vỡ đầu. Dù sao thì, trèo lên đó khi đã ở tuổi tám mươi hai… Ludovic lưỡng lự một lát, tuy nhiên vẫn trèo lên. Anh nghĩ đến ông già kia, đam mê đến nỗi bị chính những cuộn phim của mình giết chết. Anh trèo lên cao hết mức có thể, tiếp tục chọn mua. Đằng sau Bức thư từ điện Kremlin, trên một hàng hộp không thể nhìn thấy từ bên dưới, anh phát hiện ra một chiếc hộp đen sì, không dán nhãn. Ludovic giữ tư thế thăng bằng rồi nhấc nó lên. Bên trong, nhìn qua là một bộ phim ngắn, bởi độ dài cuộn phim không đủ lấp đầy khoảng trống trong hộp. Cùng lắm là mười đến hai mươi phút chiếu. Có lẽ là một phim bị thất lạc, độc bản, mà chủ nhân của nó không bao giờ xác định được. Ludovic cầm chiếc hộp, xuống thang rồi xếp chồng lên chín bộ phim về tôn giáo mà anh đã chọn. Những cuộn phim không tên này luôn là yếu tố tạo sự lôi cuốn cho các buổi chiếu phim. Khi quay lại, anh tỏ vẻ bình thản, nhưng các huyết mạch trong người như đang bùng cháy. - Đáng tiếc là đa phần phim của cậu không đáng giá lắm. Toàn những thứ hết sức chuẩn mực. Với lại… Cậu có ngửi thấy cái mùi đó không? - Mùi gì? - Mùi giấm. Các cuộn phim đã bị nhiễm hội chứng giấm, nói cách khác, chẳng mấy nữa chúng sẽ hỏng. Chàng trai trẻ bước lên và hít ngửi. - Anh chắc chứ? - Chắc chắn. Tôi sẵn lòng giải quyết giúp cậu mười cuộn phim này. Ba mươi lăm euro một cuộn, cậu thấy thế nào? - Năm mươi. - Bốn mươi. - Thôi được… Ludovic chi ra một tờ séc bốn trăm euro. Khi anh chuẩn bị dong buồm, một chiếc xe đeo biển đăng ký ở Pháp đang tìm chỗ đỗ. Hẳn là một người mua nữa đã tới. Ludovic ra khỏi phòng chiếu riêng, rồi một mình, tay cầm lon bia, ngồi xuống một trong số mười hai chiếc ghế bằng vải giả da mang phong cách những năm 1950 mà anh đã mua lại hồi người ta đóng cửa rạp Rex, rạp phim nhỏ trong khu phố. Anh đã thửa cho mình một phòng chiếu phim đích thực dưới tầng hầm, và gọi đó là “rạp phim bỏ túi” của mình. Ghế gấp, bục, màn chiếu gắn hạt thủy tinh nhỏ, máy chiếu Tri-Film Heurtier, đủ hết. Ở tuổi bốn mươi hai, anh chỉ còn thiếu một cô bạn gái, để vừa ôm ấp vừa xem bản gốc phim Cuốn theo chiều gió. Nhưng lúc này, những trang web hẹn hò chết tiệt chỉ đưa anh đến với những cuộc tình chớp nhoáng hoặc thất bại. Đã gần ba giờ sáng. Đầu óc còn nhồi đầy những hình ảnh tình báo và chiến tranh, anh kết thúc buổi chiếu phim dài dằng dặc bằng bộ phim ngắn lạ lùng được bảo quản cẩn thận đến khó tin kia. Nhìn bề ngoài, có vẻ đó là một bản sao. Những bộ phim không tên này đôi khi chứa đựng kho báu thực sự, hoặc nếu thần may mắn mỉm cười, anh sẽ gặp được tác phẩm thất lạc của những nhà làm phim nổi tiếng: Méliès, Welles, Chaplin. Nhà sưu tầm trong anh rất thích mơ mộng. Khi Ludovic giở đoạn đầu cuộn phim