Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm

Tại sao lại có quá nhiều khoảng cách giữa những điều mà các công ty biết là họ nên làm với những việc họ thực sự làm? Tại sao lại có quá nhiều các công ty không thể áp dụng những kinh nghiệm và kiến thức mà họ đã phải rất nỗ lực mới tích lũy được? Khoảng cách từ nói đến làm (The Knowing-Doing Gap) là cuốn sách đầu tiên đối mặt với thách thức biến kiến thức về cách nâng cao hiệu suất hoạt động thành hành động thực sự tạo ra những kết quả có thể định lượng được. Trong cuốn sách này, Jeffrey Pfeffer và Robert Sutton, những tác giả và giảng viên nổi tiếng, đã xác định nguyên nhân của khoảng cách từ-biết-tới-làm và đưa ra cách lấp đầy khoảng cách đó. Thông điệp trong cuốn sách rất rõ ràng - các công ty muốn biến kiến thức thành hành động phải tránh xa "bẫy nói suông"(smart talk trap). Những kế hoạch, phân tích, cuộc họp, buổi trình bày của nhà điều hành để truyền cảm hứng cho công việc không thể thay thế cho hành động. Những công ty mà hành động dựa trên kiến thức sẽ loại bỏ được nỗi sợ hãi, sự cạnh tranh nội bộ, biết được cái gì quan trọng và củng cố vai trò người lãnh đạo, người vốn hiểu rõ công việc của từng nhân viên trong công ty. Các tác giả lấy ví dụ từ hàng tá công ty để chỉ ra tại sao một số có thể vượt qua khoảng cách từ-biết-đến-làm, một số dù cố nhưng không thể và một số khác tránh được ngay từ đầu. Khoảng cách từ nói đến làm chắc chắn là cuốn sách hữu ích đối với những giám đốc điều hành ở mọi nơi trên thế giới hàng ngày đang phải đấu tranh để giúp công ty của họ vừa biết lại vừa làm được những gì họ biết. Đây là một cẩm nang thực tế, hữu ích trong vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động trong doanh nghiệp ngày nay. TÁC GIẢ : Jeffrey Pfeffer là một nhà lý luận kinh doanh người Mỹ. Ông là giáo sư chuyên về Hành vi tổ chức tại Trường Cao học Kinh doanh thuộc Đại học Stanford, và được coi là một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất hiện nay. Robert I. Sutton là giáo sư Khoa học và Kỹ thuật Quản lý tại Đại học Stanford. Sutton đã viết 5 quyển sách trong đó có "The No A** hole Rule: Building a Civilized Workplace and Surviving One That Isn't" nằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times và đã giành giải Quill Award dành cho sách kinh doanh hay nhất năm 2007. *** Biết phải làm gì thôi chưa đủ Tại sao chúng ta đổ bao công sức vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, nghiên cứu kinh doanh, rồi sách vở, bài viết, nhưng lại có quá ít thay đổi trong hành động thực tế của các nhà quản lý và tổ chức? Năm 1996 có hơn 1.700 cuốn sách kinh doanh được xuất bản ở Hoa Kỳ, và con số này ngày càng tăng. Rất nhiều trong số đó chứa đầy những phân tích và công thức giống nhau, chỉ khác về ngôn ngữ và hình ảnh, và đặc biệt, chẳng có gì khác những cuốn sách được xuất bản trước đó. Trên thực tế, vô số ý tưởng tự xưng là mới ra năm nay đều đã xuất hiện trong những cuốn sách được in từ hàng thập kỷ trước. Dù thế, các cuốn sách mới này vẫn được thị trường đón nhận vì những ý tưởng đó vẫn chưa được thực hiện dù được coi là hữu dụng và được nhiều người biết đến. Vì vậy, các tác giả vẫn tiếp tục cố gắng, một phần bằng cách thay đổi mẫu mã kiểu dáng và cập nhật thông tin, để làm thế nào đó khiến các nhà quản lý không chỉ biết, mà còn áp dụng những gì họ nắm được. Và các nhà quản lý tiếp tục mua những cuốn sách đầy rẫy những điều họ đã biết bởi họ hiểu rằng chỉ biết thôi chưa đủ. Họ hy vọng rằng việc mua và đọc thêm một cuốn sách, biết đâu đấy, sẽ chuyển hóa kiến thức đó thành hành động tổ chức. Mỗi năm, các tổ chức đổ hơn 60 tỷ đô-la vào đào tạo, đặc biệt là đào tạo quản lý. Phần nhiều trong các hoạt động đào tạo đó, với những chủ đề như Quản lý Chất lượng Toàn diện (Total Quality Management − TQM), dịch vụ khách hàng, xây dựng lòng trung thành của khách hàng, khả năng lãnh đạo và thay đổi cơ cấu, đều dựa trên những kiến thức và nguyên tắc về cơ bản là vĩnh cửu: không thay đổi và không được thay đổi. Dù vậy, quá trình đào tạo thường lặp đi lặp lại. Nhưng dù chất lượng nội dung, cách truyền đạt, hay tần suất lặp lại đến đâu đi nữa, đào tạo quản lý vẫn không thể thay đổi các thực tiễn tổ chức. Giáo sư Mark Zbaracki của Đại học Chicago đã nghiên cứu quá trình đào tạo Quản lý Chất lượng Toàn diện tại 5 tổ chức có đội ngũ cán bộ cấp cao tin rằng phương pháp TQM có thể nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ của họ, cũng như là quá trình đào tạo đó đã thay đổi cách con người làm việc. Thế nhưng Zbaracki thấy rằng các phương pháp định lượng TQM không hề được sử dụng trong 4 tổ chức và chỉ được dùng một cách hạn chế ở tổ chức thứ 5. Kết quả này không phải chỉ xảy ra ở TQM, mà chúng tôi đã thấy chuyện tương tự xảy ra liên tục trong quá trình nghiên cứu. Mỗi năm, các tổ chức đang cần lời khuyên tiêu tốn hàng tỷ đô-la vào các dịch vụ tư vấn quản lý – ước tính là 43 tỷ đô-la vào năm 1996. Nhưng lời khuyên hiếm khi được áp dụng. Một nhà cố vấn, khi thuyết trình thuyết phục một ngân hàng lớn của Mỹ giao việc cho mình, đã bật một slide chứa các khuyến nghị từ 4 nghiên cứu được thực hiện 6 năm trước cho ngân hàng này. Cả 4 bộ nghiên cứu đều đi đến cùng một kết luận, điều này không có gì ngạc nhiên vì đều do những con người rất thông minh tuy từ bốn hãng khác nhau nhưng được cung cấp các thông tin về cơ bản là giống nhau thực hiện. Người thuyết trình, người đang bán việc áp dụng và thay đổi hơn là bán dịch vụ phân tích, đã hỏi những nhà điều hành ngồi đó, “Tại sao các vị lại muốn trả tiền để nhận vẫn câu trả lời đó lần