Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mắt Quạ Tinh Tường

“Trong Mắt quạ tinh tường, Shane Peacock đã khéo léo tạo ra những tình tiết lí giải sự kín tiếng của ngài thám tử Sherlock Holmes khi nhắc đến gia đình mình. Ông đã thành công trong việc tạo ra một vụ án mạng gay cấn với tiết tấu hoàn hảo…cũng như gây ấn tượng với hình ảnh náo nhiệt của thành Luân Đôn thời nữ hoàng Victoria, khiến cho sự tàn bạo man rợ của khu East End hiện lên sống động qua từng trang sách.” Quill & Quire *** Đây là cuốn sách đầu tiên sau khoảng 10 năm mình chưa đọc một cuốn trinh thám nào tuy từ nhỏ cuốn nào mình đọc mình cũng đều thấy thích, nhưng lại ngại mua. Tự dưng năm nay nổi hứng muốn thay đổi chút thể loại và làm 2 em trong Series này. Một cuốn sách tuyệt vời vì mình hoàn toàn 'enjoy' nó. Sherlock Holmes thì nổi tiếng quá rồi, nhưng thực ra chưa cầm cuốn sách nào của Conan Doyla cả. Nhưng đọc xong cuốn này chắc phải có kế hoạch làm một bộ thôi. Theo ý kiến cá nhân của một người ít đọc truyện trinh thám cũng như không có đầu óc nhạy bén để suy nghĩ sâu xa thủ phạm là ai hay đoán trước tình tiết, mình cứ để cho tác giả dẫn dắt. Shane Peacock thật sự lôi kéo mình, từng chi tiết nhỏ được tiết lộ, manh mối đầy đủ dần, bất ngờ tăng lên, kịch tính dâng trào và cuối cùng thủ phạm cũng bị lôi ra vành móng ngựa và Holmes cũng mất mát không ít, nhưng CÔNG LÝ được thực thi là điều cốt lõi. Song nhiều khi anh hùng không được biết đến là điều hay xảy ra trong xã hội có phần mục ruỗng. Giá như khai thác kỹ hơn về suy nghĩ hay hành động của kẻ lái xe ngựa, câu chuyện có lẽ hoàn hảo hơn. *** "Thời niên thiếu của Sherlock Holmes" là bộ tiểu thuyết đầu tiên về quãng đời trẻ con của thám tử huyền thoại Sherlock Holmes. Ra mắt lần đầu năm 2007, bộ sách của Shane Peacock ngay lập tức thu hút sự chú ý của độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới và giành được hơn 40 giải thưởng danh giá: Giải thưởng Sách của năm của Hiệp hội Thư viện Canada, Top 10 truyện bí ẩn cho thiếu nhi, Giải thưởng Arthur Ellis cho thể loại truyện hình sự thanh thiếu niên, Huy chương vàng cho sách của năm của Tạp chí Foreward... Hình ảnh một Sherlock Holmes tài ba với trí thông minh nhanh nhạy, sự quan sát tinh tế, những phán đoán logic trong tác phẩm của Arthur Conan Doyle đã làm say mê biết bao thế hệ độc giả. Tuy nhiên, chưa có tác phẩm nào cho thấy, tài năng của Sherlock Holmes bắt đầu bộc lộ từ khi nào? Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống từ thời thơ bé có tác động tới Sherlock Holmes ra sao? Ngay cả bác sĩ Watson - người bạn thân thiết của Sherlock Holmes cũng "chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh… Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích…". Qua Thời niên thiếu của Sherlock Holmes, Shane Peacock lý giải những câu hỏi đó và giúp độc giả tiếp tục được đắm mình trong cảm giác hồi hộp gay cấn qua từng vụ án đầy kịch tính. Nhận xét về tiểu thuyết của Shane Peacock, tờ The Global and Mail cho rằng, tiểu thuyết của Shane Peacook dành cho độc giả trẻ, nhưng người lớn cũng cảm thấy thích thú với những cuộc phiêu lưu có tiết tấu nhanh, đầy kịch tính... Thời Niên Thiếu Của Sherlock Holmes gồm có: Mắt Quạ Tinh Tường Cú Ngã Tử Thần Cô Gái Bí Ẩn Hung Thủ Giấu Mặt Con Rồng Ma Quái Trưởng Thành ... Trong "Mắt quạ tinh tường", Shane Peacock đã khéo léo tạo ra những tình tiết lí giải sự kín tiếng của ngài thám tử Sherlock Holmes