Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hôi Của Đông Lăng

Danh gia cổ vật là bộ tiểu thuyết lấy đề tài giám định và sưu tầm đồ cổ tiêu biểu cho các sáng tác của Mã Bá Dung, ngay sau khi ra mắt đã được đông đảo bạn đọc yêu thích đón nhận. Cuối năm 2018, tác phẩm được Tencent Pictures chuyển thể thành phim dài tập cùng tên với sự tham gia diễn xuất của Hạ Vũ, Kiều Chấn Vũ… TẬP 3: Giám định cổ vật, thực ra là đo lòng người đấy thôi. Báu vật càng trân quý càng soi thấu lòng người đáng sợ. Ngược dòng thời gian về năm Dân Quốc thứ mười bảy, ông nội Hứa Nguyện là Hứa Nhất Thành bấy giờ đang theo học ngành khảo cổ ở đại học Thanh Hoa, bất ngờ nhận được nửa bức thư in dấu tay máu của một người bạn cũ. Chữ “lăng” trơ trọi trên mảnh giấy dường như ám chỉ một âm mưu nhắm tới những lăng tẩm đế vương đang bị quên lãng giữa thời cuộc rối ren, nhưng ai sẽ là kẻ ra tay thủ ác và mục tiêu sau cùng là gì? Lần theo những manh mối mơ hồ, những sự kiện tưởng chừng rời rạc, Hứa Nhất Thành dần tìm ra từng mảnh ghép của một âm mưu chấn động. Song thế lực y phải đương đầu không chỉ có một, trong khi hậu phương là Minh Nhãn Mai Hoa lại chỉ như con rùa rụt cổ… DANH GIA CỔ VẬT (trọn bộ 4 tập): - Kỳ Án Đầu Phật - Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ - Hôi Của Đông Lăng - Minh Nhãn Mai Hoa VỀ TÁC GIẢ: MÃ BÁ DUNG sinh năm 1980, tại Xích Phong (Ulankhad) thuộc khu tự trị Nội Mông. Ông là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với bút lực dồi dào, văn phong đa biến. Phạm vi sáng tác trải từ phê bình, tản văn, tiểu phẩm đến tiểu thuyết vừa và dài, thể loại sáng tác phong phú, bao gồm khoa học viễn tưởng, kỳ ảo, lịch sử, trinh thám v.v… Năm 2005, ông đạt giải thưởng Ngân Hà dành cho tác phẩm khoa học viễn tưởng Trung Quốc. Năm 2010, ông đạt giải thưởng Văn học Nhân dân, một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của văn đàn Trung Quốc. *** Review DANH GIA CỔ VẬT - HÔI CỦA ĐÔNG LĂNG. Bài đăng của bạn Nguyen Viet Ha trên Nhã Nam reading club. Tác giả: Mã Bá Dung Warning: Review có spoil. _ Chuyện xảy ra vào năm Dân quốc thứ mười bảy. Năm ấy Bắc Kinh vô cùng hỗn loạn, các phe cánh chính trị đối chọi nhau gay gắt, giới cổ vật cũng nổi lên sóng gió. Người Nhật sang Trung Quốc dưới danh nghĩa khảo cứu và bảo tồn văn vật, nhưng thực chất là muốn mang văn vật Trung Quốc về Nhật Bản; còn chính người Trung Quốc thì cũng lại lén lút đánh cắp, bòn rút cổ vật có giá trị hòng bỏ túi riêng. Trong không khí đượm mùi chết chóc và hỗn loạn của Bắc Kinh bấy giờ, Hứa Nhất Thành nhận được nửa mảnh giấy in năm dấu tay máu và chữ “lăng” mơ hồ từ một người bạn cũ. Người ấy trước lúc chết đã gắng sức níu lấy một ông lão qua đường, khẩn cầu ông ta báo tin đến y, như thể chỉ cần chậm trễ một chút thôi là cả tấn bi kịch sẽ đổ xuống Bắc Kinh vốn đã chẳng bình an gì mấy này. Hẳn Hứa Nhất Thành khi ấy cũng sẽ không ngờ, mảnh giấy ấy sẽ dẫn y tới một vụ án chấn động không chỉ giới cổ vật, mà còn liên quan đến vận mệnh quốc gia. Ban đầu, Hứa Nhất Thành vốn tưởng chỉ có người Nhật có liên quan đến bí ẩn sau mảnh giấy dính máu mà bạn mình để lại, nào ngờ trên đường tra án, y nhận ra càng ngày càng xuất hiện thêm nhiều thế lực khác, mới có cũ có, mà mục đích cuối cùng, đều là nhắm vào lăng tẩm của các đế vương Trung Quốc, hay nói đúng hơn, là đồ tuỳ táng được chôn cùng chủ nhân những lăng tẩm ấy. Nhưng mà, có thật là những thế lực kia chủ ý muốn sở hữu cổ vật trong Đông lăng không, hay đó chỉ là bước đầu để che giấu một âm mưu khác đáng sợ hơn nhiều? Rốt cuộc trong Đông lăng có thứ gì, mà phải khiến người ta lao tâm khổ tứ giăng bẫy hòng đặt chân vào ngôi mộ ấy như thế? Các triều đại