không tên ra để nối vào máy chiếu, anh đọc thấy trên dải băng, “50 hình/giây”. Loại này khá hiếm so với tiêu chuẩn 24 hình/giây, tốc độ đó thừa đủ để tạo ra cảm giác chuyển động. Tuy nhiên, anh vẫn đổi tốc độ chụp của máy chiếu để khớp với tốc độ yêu cầu. Để khỏi phải xem một bộ phim quay chậm. Rất nhanh chóng, nền trắng của màn hình nhường chỗ cho một hình ảnh tối thẫm, mờ mịt, không nhan đề cũng chẳng phần giới thiệu đoàn phim. Một vòng tròn màu trắng hiện ra ở góc trên cùng bên phải. Lúc đầu, Ludovic tự hỏi liệu có phải do lỗi phim không, như vẫn thường xảy ra với những cuộn phim cũ. Bộ phim bắt đầu. Ludovic ngã vật xuống trong lúc chạy lên tầng trên. Anh không còn nhìn thấy gì nữa, mặc dù đèn vẫn bật. Anh đã bị mù. Mời các bạn đón đọc Hội chứng E của tác giả Franck Thilliez & Nguyễn Thị Tươi (dịch).
Mười Hai Người Hoa Và Một Cô Gái
Với cốt chuyện đơn giản nhưng văn phong giàu hình ảnh và đậm tính hành động, James Hadley Chase khiến cho người đọc có cảm giác như chính họ đang trực tiếp tham gia vào câu chuyện, đối mặt với những sự kiện gay cấn và bí ẩn. Đó là một trong những lý do khiến nhiều người lựa chọn Mười hai người Hoa và một cô gái cho tủ sách của mình. Cuốn sách gồm hai truyện ngắn, Mười hai người Hoa và một cô gái là cuộc điều tra của một thám tử can trường Ferner chống lại những hoạt động tội ác của một băng tội phạm người Hoa, còn Chẳng bao giờ hiểu được đàn bà là câu chuyện tình éo le của một thám tử thất cơ với một cô gái bị nghi ngờ là thủ phạm của một vụ giết người hàng loạt. Mời các bạn đón đọc. *** James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** Fenner hé một bên mắt lúc Paula lách bộ ngực ngon lành và mái tóc bù xù vào khe cửa phòng giấy của ông. Ông lơ đãng nhìn rồi lại thu mình trên ghế tựa, hai chân gác lên tấm giấy thấm trắng tinh trên bàn. Ghế tựa xoay tròn của ông nghiêng 45 độ trông chỉ chực đổ. - Ra đi, Paula. - ông càu nhàu. - Lúc khác hãy vào, bây giờ tôi đang suy nghĩ. Paula lách hẳn bộ ngực vào phòng giấy. Cô đến bên bàn. - Dậy đi. Thần Ngù! - cô nói. - Có khách hàng đang đợi ngoài kia kìa. - Bảo người ta về, - Fenner nhăn nhó. - Bảo họ chúng ta tạm nghỉ. Lạy Chúa, thì thỉnh thoảng tôi cũng cần ngủ chứ? - Thế sếp dùng giường làm cái gì? - Paula sốt ruột nói. - Đừng hỏi tôi những câu như thế, - Fenner gắt rồi lại co người trong ghế tựa. - Mời sếp đứng lên đi. - Paula năn nỉ. - Một bông hoa rừng. Mà em thấy hình như cô ta đang gặp chuyện rắc rối gì rất cần nhờ đến sếp. Fenner mở mắt. -Dáng dấp ra sao? Liệu cô ta có định xin bố thí không đấy? Paula ngồi vào ghế ở góc phòng: -Nhiều lúc em cứ tự hỏi, không hiểu sếp treo tấm biển ngoài cửa để làm gì. Sếp không muốn có khách hàng