Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vòng Tay Học Trò

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Vòng Tay Học Trò của tác giả Nguyễn Thị Hoàng: Tác giả   Tìm chân dung đích thực của tác giả ‘Vòng Tay Học Trò’ Trong sinh hoạt văn chương miền Nam 20 năm (1955-1975), Nguyễn Thị Hoàng là một trong vài nhà văn nữ, nổi tiếng ngay với tác phẩm văn xuôi đầu tay “Vòng Tay Học Trò.” Nhưng, nếu Nhã Ca (ở lãnh vực văn xuôi) cũng nổi tiếng ngay với truyện vừa “Ðêm Nghe Tiếng Ðại Bác,” lấy bối cảnh sinh hoạt của một gia đình viết về chiến tranh thì, Nguyễn Thị Hoàng lại nổi tiếng khi bà vượt qua vạch phấn cấm kỵ (taboo) của truyền thống đạo đức xã hội Việt Nam, khi viết về lãnh vực tình yêu và, tình dục giữa một cô giáo và học trò của mình, theo xu hướng hiện sinh. Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và ‘Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về’ qua nét bút của họa sĩ Chóe. Trong phần giới thiệu ngắn gọn về tiểu sử nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, trang mạng Wikipedia-Tiếng Việt, cũng ghi nhận như sau: “Tác phẩm đầu tay của bà (NTH) có nhan đề Vòng Tay Học Trò dưới bút danh Hoàng Ðông Phương. Ðây là một tiểu thuyết hiện sinh mô tả vấn đề tình yêu, tình dục giữa một cô giáo tên Tôn Nữ Quỳnh Trâm và học trò Nguyễn Duy Minh được đăng dưới hình thức nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa. Tác phẩm trở thành một trong những tác phẩm gây tranh cãi nhất thời kỳ này, và về sau được tái bản nhiều lần.” Tuy nhiên, theo một vài tư liệu hiện có trên Wikipedia thì, bước chân đầu tiên tìm đến với cõi giới văn chương của người nữ văn sĩ này, vốn là thi ca chứ không phải văn xuôi. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho nhà văn Mai Ninh (hiện cư ngụ tại Paris) năm 2003, tác giả “Vòng Tay Học Trò” cũng xác nhận rằng: “...NTH khởi viết, trước tiểu thuyết, bằng thơ (Tạp chí Bách Khoa 1960), và căn chất mãi mãi cũng chỉ là thơ, rất 'dốt' và sợ cái gì liên quan đến khoa học...” Thực tế cũng cho thấy, bà không chỉ làm thơ đăng báo mà, còn có tới hai thi phẩm đã được xuất bản. Ðó là các tập thơ “Sầu Riêng,” XB năm 1960 và “Kiếp Ðam Mê” XB năm 1961.[1] Tuy nhiên, cũng khác với Nhã Ca. Nếu tác giả “Ðêm Nghe Tiếng Ðại Bác” gây xôn xao dư luận những người yêu thơ cũng như văn giới ngay tự những bài thơ thứ nhất của bà, đăng tải trên Tạp chí Hiện Ðại của nhà thơ Nguyên Sa thì, dường như thơ Nguyễn Thị Hoàng lại kém may mắn hơn! Chúng không nhận được sự chào đón hay, chú ý của dư luận quần chúng. Chính vì thế mà số người biết nhà văn Nguyễn Thị Hoàng là một người làm thơ trước khi viết văn không bao nhiêu - Trừ những người có mối quan tâm đặc biệt, muốn tìm hiểu hoặc, nghiên cứu về sự nghiệp văn chương của bà. Trong số những người có mối quan tâm đặc biệt tới lộ trình chữ, nghĩa của Nguyễn Thị Hoàng, tôi trộm nghĩ, chúng ta phải kể tới nhà văn Nguyễn Ngọc Chính. Ông là người có nhiều bài viết nhất về tác giả “Vòng Tay Học Trò.” Với loạt bài nằm trong “Hồi Ức