Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Talmud Tinh Hoa Trí Tuệ Do Thái

Talmud Tinh Hoa Trí Tuệ Do Thái

Talmud – suối nguồn của trí tuệ Do Thái, là tác phẩm được lưu truyền rộng rãi và được đánh giá rất cao vì nó kết tinh trí tuệ của một dân tộc mà định mệnh ngặt nghèo cũng như năng lực sáng tạo đã trở thành huyền thoại.

Trong lịch sử nhân loại, có thể nói không một dân tộc nào nhiều khổ nạn phải lìa bỏ quê hương xứ sở phiêu bạt khắp nơi … mà vẫn viết nên những trang sử văn minh rực rỡ như dân tộc Do Thái.

Talmud Tinh Hoa Trí Tuệ Do Thái

Cuốn sách này, đề cập đến những khía cạnh tinh hoa của Talmud, qua những câu chuyện sinh động ở mọi lĩnh vực: văn hóa, khoa học, nghệ thuật, kinh doanh, giáo dục, đối nhân xử thế…

Talmud không chỉ là một tác phẩm kinh điển mà còn là một cuốn bách khoa thư, đã đồng hành cùng dân tộc Do Thái qua hàng ngàn năm thăng trầm như một minh chứng cho trí tuệ sáng láng và ý chí sống còn mãnh liệt của con người.

Các bạn có thể tham khảo thêm những tựa sách rất hay viết về Người Do Thái như:

Mật Mã Do Thái Trí Tuệ Do Thái Bí Quyết Kinh Doanh Của Người Do Thái

Đừng quên chia sẻ cuốn sách này cho bạn bè và đăng ký nhận sách hàng tuần qua email nhé. Chúc các bạn có những giờ phút thư giãn.