sao? Fenner lắc đầu: -Không, nếu tôi chưa thấy cần thiết. Mấy vụ vừa rồi được khá tiền. Chúng ta đang rủng rỉnh, đúng không nào? Nghỉ ít lâu đã. -Em thấy vụ này có vẻ lý thú đấy. Nhưng nếu anh không thích thì thôi. Paula đứng lên định ra ngoài. - Khoan đã, - Fenner vội gọi lại. Fenner đã ngồi hẳn dậy, kéo chiếc mũ lên trán: - Đúng là bông hoa rừng chứ? Paula gật đầu. - Em thấy cô ta có vẻ rất hoảng hốt. - Thôi được. Cho cô ta vào. Paula hé mở cánh cửa. nói ra ngoài: - Mời cô vào đây. - Cảm ơn, - tiếng phụ nữ bên ngoài. Một cô gái trẻ bước vào, đi ngang trước mặt Paula, chăm chú nhìn Fenner bằng cặp mắt xanh biếc. Vóc tầm thước. Dáng đi mềm mại. Hai chân mềm mại. Bàn tay nhỏ nhắn và bàn chân nhỏ nhắn. Lưng rất thẳng. Tóc đen nhánh lộ ra ngoài chiếc mũ nhỏ. Mặc bộ đồng màu cắt giản dị và đẹp. Vẻ mặt non trẻ. Có vẻ đang rất sợ hãi chuyện gì đó. Paula mỉm nụ cười trấn an cô gái rồi bước ra ngoài, khép cửa lại. Fenner nói: - Mời cô ngồi. Cô cần tôi giúp việc gì? Ông trỏ ghế tựa lớn. Cô gái lắc đầu. - Tôi muốn đứng, - cô gái nói, giọng hơi hổn hển. - Có lẽ tôi không gặp ông lâu đâu. Fenner ngồi xuống: - Tùy cô, - ông nói giọng điềm tĩnh. - Cô cứ tự nhiên. Hai người nhìn nhau một lúc. Fenner nói tiếp: - Cô nên ngồi xuống thì hơn. Xem chừng cô sẽ phải kể với tôi nhiều đấy, và trông cô lại rất mỏi mệt. Fenner thấy rõ không phải cô gái sợ ông mà sợ thứ gì đó ông chưa biết. Cặp mắt cô gái đầy lo lắng. Hai tay cô co lên đỡ cặp vú rất cao, như thể chỉ chực chạy vụt ra ngoài. Cô gái lại lắc đầu. - Tôi nhờ ông tìm giúp em gái tôi, - cô ta nói giọng lo lắng. - Tôi rất lo cho nó. Tốn bao nhiêu, thưa ông? Ý tôi nói là tôi phải trả ông bao nhiêu? Fenner liếc nhìn lọ mực nằm ngay cạnh bàn tay ông: - Cô không phải băn khoăn chuyện đó. Yên tâm đã. Và kể tôi nghe đầy đủ câu chuyện. Trước hết tôi muốn biết cô là ai. Chuông điện thoại reo. Cô gái đột nhiên hốt hoảng. Cô vội vã chạy ra xa máy vài bước rồi đứng lại, cặp mắt trợn lên và tối lại. Fenner mỉm cười bình thản để cô gái yên tâm. - Lúc tôi ngủ. bao giờ tiếng chuông điện thoại cũng làm tôi hồi hộp như vậy đấy. Fenner nhấc máy. Cô gái lúc này đứng ở ngưỡng cửa phòng giấy, nhìn ông không chớp mắt. - A - lô! Tôi đây. Tiếng trong máy rất bị nhiễu. Giọng đàn ông ngọt ngào: - Ông Fenner? - Vâng. - Ngay bây giờ sắp có một cô gái đến tìm ông. Tôi nhờ ông giữ cô ta lại ở chỗ ông, đợi tôi đến. Tôi đi ngay bây giờ. Ông hiểu chứ? Fenner nháy mắt với cô gái để trấn an rồi nói vào máy: - Chưa hiểu. - Vậy tôi nhắc lại. Ông nghe cho kỹ. Chỉ lát nữa thôi sẽ có một cô gái đến tìm ông, nhờ ông tìm em gái cô ta bị mất tích. Ông hãy giữ cô ấy lại ở chỗ ông đợi tôi đến. Cô ta mắc bệnh tâm thần đấy và trốn ở bệnh viện