luôn có sự liên kết với nhau, hình thành nên sợi dây lịch sử kéo dài không dứt. Đến lúc này, khi có kẻ muốn lật đào lịch sử lên, mối liên hệ giữa những ngôi mộ lặng yên đã hàng trăm năm ấy cũng dần được hé lộ... ___ “Danh Gia Cổ Vật - Hôi của Đông Lăng” không nối tiếp câu chuyện của Hứa Nguyện ở tập 1 và tập 2, mà là kể lại chuyện xưa của ông nội Hứa Nguyện - Hứa Nhất Thành, khi vẫn đang theo học ngành khảo cổ ở đại học Thanh Hoa. Kiến thức về văn hoá và cổ vật vẫn được cài cắm xuyên suốt tập truyện, song mình đánh giá tập 3 này vụ án khó hơn và tình tiết cũng bất ngờ hơn hai tập trước. Ngay từ cái tên và vết tích cuối cùng trên mảnh giấy mà Hứa Nhất Thành nhận được, người đọc có thể dễ dàng đoán ra trung tâm của tập này là “lăng”, còn “hôi của Đông Lăng” thì ám chỉ về một vụ trộm mộ. Đông Lăng là lăng mộ của vua chúa nhà Thanh, nơi chôn cất hoàng đế Thuận Trị, Khang Hi, Càn Long, Hàm Phong, Đồng Trị và các phi tần, hoàng tử, công chúa. Từ xưa việc quật mồ mả người chết vẫn luôn là việc không nên, rất tổn hại âm đức, thế nhưng những đồ tuỳ táng chôn theo ở lăng tẩm vua chúa không chỉ có giá trị lịch sử, mà giá trị vật chất thực cũng không ít món hời, do vậy không ít kẻ vẫn bất chấp tất cả mà tìm đường vào lăng hòng “hôi của”. Tình cảnh năm ấy thật sự rất loạn, ngay cả Minh Nhãn Mai Hoa tiếng tăm lẫy lừng cũng phải khúm núm nhún nhường trước tiền bạc và quyền lực, nhưng Hứa Nhất Thành lại không màng nguy hiểm mà quyết tâm tìm ra bí mật sau mảnh giấy kia đến cùng. Thứ nhất là bởi y muốn hoàn thành uỷ thác mà người bạn quá cố đã giao cho mình, thứ hai là bởi y không thể trơ mắt nhìn văn vật Trung Quốc cứ vậy mà rơi vào tay người Nhật. Y không thể chịu nổi cảnh người Trung Quốc bị “đào trốc rễ”, văn hoá lịch sử bị ngoại quốc lấy sạch chẳng còn gì. Có lẽ tính tình cố chấp, cương trực thẳng thắn của Hứa Nguyện di truyền từ Hứa Nhất Thành. Đúng là con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, Hứa Nhất Thành tài giỏi như vậy, đến đời Hứa Nguyện cũng không hề thua kém. Chỉ khác là Hứa Nhất Thành có vẻ chín chắn và dứt khoát hơn Hứa Nguyện. Ngoài những đoạn phá án hồi hộp thì tập này có khá nhiều những phân cảm xúc, ví như đoạn Hứa Nhất Thành bất lực nhìn Đông lăng bị xới tung lên, con người nổi lòng tham mà ào vào vơ vét đồ tuỳ táng, dẫm đạp lên lịch sử văn hoá và người đã khuất. Vào thời buổi rối ren bấy giờ, mỗi người chọn cho mình một con đường riêng, còn Hứa Nhất Thành, dù trải qua bao phen hiểm nguy gian khổ, y vẫn trước sau như một giữ trọn tấm lòng sáng như gương, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ nguồn cội của dân tộc. Đúng là một người rất đáng quý. Nói chung “Danh Gia Cổ Vật - Hôi của Đông Lăng” hay lắm. Tập này có thể coi là một ngoại truyện, vì vậy nếu tách ra đọc riêng thì vẫn có thể hiểu được. Mình thật sự mong chờ tập 4 - cũng là tập cuối cùng trong series này được xuất bản để xem hành trình của “Danh Gia Cổ Vật” sẽ tiếp diễn và kết thúc thế nào. *** Một gia tộc truyền đời cũng giống như một món cổ vật thượng hạng vậy. Trải bao đời giữ gìn và đánh bóng, âm thầm tích lũy giữa dòng thời gian đằng đẵng, dần dà, nó sẽ khoác lên mình một lớp hồ bọc đậm đà tinh thuần, ôn nhuận trầm lặng, toát lên vẻ cổ kính. Cổ vật hữu hình, truyền thừa vô hình, không nhìn thấy, không chạm tới được song lại thấm vào xương máu con cháu đời sau trong gia tộc, trở thành sợi dây ràng buộc tinh thần giữa các thành viên trong gia tộc với nhau, thậm chí trở thành một phần trong tính cách và số phận họ. Trên đường tới gặp Lão Triều Phụng, tinh thần của nhà họ Hứa đã ẩn tàng cả nghìn năm nay trong cơ thể tôi bắt đầu thức tỉnh. Nó rục rịch, sôi trào như muốn nói gì