thứ năm?” Hãng của ông đã nhận được hợp đồng. Một ví dụ nữa về việc biết-nhưng-không-làm trong thế giới cố vấn quản lý: hai nhà cố vấn của một hãng hàng đầu làm việc cho một công ty điện lớn ở Mỹ Latinh đang đối mặt với quá trình bãi bỏ các quy định. Họ đều rất chán nản khi biết rằng ban quản lý đã có một tài liệu dày 500 trang, từ 4 năm trước, với các kế hoạch và khuyến nghị chi tiết, do một hãng cố vấn khác làm trong hợp đồng trước. Họ báo cáo lại: Tài liệu đã có rất tốt. Nó cung cấp các nghiên cứu đánh giá chi phí tiêu chuẩn từ các công ty dân dụng hiệu quả nhất trên thế giới, các tóm tắt về các hệ thống đào tạo thành công nhất ở các công ty công nghiệp khác, và các lịch trình thực hiện khá chi tiết... Do phân tích của chúng ta cũng dựa trên chính... các thông tin được đưa cho các nhà cố vấn từ bốn năm trước... các khuyến nghị của chúng ta về cơ bản là y hệt. Vấn đề không phải là phân tích, mà là thực hiện. Mặc dù chúng ta có thể xác định được các vùng mới cần cải thiện, nhưng cốt lõi gần như giống hệt tài liệu cũ... Khách hàng đã có từ trước các thông tin chúng ta đang đưa cho họ. Mỗi năm, hàng trăm trường kinh doanh ở Hoa Kỳ đào tạo ra hơn 80.000 thạc sĩ quản trị kinh doanh và thực hiện rất nhiều nghiên cứu về các chủ đề kinh doanh. Nghiên cứu và giáo dục kinh doanh đang tăng lên cả về phạm vi và tầm quan trọng trên khắp thế giới. Dù thế, việc chuyển hóa quá trình nghiên cứu và đào tạo quản lý này thành thực tiễn hoạt động diễn ra rất chậm chạp và thất thường. Có rất ít bằng chứng cho thấy mối liên kết giữa việc nhân sự được đào tạo chuyên sâu về kinh doanh với việc tổ chức hoạt động hiệu quả. Rất nhiều hãng hoạt động tối ưu – như Southwest Airlines, Wal-Mart, The Men’s Wearhouse, ServiceMaster, PSS/World Medical, SAS Institute, AES, Whole Foods Market, và Starbucks – không tuyển người từ những trường kinh doanh hàng đầu và không đặt nặng về vấn đề bằng cấp trong hoạt động nhân sự của họ. Nhiều nhà nghiên cứu đã thấy rằng “những điều được dạy trong trường đại học hay trường kinh doanh không thực sự chuẩn bị cho các nhà quản lý tương lai những kiến thức thực tế về quản lý.” Một báo cáo cho thấy 73% các thạc sĩ vừa tốt nghiệp chương trình MBA khi được hỏi đã nói là “các kỹ năng MBA của họ được dùng rất ít hoặc không dùng gì trong công việc quản lý đầu tiên của họ.” Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao bao nhiêu nỗ lực đổ vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, các nghiên cứu tổ chức và rất nhiều bài viết, sách báo, nhưng lại có quá ít thay đổi trong thực tiễn quản lý như vậy? Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao chút ít thay đổi trong quản lý thực sự xảy ra đó lại gặp quá nhiều khó khăn thế không? Tại sao mà cuối các khóa đào tạo hoặc các cuốn sách, nhiều nhà lãnh đạo nói là đã “sáng ra” và “khôn lên” nhưng vẫn không thay đổi được gì trong tổ chức của họ? Chúng tôi cũng đã tự hỏi điều đó và đã lên đường thực hiện nhiệm vụ thám hiểm một trong những bí ẩn lớn nhất về quản lý tổ chức: Tại sao kiến thức về những việc cần làm thường xuyên không thể dẫn tới hành động hoặc hành vi nhất quán với kiến thức đó? Chúng tôi gọi đây là vấn đề từ-biết-đến-làm (knowing-doing problem): Thách thức đến từ việc biến kiến thức nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức thành hành động nhất quán với kiến thức đó. Cuốn sách này đại diện cho những gì chúng tôi học được về các nhân tố tạo nên khoảng cách từ-biết-đến-làm, lý do và cách thức một số tổ chức có thể áp dụng kiến thức của họ thành công hơn số còn lại. Chúng tôi đã mất 4 năm để học hỏi về những điều tạo ra khoảng cách từ-biết-đến-làm và cách thu hẹp khoảng cách đó, cũng như một số cách giúp các tổ chức né tránh được khoảng cách đó ngay từ đầu. Bắt đầu bằng việc lùng sục các văn bản học thuật cũng như đại chúng để tìm kiếm các câu chuyện, các tình huống cụ thể, các nghiên cứu diện rộng của nhiều hãng có thể cung cấp cách nhìn thấu đáo về vấn đề từ-biết-đến-làm. Đã có các bằng chứng cho thấy mọi ngành công nghiệp đều có các tổ chức gặp phải “căn bệnh” này. Nhưng hiếm có câu trả lời thỏa đáng nào về nguyên nhân hay cách chữa nó. Vì thế chúng tôi thực hiện hàng tá các nghiên cứu định tính và định lượng về các vấn đề từ-biết-đến-làm trong các tổ chức, từ các hãng dịch vụ tài chính, thiết kế sản phẩm, tới các tập đoàn sản xuất truyền thống chuyên “cắt gọt kim loại”, các công ty khai thác mỏ, công ty sản xuất điện, và các chuỗi nhà hàng và bán lẻ. Chúng tôi cũng đã dạy ở Đại học Stanford, trong cả trường kinh doanh và kĩ thuật, nơi các sinh viên quản trị của chúng tôi thực hiện khoảng 100 bài tập tình huống của riêng họ về các vấn đề từ-biết-đến-làm và các vấn đề này có thể đã và sẽ được giải quyết thế nào. Chúng tôi đã kiểm tra diện rộng một loạt các phương cách tổ chức để tìm hiểu về khoảng cách từ-biết-đến-làm. Tuy nhiên, chúng tôi tập trung hơn vào một bộ những phương thức, dù hiếm được thực hiện, nhưng hầu hết các nhà quản lý đều biết đến, được tuyên truyền rộng rãi trong các tổ chức, và đã cho thấy có khả năng tăng cường hiệu suất tổ chức một cách nhất quán: chúng được gọi là phương thức quản lý hiệu suất cao hay cam kết cao độ. Các phương thức này đã được mô tả và ảnh hưởng tích cực của chúng đến hiệu suất hoạt động đã được phân tích trong rất nhiều bài viết và sách vở. Chúng ta sẽ dùng đến bằng chứng này nếu cần để hỗ trợ luận cứ về khoảng cách từ-biết-đến-làm, nhưng sẽ không đưa ra các mô tả chi tiết về từng phương thức hoặc một đánh giá chuyên sâu về bằng chứng cho thấy hiệu quả tích cực của nó đối với hiệu