khi nhắc đến gia đình mình. Ông đã thành công trong việc tạo ra một vụ án mạng gay cấn với tiết tấu hoàn hảo... cũng như gây ấn tượng với hình ảnh náo nhiệt của thành Luân Đôn thời nữ hoàng Victoria, khiến cho sự tàn bạo man rợ của khu East End hiện lên sống động qua từng trang sách... (Quili & Quire) *** Shane Peacock là một nhà văn nhà báo đa tài, ông viết nhiều thể loại như tiểu thuyết, kịch, kịch bản phim, tiểu sử. Nhân vật trong các tác phẩm của Shane Peacock đều là những người lỗi lạc, làm được những việc phi thường. *** "Suốt trong quá trình quen biết lâu dài và thân thích với Sherlock Holmes, tôi chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh... Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích..." - Bác sĩ Waston, trích trong Người thông ngôn Hi Lạp. --- Án mạng xảy ra trong đêm tối tại khu Whitechapel nằm sâu về phía đông, nơi khuất xa những ngọn đèn khí đốt trên các tuyến phố chính. Đây là chốn cư ngụ của dân Do Thái và lớp người cùng đinh. Nơi những kẻ vô danh tiểu tốt của một đô thị vĩ đại nhất địa cầu sống như bầy cầm thú. Vụ án xảy ra chỉ trong tích tắc, như một nhát đâm của sự tàn nhẫn, bất công và bạo tàn. Nhiều giờ sau, tại khu Southwark phía nam dòng sông Thames, trong căn hộ xập xệ nằm trên cửa hiệu tồi tàn, một cậu bé miễn cưỡng thức dậy đón ngày mới. Sự công bằng không hiện diện ở nơi này. Nhưng hôm nay sẽ là ngày có tính quyết định đối với cậu bé, với vụ sát nhân và rất nhiều vụ án sau này. Không một ai chứng kiến một vụ án mạng tại Whitechapel. Nhưng trong màn đêm mịt mùng, những đôi mắt đen đã nhìn thấu tỏ. Và sáng hôm nay... một bậc thầy đã thức dậy. Mặt trời xuất hiện, rọi những tia nắng xuyên qua màn sương mù vàng vọt đang dần tan, chiếu lên đám người tuyền một màu nâu, lùm xùm nào mũ nón, nào quần áo cùng giày ủng đang rùng rùng di chuyển qua những chiếc cầu và dọc theo các con phố lát đá. Tiếng móng ngựa khua lọc cọc trên mặt đường hoà cùng tiếng rầm rập của các bánh xe sắt, tiếng chuyện trò râm ran và lời rao của những người bán hàng rong. Mùi ngựa trộn lẫn với mùi rác rưởi, than đá và khí đốt lan toả trong không khí. Phần đông mọi người đều tất tả đi đến một nơi nào đó trong buổi cuối xuân năm 1867 ấy. Giữa đoàn người đang từ bên mạn nam vượt qua dòng sông bẩn thỉu trên cây cầu đá, có một cậu bé cao gầy, da dẻ tái nhợt tựa như sắc giấy trên rìa các trang Thời báo Luân Đôn. Cậu mười ba tuổi, và lẽ ra đang ngồi học ở trường. Từ xa, trông cậu thật bảnh bao trong chiếc áo choàng màu đen dài, cà vạt, áo chẽn và đôi ủng đánh bóng. Nhìn gần, cậu có vẻ xơ xác và buồn bã, nhưng từ đôi mắt màu khói của cậu toát ra nét tinh anh. Tên cậu là Sherlock Holmes. Trong vô vàn tội ác ở Luân Đôn này, tội ác đêm qua tại Whitechapel có lẽ là vụ man rợ nhất. Nó sẽ làm thay đổi cuộc đời cậu. Một lát nữa đây nó sẽ đập vào mắt cậu. Và mấy ngày tiếp theo nó sẽ hút lấy cậu. Sherlock đến với những con phố nhộn nhịp và ồn ã này để tạm lánh các vấn đề của mình và tìm nguồn hứng khởi. Cậu quan sát những con người tiếng tăm giàu có để tìm hiểu xem điều gì khiến họ thành công và được trọng vọng như vậy. Vốn rất thính nhạy trước những sự kiện gay cấn và bức xúc, cậu luôn tìm chúng trên những tuyến phố chính ồn ã náo nhiệt này. Ngày nào cậu cũng ra đây theo cùng một lối. Đầu tiên cậu rời căn hộ trên gác của một hiệu nón cũ kĩ tại khu Southwark bẩn thỉu và đi về phía nam theo hướng trường học. Nhưng ngay khi khuất tầm