Một Ðời Người,” họ Nguyễn đã sưu tập về cõi thơ Nguyễn Thị Hoàng và, ghi nhận: “...Trước khi nổi tiếng trong nhóm nhà văn nữ trước 1975, Nguyễn Thị Hoàng là một nhà thơ của xứ Huế với hai tập thơ Sầu Riêng (1960) và Sau Phút Ðam Mê (1961). (2) Nổi bật hơn cả là bài thơ Chi lạ rứa với 40 câu thơ mang đặc những ngôn từ của miền Trung như chi lạ rứa, bởi vì răng, bên ni bờ, đau chi mô, hiểu chi mô (...). “Những vần lục bát là thế mạnh trong thơ Nguyễn Thị Hoàng với những câu thơ rất da diết nhưng cũng rất tự nhiên như văn viết:   Em mười sáu tuổi tơ măng Thịt da đốt cháy thiên đường tình yêu Trong cơn chăn gối rã rời Im nghe từng chuyến xe đời đi qua Ðường về không nhịp trùng lai Chúa ơi con sợ... ngày mai một mình   Nhìn lên thành phố không đèn Âm u còn một màn đêm cuối cùng Mắt sâu dòng lệ ngập ngừng Mình xa nhau đến muôn trùng thời gian   Lênh đênh tiếng hát kinh cầu Ăn năn cổ thụ cúi đầu ngẩn ngơ Trên cao tháp cũ nhà thờ Hồi chuông tưởng niệm bây giờ còn vang   “Lối gieo vần trong thơ 8 chữ cũng là một thể nghiệm mới lạ của nhà thơ nữ:   Em đợi anh về những chiều thứ bẩy Hiu hắt vòm trời buổi sáng thứ hai Nhạc dạo mơ hồ trong tiếng mưa bay Thành phố ngủ quên những ngày chủ nhật   Cho em xin một chiều vui thứ bẩy Có nhạc phòng trà có lá me bay Tiếng gió reo vui đêm dài xa lộ Nửa cuộc đời còn khoác kín vòng tay   “Và cuối cùng là những vần thơ 5 chữ trong bài Lời Rêu:   Uống cùng nhau một giọt, Ðắng cay nào chia đôi Chung một niềm đơn độc, Riêng môi đời phai phôi.   Say giùm nhau một giọt! Chút nồng thơm cuối đời. Vướng giùm nhau sợi tóc, Ràng buộc trời sinh đôi. (...)   Và người thứ ai, theo tôi, là nhà văn Trần Áng Sơn. Trong bài viết nhan đề “Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng-Người đàn bà đẹp,” họ Trần kể, vào thời điểm tháng 4, 2002, khi ông viết bài đó, trong tay ông “...không có 1 tác phẩm nào, như một tài liệu, để gọi nói có sách, mách có chứng. Nhưng, vì quá yêu ngòi bút của bà, khởi đi từ chi tiết rất xa xăm - bài thơ Lạ Rứa! - do 1 người bạn ở Huế chép tặng 1957- tôi thực hiện cuộc trở về trong sương mù, viết bằng ký ức, cảm xúc. Cũng rất có thể, tôi bị lạc lối, nhưng tấm lòng dành cho bài thơ Lạ Rứa! vẫn như xưa...”[2] Dưới đây là nguyên văn bài thơ “Chi Lạ Rứa” của Nguyễn Thị Hoàng, trong ký ức của nhà văn Trần Áng Sơn:   “Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc, Ngó chi tui đồ cỏ mọn, hoa hèn. Nhìn chi tui hình đom đóm đêm đen, Cho tui tủi bên ni bờ cô tịch.   “Tui ao ước có bao giờ tuyệt đích, Tui van xin răng mà cứ làm ngơ. Rồi ngó tui, chi lạ rứa hững hờ, Ghét, yêu, mến, vô duyên và trơ trẽn!   “Tui đã tắt nỗi ngại ngùng bẽn lẽn, Bởi vì răng, ai biết được người hè. Nhưng màu chiều đã rũ bóng lê thê, Ni với nớ, có chi mô gần gũi!   “Chi lạ rứa, răng cứ làm tui tủi? Tàn nhẫn chi với một đứa thương đau! Khối tình câm nên không sắc, không màu, Và vạn thuở chẳng nên câu luyến ái!   “Chi lạ rứa, người cứ làm tui ngại, Biết sông sâu hay cạn giữa tình đời? Bên ni bờ vẫn trong trắng chơi vơi, Mà bên nớ trầm ngâm mô có kể.   “Không muốn khóc, nhưng cứ từng ngấn lệ, Ðọng làn mi ấp ủ mối tâm tình. Bên ni bờ hoa thắm bớt tươi xanh, Mà bên nớ huy hoàng và lộng lẫy.” Nguyễn Thị Hoàng[3] Tuy chỉ với vài bài thơ do hai tác giả Nguyễn Ngọc Chính và Trần Áng Sơn ghi lại, nhưng cũng đã có một số người tự hỏi, nếu không xẩy ra cuộc tình nhiều tai tiếng giữa tác giả Nguyễn Thị Hoàng và câu học trò tên Mai Tiến Thành và (vẫn nếu), họ Hoàng không viết lại thành truyện thì không biết hôm nay, người đọc sẽ có một Nguyễn Thị Hoàng thi sĩ hay, Nguyễn Thị Hoàng văn sĩ? Nhất là khi bà từng nhấn mạnh, với bà, trước sau, căn bản vẫn là thi ca?   Dư luận chung quanh ‘Vòng tay học trò’ và đời thường của nhân vật chính Mặc dù căn cứ vào cuộc phỏng vấn Nguyễn Thị Hoàng dành cho nhà báo Tố Tâm ở tạp chí Ðất Mới, số 4 bộ 2, tháng 4, 1990, Việt Nam thì, cả hai tập thơ mà trang mạng Wikipedia liệt kê trong danh sách tác phẩm đã xuất bản, được bà nói rõ rằng: “...Thơ chưa in thành tập, nhưng rải rác có đăng báo. Khởi đầu năm 1960 ở Bách Khoa và từ 1961-1962 thì ở tạp chí Văn. Nhưng khi những chương đầu tiên của Vòng Tay Học Trò được in ở Bách Khoa thì tiểu thuyết là chính, thơ chỉ còn là tô điểm thế mà.”[4] Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng. (Hình: NAG Trần Cao Lĩnh chụp) Nhưng, có dễ trước sau thi ca vẫn là “cây bài chủ,” hay ngọn hải đăng tâm hồn họ Nguyễn. Nên khi bước qua văn xuôi, ngay tự những trang viết thứ nhất của tiểu thuyết “Vòng Tay Học Trò,” bên cạnh sự hấp dẫn, lôi cuốn của cốt truyện chắt, chiết từ đời thật, tác giả vẫn có những đoạn tả cảnh, tình ắp đầy thi tính như: “...Một tiếng chim hót lên đầu cành thông gần mái nhà. Trâm nhìn ra. Vòm trời xanh mênh mông in hình nét đồi cong thoai thoải, sáng rực nắng chiều. Một đám mây trắng sắp sửa nhô lên sau ngọn đồi thấp nhất. Hình ảnh của những buổi chiều yên tĩnh, cuộc đời cô quạnh, buồn lãng mạn và nên thơ thoáng qua trong trí Trâm. Nàng chợt vừa sợ vừa thích nỗi cô đơn hiện tại (...). “Trâm đứng lên mở rộng cánh cửa kính. Mùi thơm quen thuộc của cỏ khô và đất mới xới, lẫn với mùi dâu chín dưới thung lũng thoảng theo gió bay lên làm Trâm tự nhiên ấm áp trong lòng, tưởng như đang đời đời yên ổn sống trên đất quê hương...” (Trích VTHT, chương 1)[5] Hoặc một đoạn khác, ở chương 2, tác giả ghi lại, những “cảm nhận” về cậu học trò tên Minh, nhân vật sẽ sớm trở thành người yêu của cô giáo Trâm (biến thân của chính tác giả): “...Trâm giấu nụ cười trong bàn tay vừa đưa lên che môi. Bây giờ, bọn học trò chăm chú vào công việc, không nhìn lên nàng nữa. Trâm tự do, dễ chịu, tha hồ nhìn xuống, quan sát từng đứa để ‘trả thù’ bị nhìn lúc mới vào. Vài đôi mắt nhìn ra cửa sổ. Trâm nghĩ, thế nào cũng có thông reo gió thổi. Có đôi mắt nhìn sững vào khoảng không hay trên vách tường trống trải. Có cặp mắt sáng rỡ nhìn lên như vừa bắt gặp một ý tưởng, một hình ảnh thần tiên nào đó đang chiếu vào khoảng tâm hồn u tối. Có cặp mặt đăm đăm nhìn xuống tờ giấy trắng như chờ mong những