suất hoạt động. Mối quan tâm của chúng ta nằm ở việc nắm rõ được những rào cản của quá trình chuyển hóa kiến thức thành hành động và cách thức một số hãng đã vượt qua các rào cản đó. Các vấn đề từ-biết-đến-làm mà chúng ta đã quan sát được có tính chất phổ thông và hiện hữu trong nhiều chủ đề, từ ứng dụng các kiến thức tiếp thị và các phương thức tốt nhất trong dịch vụ khách hàng tới việc bảo lưu và thực hiện các phương thức sản xuất ưu việt. Chúng tôi đã không tìm thấy được những câu trả lời đơn giản cho thế lưỡng nan từ-biết-đến-làm này. Dựa trên tầm quan trọng của vấn đề từ-biết-đến-làm, nếu những câu trả lời đơn giản có tồn tại, thì hẳn là chúng đã được thực thi rộng rãi. Và những hãng hiếm hoi có thể chuyển hóa kiến thức thành hành động một cách nhất quán cũng không thể tận dụng được lợi thế cạnh tranh đáng kể đó như hiện nay. Chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn những nhận thức và chẩn đoán về một số nguồn sinh ra các vấn đề từ-biết-đến-làm, và những ví dụ về các công ty phải chịu hậu quả nặng nề từ vấn đề này, những công ty chưa từng gặp cũng như một số công ty đã có thể khắc phục lỗ hổng từ-biết-đến-làm. Nhưng một trong những nhận thức quan trọng nhất từ nghiên cứu của chúng tôi đó là kiến thức thực sự được vận dụng nhiều khi được rút ra sau khi thực hành thay vì đọc, lắng nghe hay suy ngẫm. Những điều chúng tôi có thể làm được cho bạn trong cuốn sách này rất giới hạn, dù cho chúng tôi đã thu được nhiều nhận thức sâu sắc. Chúng tôi khuyên các bạn nên thực hiện những hành động có suy xét thận trọng thường xuyên hơn. Hãy hạn chế thời gian dự tính và phàn nàn về các vấn đề của tổ chức. Hành động sẽ giúp bạn rút ra nhiều kinh nghiệm hơn. Khi mô tả lỗ hổng từ-biết-đến-làm cho những người khác, chúng tôi thường nhận được chung một lời đáp. Họ sẽ nói rằng lỗ hổng đó bắt nguồn từ những vấn đề cố hữu của cá nhân, do thiếu kiến thức, kỹ năng hoặc có vấn đề về “tính cách”, và sự tồn tại của nó phản ánh sự không hoàn hảo của một cá nhân. Thật sai lầm! Nếu bạn làm việc ở một nơi mà bạn hoặc các đồng nghiệp của mình không biến kiến thức thành hành động, đó có thể không phải hoàn toàn là lỗi của bạn. Rõ ràng, một số người có thể biến kiến thức thành hành động nhanh hơn, số khác có tư duy nhanh nhạy hơn và có khả năng thích nghi tốt hơn người khác, và rằng tâm lý cá nhân đóng một vai trò nào đó trong vấn đề khoảng cách từ-biết-đến-làm mà chúng tôi đang phân tích. Nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng chúng không đóng vai trò chính yếu trong câu chuyện. Có những tổ chức có thể chuyển kiến thức thành hành động một cách nhất quán và vẫn làm được vậy dù họ có mở rộng quy mô, tuyển dụng thêm nhân sự hay thâu tóm thêm các công ty khác hay không. Các tổ chức khác, dù sở hữu những nhân viên thông minh, chăm chỉ, nhanh nhạy nhưng lại không thể chuyển hóa kiến thức về hoạt động tổ chức thành hành động thực tiễn. Cứ như là đã tồn tại một “máy hút não” trong những tổ chức đó chuyên hút kiệt trí tuệ và tầm nhìn của các thành viên. Sự khác biệt giữa các tổ chức phần nhiều xuất phát từ hệ thống quản lý và các phương châm hoạt động của họ thay vì sự khác biệt về chất lượng con người. Các công ty lớn thu được hiệu quả đáng kinh ngạc nhờ những người bình thường. Những công ty không-quá-lớn thu hút các nhân tài và đánh mất lợi thế đến từ tài năng, nhận thức và động lực của họ. Đó là lý do chúng tôi tập trung vào các phương thức quản lý có thể tạo ra hoặc giảm thiểu khoảng cách từ-biết-đến-làm. Thực hiện hay lờ đi: Khoảng cách từ-biết-đến-làm có thực sự tồn tại? Làm sao chúng ta biết kiến thức không phải lúc nào cũng được áp dụng vào thực tiễn và đây là vấn đề ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của tổ chức? Và quan trọng hơn, làm thế nào các tổ chức nắm được mức độ mà tại đó họ đã không làm những điều nên làm? Đây là những vấn đề quan trọng nhưng không quá phức tạp. Bằng chứng về khoảng cách từ-biết-đến-làm Có rất nhiều các nghiên cứu bên trong những ngành công nghiệp riêng lẻ cho thấy các đường hướng ưu việt giúp quản lý con người và tổ chức công việc của họ. Dù những đường hướng được cho là ưu việt đó được biết đến tương đối rộng rãi, nhưng việc lan tỏa chúng diễn ra chậm chạp và không trơn tru, còn chuyện thụt lùi là phổ biến. Một nghiên cứu về ngành dệt may đã cho thấy rằng quy trình sản xuất mô-đun (modular production) tập trung vào sản xuất theo nhóm đạt được hiệu quả sản xuất kinh tế cao hơn xét theo nhiều tiêu chí so với hình thức sản xuất trọn gói (bundle) truyền thống sử dụng nhân công làm từng sản phẩm và đào tạo giới hạn. Các ấn bản thương mại, hiệp hội ngành và các công đoàn có liên quan đã lên tiếng ủng hộ quy trình sản xuất mô-đun từ đầu thập niên 1980. Ấy vậy mà đến năm 1992, khoảng 80% các sản phẩm dệt may vẫn được làm theo hình thức trọn gói, và các nhà máy đã từng áp dụng quy trình sản xuất mô-đun cũng quay về với hệ thống trọn gói. Mời bạn đón đọc Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm của tác giả Jeffrey Pfeffer & Robert I. Sutton.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Làm Cha Mẹ Cũng Cần Phải Học: 7 Bài Học Dành Cho Cha Mẹ - Trương Hoành Vũ & Liệu Khang Cường