mắt, cậu liền rẽ sang hướng tây rồi lỉnh lên phía bắc, cùng với đám đông băng qua sông trên cầu Blackfriars để đến với khu trung tâm tráng lệ của thành phố. Các cư dân của Luân Đôn lướt qua cậu như những đợt sóng. Mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình khiến cậu say mê. Sherlock Holmes là một cỗ máy quan sát. Sinh ra cậu đã như vậy. Chỉ trong chớp mắt cậu đã có thể khắc hoạ chân dung của một người nào đó. Cậu có thể nói ngay lí lịch của người này hoặc nghề nghiệp của người khác. Nhờ năng lực đó nên cậu khá nổi tiếng tại khu phố nhỏ của mình. Nếu có đồ vật gì bị thất lạc - một chiếc ủng, một cái tạp dề hay một khoanh bánh mì nóng giòn - cậu có thể nhìn các khuôn mặt, xem xét những chiếc quần, và khám phá các manh mối để chỉ ra thủ phạm, dù lớn hay nhỏ. Người đàn ông đang bước về phía cậu từng ở trong quân ngũ, có thể nhận ra điều đó nhờ bộ ria của ông ta. Ông ta đã từng dùng ngón trỏ tay phải chai sần ấy để bóp cò súng trường. Ông đi lính bên Ấn Độ - cậu từng thấy trong sách một biểu tượng của Ấn giáo giống như hình trang trí nằm trên chiếc măng séc bên trái kia. Cậu đi tiếp. Một phụ nữ đầu đội mũ vải sùm sụp đi lướt qua, tấm khăn quấn trên vai cô ta chạm nhẹ vào cậu. - Đi đứng cái kiểu gì đâu! - Cô ta lườm cậu, làu bàu. "Người này thực ra cũng dễ đoán thôi, Sherlock Holmes thầm nghĩ. Chị ta mới vừa bị thất tình. Nhìn cặp mắt thâm quầng, giọng nói cau có và thanh sôcôla giấu trong tay chị ta thì biết. Chắc chị ta quãng ba mươi tuổi. Trông có vẻ đang béo ra. Chị ta sống tại vùng ngoại ô Sussex, nơi duy nhất có loại đất sét nâu dính trên mũi đôi ủng đen kia." Sherlock Holmes luôn cảm thấy muốn biết hết mọi thứ. Cậu cần nhiều hơn những thứ ít ỏi mà cuộc sống đã mang lại cho mình. Một thầy giáo trong trường từng khen cậu giỏi giang. Cậu không coi chuyện đó là ghê gớm. "Giỏi về cái gì chứ?" Cậu tự nhủ. "Về việc sống nhầm chỗ và nhầm thời điểm à?" Tại phố Fleet, cậu thò tay vào trong một cái thùng rác bằng gang, lôi ra một nắm báo. Thời báo... nhét trở lại. Tin điện hàng ngày... nhét trở lại. Cảnh sát nhật báo... à, đây rồi. Rốt cuộc cũng có một tờ hoạ báo! Mọi cảm xúc mà Luân Đôn có thể tạo ra đều được thổi sức sống vào nhờ những bức vẽ trắng đen kích thước lớn. Cậu đọc toàn những loại báo tường thuật các chuyện gây xôn xao dư luận. Và tờ báo này, cùng với một câu chuyện hấp dẫn, đầy máu me bạo lực và bất công, sẽ chỉ ra định mệnh của cậu. Cậu giấu nó vào trong áo khoác. Tại quảng trường Trafalgar, Sherlock Holmes ngước mắt lên tìm kiếm lũ quạ. Thường thì chúng đậu thành hàng trên nóc khách sạn Morley. Nằm gần toà Northumberland House lộng lẫy, bên mạn đông nam của quảng trường, khách sạn Morley được lũ quạ chọn để tách xa khỏi những con bồ câu béo ú và đám đông gần đài phun nước. Cảnh tượng khiến cậu mỉm cười: Một trong những khách sạn sang trọng bậc nhất Luân Đôn, cùng với hàng quạ đậu trên nóc. Đó là loài chim Sherlock Holmes ưa thích. Cậu len lỏi giữa dòng người lưu thông trên đường, băng qua quảng trường tới các bậc thềm đá trước cửa nhà Triển lãm Nghệ thuật Quốc gia. Những con quạ cũng di chuyển. Đôi khi cậu nghĩ lũ chim đi theo mình. Một đôi quạ sà xuống và đậu bên cạnh cậu bé. - Chào hai cậu. Để xem tin tức hôm nay có gì nào. Cậu giở báo ra. Cái tít trên trang nhất đập thẳng vào mắt cậu. ÁN MẠNG! Bên dưới dòng tiêu đề là bức tranh minh hoạ ghê rợn tái hiện cảnh một người phụ nữ trẻ nằm trên một con phố của Luân