tâm thần ra hôm qua. Tôi biết cô ta đang trên đường đến văn phòng của ông. Ông chỉ cần giữ cô ấy lại, không cho đi, thế là đủ. Tôi sẽ đến ngay. Fenner kéo mũ chụp xuống mũi. - Nhưng ông là ai? Máy lạo xạo rất to. - Lát nữa tôi sẽ kể ông rõ. Chúng tôi sẽ đền bù công lao của ông hậu hĩ. - Được, - Fenner nói. - Tôi đợi ông. Đợi Fenner đặt máy xuống, cô gái hỏi: - Lão ta bảo tôi điên phải không? Bàn tay không cầm xắc run rẩy bấu vào váy. Fenner gật dầu. Cô gái nhắm mắt một giây, rồi đột nhiên mở to, y hệt như con búp bê nhắm mở mắt bị trẻ nhấc cho ngồi dậy. - Khó mà không tin lão ta được, đúng không thưa ông? - cô gái lo lắng nói. Đột nhiên cô ta đặt xắc lên bàn, tháo găng tay rồi cởi áo vét. Fenner im lặng, tay vẫn còn đặt trên máy điện thoại, nhìn cô gái. Cô gái nấc lên rồi bàn tay run rẩy cởi dần khuy áo sơ mi. Fenner ngượng ngịu lắc bàn tay: -Không cần! Vụ của cô làm tôi thấy hứng thú. Thế là đủ, cô không cần thưởng thêm gì nữa. Cô gái lại nấc lên như khóc, quay lưng lại phía Fenner. Rồi cô cởi áo sơ mi. Fenner đã đưa tay định bấm chuông gọi người vào. Con bé này định giở trò vu cho mình cuồng hiếp nó để mình bị bắt chứ gì? Nhưng Fenner chưa kịp bấm chuông thì ông đã giật mình. Lưng cô gái là cả một vết thương lớn chằng chịt những vết roi rớm máu ngang dọc, tạo thành một hình hoa văn quái đản và khủng khiếp. Cô gái mặc lại sơ mi rồi cài khuy. Mặc tiếp áo vét. Sau đó cô quay mặt lại phía Fenner. Cặp mắt cô còn mở to hơn lúc trước. - Bây giờ nếu tôi nói tôi đang rất sợ thì ông tin chứ? Fenner lắc đầu. - Lẽ ra cô không cần phải làm như vừa rồi. Cô đến đây cầu cứu tôi, thế là đủ. Và bây giờ cô không phải sợ thứ gì nữa. Cô gái vẫn đứng, hàm răng trên trắng bóng cắn cắn vào môi dưới. Rồi cô mở xắc lấy ra một tập giấy bạc đặt lên bàn. - Thế này đã đủ để trả công ông chưa? Fenner sờ ngón tay vào tập giấy bạc. Chưa đếm nhưng Fenner cũng đoán ít nhất phải mười hai ngàn đô. Ông đứng dậy, nhấc tập tiền đem ra cửa. Ông bảo cô gái: - Cô đứng yên đấy. Fenner ra phòng làm việc của cô thư ký Paula. Paula ngừng đánh máy, đặt hai bàn tay lên đầu gối, ngẩng nhìn Fenner. Fenner nói: - Paula! Cô đội mũ mau rồi dẫn cô gái kia đến khách sạn Baltimore. Thuê một phòng và dặn cô ta khóa trái cửa lại. Thu xếp chỗ nghỉ cho cô ta xong, cô nhập khoản tiền này vào tài khoản trong nhà băng. Hãy tác động để cô ta yên tâm. Bảo tôi sẽ che chở được cô ta. Trấn an cô ta, cô ta đang hốt hoảng. Tuổi cô ta vẫn cần có mẹ đấy, cô hãy làm bà mẹ, rõ chứ? Fenner quay vào phòng giấy. - Tên cô là gì? Cô gái chớp chớp mắt: - Ông hãy đưa tôi ra khỏi đây ngay! Ở lại đây tôi sợ lắm! - cô năn nỉ. Fenner đặt bàn tay to bè lên vai cô gái: - Tôi đã bảo cô thư ký đưa cô đi rồi. Cần