Để có một phương pháp giáo dục trẻ đúng đắn nhất, thì ngay từ khi bắt đầu làm cha mẹ, bạn đã phải xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện để trở thành bậc cha mẹ có tinh thần trách nhiệm, xem việc làm cha mẹ là một công việc thực thụ để chăm chỉ rèn luyện bản thân hơn. Muốn trở thành cha mẹ tốt thì cần có các phương pháp và kiến thức dạy dỗ khoa học, không nên chỉ dựa vào những tình cảm đơn thuần và kinh nghiệm truyền thống. Cuốn sách Làm Cha Mẹ Cũng Cần Phải Học - 7 Bài Học Dành Cho Cha Mẹ là ấn phẩm đặc biệt dành cho các bậc phụ huynh. Thông qua cuốn sách, cha mẹ sẽ nắm bắt được những kiến thức đúng đắn trong quá trình dạy dỗ con cái. 7 bài học là 7 phương pháp đề cập trực tiếp đến quá trình giáo dục trẻ trong gia đình, đó cũng là phương pháp chuẩn mực để giáo dục cha mẹ trở thành những phụ huynh hoàn hảo, giúp cha mẹ thay đổi những quan điểm dạy dỗ truyền thống lạc hậu, bắt kịp với các phương pháp giáo dục mới mẻ và khoa học, tránh tình trạng cha mẹ quá yêu thương chiều chuộng trẻ mà gây hại cho chúng. Chỉ cần có ý thức học cách làm cha mẹ thì tất cả các ông bố bà mẹ đều có thể trở thành những bậc cha mẹ thông thái. Hãy để cuốn sách này đồng hành và nhẹ nhàng khai phá "tiềm năng" LÀM CHA MẸ của bạn! *** Là các bậc cha mẹ, chỉ mang lại nhiều của cải cho trẻ là chưa đủ mà bản thân phải tự nâng cao năng lực và trách nhiệm để có cách giáo dục trẻ đúng đắn. Một nhà giáo dục đã từng hỏi tổng thống một câu hỏi như thế này: “Ngài cảm thấy làm lãnh đạo và làm cha mẹ, vai trò nào khó hơn?” Tổng thống rất ngạc nhiên: “Tại sao anh lại hỏi câu này? Đương nhiên là làm cha mẹ khó hơn rồi.” Đến lượt nhà giáo dục cảm thấy rất kì lạ: “Có phải vì làm lãnh đạo trước tiên là được bồi dưỡng sau đó mới được đề bạt, trong khi làm cha mẹ không được bồi dưỡng cũng không có đề bạt gì?” Chúng ta thấy rằng, có rất nhiều ông bố bà mẹ hao tâm tổn sức để làm tất cả mọi việc cho trẻ. Họ không tiếc tiền bạc, cũng chẳng tiếc thời gian cho trẻ nhưng họ chưa bao giờ nghĩ tới một vấn đề: Để trở thành cha mẹ, họ cũng cần phải học. Có phụ huynh cho rằng, cuộc sống bây giờ cạnh tranh vô cùng ác liệt, áp lực công việc lại lớn, làm gì có thời gian để làm những việc như vậy. Việc của họ là mang lại cho con một cuộc sống vật chất đầy đủ, còn giáo dục, dạy dỗ trẻ là việc của nhà trường. Những suy nghĩ này của cha mẹ trái ngược với kì vọng lớn lao mà họ đã dành cho trẻ. Cha mẹ cần biết một điều, về phương diện tâm lí và hành động thì trẻ con thời nay khác rất nhiều so với thời kì mà cha mẹ đã sống, vì vậy cha mẹ cần không ngừng nghiên cứu đặc điểm tâm lí của trẻ, học cách giao lưu với trẻ, như vậy mới có thể hòa hợp với trẻ được. Rất nhiều cha mẹ có trình độ văn hóa cao, có quan niệm sống hiện đại, nhưng do không hiểu trách nhiệm của bản thân, không hiểu tính cách của con cái, cũng không hiểu được các quy luật và phương thức cần có của việc dạy dỗ trong gia đình, nên khi nuôi dạy trẻ đã không nắm được những phương pháp phù hợp, dẫn đến xảy ra những sai lầm không đáng có. Cha mẹ vì con cái mà sẵn sàng hi sinh cho con tất cả. Theo suy luận thông thường, người mà con cái tôn trọng nhất sẽ là cha mẹ chúng. Nhưng theo một kết quả điều tra ở thành phố Thượng Hải - Trung Quốc thì trong suy nghĩ của trẻ, người cha bị xếp ở hàng thứ mười, còn hàng thứ mười một lại dành cho mẹ, điều này chứng tỏ trong thâm tâm trẻ, cha mẹ không phải là một “hình ảnh sáng chói”. Làm thẩm phán thì phải tinh thông luật pháp, làm nghệ nhân thì phải có sự khéo léo của đôi tay; làm bác sĩ phải tinh thông y thuật, tương tự làm cha mẹ cũng phải có những “tố chất chuyên nghiệp”, bao gồm việc dạy dỗ trẻ đúng đắn, nắm bắt được phương pháp và quy luật của giáo dục gia đình để không ngừng nâng cao năng lực giáo dục của bản thân. Những tố chất đó là điều bắt buộc phải có đối với các bậc cha mẹ, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả của giáo dục trong gia đình mà còn tác động trực tiếp đến sự phát triển của trẻ. Để có một phương pháp giáo dục trẻ đúng đắn nhất, thì ngay từ khi bắt đầu làm cha mẹ, bạn đã phải xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện để trở thành bậc cha mẹ có tinh thần trách nhiệm, xem việc làm cha mẹ là một công việc thực thụ để chăm chỉ rèn luyện bản thân hơn. Muốn trở thành cha mẹ tốt thì cần có các phương pháp và kiến thức dạy dỗ khoa học, không nên chỉ dựa vào những tình cảm đơn thuần và kinh nghiệm truyền thống. Maria Montessori là nhà giáo dục người Ý, thông qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về trẻ em, bà đã rút ra một kết luận: cha mẹ phải tuân theo quy luật phát triển theo từng giai đoạn của trẻ để nâng cao tài năng, phát huy những năng lực như tính độc lập, tự tin, chăm chú và sáng tạo ở trẻ…, tất cả phải được thực hiện trong một môi trường thư giãn và vui vẻ, như vậy mới đặt nền móng tốt cho sự phát triển của trẻ sau này. Để nâng cao trình độ và kĩ năng giáo dục trẻ, cha mẹ nên tuân theo những phương pháp giáo dục đã được trình bày trong cuốn sách "Làm cha mẹ cũng cần phải học - 7 bài học dành cho cha mẹ” dưới đây. Đây là cuốn sách “Dạy cách làm cha mẹ” mà tác giả đặc biệt dành cho các bậc phụ huynh. Thông qua cuốn sách, cha mẹ sẽ nắm bắt được những kiến thức đúng đắn trong quá trình dạy dỗ con cái. 7 bài học là 7 phương pháp đề cập trực tiếp đến quá trình giáo dục trẻ trong gia đình, đó cũng là phương pháp chuẩn mực để giáo dục cha mẹ trở thành những phụ huynh hoàn hảo, giúp cha mẹ thay đổi những quan điểm dạy dỗ truyền thống lạc hậu, bắt kịp với các phương pháp giáo dục mới mẻ và khoa học, tránh tình trạng cha mẹ quá yêu thương chiều chuộng trẻ mà gây hại cho chúng. Chỉ cần có ý thức học cách làm cha mẹ thì tất cả các ông bố bà mẹ đều có thể trở thành những bậc cha mẹ thông thái. Xin được gửi lời chúc phúc tới tất cả những bậc làm cha mẹ trên thế gian này. Mời các bạn đón đọc Làm Cha Mẹ Cũng Cần Phải Học: 7 Bài Học Dành Cho Cha Mẹ của hai tác giả Trương Hoành Vũ & Liệu Khang Cường.