Đôn, thân mình ngập trong vũng máu. Hai con quạ kêu toáng lên và bay đi mất. Sherlock đọc tiếp. Án mạng xảy ra ở giữa đêm khuya, tại phía đông của khu phố cổ. Không ai chứng kiến hay nghe thấy gì, dù chỉ là một tiếng hét. Hung khí la một con dao dài và sắc. Sherlock lật sang trang sau. Cậu đọc ngấu nghiến: một phụ nữ chưa rõ địa vị xã hội, không có cái tên nào được nhắc đến, không có kẻ thù nào được biết tới. Cậu nhận thấy cô ta trông giống mẹ mình. Cậu bé nghe thấy tiếng người qua đường xầm xì: - Con bé tội nghiệp. - Chắc hẳn là dân lề đường xó chợ, một đứa ngoại lai. - Lại cái thằng nhóc dễ sợ ngồi đó. Chỉ ước gì nó biến đi. - Mấy con chim lúc nãy là quạ à? Điềm gở đấy. - Bọn lưu manh. Một lũ du thủ du thực. Kìa, chúng đến đấy. Để tôi gọi cảnh sát. Cậu bé liếc mắt nhìn lên. Đó là nhóm bụi đời quảng trường Trafalgar. Cậu gần như có thể đánh hơi thấy bọn chúng. - Sherlock Holmes công tử, nếu tao không nhầm! Một thằng bé tóc đen mặt du côn lên tiếng. Cùng với nó là một nhóm trẻ bẩn thỉu, những bản sao thu nhỏ của thằng đầu đảng. Thằng bé mặc một chiếc áo choàng dài màu đen cũ mèm. Một cái mũ chóp cao sẫm màu vắt vẻo trên đầu nó. Còn trong tay nó là một chiếc gậy chống thô sơ. - Tao nghĩ mày đang chiếm chỗ của bọn tao đấy. Bọn trẻ chưa bao giờ ngồi ở đây. Hôm nay cũng sẽ như thế. - Giáo chủ thân mến của tôi... - Holmes đáp, vẫy tay chào nhóm Bụi đời -...cùng những người bạn. - Ít ra tao cũng có vài đứa bạn. - Ờ. - Biến mau! Nếu không chúng tao lại đập cho bây giờ. - Đồ con nai Do Thái! (Với những chữ n in nghiêng thì bạn hãy đọc thành l, còn chữ l in nghiêng thì ngược lại nhé. FEEN WATTPAD) Một thằng bé khó chịu tên Grimsby quát to. Holmes luôn ngán ngại thằng này. Hàm răng vàng ệch nhọn hoắt như răng chồn của nó trông cứ như sắp cắn người ta đến nơi. Sherlock đứng dậy, vuốt phẳng lại bộ quần áo cũ mèm. Cậu ghét thằng Giáo chủ, nhưng đồng thời cũng ngưỡng mộ nó. - Thấy cái này chưa? - Cậu hỏi, tay giơ tờ Cảnh sát nhật báo. - Đâm nủng bụng kìa, ghê chưa! Nàm khéo thật! - Grimsby thốt lên. Bọn trẻ cười rúc rích. - Vui gì mà cười! - Giáo chủ nạt cả bọn - Chuyện này không hay ho gì đâu. - Chuyện là thế nào? - Holmes hỏi, cậu thừa biết là thằng bé du đãng và băng nhóm của nó tường tận mọi tin đồn lan truyền trong các ngóc ngách của Luân Đôn. - Chỉ có dân đường phố biết... và biết với nhau thôi. - Giáo chủ nói - Tao không ưa cái... - Biết mà! - Sherlock thở dài. - Tôi biết... mấy người không ưa gì cái bản mặt của tôi. Có một chút tương đồng giữa hai cậu bé, mặc dù thằng thủ lĩnh nhóm Bụi đời lớn hơn một chút và nói giọng hơi pha âm sắc Ái Nhĩ Lan. Sự giống nhau ấy còn hơn bề ngoài u ám của hai đứa. Nó nằm trong cung cách bộc lộ bản thân và sự chỉn chu trong những bộ trang phục cũ sờn. Cả hai đều ý thức được điều đó, nhưng Giáo chủ không ưa gì chuyện này. - Mày sẽ không bao giờ là bụi đời được, Sherlock Holmes ạ. - Có chứ, tôi đang bụi đời lắm đây này. Một tay cảnh sát đang đi đến, cực kì bảnh choẹ với cái mũ cối trên đầu và chiếc áo khoác màu xanh dương có hàng khuy sáng bóng đều tăm tắp. Trong tay anh ta có một chiếc dùi cui. Viên cảnh sát canh chừng những cỗ xe đang chạy trên đường, tìm cơ hội tiến lại gần bọn trẻ. - Chuồn thôi! Giáo chủ rít lên, và bọn trẻ nhanh chóng biến đi. *-FEEN-* Đã năm giờ chiều, Sherlock vẫn còn muốn ở ngoài quảng trường, chưa chịu về nhà. Sao lại phải quay về với căn nhà buồn bã, chán chường, về với bố mẹ cậu chứ? Thà