hàng chữ bỗng nhiên hiện hình theo phép lạ. “Cuối cùng, Trâm nhìn xuống chỗ Minh ngồi. Cậu bé đang lơ đãng chống tay vào má nhìn lên phía nàng. Cây bút xoay tròn tinh nghịch trên mấy ngón tay trắng nhỏ. Nàng mỉm cười thật nhẹ như thầm nhắc, sao em không viết gì đi. Minh mỉm cười yên lặng. Nụ cười nửa đầm ấm bắt gặp vẻ quen thân trong xa lạ, nửa ngại ngùng bối rối muốn lẩn trốn, che giấu chính mình và những ý nghĩ mình trước đôi mắt dò xét và phán đoán của kẻ khác. Rồi đôi mắt Minh cúi xuống. Ngòi bút loay hoay trong tay, bây giờ bị cắn nhẹ giữa hai hàm răng đều và nhỏ. Minh vò một mẩu giấy nhỏ vứt xuống đất, giở trang giấy khác, nhưng không viết gì được. Trâm biết Minh muốn đứng lên, chạy bay ra khỏi phòng, chạy thật xa cái nhìn xoi mói của nàng. Nhưng Trâm cứ nhìn như kẻ đi săn nhìn con thú lúng túng tìm cách thoát thân khỏi cái bẫy của mình...[6] Ðược biết “Vòng Tay Học Trò” của Nguyễn Thị Hoàng trước khi in thành sách, đã được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Bách Khoa, Saigon, 1964. Ngay khi còn ở dạng truyện đăng nhiều kỳ, VTHT cũng đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của giới trẻ thời điểm đó. Nhưng mãi tới năm 1966, tiểu thuyết này mới được in ra. Và đó mới là thời điểm “cơn bão VTHT” đạt tới đỉnh điểm cao nhất.   Mời các bạn mượn đọc sách Vòng Tay Học Trò của tác giả Nguyễn Thị Hoàng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hanoi Jane - Elka Ray
Hanoi Jane là cuốn tiểu thuyết tình cảm pha trộn yếu tố phiêu lưu trinh thám của một nữ tác giả người Canada đang sống và làm việc tại TP. HCM. Tác phẩm còn là một góc nhìn đầy thú vị về Hà Nội của người nước ngoài sống và làm việc tại Việt Nam. Không lâu sau khi chuyển đến sống tại Hà Nội với chồng sắp cưới, Wyatt – một nhân viên ngân hàng, Jane Moxley nhanh chóng phát hiện ra mình đã bị phản bội. Mặc dù rất muốn rũ bỏ tất cả để trốn chạy về New York, nhưng sâu trong thâm tâm, Jane vẫn không thể chấp nhận chuyện mối quan hệ giữa cô và Wyatt đã chấm dứt. Với sự giúp đỡ của cô bạn Sigrid, Jane lên kế hoạch lật tẩy tình địch của mình, một cô gái người Pháp gốc Việt, tên Lindy Trần, hiện đang quản lý một dự án phi chính phủ hỗ trợ những hoàn cảnh khó khăn. Sở hữu một thân hình sexy, đầu óc thông minh và nắm trong tay những điều khiến người khác phải ghen tị, dường như Lindy là một cô gái quá mức hoàn hảo. Nhưng có thật là như thế không? Càng tìm hiểu, Jane và Sigrid càng phát hiện ra Lindy là một kẻ dối trá. Cô ta không những cùng lúc qua lại với ba người đàn ông, mà tổ chức nhân đạo do cô ta điều hành dường như cũng có gì đó khá mờ ám. Ban đầu, việc theo dõi Lindy chỉ là tìm bằng chứng để lôi kéo Wyatt trở về, nhưng càng về sau, Jane càng cuốn vào một cuộc phiêu lưu đầy biến cố, và cũng nhờ thế mà cô đã gặp được tình yêu và hạnh phúc mới. Lấy bối cảnh là một cô gái nước ngoài trên đất Việt, với những tuyến nhân vật cá tính cùng tình tiết hấp dẫn, Hanoi Jane chắc chắn sẽ là một cuốn truyện thích hợp cho những phút giây thư giãn, bất