Tự Thú Của Ông Bố Tuyệt Vời Nhất Thế Giới - Dave Engledow
Có thể cái tên Dave Engledow không gợi lên cho bạn một cảm xúc gì nhưng chắc chắn khi nhìn thấy những bức ảnh ngộ nghĩnh của ông chụp cùng cô con gái nhỏ Alice bạn sẽ thấy rất thích thú đấy. Có thể bạn đã nhìn thấy đâu đó những bức ảnh của ông - người tự nhận mình là "Người cha tốt nhất thế giới" nhưng chưa biết tới tên của ông mà thôi. Tháng 5/2014 vừa qua, những bức ảnh của Dave và cô con gái nhỏ đã được nhà xuất bản Penguin Group (Mỹ) biên soạn thành cuốn sách ảnh "Confession of the World’s Best Father”. Trên Facebook đã có hơn 100.000 lượt theo dõi hai cha con và con số người hâm mộ đang không ngừng tăng lên chứng tỏ độ hot của những bức ảnh ngộ nghĩnh. Những bức ảnh của Dave thường vẽ lại hình ảnh của một ông bó có khi luộm thuộm, hay quên và thiếu kỹ năng chăm sóc cô con gái nhỏ Alice Bee, khắc họa hình ảnh ông bố bất cẩn và cô con gái nhỏ luôn bị đặt trong những tình huống hết sức thiếu an toàn, khiến bạn đọc thấy đó là những tình huống tróe ngoe, nguy hiểm…Có cảm giác rằng nó thực sự diễn ra với cả hai cha con nhưng thực tế đó chỉ là những tình huống hài hước giả định mà Dave tạo ra để nói về cuộc sống của một ông bố khi có sự xuất hiện của cô con gái. Ngắm nhìn những bức ảnh đáng yêu đó, người xem sẽ thấy cả hai cha con lúc nào cũng đầy sức sống và vui vẻ. *** Dave Engledow là một công dân Texas đời thứ sáu, Engledow học Đại học Texas ở Austin, tốt nghiệp với tấm bằng Cử nhân Báo chí về Báo Ảnh dưới sự hướng dẫn của nhiếp ảnh gia mảng tài liệu đáng kính Dennis Darling.   Engledow hiện đang sống cùng vợ, Jen và con gái Alice Bee ở một khu ngoại ô thủ đô Washington, và làm việc toàn thời gian ở vị trí phó giám đốc của Working America, một chi nhánh tại địa phương của AFL-CIO (Liên hiệp các Nghiệp đoàn Lao động Mĩ). Tất cả những công việc chụp, xử lý ảnh và viết nội dung cho Lời thú tội của ông bố “đỉnh” nhất trần gian được thực hiện trong hai năm vào các kỳ nghỉ cuối cùng và vào ban đêm sau khi Alice Bee cuối cùng cũng đã chịu đi ngủ. *** Hôm nay chúng tôi đưa con gái Alice Bee kháu khỉnh từ bệnh viện về nhà. Tôi vẫn không thể tin là con bé lại hoàn hảo đến thế – tuyệt đối đáng yêu và bé tí xíu. Con bé gần như chẳng làm gì nhiều nhặn – chủ yếu là dành thời gian ngủ thin thít và ngoan ngoãn, chỉ thỉnh thoảng tỉnh dậy để rúc vào ti mẹ Jen. Cho tới giờ, tôi cảm thấy trách nhiệm làm cha mới mẻ này vẫn như một cơn gió dịu dàng và tôi sẵn sàng sống xứng đáng với biệt danh in trên cốc cà phê mà Jen đưa cho tôi sáng nay: WORLD’S BEST FATHER (ông bố tuyệt vời nhất thế giới). ... Mời các bạn đón đọc Tự Thú Của Ông Bố Tuyệt Vời Nhất Thế Giới của tác giả Dave Engledow.