đó với tôi. Đó không phải sự biểu đạt bằng ngôn ngữ, mà là sự cộng hưởng vượt lên cả hạn chế của thời gian. Câu chuyện nó muốn kể rất dài, song khi truyền đạt cho tôi lại chỉ mất một cái chớp mắt. Những con người quá khứ, những câu chuyện xa xưa cùng những món cổ vật truyền kỳ đã ngưng kết lại thành cảm xúc trong một khoảnh khắc, khiến tôi đang đi chợt dừng bước, đặt tay lên ngực, ngẩng đầu nhìn trời. Tuy không thấu triệt, nhưng tôi cảm nhận được, đây là một câu chuyện liên quan đến ông nội Hứa Nhất Thành của tôi. Một truyền kỳ tôi chưa bao giờ được biết.   Hạ tuần tháng Năm năm Dân Quốc thứ mười bảy*, Bắc Kinh đương lúc chuyển mùa giữa xuân và hạ, khắp thành nở đầy hoa hòe. Đây là lúc trời nóng dần lên, dễ xảy ra đại dịch nên dân gian kiêng kị rất nhiều. Kiêng dán cửa, kiêng chuyển nhà, không cắt tóc, không phơi giường, ai nấy đều mong tới Đoan Ngọ giết sâu bọ xong mới bắt tay sửa sang dọn dẹp. Dân gian thường gọi là tháng Năm độc, hễ đến tháng này, nhất định sẽ có chuyện. Năm nay chưa nóng đã có gió lớn. Trận gió này cực lớn, cuốn theo cát bụi đầy trời phủ lên chùa Đàm Giá, trùm lấy núi Hương, cuồn cuộn ập vào thành, liên tục suốt mấy ngày. Quả là bụi lấp mặt trời, đâu đâu cũng một màu vàng của cát, cả thành Bắc Kinh như một bức ảnh cũ, trời mù mịt đất mù mịt tường mù mịt, người ngựa đi trên đường đều mù mịt, khiến lòng người ta cũng mịt mờ. Hằng năm Bắc Kinh đều nổi bão cát, nhưng chủ yếu vào mùa xuân. Năm nay trận bão này lại oái oăm, đến vào tháng Năm độc. Người già kể rằng loại gió này rất có lai lịch, gọi là gió Hoàng sát, chuyên khắc hoàng thượng. Năm Sùng Trinh treo cổ, Bắc Kinh đã nổi gió này; năm Viên Thế Khải qua đời, cũng nổi gió; về sau khi Tuyên Thống đế bị Phùng Ngọc Tường trục xuất khỏi Tử Cấm thành, gió này cũng đến. Bởi thế năm nay gió vừa nổi, lại gặp ngay tháng Năm độc, người già ở Bắc Kinh đều nhủ bụng, e rằng… lần này lại thay triều đổi đại rồi đây. Hoàng Khắc Vũ ôm tay nải xanh, liêu xiêu chạy men theo chân Thiên Đàn về phía Tây. Giữa mịt mù bão cát lại chạy ngược gió, dù đang trai tráng bẻ gãy sừng trâu, cậu cũng phải khom lưng cúi đầu nín thở. Hễ chạy nhanh là miệng đầy cát, vừa hít thở đã sặc sụa vì bụi. Nhưng việc gấp như lửa đốt, Hoàng Khắc Vũ làm gì còn tâm trạng oán trách thời tiết, đành kéo sụp vành mũ xuống, chạy không ngơi nghỉ. Vừa qua cầu Hổ Phường, trời đã nổi gió lớn, đất vàng mịn hơn cả phấn cuồn cuộn bốc thành làn sương bụi che mờ cả đất trời. Đừng nói đến mái tháp phía xa và biển hiệu treo trên rào chắn ở gần, ngay người ngựa bên kia đường, cách mấy bước chân cũng chẳng trông rõ được. Hoàng Khắc Vũ nheo mắt cúi đầu chạy như bay, ngờ đâu phía trước lại mọc ra một bóng người sau làn sương bụi, khiến cậu không kịp dừng bước, đâm sầm vào người ta. Hoàng Khắc Vũ có võ, lập tức lùi lại mấy bước, túm lấy cây cột đứng vững, song người kia thì ngã nhào. Hoàng Khắc Vũ vội cúi xuống đỡ, vừa khom người đã thầm than không ổn, người kia mặc quân phục xanh xám, đầu buộc một dải băng lem luốc, tay còn cầm cây súng Mauser 13, ra là lính Phụng Thiên! Lính Phụng Thiên là quân Đông Bắc do Trương Tác Lâm dẫn vào quan nội, kỷ luật cực kém, dân chúng vẫn gọi vụng là quân thổ phỉ. Từ đầu năm, khi hai phe Nam Bắc lại giao tranh, tổng thống Trương vẫn sa lầy trong chiến sự ở một dải Sơn Đông, Hà Nam, quân Bắc phạt đánh thẳng lên phía Bắc, lính Phụng Thiên bị thương trong thành Bắc Kinh ngày càng nhiều. Bề trên bỏ bê lương thưởng nên trong tay đám thương binh này chẳng có gì ngoài cây súng, chúng bèn tụ hợp lại, gặp người là cướp, thấy hiệu là phá, cảnh sát cũng chẳng dám động đến. Hoàng Khắc Vũ không muốn rầy rà, vội chắp tay xin lỗi rồi quay người toan