kể bạn có đang trong kỳ nghỉ hay không… Câu chuyện còn hé mở cho bạn đọc Việt Nam những nét sinh động về đời sống của người nước ngoài ở Hà Nội, với những niềm vui, nỗi buồn và những góc nhìn của người ngoại quốc về thành phố xinh đẹp này. *** Elka Ray sinh ra tại Anh và lớn lên ở Canada, nhưng suốt 15 năm qua, Elka Ray sống tại Việt Nam và làm công việc của một phóng viên kiêm biên tập viên. Những bài viết của Elka trên tờ Southeast Asia đã được đăng lại trên nhiều tạp chí và sách du lịch khác, Hanoi Jane là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Elka. Elka hiện sống cùng gia đình với hai con nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh. Để biết thêm thông tin, xin mời truy cập địa chỉ www.elkaray.com. *** Chúng tôi trở lại hồ bơi trong khách sạn Metropole. Ánh nắng vẫn gay gắt và bầu trời vẫn xanh như lần trước. Hôm nay, bố tôi mặc chiếc quần soóc lửng màu neon, còn tôi vẫn chọn bộ bikini kẻ hồng. Riêng mẹ tôi diện đồ bơi màu lam với đinh tán ở phần vai và tua rua trước ngực, trông như trang phục của các nữ cao bồi hồi những năm 1970 vậy. Liệu đinh tán có gỉ không nhỉ? Xung quanh chúng tôi, mấy cô phục vụ vẫn cau có, khách đến hồ bơi là những mệnh phụ người Pháp, dáng người mảnh khảnh và mặc đồ bơi màu đen. Mọi vật dường như không hề thay đổi so với lần trước, nên tôi không mấy bất ngờ khi nhìn thấy Wyatt. Lần này, anh xuât hiện vẫn trong bộ đồ tập, và vẫn đang tranh cãi với ai đó qua điện thoại. Tôi nín lặng chờ trái tim mình loạn nhịp, chờ cảm giác căng thẳng quặn ruột gan, chờ xem cổ họng mình liệu có nghẹn lại, hay có ngần ngại vì bộ dạng mình có xinh đẹp hay không. “Này, có phải Wyatt kia không?” bố tôi kêu lên. Mẹ tôi hé mắt nhìn: “Ừm.” Những tua vải trên bộ đồ bơi của bà rung lên khe khẽ. Wyatt vừa tắt máy thì nhìn thấy chúng tôi, chính xác hơn là thấy tôi, anh sững lại. Vẻ mặt của anh vừa bất ngờ, vừa hy vọng, giống như một người bị lạc đường chợt nhìn thấy một điều gì đó sau nhiều ngày đi bộ đường dài vậy. Anh đưa tay lên che mắt, rồi nặng nề lê bước đến chỗ tôi. Tôi cũng bơi lại gần. Trong lúc ngập ngừng chào bố mẹ tôi, mắt anh vẫn nhìn tôi chằm chằm. “Chào anh”, tôi lên tiếng trước. “Anh khỏe không?”. Nếu đây là một sự quan tâm thì câu hỏi của tôi không được lịch sự lắm, bởi trông Wyatt thực sự mệt mỏi. Làn da sần sùi, anh có vẻ sút mất vài cân, tóc tai bù xù hai bên thái dương. Mấy ngày vừa rồi, tôi để lỡ mấy cuộc gọi của Wyatt, và cũng không hề nhấc máy gọi lại. Nhưng khi nhìn thấy anh trong bộ dạng này, tôi cảm thấy hơi có lỗi. Không biết có phải anh bị ốm không. Hay trái tim anh đã tan vỡ khi nghe chuyện Lindy bị bắt? “Anh, ừm... đã gọi cho em mấy lần”, anh nuốt khan rồi ngồi sụp xuống bên thành hồ bơi. Lúc này, tôi vẫn đứng dưới hồ, nước cao ngang eo, và chỉ cách anh khoảng 5 mét. Nhìn gần trông anh có vẻ đang bệnh với đôi mắt quầng thâm. Một bên bít-tất của anh bị lộn trái. Wyatt mà tôi biết không bao giờ phạm phải sai lầm đó. ... Mời các bạn đón đọc Hanoi Jane của tác giả Elka Ray.