gì cô cứ nói với cô ấy. Một người nào đó sắp đến đây. Y rất quan tâm đến cô. Tôi sẽ tiếp y. Nhưng tên cô là gì? - Marian Daley, - cô gái đáp. Cổ họng nghẹn lại. - Bà thư ký sẽ đưa tôi đi đâu? Paula bước vào. vừa đi vừa xỏ tay vào găng. - Cô hãy đi vởi cô Paula Dolan. Ra lối cổng sau. Thế là yên rồi, cô không phải lo lắng gì nữa. Marian Daley mỉm cười e thẹn. -Ôi, tôi đến đây nhờ ông là rất đúng. Ông thấy đấy, tôi đang gặp nhiều nỗi bất hạnh... Tôi còn lo cho em gái tôi nữa chứ. Nó sẽ ra sao với mười hai tên người Hoa kia? - Tôi chưa thể nói gì lúc này được. - Fenner lúng túng nói. Lúc tiễn cô gái ra cửa. Fenner nói thêm: -Em gái cô mến người Hoa. có lẽ thế. Cũng có nhiều người như vậy, Cô đừng lo lắng gì hết. Tối nay, tôi sẽ đến gặp cô. Fenner tiễn Paula và cô gái đến tận thang máy. Khi buồng thang máy đã lao xuống dưới, ông trở lại phòng giấy, nhẹ nhàng gài chốt cửa lại. Sau đấy ông mở ngăn kéo bàn lấy ra khẩu súng ngắn tự động nhét vào túi áo vét. Ông lại ngồi xuống, gác chân lên tấm giấy thấm, nhắm mắt. Fenner ngồi suy nghĩ như thế chừng mười phút. Ba thứ làm ông quan tâm: mười hai ngàn đô, những thương tích trên lưng cô gái và mười hai người Hoa. Tại sao cô Marian Daley này lại trả tiền trước? Tại sao cô ta không đơn giản chỉ nói cô ta bị kẻ nào đánh mà lại cởi áo sơ mi ra trước mặt ông? Tại sao cô ta lại nói mười hai người Hoa mà không nói những người Hoa? Tại sao lại là mười hai? Fenner ngọ nguậy trên ghế. Rồi lại chuyện một thằng cha nào đó gọi điện thoại tới. Hay cô Marian kia trốn trại điên thật? Ngờ lắm. Cô ta có vẻ rất hoảng sợ nhưng không có vẻ người mắc bệnh tâm thần. Fenner mở mắt nhìn chiếc đồng hồ báo thức mạ kền nhỏ trên bàn. Paula đưa cô gái đi đã được mười hai phút. Sao chưa thấy thằng cha gọi điện thoại? Bao giờ hắn mới tới? Trong lúc suy nghĩ, Fenner có cảm giác mình không tập trung tư tưởng lắm. Bởi tai ông đang nghe tiếng ai huýt sáo ngoài hành lang. Ông cố tập trung tư tưởng để suy nghĩ vào vấn đề cô gái kia. Marian Daley! Cô ta là ai? Có vẻ con nhà giầu. Bộ quần áo cô ta mặc thuộc loại đắt tiền. Fenner rất khó chịu với tiếng thằng cha nào huýt sáo mãi ngoài hành lang. Bản nhạc nào ấy nhỉ. Bất giác ông cũng huýt sáo theo. Bản nhạc khá buồn. Bản Chloe. Nhạc buồn của giai điệu làm Fenner rối trí. Đột nhiên ông rùng mình, bởi tiếng huýt sáo vẫn ở nguyên một chỗ, như thể thằng cha đứng ngay ngoài cửa văn phòng của Fenner và cố tình huýt sáo cho ông nghe. Fenner rút chân trên bàn xuống rất khẽ. Đứng dậy. Tiếng huýt sáo vẫn khi xa khi gần, khi nhỏ khi to và ở nguyên một chỗ ấy, bên ngoài hành lang. Fenner sờ tay vào báng súng trong túi áo vét. Tuy phòng giấy của ông chỉ có một lối ra chính thức, đi qua