lẩn vào màn cát bụi chuồn thẳng. Nào ngờ tên lính Phụng Thiên kia lồm cồm bò dậy, lên đạn cách một tiếng, chĩa súng vào Hoàng Khắc Vũ quát lớn, “Đâm vào ông mày còn định chạy à?” Hoàng Khắc Vũ đành đứng lại. Tên lính Phụng Thiên kia khập khiễng đi đến, giáng ngay cho cậu một bạt tai, “Thằng ranh này! Mắt ném cho chó ăn rồi hả?” Hoàng Khắc Vũ nghiến răng nhìn trừng trừng họng súng không đáp. Tên lính Phụng Thiên thấy cậu khoác tay nải thì sáng mắt lên, ra lệnh, “Ông nghi mày là tay trong của quân phản loạn, đưa đây! Mở ra ông kiểm tra!” Đoạn vươn tay định giật. Tay nải này hết sức quan trọng, Hoàng Khắc Vũ đời nào để hắn chạm vào, bèn xoay người né tránh. Tên lính nổi điên chửi “Rõ là đéo biết điều” rồi giơ súng lên định kéo cò. Tình thế cấp bách, Hoàng Khắc Vũ đành sấn lên nửa bước, tay phải nắm lấy họng súng hất lên, tay trái nhanh như chớp chặt mạnh vào gáy hắn. “Đoàng” một tiếng, đạn bay sượt qua đầu Hoàng Khắc Vũ bắn vào khoảng không, tên lính kia cũng ngã xuống đất ngất lịm. Hoàng Khắc Vũ sờ đầu, mặt tái xanh. Nếu chậm nửa bước, e rằng cậu đã bị bắn chết tươi ngay trên phố. Giữa kinh đô nổi tiếng là đất lành, vậy mà chẳng biết từ bao giờ lại hỗn loạn tới mức này? Cậu thần ra mấy giây, rồi sực nhớ mình đang có việc quan trọng, vội ném cây súng xuống, thắt chặt tay nải, quay người lẩn vào màn cát bụi mù trời. Chẳng bao lâu sau, lại thấp thoáng mấy bóng người đi đến, thấy tên lính Phụng Thiên nằm mê man, chúng liền xúm lại lột sạch quần áo hắn, cuỗm luôn cả cây súng. Hoàng Khắc Vũ thoát được tên lính, chạy một mạch qua cổng Tuyên Vũ, tới cửa hội quán Thái Nguyên nằm ở đầu Đông ngõ Trữ Khố Doanh mới dừng lại. Chạy cả một quãng dài, cậu thấy phổi nóng rát như bị giội nước sôi, buộc phải nghỉ chân, chống gối thở hổn hển. Vừa ngẩng lên, cậu đã thấy một cậu trai trắng trẻo đeo kính tròn đứng dưới gốc hòe già vẹo vọ đầu ngõ, rõ ràng đã đợi khá lâu. “Đem đến rồi à?” Kẻ kia hỏi. Hoàng Khắc Vũ thận trọng cầm tay nải lên tay, nâng niu vuốt ve, “Dọc đường gặp nhiều rắc rối, suýt nữa làm hỏng.” Hoàng Khắc Vũ đang định cởi tay nải ra thì cậu trai kia đã đưa mắt ra hiệu đừng nói chuyện. Hoàng Khắc Vũ nhìn quanh, phát hiện gần hội quán Thái Nguyên có rất nhiều cảnh sát đi tuần, họ túm năm tụm ba đứng giữa bụi mù, như hồn ma ngoài nghĩa địa giữa đêm hôm, chẳng thấy rõ được dáng dấp và mặt mũi, song vẫn rờn rợn ác ý. “Đi từ từ thôi, đừng chạy, cũng đừng ngoái lại.” Cậu trai hạ giọng dặn, đoạn hai người sánh vai đi vào trong ngõ. Mời bạn đón đọc Danh Gia Cổ Vật Tập 3: Hôi Của Đông Lăng của tác giả Mã Bá Dung.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đường Chân Trời Đã Mất - James Hilton
Một câu chuyện đọc xong người đọc phải phân vân suy nghĩ. Một câu chuyện về một chiếc máy bay di tản bị cướp đi đưa bốn người về một tu viện Lama ở vùng núi cao Tây Tạng. Hay đúng hơn câu chuyện về một con người Conway, ba mươi tư tuổi, công tác tại lãnh sự quán Anh ở Baskul (Ấn Độ), một người có sức hấp dẫn kỳ lạ. Ai đã gặp anh một lần cũng phải nhớ mãi. Anh có một thời sinh viên sôi động, đại diện thể thao của Trường Đại học Oxford, đã giành hầu hết các giải của Nhà trường, khiến một giáo sư giàu tình cảm đã tặng anh danh hiệu Vinh quang: Conway Vinh quang. Cuộc chiến tranh 1914-1918 đã chen ngang vào cuộc đời anh. Cũng như hàng triệu người khác, anh bị nó lôi cuốn vào cuộc bắn giết, sợ hãi, điên dại phóng đãng... Anh ra khỏi cuộc chiến tranh không thương tật, nhưng thực tế thương tật ở bên trong. Sau chiến tranh anh trở về giảng dạy ở Trường Đại học Oxford hai năm, rồi đi làm công tác ở Bộ Ngoại giao vì anh biết nhiều ngôn ngữ Đông Phương. Anh là một con người thấy việc cần làm thì đem hết