Xơ Carrie - Theodore Dreiser
Xơ Carrie là câu chuyện về số phận của một cô gái quê chuyển đến thành phố lớn, nơi cô bắt đầu nhận thức được giấc mơ Mỹ của mình. Ban đầu, cô trở thành tình nhân của những người đàn ông mà cô ngỡ là thượng đẳng, rồi sau đó cô trở thành một nữ diễn viên nổi tiếng. Tồn tại hơn một thế kỷ, cho đến nay Xơ Carrie được coi là một trong những tiểu thuyết hay nhất về thị thành nước Mỹ, khai thác được những chi tiết táo bạo trong bản chất con người, cũng như ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa đến toàn bộ dân Mỹ vào cuối thế kỷ 19. *** Xơ Carrie được xếp hạng cao trong 100 tiểu thuyết hay nhất viết bắng tiếng Anh của thế kỷ 20. - MODERN LIBRARY Xơ Carrie là câu chuyện hiện thực, tàn nhẫn, sắc sảo, để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ bạn đọc trong nhiều ngày liền. - LONDON EXPRESS Theodore Dreiser là nhà văn rất độc đáo, có cảm xúc sâu sắc và lòng can đảm không thể lay chuyển. Bức chân dung chân thật, sống động về cuộc đời Carrie được coi là sự cố gắng dũng cảm, giúp bạn đọc có cái nhìn hiện thực về cuộc sống của phụ nữ Mỹ cuối thế kỷ 19. - H.L.MENCKEN Xơ Carrie đã được đạo diễn William Wyler đưa lên màn ảnh do các nghệ sĩ danh tiếng Laurence Olivier và Jennifer Jones đóng vai chính. Trong Xơ Carrie, Theodore Dreiser miêu tả sinh động sức mạnh tàn bạo của những quyết định sai lầm - hoặc thiếu kiên quyết - hủy hoại cuộc đời con người. - REBECCA GLEASON   *** Theodore Dreiser (1871 - 1945). Là ngôi sao sáng giá trong nền văn chương nước Mỹ đầu thế kỷ XX. Hơn bốn mươi năm sáng tác, Dreiser đã cho ra đời nhiều bộ tiểu thuyết, truyện ngắn, ký sự, tiểu luận, kịch... Ba cuốn tiểu thuyết: Một bi kịch nước Mỹ, Xơ Carrie và Jenny Ghechac đã đưa ông lên địa vị hàng đầu trong văn đàn và được coi là người cha của nền văn học hiện thực nước Mỹ. *** Khi Caroline Meeber đáp chuyến tàu chiều đến Chicago, “toàn bộ hành trang của cô chỉ gồm một vali nhỏ, một cái cặp rẻ tiền giả da cá sấu, một bữa trưa đạm bạc đựng trong hộp giấy và cái ví bấm bằng da màu vàng đựng vé, mảnh giấy ghi địa chỉ của chị cô ở phố Van Buren và vẻn vẹn bốn đôla. Đang là tháng Tám năm 1889. Cô mười tám tuổi, rạng rỡ, bẽn lẽn và đầy ảo tưởng vì dốt nát và tuổi trẻ. Mọi nỗi ân hận lúc chia tay chắc chắn lúc này chẳng có lợi gì cho một người đã từ bỏ. Những giọt nước mắt tuôn trào trong cái hôn từ biệt của mẹ, cổ họng cô nghẹn ngào khi xe chạy lóc cóc qua xưởng xay bột, nơi bố cô làm việc ban ngày, một tiếng thở dài cảm động lúc phong cảnh xanh tươi quen thuộc của miền quê lướt qua trong hồi tưởng, những sợi dây ràng buộc nhẹ nhàng thời thiếu nữ và gia đình cô đã đứt tan, không sao cứu vãn nổi. Chắc chắn rằng lúc nào cũng có một ga sau, người ta có thể xuống tàu và trở lại. Có một thành phố lớn, kết nối chặt chẽ hơn bằng chính những đoàn tàu đi, đến hàng ngày. Thành phố Columbia cách không xa lắm, ngay cả khi cô đã ở Chicago. Lạy Trời, còn vài giờ hay vài trăm dặm nữa? Cô nhìn vào mảnh giấy nhỏ ghi địa chỉ của người chị và lo lắng. Cô chăm chú nhìn quang cảnh xanh tươi lúc này đang lướt nhanh, cho đến khi những