phòng làm việc của cô thư ký Paula, nhưng vẫn có một lối ra khác phía trong, bao giờ cũng đóng chặt. Tiếng huýt sáo bên ngoài lối cửa đó. Fenner rón rén bước đến cánh cửa, nhè nhẹ vặn chìa khóa, cố không để đầu ông in bóng lên mặt ô kính mờ trên cánh cửa. Đúng lúc Fenner xoay quả đấm rất nhẹ và từ từ mở cửa thì tiếng huýt sáo đột nhiên ngừng bặt. Ông bước ra ngoài hành lang nhìn. Không có ai. Ông đi nhanh ra chỗ đầu cầu thang, cúi xuống nhìn. Cầu thang vắng ngắt. Ông quay lại, đi nhanh sang đầu cầu thang bên kia. Cũng không thấy ai. Kéo sụp mũ xuống, Fenner đứng im suy nghĩ, tai lắng nghe. Tiếng xe cộ dưới phố, vọng lên yếu ớt. Tiếng thang máy chạy. Fenner chậm chạp, quay về, đứng lại trước cánh cửa mở. Ông vừa đóng cửa, tiếng huýt sáo lại nổi lên. Thần kinh Fenner căng thẳng tột độ. Đóng cửa xong, Fenner rút súng trong túi ra cầm sẵn trong tay, bước sang phòng làm việc của Paula. Đột nhiên ông đứng sững lại, nhăn mặt. Một người đàn ông vóc nhỏ nhắn, mặc bộ âu phục đen nhầu nát ngồi thu mình trong chiếc ghế bọc nệm da êm ái dành cho khách. Y kéo mũ xuống che nên Fenner không nhìn rõ mặt. Nhưng chỉ liếc qua, ông biết y đã chết. Fenner nhét súng vào túi áo, tiến lại gần, ngắm nghía hai bàn tay vàng khè xương xẩu thõng xuống. Rồi ông cúi xuống lật mũ người lạ. Khuôn mặt rúm ró của một người Hoa! Cổ họng y bị cắt ngang, vết cắt chạy dài từ bên này sang bên kia, được khâu lại rất tỷ mẩn. Tuy vậy trông vẫn vô cùng khủng khiếp. Fenner rút khăn tay ra lau mặt. - Lý thú đấy! - ông lẩm bẩm một mình. Đang chưa biết xử sự thế nào thì Fenner nghe thấy chuông điện thoại. Ông nhấc máy. Đó là Paula. Cô thư ký có vẻ rất bối rối. - Cô ta chuồn mất rồi! Em đưa cô ta đến khách sạn Baltimore và thế là cô ta biến mất! Fenner lịm người. - Biến mất nghĩa là sao? Kẻ nào lôi cô ta đi? -Không. Em mải lúi húi ghi tên vào sổ đăng ký thuê phòng ở quầy nên không nhìn. Lúc ghi xong, ngẩng đầu lên thì không thấy cô ta đâu nữa. Em vội nhìn ra. thấy cô ta đi nhanh ra cửa. Em đuổi theo thì cô ta đã biến mất. - Cả tiền cô ta cũng cuỗm theo chứ? -Không. Em gửi tạm thủ quỹ ở đây rồi. Bây giờ em phải làm gì? Về văn phòng chứ? Fenner liếc nhìn xác người Hoa. -Cứ ở lại khách sạn Baltimore. Gọi ăn điểm tâm. Xong việc ở đây, tôi sẽ đến đó gặp cô. Hiện đang có một khách hàng tại đây... -Còn cô gái kia thì sao? Anh nên đến đây ngay thì hơn. Fenner nổi cáu: -Tôi chỉ huy hay cô? Thằng cha ngồi đây đang lạnh dần đây này. Tôi không nói đùa đâu... Fenner đặt máy, đứng lên. Ông quay sang phòng bên cạnh nhìn xác người Hoa. ngắm nghía. - Ta đi thôi, anh bạn, - ông nói. - Một cuộc đi dạo nhỏ! ... Mời các bạn đón đọc Mười Hai Người Hoa Và Một Cô Gái của tác giả James Hadley Chase.