sức mình ra làm, chứ không vì cái tiếng anh hùng. Một con người không chuộng hình thức, người ta thường nghĩ anh biếng nhác, thực ra chỉ vì anh không muốn ganh đua, không muốn xô đẩy người khác để mình tiến lên. Do vậy, trên đường đời không bao giờ anh được món bở mà thường chỉ bị đẩy đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, anh vẫn không thấy buồn, trái lại còn có phần vui vì như vậy đã tránh được cuộc sống đầy cạnh tranh, chen lấn của xã hội đương thời. Chính với tâm trạng trên, khi bị bắt cóc đưa lên một tu viện Lama xây dựng ở lưng chừng trời, bên mép một dãy núi hoang vu ở Tây Tạng, anh đã gặp Lama tu viện trưởng và đã bị ông thuyết phục đến mức muốn ở lại đây để làm tu sĩ. Và chỉ ít lâu sau anh được tu viện trưởng trước khi chết đã cho anh kế vị. Nhưng vì bổn phận đối với Mallinson, viên phó lãnh sự cùng đi, một thanh niên có gia đình thân thuộc, có người yêu ở London, nên anh này nhất thiết đòi về. Và có lẽ còn vì Lo-Tsen, một nữ tu sĩ đã nhiều tuổi lắm rồi, song trông cô vẫn còn trẻ, coi như mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi, như lúc cô mới đến tu viện Lama. Conway đã yêu cô, một tình yêu không đòi hỏi được đáp lại, yêu cái thanh tú mảnh mai, và anh không ngờ Mallinson đã thuyết phục được Lo-Tsen thu xếp cùng trở về. Hai người cần có Conway là người có thể giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn đầy rẫy trên đường. Vì bổn phận và vì yêu hai người, nên anh đã nhận lời đưa họ trở về… Conway không hề kể lại cho bạn bè nghe về câu chuyện trở về này, nên chỉ biết do ngẫu nhiên mà một người bạn anh đã gặp được anh đang nằm tại một bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh: Lúc này anh đã mất hết trí nhớ. Bạn anh đã ở lại chăm sóc cho anh hồi phục được trí nhớ rồi đưa anh về London. Nhưng giữa đường, anh đã lẩn đi, dường như để tìm đường trở lại tu viện Lama, khiến bạn anh đã mất bao công sức đi hàng ngàn dặm đường, đi khắp nơi để tìm anh. Liệu anh có tìm được đường trở về tu viện Shangri-La ở Tây Tạng không? Đó là điều khó hiểu. ***  James Hilton là một tiểu thuyết gia người Anh đã viết một số tiểu thuyết bán chạy nhất, bao gồm Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), Random Harvest (1941). Trong tác phẩm Lost Horizon, ông hư cấu ra Shangri-La. Sinh ra tại Leigh, James Hilton là con trai của John Hilton, hiệu trưởng của Trường Chapel End ở Walthamstow. Ông được đào tạo tại Leys School, Cambridge. Hilton đã viết hai cuốn sách nổi tiếng nhất của mình, Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), trong khi sống trong một ngôi nhà liền kề khá bình thường trên Oak Hill Gardens, Woodford Green. Ngôi nhà nay vẫn còn, với một tấm bảng màu xanh đánh dấu cư trú của Hilton. Ông đã kết hôn hai lần, lần đầu tiên đến Alice Brown và sau đó đến Galina Kopineck. Cả hai cuộc hôn nhân đã kết thúc bằng ly hôn. Ông qua đời tại Long Beach, California do ung thư gan. Tác phẩm: Catherine Herself, 1920 Storm Passage, 1922 The Passionate Year, 1924 Dawn Of Reckoning (Rage In Heaven), 1925 Meadows Of The Moon, 1926 Terry, 1927 The Silver Flame (Three Loves Had Margaret), 1928 Murder at School (U.S. title: Was It Murder?), xuất bản với bút danh Glen Trevor, 1931 And Now Goodbye, 1931 Contango (Ill Wind), 1932 Knight Without Armour (Without Armor), 1933 Lost Horizon, 1933 Goodbye, Mr. Chips, 1934 We Are Not Alone, 1937 To You, Mr Chips, 1938 Random Harvest, 1941 The Story Of Dr. Wassell, 1944 So Well Remembered, 1945 Nothing So Strange, 1947 Twilight Of The Wise, 1949 Morning Journey, 1951 Time And Time Again, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Chân Trời Đã Mất của tác giả James Hilton.