cứ ở ngoài này còn hơn. Ở đây cậu được ở gần với sự gay cấn và thành công. Tại đây cậu đã chứng kiến rất nhiều điều đáng kinh ngạc và đầy mê hoặc. Một lần cậu đã nhìn thấy chính Lewis Carroll đang cầm quyển Alice ở xứ sở thần tiên trong tay; một lần khác, nhà chính trị vĩ đại nhất nước, Disraeli, lặng lẽ rảo bước qua quảng trường; rồi người phụ nữ khổng lồ Anna Swan, với cái đầu vượt lên trên đám đông, ngôi sao đu dây Blondin, và ngài Dickens độc nhất vô nhị với chòm râu dê lốm đốm bạc và cặp mắt rực lửa. Cậu đã tận mắt thấy quảng trường chật cứng những người đối lập kêu gọi chính phủ sửa đổi đường lối, rồi có lúc lại đông nghẹt các công dân hô vang những thành tích của Đế chế. Cậu đã thấy những người cạo ống khối với bộ mặt đen nhẻm, những gã ăn mày gớm ghiếc, và cả những tên móc túi nữa. Tại sao phải về nhà kia chứ? Nhưng cậu vẫn phải về nhà. Khi tháp đồng hồ Big Ben tại toà nhà Quốc hội điểm năm giờ chiều, Sherlock Holmes phải chạy nhanh để về đến nhà trước bố mẹ, như thế họ sẽ tưởng cậu đã ở trường. Từ nhiều tháng nay cậu đã lừa dối hai người. Trong thâm tâm, cậu biết bố mẹ đang nghi ngờ mình ghê lắm. Chuyện này không thể tiếp diễn mãi được. Nếu cậu không đi học thì cậu sẽ phải đi lao động. Gia đình cần sự đóng góp của cậu. Cậu sẽ phải chấp nhận số phận của mình giữa những tầng lớp lao động nghèo khó của Luân Đôn. Mây đen đang kéo đến. Sherlock nhận ra tim mình đang đập dồn. Nó đã đập như thế kể từ lúc cậu mở tờ Cảnh sát nhật báo. Có thứ gì đó đang thiêu đốt tâm can cậu. Cậu nhìn xuống tờ báo, vo tròn nó, siết chặt hai chữ án mạng trong nắm tay của mình. Mời các bạn đón đọc Thời Niên Thiếu Của Sherlock Holmes Tập 1: Mắt Quạ Tinh Tường của tác giả Shane Peacock.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nụ Hôn Lạnh Lẽo
Nhà Băng
“NHÀ BĂNG” , nguyên tác tiếng Anh “The money changers”, người dịch Vũ Đình Phòng, Nhà Xuất bản Hà Nội, xuất bản năm 1996. Nếu anh giàu tức là anh nghèo Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng Dưới những thỏi vàng đè nặng Anh phải vác tiền bạc của cải Nhưng chỉ trên một quãng đường Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó. *** Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thứ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tức loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài. Hôm sau, thứ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sự kiện này mở đầu cho một loạt sự kiện nối tiếp nhau như phản ứng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.   Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chức thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chức cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cựu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau: "Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."   Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tựu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đứng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi. Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:   - Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó: Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vực các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chức cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly. Đây là thứ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng. ... *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Nhà Băng của tác giả Arthur Hailey.