Hạnh Phúc Ở Trong Ta - Debbie Gisonni
Niềm vui và hạnh phúc không phụ thuộc vào những sự việc đã xảy ra, mà chính ở cách nhìn nhận của bạn. Là một phụ nữ, bạn nghiễm nhiên là một nữ thần, chẳng cần thiết phải có những cuộc hành lễ huyền bí, những trang phục đặc biệt. Và vì là một nữ thần, bạn hoàn toàn có thể tạo hạnh phúc cho mình bằng nội lực của chính bản thân. Hạnh phúc thật sự không thể có được bằng cách theo đuổi những ước mơ toàn mỹ viễn vông hay trông đợi những diễn biến tốt đẹp bên ngoài bản thân. Nữ thần hạnh phúc đang hiện hữu ngay trong tâm hồn mỗi người. Có thể lâu nay bạn chưa nhận ra và chưa tin điều này. Và đây là lúc bạn hãy cùng tác giả phát hiện sức mạnh nội tại của chúng ta. Hãy để quyển sách này làm thức tỉnh con người thật của bạn - một nữ thần hạnh phúc! Điều quan trọng là chúng ta hãy vui vẻ và tận hưởng niềm vui thú trong chuyến hành trình đi tìm nữ thần hạnh phúc. Hãy yêu đời hơn, rạng rỡ hơn và vui cười nhiều hơn! "Mỗi chúng ta ngày nay phải đối mặt với vô số những thách thức và trách nhiệm trong cuộc sống. Chúng ta vừa phải gánh vác công việc xã hội, vừa phải chăm sóc bản thân và gia đình. Do đó, hạnh phúc đôi khi chỉ đơn giản là khả năng hoàn tất những việc cần làm, những điều mà nếu chúng ta không làm được, hạnh phúc sẽ không có cơ sở để tồn tại. Cũng là một người khác khao đi tìm hạnh phúc và hiện tại cảm thấy mình là người hạnh phúc, bằng trải nghiệm của chính cuộc đời mình, tôi muốn giúp các bạn có được điều mà tất cả chúng ta đều mong ước. Tôi muốn đặt câu hỏi Hạnh phúc đến từ đâu? và đưa các bạn đến những câu trả lời thú vị." (Debbie Gisonni) *** Sau mười lăm năm hoạt động trong ngành công nghệ kỹ thuật cao với vai trò là người quản lý, phát động chiến lược kinh doanh, xuất bản và bán các tạp chí tin học, đồng thời được xem là một người thành đạt, tôi ngộ ra rằng trong cuộc sống, dường như chẳng có mối tương quan nào giữa sự nghiệp và khát vọng hạnh phúc. Đôi khi cuộc sống dẫn dắt chúng ta vào những ngả rẽ cuộc đời mà chúng ta không bao giờ ngờ tới. Trong lúc say sưa với sự nghiệp kinh doanh, tôi nghĩ mình đã có được một cuộc sống hoàn hảo – một sự nghiệp nhiều thuận lợi, một người chồng tuyệt vời, một ngôi nhà của riêng mình. Tôi cứ ngỡ mình đang làm chủ vận mệnh của bản thân. Nhưng sự thật không phải như vậy. Khi tôi vẫn tiếp tục thăng tiến trên từng nấc thang danh vọng thì tai ương bắt đầu giáng xuống những người thân trong gia đình tôi. Mới ngày nào mẹ tôi còn múa vũ điệu tarantella trong một đám cưới của người Ý, thế mà chẳng bao lâu sau đó, bà đã phải chiến đấu giành giật sự sống từ căn bệnh ung thư não, căn bệnh đã khiến bà trở thành người tàn tật vĩnh viễn. Vài năm sau, em gái tôi tự tử ở tuổi hai mươi ba, rồi mấy tháng sau cha tôi bị phát hiện mắc phải một dạng ung thư tủy sống. Tiếp đó lại đến lượt người dì mà tôi rất yêu quý phát bệnh ung thư vú. Cả bốn người thân của tôi đã lần lượt qua đời chỉ trong vòng bốn năm, từ năm 1990 đến năm 1994. Mỉa mai thay, năm 1994 cũng đánh dấu một sự kiện quan trọng trong sự nghiệp của tôi - tôi được bổ nhiệm làm người quản lý xuất bản. Tôi tiếp tục làm việc không mệt mỏi, lần lượt được đề bạt vào các chức vụ cao hơn với những khoản lương bổng hậu hĩ hơn. Phải đến bốn năm sau tôi mới cảm thấy cần phải thay đổi cuộc sống của mình. Tôi không còn hứng thú với công việc hiện tại, vì nó mà tôi đã không còn thời gian giao du với bè bạn. Tôi cảm thấy mệt mỏi, chán chường. Đến giữa năm 1998, tôi nộp đơn xin thôi việc, quyết định rời bỏ công việc mà mình gắn bó gần 20 năm. Ngay sau quyết định ấy, tôi rơi vào một giai đoạn khủng hoảng tinh thần. Tôi đã dành thời gian rảnh rỗi sau khi thôi việc để tìm hiểu xem khi tách rời khỏi công việc thì mình là ai, từ đó tìm cho bản thân mình một cuộc sống ý nghĩa hơn. Sau một thời gian chiêm nghiệm, tôi nhận ra mình không phải là một phụ nữ quan trọng có thể chi phối mọi mặt của cuộc sống như tôi từng nghĩ. Thật ra, tôi chỉ là một phụ nữ bình thường có thể tự tạo niềm hạnh phúc cho riêng mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống. Tôi quyết định mở một công ty riêng mang tên Những bài học thực tếvới mục tiêu giúp phụ nữ tạo dựng một cuộc sống thoải mái và hạnh phúc hơn, bất chấp mọi thách thức trong cuộc sống. Hai năm sau, quyển sách đầu tiên của tôi mang tên Di chúc của Vita ra đời, kể lại những bi kịch trong gia đình tôi và cách thức tôi vượt qua những biến cố đó để tiếp tục sống. Khi rời bỏ công việc kinh doanh và mang nặng nỗi đau tinh thần do mất mát người thân, đồng thời nhận thức được rằng bản thân mình vẫn tồn tại một sức mạnh vượt mọi khó khăn, tôi bắt đầu biết chấp nhận thực tế và dần trở thành một con người mới – thanh thản và vui vẻ hơn. Tôi biết nhận thức về chính mình, bình thản hơn, hiểu biết và bằng lòng với bản thân hơn. Tôi cười vui với đời nhiều hơn và tận hưởng từng giây phút trong cuộc đời mình. Bạn bè và người thân trong gia đình đều cảm nhận được niềm hạnh phúc chất chứa trong tôi. Đúng vậy, tôi đang rất hạnh phúc! Giống như phượng hoàng được tái sinh từ cõi chết, tôi đã hóa thân thành nữ thần hạnh phúc, không giống như thần Vệ nữ hay Aphrodite trong truyện thần thoại như mọi