451 Độ F - Ray Bradbury
451 độ F xứng đáng được xem là một kiệt tác kinh điển có thể thay đổi cuộc đời bất kỳ ai đọc nó. Tác giả Ray Bradbury là một trong những nhà văn lừng danh nhất của thế kỷ XX, tiểu thuyết 451 độ F ban đầu có tên là Lính phóng hỏa (The Fireman), dị bản đầu tiên có nhõn 25 nghìn chữ, được đăng trên tạp chí Galaxy Science Fiction. Hơn ba năm sau, qua một trận ốm nặng, nhà văn Ray Bradbury mới bổ sung thêm rất nhiều cho lần xuất bản sau đó. Ray Bradbury kể rằng đã dành toàn bộ hơi sức mình và “từ một vài động cơ ẩn mật nào đó bên  trong” để tạo dựng nên 451 độ F, một câu chuyện giả tưởng phong phú đến bất ngờ bởi tính dự báo về một xã hội hiện đại đầy những lo âu và bất ổn trong tương lai. Khắc họa xã hội giả tưởng thông qua anh chàng Montag “với cái mũ sắt tượng trưng mang số 451 trên cái đầu phớt lạnh và đôi mắt bừng lửa màu cam”, thế giới tiểu thuyết 451 độ F hiện lên đầy quái dị quanh việc “đốt là một cái thú”, nung cháy bầu trời buổi tối thành màu đỏ - vàng - đen, thiêu cháy làm cho rụi hẳn những mảnh vụn và tàn dư than củi của lịch sử. Ở xã hội mà lính cứu hỏa lại chính là “người châm mồi cho đám cháy” đó, nơi mà truyền hình phù phiếm thống trị, tri thức nông cạn, giải trí “ăn liền” được tung hê, nơi mà “không có sách thì thế giới vẫn ngon lành”, 451 độ F đã rung lên một hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp văn hóa trong một xã hội mà ý tưởng sáng tạo bị ruồng bỏ đến thản nhiên và tội nghiệp. Gấp gáp và sống động, nhà văn Ray Bradbury dường như muốn tất cả độc giả cùng tham gia và rơi vào “độ nóng” của từng mạch truyện. Nơi mà con người chìm mê trong công nghệ, những tình cảm thân thuộc bị xói mòn, nơi mà người ta kết nối với nhau qua sóng chứ không phải là từ những tín hiệu của những cái ôm.  Sự xuất hiện những con “chó máy” vô cảm trong tiểu thuyết khá thú vị, nó làm đúng chức năng, tự nhắm mồi, tự về nhà, tự tắt, “nó chỉ là cáp đồng, pin và điện” khiến không ít người phải giật mình vì tiện ích của đời sống hiện đại. Gấp lại 451 độ F, hẳn không ít người vẫn tủm tỉm đến bóng dáng cô nàng Clarisse “nhỏ nhắn và trắng như sữa”, đi lích rích trong đêm khuya, thích ngửi mùi và nhìn ngắm các thứ, đôi khi cô gái ấy đi suốt đêm, “cứ đi hoài và ngắm mặt trời mọc”.  Thời niên thiếu của mỗi người, chẳng đã từng đôi bận điên rồ đến ngọt ngào như thế hay sao. 451 độ F sắc nhọn, tinh tế, thực tiễn và ấm áp đến những dòng chữ cuối cùng là vậy. Được Ray Bradbury viết vào năm 1963, 451 độ F qua hơn 60 năm vẫn làm chao đảo những độc giả khó tính, trước một “kiệt tác tiên tri”, đáng báo động với chính thế giới của chúng ta. *** Ray Bradbury Douglas là một nhà văn chuyên về sáng tác các tác phẩm kinh dị, khoa học viễn tưởng, và bí ẩn người Mỹ. Nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết Fahrenheit 451 (1953) và tập hợp những câu chuyện khoa học viễn tưởng như The Martian Chronicles (1950) và The Illustrated Man (1951), Ray Bradbury là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ 20 và 21 của nước Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim và chương trình truyền hình. Bradbury sinh ngày 22 tháng 8 năm 1920 ở Waukegan, Illinois, cha mẹ là Esther (Moberg) Bradbury, một người Mỹ gốc Thụy Điển, và Leonard Spaulding Bradbury,[8] một người sửa chữa và bảo dưỡng đường dây điện và điện thoại. Bradbury có quan hệ với học giả Shakespeare Mỹ Douglas Spaulding. Ông cũng là hậu duệ của Mary Bradbury, người đã bị xử tại các cuộc xét xử phù thủy Salem năm 1692. Bà đã kết hôn với Captain Thomas Bradbury của Salisbury, Massachusetts. Thời niên thiếu, Ray đi cùng cha đến Los Angeles trong thời kỳ suy thoái. Thời điểm này, cuốn tiểu thuyết giả tưởng của Edgar Rice Burroughs "Tarzan" đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cậu. Cậu đã đi lang thang khắp Hollywood, bám theo những người nổi tiếng để xin chữ ký. Ray không đi học đại học, ông dành thời gian ở các thư viện để tự học và bắt đầu viết cho các tạp chí. Năm 1950, Bradbury cho ra mắt cuốn sách đầu tiên The Martian Chronicles là câu chuyện giả tưởng về những Earthlings chạy trốn khỏi một hành tinh đang xung đột với cư dân trên Sao Hỏa. Ray sáng tác ra những tác phẩm nổi tiếng khác như Dandelion Wine, I Sing the Body Electric và From the Dust Returned. Bradbury được ghi nhận sáng tác 27 quyển tiểu thuyết và hơn 600 câu chuyện ngắn. Các tác phẩm của ông đã bán hơn 8 triệu bản trên toàn cầu và chuyển thể sang hơn 36 ngôn ngữ. Ông bị đột quỵ vào năm 1999 và phải ngồi xe lăn suốt quãng đời còn lại. Bradbury qua đời tại Los Angeles, California ở tuổi 91 sau một thời gian bệnh tật kéo dài.[20][21] Ông có bốn người con. Vợ của ông đã qua đời vào năm 2003.   Mời các bạn đón đọc 451 Độ F của tác giả Ray Bradbury.