Nguồn: sachmoi.net

Đọc Sách

Đền Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Vua Hùng là Tổ của dân ta - Thủy tổ của người Việt. Ông Vua đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, “Thánh vương ngàn đời của cổ Việt”. Các thế hệ người Việt Nam đương đại đều hãnh diện và tự hào được mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, con cháu Rồng Tiên. Hàng năm cứ đến ngày mồng 10 tháng 3 Âm lịch lại cùng nhau nỗ nức hành hương về miền Đất Tổ để viếng mộ thăm đền, thắp hương cúng giỗ Tổ tiên.Thông qua các hoạt động văn hóa tâm linh, biểu tượng Vua Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành điểm hội tụ tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không có biên giới riêng mà là biên giới cộng đồng. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương đã vượt ra khỏi tín ngưỡng dân gian để trở thành Quốc tế (Quốc lễ). Hùng Vương đã trở thành Quốc Thánh, là vị Tổ chung cho tất cả mọi người đang cùng sống trên dải đất Việt Nam hình chữ S này.Người Việt Nam trọng tình nghĩa, lấy chữ hiếu làm đầu. Họ luôn quan niệm Tổ tiên của mình; ông bà, cha mẹ mình khi chết đi chưa phải là đã hết, mà là sang thế giới bên kia; song vẫn luôn trở về nhà phù hộ cho con, cho cháu mạnh khỏe, hạnh phúc, an lành.
Đồ thờ trong di tích của người Việt
Trong một tấm bia của chùa Bối Khê (Thanh Oai - Hà Tây ) có ghi rằng : Anh tú của trời đất tụ thành sông núi. Sự linh thiêng của sông núi đúc ra thành thần. Thánh thần linh thiêng hóa làm mây gió sấm mưa để nhuần tưới cho sinh dân và còn mãi muôn đời cùng non nước đất trời vậy.Câu nói minh triết ấy là tinh thần dẫn người xưa vào đạo. Ngày nay chúng ta quan niệm rằng tôn giáo tín ngưỡng là văn hóa. Bất kể dòng tư tưởng lớn nào của thế giới cho tới những tư tưởng bình dân nhuốm màu tôn giáo đều lấy thiện tâm làm đầu, từ đó mới bàn đến tư tưởng và tâm linh để cuối cùng hội tụ vào thần linh. Đồ thờ như "giấy thông hành" để tầng dưới tiếp cận tầng trên, con người tiếp cận với đấng vô biên (mà suy cho cùng đấng vô biên chỉ là sản phẩm thuộc tư duy liên tưởng của loài người). Mỗi thời có một nhận thức khác nhau, tư duy liên tưởng khác nhau sẽ dẫn đến có cách ứng xử và mối liên hệ với thần linh khác nhau. Không một di tích tôn giáo nào không có đồ thờ. Đồ thờ xác định tư cách cho những kiến trúc cùng với hệ thống tượng liên quan để trở thành di tích tôn giáo tín ngưỡng. Ngược lại, nếu không có đồ thờ thì cùng lắm di tích đó chỉ mang hình thức một nhà trưng bày. Như vậy đồ thờ đã góp phần thiêng hóa kiến trúc thờ tự, nó đã hướng tâm con người đến lẽ huyền vi của đạo, hướng đến chân, thiện, mỹ, tránh thoát những dục vọng thấp hèn, góp phần làm cân bằng những tâm hồn luôn bị giày vò bởi tục lụy. Đồ thờ là sản phẩm văn hóa hữu thể, nó chứa đựng những ước vọng truyền đời của tổ tiên, qua nó như qua thần linh để cầu nguồn hạnh phúc trần gian.ở nước Việt, đồ thờ mang vẻ đẹp tâm linh thánh thiện phản ánh tâm thức của người nông dân trồng lúa nước. Chúng vượt lên trên cả tính tích cực và tiêu cực của người đời, vượt lên trên cả những yếu tố sùng bái thuộc tín ngưỡng và dị đoan để tồn tại như một chứng tích lịch sử, một lời nhắn nhủ của tổ tiên... Thông qua đổ thở chúng ta có thể tìm về bản thể chân như thuộc vẻ đẹp của người xưa, để con người nhờ đó mà nâng cao thêm được tinh thần yêu nước, yêu quê hương xứ sở, yêu quý lẽ nhân bản, đồng thời có ý thức trọng đức đẹp của cả đạo và đời.
Cao Bá Quát PDF (NXB Tân Dân 1940) - Trúc Khê
Về triều vua Tự-đức (1848-1883) giặc giã trong nước nổi lên rất nhiều, nhất là ở Bắc- kỳ, có người mượn cớ nọ cớ kia đề khởi sự cho dễ, có người đem lòng hâm-mộ nhà Lê, tìm người dùng-dõi để tôn lên làm minh chủ. Gần biên-giới, giặc Tàu thừa cơ tràn sang quấy rối. Triều-đình lấy làm lo-ngại, cử ông Nguyễn Đăng-Giai ra kinh-lược Bắc-kỳ. Ông Đăng-Giai dẹp xong, thì một bọn khác nồi lên lấy danh là khởi-nghĩa để tồn ông Lê Duy-Cự lên làm vua. Bọn này thường gọi là "giặc châu chấu" do một nhà danh nho đứng đầu. Nhà danh-nho ấy là ông Cao Bá-Quát.Cao Bá QuátNXB Tân Dân 1940Trúc Khê (Ngô Văn Triện)172 TrangFile PDF-SCAN
Hùng Vương Diễn Nghĩa PDF (NXB Nhật Nam 1930) - Ngô Trúc Khê
Ngô Văn Triện là Nhà văn, bút danh Trúc Khê. Sinh ngày 22-5-1901 ở thôn Thị Cấm, tổng Phương Canh (thuộc xã Xuân Phương) ngoại thành Hà Nội. Nhiệt thành yêu nước, khoảng năm 1927 ông dự định tìm đồng chí lập đảng Tân Dân, chủ trương đánh Pháp cứu nước. Rồi gặp Phạm Tuấn Tài với nhóm "Nam Đồng thư xã" rồi sau theo Nguyễn Thái Học với Việt Nam Quốc dân đảng. Cuộc khởi nghIa Yên Bái thất bại ông bị bắt giam ở Hỏa Lò. Ra tù, ông chuyên sáng tác văn học, mở Trúc Khê thư cục và cộng tác với nhiều nhà xuất bản, báo chí ở Hà Nội. Năm 1946, ông cùng với gia đình về ở Trại Do, tỉnh Sơn Tây chờ giao liên đưa lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Chưa kịp đi thì ông mất trong năm 1947, hưởng dương 46 tuổi.Hùng Vương Diễn NghĩaNXB Nhật Nam 1930Ngô Trúc Khê100 TrangFile PDF-SCAN