người nghĩ, mà là một nữ thần của đời thường. Phụ nữ ngày nay phải đối mặt với vô số những thách thức và trách nhiệm trong cuộc sống. Họ vừa phải gánh vác công việc xã hội, vừa phải chăm sóc bản thân và gia đình. Do đó, hạnh phúc đối với họ là khả năng hoàn tất những việc cần làm, nếu không hạnh phúc sẽ không tồn tại. Cũng là một người phụ nữ trong số đó, bằng trải nghiệm của chính cuộc đời mình, tôi muốn giúp các bạn có được điều mà tất cả chúng ta đều mong ước. Tôi muốn đặt câu hỏi “Hạnh phúc đến từ đâu?” và đưa các bạn đến những câu trả lời thú vị trong quyển sách Hạnh phúc ở trong ta. Có thể các bạn không có nhiều thời gian để kiên nhẫn đọc hết một quyển cẩm nang dài dòng và phức tạp. Vì vậy, tôi cố gắng trình bày cuốn sách này thật ngắn gọn, dễ hiểu, với nhiều thông tin thực tế, bổ ích nhằm giúp bạn đọc có thể lĩnh hội và ứng dụng vào đời sống của mình một cách hiệu quả. Bạn có thể đọc liền một mạch từ đầu đến cuối, hay có thể chọn ngẫu nhiên một đề mục bất kỳ mỗi khi đứng trước những thách thức của cuộc sống. Cuốn sách này gồm bốn mươi bốn đề mục, chứ không phải là một con số chẵn bốn mươi hay năm mươi. Điều này hoàn toàn không nằm ở sự giới hạn của vấn đề, điều mà tôi muốn hướng đến chính là ý nghĩa số học của con số bốn mươi bốn. Mỗi con số - cũng giống như màu sắc và ngôn từ, đều có đặc điểm riêng và ẩn chứa một thông điệp nhất định. Theo ý nghĩa số học cổ đại, người ta đánh giá ý nghĩa của một con số qua từng chữ số và qua tổng của những chữ số đó nữa. Số bốn mang ý nghĩa của sự cân bằng và hài hòa tuyệt đối, như chúng ta vẫn thường nghe nói đến “bốn phương trời”. Hạnh phúc tùy thuộc vào sự cân bằng trong mọi mặt của đời sống tinh thần và vật chất. Hai chữ số bốn trong con số bốn mươi bốn cộng lại là tám - biểu tượng của sự vô hạn và dồi dào về mọi phương diện. Đó cũng chính là mong ước nhận được những điều tốt đẹp nhất từ cuộc sống. Hơn nữa, số bốn mươi bốn được xem là “con số chủ đạo” mang ý nghĩa đặc biệt về tiềm năng vô hạn, thể hiện sự cân bằng trong cuộc sống, là cầu nối giữa đời sống vật chất và tinh thần. Thật chẳng dễ dàng gì khi chúng ta là những thực thể tâm linh sống trong một thế giới vật chất. Nhưng nếu biết trân trọng và dung hòa cả hai lối sống, chúng ta sẽ được hưởng một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc ngay chốn thiên đường trần gian. Là phụ nữ, bạn nghiễm nhiên đã là một nữ thần, chẳng cần thiết phải có những cuộc hành lễ huyền bí, những trang phục đặc biệt. Và vì là một nữ thần, bạn hoàn toàn có thể tạo hạnh phúc cho mình bằng nội lực của chính bản thân. Hạnh phúc thực sự không thể có được bằng cách theo đuổi những ước mơ toàn mỹ viển vông hay trông đợi những diễn biến tốt đẹp bên ngoài bản thân. Nữ thần hạnh phúc đang hiện hữu ngay trong tâm hồn mỗi người. Có thể lâu nay bạn chưa nhận ra và chưa tin vào điều này. Và đây là lúc bạn hãy cùng tôi phát hiện sức mạnh nội tại của chúng ta. Hãy để quyển sách này làm thức tỉnh con người thật của bạn – một nữ thần hạnh phúc! Điều quan trọng là chúng ta hãy vui vẻ và tận hưởng niềm vui thú trong chuyến hành trình đi tìm nữ thần hạnh phúc. Hãy yêu đời hơn, rạng rỡ hơn và vui cười nhiều hơn! Cầu chúc cho cuộc sống của bạn tràn ngập tình yêu, ánh sáng và tiếng cười! - Debbie Gisonnix Mời các bạn đón đọc Hạnh Phúc Ở Trong Ta của tác giả Debbie Gisonni.
Mặt phải: Đi Tìm Những Cơ Hội Tiềm Ẩn Trong Cuộc Sống - Adam J. Jackson
“Cuộc sống là một thử thách, hãy vượt qua nó.” Mẹ Teresa Con người chúng ta đa số ai cũng phải chịu đựng những tổn thương nặng nề, ít nhất là một lần trong đời: công việc kinh doanh thất bại, bị mất việc sau nhiều năm phấn đấu, gia đình tan vỡ, một người thân yêu qua đời, bị chẩn đoán bệnh ung thư, bị tai nạn nghiêm trọng, v.v… Thực tế đã chứng minh rằng có những người vượt qua được những tổn thương to lớn đó và ngày càng mạnh mẽ hơn. Nhưng ngược lại, cũng có những người bị khuất phục hoàn toàn và đi đến kết cục bi thảm. Sau khi đọc xong quyển sách Mặt Phải mà bạn đang cầm trên tay đây, bạn sẽ không chỉ hiểu được sự khác biệt giữa hai loại người trên, mà quan trọng hơn cả, bạn sẽ học được cách “biến đau thương thành sức mạnh”, vượt lên trên mọi thử thách lớn nhỏ để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn và thành công hơn. Những câu chuyện “người thật việc thật” tràn đầy cảm hứng trong quyển sách này sẽ khiến bạn kinh ngạc trước tinh thần bất khuất của con người khi đứng trước những khó khăn trở ngại tưởng chừng như không thể vượt qua được. Bạn sẽ cảm thấy không còn sợ hãi nữa, mà thay vào đó bạn sẽ sẵn sàng đối diện với những gì mà cuộc sống mang lại, bước qua nó và hướng tới một tương lai tươi sáng. Không chỉ đơn giản là những câu chuyện, quyển sách này còn hướng dẫn bạn từng bước thật cụ thể để bạn cũng có thể mạnh mẽ, kiên cường và bất khuất vượt lên trên mọi khó khăn thử thách của cuộc đời này. Để rồi một ngày bạn nhận ra rằng, nếu những khó khăn và thử thách không thể quật ngã bạn, thì chúng sẽ biến thành những tấm huân chương gắn lên ngực áo của bạn – một con người hạnh phúc và thành công nhờ trái tim quả cảm của mình. Đôi khi, trong những thời khắc đen tối nhất, điều chúng ta cần chỉ là một niềm