Vĩnh Biệt Mùa Hè - Nguyễn Đông Thức
Bộ tứ 4H (Hân, Hằng, Hoa, Hạ) của lớp 12A đã “làm mưa làm gió” không chỉ trên thị trường sách mà cả trong điện ảnh và âm nhạc trên dưới 20 năm. Ca khúc Vĩnh biệt mùa hè của nhạc sĩ Thanh Tùng viết năm 1992 một thời là ca khúc phổ biến của giới học sinh, sinh viên, nhất là các bạn năm cuối cấp với những ca từ thiết tha đầy nỗi nhớ: “Mùa hè bâng quơ, Bâng quơ nỗi nhớ, Những chiếc lá non vươn trên cành cây khô… Mùa hè đi qua rồi, Tình yêu cũng qua rồi…” Không chỉ có vậy, tác phẩm đã được hãng phim Giải phóng dựng thành phim nhựa năm 1992 và sau đó đạo diễn Bùi Thạc Chuyên chuyển thể thành phim truyền hình dài 4 tập 12A và 4H. Câu chuyện về 4 cô học trò Hằng, Hân, Hoa và Hạ. Hằng xuất thân là con nhà giàu, xinh đẹp, thông minh, học giỏi. Cứ ngỡ rằng cuộc sống sẽ trải thảm dưới chân cô. Thế nhưng việc người mẹ bỏ nhà đi theo tiếng gọi của tình yêu đã đẩy Hằng vào nỗi cô đơn đến tột độ. Và cô ngã vào vòng tay của thầy Minh – một người đàn ông đầy thủ đoạn. Để rồi khi cha cô đối mặt với vòng tù tội do có liên quan đến vụ án tiêu cực thì Hằng nhận ra mình chẳng còn gì: không mẹ, không cha, và người tình cũng cao chạy xa bay. Và nếu cô không may mắn gặp được Đoàn Hùng – người thanh niên xung phong năm xưa thì chưa biết cô sẽ trôi về đâu. Hạ là con gái của gia đình có cha mẹ làm bác sĩ. Cô học trò giỏi văn, bí thư chi đoàn lớp có một mối tình đẹp đẽ và thơ mộng với Long – con trai một sĩ quan chế độ cũ. Vì sự không “môn đăng hộ đối” này mà mẹ Hạ đã quyết liệt ngăn cản. Mọi thứ trong Hạ dường như vụn vỡ khi cô phát hiện ra thủ đoạn mẹ mình đã dùng để chia rẽ hai người. Hân giàu tình cảm, Hoa hồn nhiên. Chính vì vậy mà có lẽ cuộc đời đã dành cho hai cô gái này những ưu ái hơn. Hân tiếp tục học vào đại học, còn Hoa được mẹ giao lại cho gian hàng ở ngoài chợ. Bên cạnh 4 cô gái là Thiện chính trực, dũng cảm bảo vệ lẽ phải, Long giàu nghị lực. Đối lập là Ngôn – một học sinh cá biệt, du côn và kết thúc đời học sinh của mình bằng những nằm tù dài đăng đẳng. Và thầy Minh – một kẻ thủ đoạn. Câu chuyện dẫn dắt người đọc đi qua năm tháng học trò, có những giây phút hồn nhiên đùa nghịch, và cũng có những nỗi buồn đau của đời thường. Và kết thúc với chút buồn man mác. “Hân bước vào sân trường. Khoảng sân giờ đây bỗng rộng mênh mông, trống vắng đến lạnh lùng, đầy những lá rụng và hoa tàn.Mùa hè đang đi qua. Cái mùa hè cuối cùng của đời học sinh trong một năm học đầy biến động….Lần đầu tiên trong cuộc đời, Hân bắt đầu ý thức được sự tạm bợ và phù du của kiếp người. Cô cảm thấy buồn man mác. Tại sao người lớn cứ sống như vậy, khác hẳn những điều mà người trẻ được dạy dỗ, để cuối cùng không còn ai biết tin vào ai nữa. Mùa hè đã vĩnh viễn đi qua” *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook ...   Giải thưởng Giải A cuộc thi sáng tác do thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh với tác phẩm Một bông hồng cho cô bộ đội. Giải nhì cuộc thi sáng tác do thành đoàn Hồ Chí Minh cho tác phẩm Truyện rất khó viết. Giải ba cuộc thi sáng tác do Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh cho tác phẩm Mưa khuya. Giải nhì cuộc thi sáng tác do báo Sài Gòn giải phóng cho tác phẩm Hạnh phúc. Mời các bạn đón đọc Vĩnh Biệt Mùa Hè của tác giả Nguyễn Đông Thức.