Hồ Sơ Cuối
Bạn đã từng nghe đến một tổ chức tâm linh nhưng do nhà nước quản lý? Đã bao giờ nghe đến những vụ án bí ẩn chưa từng được công khai? Những vụ án đầy ly kỳ, những tên tọi phạm cực kỳ hung tàn và những góc khuất thối nát trong xã hồi sẽ được phơi bày qua cuốn tiểu thuyết này... Hãy thử trải nghiệm nỗi kinh hoàng tột cùng bị chôn giấu... *** 1000 năm trước, cái thời mà nhân giới vẫn còn cuồng tín thần linh, vẫn còn run sợ quỷ thần... Có một vị thần vì đi ngược tôn nghiêm của thiên giới nên bị trục xuất khỏi thiên cung, căm hận trước những gì mình phải trải qua, trước những bất công mình bị đày đọa nên vị thần này đã mở mang một thế giới mới... Thế giới của những á thần bị quên lãng và ruồng bỏ... Thế lực của y càng lớn thì sự hận thù trong y càng lúc càng tăng lên... Quyết tâm phải đánh sập thiên cung để trả thù nỗi nhục bị trục xuất năm xưa nên y đã liên minh với đại quỷ thần vương nước la sát đem quân thảm sát nhân giới làm bàn đạp đánh đế thích thiên... Nhưng cuối cùng chính y lại phản bội vua pandaka của la sát giới vào phút chót để đổi lấy một danh thần... Y chính là asura ( atula vương) Vị thần chiến tranh của thiên giới năm xưa... Bắt đầu kỷ nguyên của một huyền thoại bất diệt.... Các bạn có tin câu chuyện bên trên không?   Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Cuối của tác giả Nguyễn Điệp.
Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele
Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mĩ Latinh, không có bản án của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschiwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những gì còn hơn một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mĩ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Ngòi bút tỉ mỉ của Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. “Một thành công lớn trong việc mô tả một con quỷ lăn lộn trong cái tầm thường xoàng xĩnh sau cái thời là Thiên thần chết ở Auschwitz.”       - Jean-Christophe Buisson *** Trốn chạy có phải là cách để cái ác không phải đền tội. Thế nhưng, trốn chạy cả đời vẫn khó có thể thoát khỏi bán án của lương tâm mình… Cuốn sách kể lại câu chuyện về hành trình bỏ trốn tới Nam Mỹ của Josef Mengele – một bác sĩ thời Đức quốc xã. Bằng ngòi bút sắc bén của một nhà báo kết hợp cùng sự điêu luyện của một nhà văn, Olivier Guez đã lột tả hết sức chân thực cuộc đời của một kẻ trốn chạy cả đời cũng không thoát khỏi bản án của lương tâm mình. Để đến cuối cùng, cuốn tiểu thuyết để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc mãnh liệt hơn bao giờ hết về tội ác của Đức quốc xã cùng những nỗi đau âm ỉ dai dẳng khôn nguôi. Cái ác liệu có khi nào không phải đền tội? Mặc dù đã chạy trốn sang Mỹ Latinh, không phải chịu sự trừng phạt của cộng đồng quốc tế, nhưng bác sĩ của trại Auschwitz, Josef Mengele, vẫn phải chịu đựng những thứ còn hơn cả một bản án: một cuộc đời trốn chui trốn lủi, cô đơn, tuyệt vọng trong cái nóng như thiêu đốt của miền nhiệt đới Nam Mỹ, trong nỗi lo sợ đến cùng cực. Những thứ còn tệ hơn cả cái chết. Để hoàn thành tác phẩm Cuộc trốn chạy của Josef Mengele, Guez đã phải tìm tài liệu về bác sĩ quốc xã trong suốt ba năm. Trong suốt quá trình thai nghén cho cuốn sách, ông cũng tự mình đi tới Günzburg, Argentina và Brazil (đặc biệt là trang trại Santa Luzia ở ngoại ô Serra Negra), nghiên