tin vào cuộc sống, để có thể bật lên mạnh mẽ, kiên cường. Hãy nhìn vào “mặt phải” của cuộc sống và bạn sẽ tìm thấy “người anh hùng” bên trong mình. Hãy luôn nhớ rằng, bạn xứng đáng có được hạnh phúc và thành công trong cuộc đời này cho dù ra sao đi nữa. Trần Đăng Khoa & Uông Xuân Vy *** “Cuộc sống này đầy rẫy khổ đau, nhưng cũng đầy vinh quang chiến thắng.” Helen Keller MỘT CẬU BÉ chỉ mới mười hai tuổi ngồi cúi mặt, nắm chặt hai tay bồn chồn chờ đợi câu trả lời của bác sĩ. Vị bác sĩ là một người đàn ông gầy, cao lêu nghêu, khoảng ngoài sáu mươi tuổi. Nhìn ông không có vẻ gì là nhiệt tình cả. Ông có mái tóc hoa râm mượt, mũi cao và đôi môi mỏng. Ông đeo cặp kính gọng tròn và nhỏ khiến đôi mắt xám nhạt của ông trông giống hai hòn bi ve. Ông cầm mớ giấy tờ lên, vuốt thẳng các góc rồi lại đặt xuống, đoạn ông tháo kính ra và nhìn thẳng vào cậu bé. “Ta rất tiếc, con trai” – vị bác sĩ bắt đầu – “Nhưng căn bệnh của con không thể nào chữa khỏi hoàn toàn. Nếu ta làm theo những gì con yêu cầu, tức là ta làm hại con. Con nên học sống chung với bệnh tật, càng sớm càng tốt.” “Nhưng nếu bác sĩ có thể...” – cậu bé cất lời. “Hãy nghe ta” – ông ngắt lời – “Đó là điều tốt nhất.” Đôi mắt cậu bé bắt đầu ngân ngấn nước. Lồng ngực cậu như bị bóp nghẹt. Cậu bé đứng dậy, lầm lũi rời khỏi căn phòng. Thứ mà cậu đang phải chịu đựng là một chứng bệnh ngoài da, bệnh vảy nến. Biểu hiện của bệnh này là những mảng đỏ trên da, phía trên có vảy dày màu trắng. Trong nhiều trường hợp, vảy nến tập trung ở khuỷu tay và đầu gối của bệnh nhân, một số khác bị ở da đầu. Nhưng ở cậu bé này, vảy nến lan ra toàn thân và dày lên nhiều lớp. Lần đầu tiên cậu để ý thấy triệu chứng của bệnh là vào một buổi sáng, cách đây mới hai tháng, từng cụm lốm đốm đỏ xuất hiện hai bên bụng cậu. Nhưng vài tuần trở lại đây, các đốm đỏ trở nên to hơn và lan khắp người cậu bé. Rồi cậu đến gặp bác sĩ trong trường, không phải để xin thuốc men bởi bác sĩ riêng của gia đình cậu đã nói rõ rằng bệnh này không có thuốc chữa. Điều mà cậu muốn nhờ, đúng hơn là van xin vị bác sĩ của trường ấy là mảnh giấy xác nhận miễn thể dục để cậu khỏi phải tham dự giờ học bơi. Khi đi dọc hành lang để rời khỏi tòa nhà, cậu bé không cầm được nước mắt. Cậu chẳng còn để ý tới ai hay bất cứ điều gì chung quanh, điều duy nhất trong đầu cậu lúc này là các học sinh khác sẽ phản ứng ra sao khi cậu xuất hiện ở lớp học bơi trông giống một kẻ bị bệnh hủi. Rồi những câu hỏi quen thuộc cứ quay cuồng trong đầu cậu đến mức cậu thấy buồn nôn. “Tại sao lại là tôi? Tại sao chuyện này lại phải xảy đến với tôi? Tại sao cuộc sống lại bất công đến thế?” Đột nhiên, cậu cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình. Khi quay lại, thầy chủ nhiệm Greenstein đã đứng kế cậu tự bao giờ. Thầy Greenstein có vóc người nhỏ bé, chỉ cao hơn cậu học trò vài phân. Thầy mặc bộ vét xám với áo sơ mi trắng, thắt cà vạt màu xanh biển. Thầy là người điềm tĩnh, giọng nói nhỏ nhẹ, và rất được các học sinh trong lớp yêu mến. “Sao vậy em?”, thầy Greenstein hỏi. “Không có gì ạ”, cậu bé thở dài và quẹt nước mắt. “Lại đây ngồi với thầy. Chỉ một chút thôi”, thầy Greenstein cố nài. Thầy Greenstein và cậu bé ngồi xuống băng ghế đá dưới một tán cây sồi lớn bên ngoài khuôn viên trường. “Bây giờ hãy nói cho thầy biết điều gì khiến em buồn? Biết đâu thầy giúp được.” “Không ai giúp em được đâu”, cậu bé làu bàu. “Ừ, thì ít nhất em cũng nói cho thầy nghe xem sao”, thầy Greenstein nói. Cậu bé xắn tay áo lên, để lộ ra những đốm vảy lớn đỏ ửng và kể sự tình. Khi cậu nói xong, thầy Greenstein đặt tay lên vai cậu và bảo: “Ai đứng lớp bơi lội của em?” “Thầy Cunningham ạ.” “Em biết không, nếu em muốn, chúng ta có thể đến gặp thầy Cunningham và chắc chắn chúng ta có thể thuyết phục thầy ấy miễn cho em môn đó.” “Thật không ạ?” “Chắc chắn. Nhưng trước khi chúng ta làm việc đó, để thầy kể cho em nghe chuyện này. Khi thầy được bảy tuổi, bố của thầy qua đời và thầy bắt đầu mắc chứng nói lắp. Cũng như chứng bệnh ngoài da của em, bệnh của thầy xảy đến rất nhanh, gần như chỉ sau một đêm. Tình hình tồi tệ đến nỗi, cũng giống như em, thầy không muốn đến trường nữa. Thầy sợ những học sinh khác sẽ lấy mình ra làm trò cười. Thế là thầy và mẹ thầy suốt ngày tranh cãi về chuyện đi hay không đi, nhưng cuối cùng thầy biết mình phải tiếp tục đến lớp. Và thầy mừng là mình đã đến trường. Bởi nếu không, thầy đã là đứa thất học. Thầy không thể trở thành thầy giáo và chắc chắn là không ngồi cạnh em đây.” Thầy Greenstein nhìn vào mắt cậu học trò nhỏ, “Mọi khó khăn mà chúng ta đối mặt trong cuộc sống này đều có mặt phải của nó.” “Mặt phải là gì cơ chứ?”, cậu bé lầm bầm. “Mọi khó khăn hay trở ngại đều chứa đựng bên trong nó một cơ hội lớn, đôi khi còn lớn hơn cả bản chất của vấn đề. Mặt phải chính là cơ hội ấy.” Cậu bé kéo tay áo lên, “Làm gì có mặt phải nào trong cái thứ này hở thầy? Cơ hội nào cho một kẻ trông như cùi hủi trước mặt tất cả học sinh khác?” Thầy Greenstein trả lời, “Xem nào, chúng ta hãy suy nghĩ một phút... Xem liệu chúng ta có thể tìm được mặt phải của vấn đề hay không.”   Mời các bạn đón đọc Mặt phải: Đi Tìm Những Cơ Hội Tiềm Ẩn Trong Cuộc Sống của tác giả Adam J. Jackson.