Trang Trại Hoa Hồng - Đỗ Kim Cuông
C huyến hàng sang Singapore đã xuất xong từ ngày hôm qua. Tôi còn nấn ná chơi với Vân, nhỏ bạn cùng học từ thời đại học. Nó rủ rê: “- Hai đứa mình về miền Tây chơi thăm vợ chồng Cư - Thơm. Nó cứ nhắc mi hoài”. Không một giây lưỡng lự, tôi ừ liền. Vân giao cửa hàng cho chồng, giao con cho chị giúp việc. Hai đứa leo lên chiếc xe Camry đời mới hướng ra đường cao tốc về miền Tây. Tôi không chút âu lo. Còn những hơn hai tháng nữa mới đến ngày đại giỗ của nhà tôi. Mọi việc chuẩn bị cho ngày trọng đại này tôi đã bàn bạc với chị Thoa cách nay cả tháng. Con lộ mới mở về đến ngã ba Trung Lương, đường rộng, sáu làn xe hai chiều, đi thật mát ga. Xe mới. Cô bạn tôi lại là tay lái bạo, chỉ hơn một giờ cả người và xe đã chìm đắm trong cái màu xanh miên man của dừa, của những vườn cây trái bên bờ sông Tiền, sông Hậu. Thơm thoáng nhìn thấy tôi và Vân đã kêu ré lên: “- Chu cha! Mắt tao có nhìn nhầm không đấy? Hai đứa bay sao lại xuất hiện ở xứ này? Đang định tính chuyện chi ở đây?”. Tôi cười cười. Vân đáp tỉnh queo: “- Tụi tao nhớ mày xuống chơi. Mai về. Có xin nghỉ được lấy một ngày tiếp tụi tao không?”. Thơm nói không đắn đo: “- Giám đốc là tao. Nhân viên văn phòng cũng là tao. Có lúc còn kiêm cả chân bảo vệ. Lo gì? Tiếp tụi bay còn khoái hơn là ngồi với mấy ổng trên thành phố xuống. Mấy cha chưa tan việc đã lo mời đi nhậu. Mệt thấy bà… Hai đứa chờ tao vài phút, tao dặn dò văn phòng. Ta đi uống cà phê. Để tao gọi chồng về, bắt cá đãi tụi bay trưa nay”. *** Nhà văn Đỗ Kim Cuông sinh ngày 25 tháng 4 năm 1951, quê quán phường Hồng Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông gia nhập quân đội, tham gia từ cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, tại chiến trường Trị Thiên Huế với tư cách là một người lính bộ binh, trực tiếp chiến đấu cho đến Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất. Năm 1976, Đỗ Kim Cuông được trở lại giảng đường Đại học tại Khoa Ngữ văn Viện đại học Huế. Sau khi tốt nghiệp, ông về giảng dạy tại Trường cao đẳng sư phạm Nha Trang - Khánh Hoà. Ông nguyên là Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Khánh Hoà, kiêm Tổng Biên tập tạp chí Văn Nghệ Nha Trang, đại diện tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) tại Nam Trung Bộ. Đỗ Kim Cuông đã từng giữ chức Vụ trưởng Vụ Văn hoá văn nghệ Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (2010 - 2021), sống và làm việc tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1990), Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Tác phẩm đã xuất bản: - Người đàn bà đi trong mưa (tiểu thuyết, 1987); - Một nửa đại đội (tiểu thuyết, 1989); - Hai người còn lại (tiểu thuyết, 1989); - Thung lũng tử thần (tiểu thuyết, 1990); - Miền hoang dã (tiểu thuyết, 1991); - Mảnh sân sau u ám (tiểu thuyết, 1993); - Vùng trời ảo mộng (tiểu thuyết, 1993); - Tự thú của người gác rừng (tập truyện ngắn, 1996); - Đêm ngâu (tập truyện ngắn, 1999); - Cát trắng (tiểu thuyết, 1997); - Người dị hình (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, 2000); - Thủ lĩnh vùng sông Tô (tiểu thuyết, NXB Công an Nhân dân, 2001); - Phòng tuyến Sông Bồ (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2009); - Lỗi hẹn với Sê pôn (tiểu thuyết, 2011); - Chớp biển (tập truyện ngắn, 2010); - Lời hẹn với Sê pôn (tập truyện ngắn, 2012); - Gió rừng (tập truyện ngắn, 2012); - Trang trại Hoa Hồng (tiểu thuyết, 2014).  Mời các bạn đón đọc Trang Trại Hoa Hồng của tác giả Đỗ Kim Cuông.