cứu rất nhiều tư liệu, gián tiếp tiếp cận các cuốn nhật ký của viên bác sĩ bỏ trốn để hiểu rõ cách nhìn thế giới của quốc xã. Về quá trình này, ông từng chia sẻ với tờ Le Monde: “Tôi đã sống cùng ông ta, với cái nhân vật đê tiện, tầm thường tột bực đó. Tôi đã bước lên sàn đấu. Tôi đối diện với ông ta. Sáu tháng đầu tiên, có lúc tôi đã kêu tên ông ta trong đêm.” Với ngòi bút tỉ mỉ của mình, Guez đã miêu tả cả một khung cảnh thiên nhiên hoang dã ở phía Tây bán cầu và hành trình khổ nhục của Josef Mengele từ sau khi rời khỏi châu Âu đến ngày từ giã cõi đời. Giọng văn của ông khéo léo đến độ, nếu không biết đó là Mengele, hẳn khi đọc tác phẩm này, chúng ta đã không khỏi xót thương cho số phận buồn bã cô đơn của một kiếp người ở xứ sở cách chúng ta nửa vòng trái đất. Auschwitz là một trong những trại tập trung do Đức Quốc xã xây dựng ở Ba Lan để hành hạ và sát hại dã man người Do Thái trong Thế chiến 2. Rất ít người Do thái đến các trại tập trung này có cơ hội được trở về *** Olivier Guez là nhà báo, nhà văn người Pháp. Ông lớn lên ở Strasbourg, một thành phố gần Đức. Ngay từ khi còn nhỏ, bà ngoại ông đã cho ông đọc rất nhiều. Sau khi học tại Sciences-Po Strasbourg, London School of Economics và Collège e’Europe de Bruges, ông làm nhà báo tự do cho nhiều tờ báo quốc tế như New York Times, Le Monde, Frankfurter Allgemeine Zeitung, Le Figaro Magazine, L’Express, etc. Ông viết chung tác phẩm đầu tay La Grande Alliance với Frédéric Encel. ***   Lão gia “Hạnh phúc chỉ nằm ở những gì khuấy động, và chỉ có tội ác mới khuấy động được; đức hạnh... không bao giờ có thể dẫn tới hạnh phúc.” SADE Con tàu North King rẽ nước trên dòng sông đầy bùn. Trên boong tàu, hành khách chăm chú ngắm nhìn đường chân trời từ khi bình minh lên, và giờ đây, khi những cây cần cẩu ở công trường đóng tàu và vạch kẻ đỏ của khu nhà kho cảng hiện ra trong màn sương, đám khách người Đức cùng hát một khúc quân hành, người Italia làm dấu thánh giá, còn người Do Thái thì cầu nguyện dù trời đang có mưa bụi, các cặp đôi hôn nhau, con tàu cập bến Buenos Aires sau ba tuần lênh đênh trên biển. Một mình dựa vào thành tàu, Helmut Gregor suy tư. Hắn từng hy vọng rằng một chiếc tàu tuần tra của cảnh sát mật sẽ tới đưa hắn đi và giúp hắn tránh khỏi những phiền nhiễu của hải quan. Khi lên tàu ở Gênes, Gregor đã xin Kurt đặc ân này, hắn tự giới thiệu là một nhà khoa học, một chuyên gia tầm cỡ về di truyền học và đề xuất với Kurt hắn sẽ trả tiền (Gregor có rất nhiều tiền), nhưng kẻ tổ chức vượt biên cười và né tránh: quyền ngoại lệ này chỉ dành cho những nhân vật tai to mặt lớn, những quan chức của chế độ cũ, chứ không mấy khi dành cho một đại úy của SS*. Dù sao thì Kurt cũng sẽ đánh điện tới Buenos Aires, Gregor có thể trông cậy vào ông ta. Kurt đã bỏ túi một số bền, nhưng chiếc tàu tuần tra thì không hề xuất hiện. Gregor phải kiên nhẫn chờ đợi trong sảnh đường rộng mênh mông của hải quan Argentina cùng với những người di cư khác. Hắn giữ chặt hai chiếc va li, một to một nhỏ, và khinh khỉnh nhìn đám dân châu Âu lưu vong đứng quanh đó, những hàng dài người vô danh lịch lãm hay nhếch nhác mà hắn luôn tránh xa trong suốt hành trình. Gregor thà ngắm nhìn đại dương và các vì sao hoặc đọc thơ Đức trong cabin của mình còn hơn; hắn đã nhìn lại bốn năm vừa qua trong đời mình, từ khi hắn chạy khỏi Ba Lan một cách thảm hại vào tháng Một 1945 và trà trộn vào lực lượng Vệ quốc Đức Quốc xã để thoát khỏi nanh vuốt của Hồng quân: hắn bị giam vài tuần trong một trại tù của Mỹ, sau đó được thả vì hắn có giấy tờ giả mang tên Fritz Ullmann, rồi hắn ẩn náu trong một nông trang đầy hoa ở Bavière, cách thành phố Gunzburg quê hương hắn không xa, ở đây hắn làm công việc cắt cỏ cho gia súc và phân loại khoai tây trong ba năm với cái tên Fritz Hollmann, rồi sau đó hắn chạy trốn tới Pâques cách đây hai tháng, vượt qua dãy núi Dolomites bằng đường mòn trong rừng của những kẻ buôn lậu, rồi đến vùng Nam Tyrol ở Italia, ở đây hắn đổi tên thành Helmut Gregor, cuối cùng hắn tới Genova, nơi tên buôn lậu Kurt đã giúp hắn làm các thủ tục với chính quyền Italia và cơ quan nhập cảnh Argentina. Tại hải quan, kẻ đào tẩu xuất trình giấy thông hành của Hội Chữ thập đỏ quốc tế, giấy phép lên bờ và visa nhập cảnh: Helmut Gregor, cao 1,74 mét, mắt nâu xanh lá cây, sinh ngày 6 tháng Tám 1911 tại Termeno, tiếng Đức là Tramin, tỉnh Nam Tyrol, công dân Đức quốc tịch Italia, theo Thiên Chúa giáo, nghề nghiệp kỹ sư cơ khí. Địa chỉ tại Buenos Aires: 2460 phố Arenales, khu phố Florida, nhà của Gerard Malbranc. Nhân viên hải quan kiểm tra hành lý của hắn, quần áo gấp cẩn thận, tấm ảnh chân dung một phụ nữ tóc vàng mảnh dẻ, vài cuốn sách và một số đĩa hát opera, rồi anh ta cau mày khi thấy các món đồ trong chiếc va li nhỏ: ống tiêm hạ bì, vài cuốn sổ ghi chép và bản đồ giải phẫu, các tiêu bản máu, tiêu bản tế bào: không liên quan gì tới một kỹ sư cơ khí. Anh ta bèn gọi nhân viên y tế của cảng tới. Gregor run rẩy. Hắn đã mạo hiểm một cách điên rồ để giữ chiếc va li nhỏ gây liên lụy, kết quả quý giá của biết bao năm trời nghiên cứu, của cả đời hắn, mà hắn đã mang lên tàu khi vội vã rời khỏi nơi làm việc ở Ba Lan. Nếu bị quân Xô viết bắt được khi đang giữ cái va li đó, hắn sẽ bị xử tử ngay lập tức mà chẳng cần xét xử gì. Trên đường trở lại Tây Âu mùa xuân 1945, khi quân đội Đức Quốc xã rút chạy tán loạn, hắn đã gửi va li cho một nữ y tá có lòng trắc ẩn, rồi sau đó tìm lại cô ở Đông Đức, trong vùng Liên Xô kiểm soát, một chuyến đi điên rồ sau khi hắn được thả khỏi trại giam Mỹ và ba tuần đi đường. Sau đó, hắn đưa va li cho Hans Sedlmeier, một người bạn từ thuở nhỏ và là người được cha hắn, một nhà công nghiệp, hết mực tin cậy, Sedlmeier mà hắn thường xuyên gặp gỡ trong khu rừng xung quanh nông trang nơi hắn ẩn náu suốt ba năm. Gregor không thể rời khỏi châu Âu mà không đem theo chiếc va li này: Sedlmeier đã trả lại va li cho hắn trước khi hắn đi Italia cùng với một chiếc phong bì dày đầy tiền mặt, và giờ đây một gã ngớ ngẩn móng tay bẩn thỉu đang bới tung mọi thứ, Gregor thầm nghĩ, còn nhân viên y tế của cảng thì xem xét các tiêu bản và những ghi chép viết bằng kiểu chữ gothic sin sít. Vì không hiểu gì cả, nên nhân viên hải quan hỏi hắn bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức, tay kỹ sư cơ khí giải thích với ông ta về thiên hướng trở thành nhà sinh vật nghiệp dư của mình. Hai người đàn ông khinh bỉ nhìn nhau, còn nhân viên y tế đang muốn đi ăn trưa nên ra hiệu cho nhân viên hải quan cho hắn qua. Ngày 22 tháng Sáu 1949 ấy, Helmut Gregor đặt chân tới nơi ẩn náu mới: Argentina. Mời bạn đón đọc Cuộc Trốn Chạy Của Josef Mengele của tác giả Olivier Guez & Hoàng Mai Anh (dịch).