ý nghĩ mau lẹ hơn thay thế ấn tượng bằng những phỏng đoán mơ hồ, liệu Chicago sẽ như thế nào. Khi một cô gái mới mười tám tuổi xa nhà, cô ta sẽ làm một trong hai việc. Hoặc rơi vào những bàn tay cứu giúp và trở nên tốt hơn, hoặc nhanh chóng công nhận tiêu chuẩn đạo đức của kẻ giang hồ và trở thành xấu hơn. Dù ở hoàn cảnh nào cũng không thể ở lưng chừng. Thành phố có những mưu chước xảo trá của nó, không kém phần ti tiện và đầy mưu chước cám dỗ con người. Những người có học nhất đã thể hiện sức lôi cuốn to lớn với đủ thứ tầm thường. Ánh lấp lánh của hàng ngàn ngọn đèn gây ấn tượng sâu sắc chẳng kém gì ánh mắt thuyết phục trong cái nhìn ve vãn và quyến rũ. Một nửa sự đồi trụy của trí tuệ mộc mạc và tự nhiên là do những sức mạnh hoàn toàn siêu phàm gây nên. Một âm thanh ầm ĩ, một tiếng thét của con người, một đám nhân quân đông đúc khiến các giác quan ngạc nhiên bằng nhiều cách nói lập lờ. Không có một cố vấn gần ngay đó thì thầm những lời giải thích thận trọng, rằng sự lừa dối có thể là những lời thì thào vào một cái tai thiếu cảnh giác! Không nhận ra chúng, vẻ đẹp của chúng giống như âm nhạc, thường làm ta thanh thản, trở nên yếu đuối, rồi làm nhận thức của những người hồn nhiên hơn dễ lầm đường lạc lối. Caroline, hay xơ Carrie như cả nhà gọi cô khá trìu mến, có khả năng quan sát và phân tích của một trí tuệ còn thô sơ. Tính vị kỷ của cô cao nhưng không mạnh. Dẫu sao, nó cũng là đặc điểm chủ yếu của cô. Sôi nổi với những tưởng tượng của tuổi trẻ, đẹp theo kiểu xinh xắn trong giai đoạn đang trưởng thành, sở hữu một thân hình có những đường cong đầy hứa hẹn và cặp mắt ngời sáng với vẻ thông minh bẩm sinh, cô là mẫu người đẹp của tầng lớp trung lưu nước Mỹ, khác biệt với người di cư hai thế hệ. Sách vở ở ngoài tầm chú ý của cô, kiến thức là một cuốn sách niêm kín. Trong vẻ duyên dáng bẩm sinh của cô vẫn còn chút gì đó thô thiển. Chắc chắn là cô không biết cách hất đầu cho duyên dáng. Đôi bàn tay cô gần như vô dụng. Bàn chân cô tuy nhỏ nhắn nhưng bẹt. Tuy nhiên, cô được chú ý vì vẻ quyến rũ, nhanh hiểu những khoái lạc mãnh liệt của cuộc đời, thèm muốn giành được những thứ vật chất, cô là một hiệp sĩ trang bị nửa vời, liều thăm dò thành phố bí ẩn và mơ những giấc mộng ngông cuồng của một uy quyền tối cao xa vời, mơ hồ, biến nó thành con mồi và thần dân - người ăn năn hợp thức, bò sát bên giày đàn bà. ... Mời các bạn đón đọc Xơ Carrie của tác giả Theodore Dreiser.
Pierre Và Jean - Guy de Maupassant
Trong thời gian sáng tạo ngắn ngủi – quãng mười năm của cuộc đời không dài (1850-1893), Guy de Maupassant dành nhiều quan tâm cho truyện ngắn, và cũng nổi tiếng nhờ truyện ngắn. Có lẽ vì thế, sáu cuốn tiểu thuyết của ông ít được người đọc cũng như giới phê bình chú ý (tất nhiên vẫn có ngoại lệ, Lev Tolstoi, đại văn hào Nga cùng thời, coi cuốn "Một cuộc đời", cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Maupassant là "cuốn tiểu thuyết Pháp hay nhất, từ sau Những người khốn khổ của Hugo"). Khoảng vài chục năm cuối thế kỷ XX tình hình có khác và trong sự tiếp cận "đổi mới" tiểu thuyết Maupassant, các nhà nghiên cứu dành một vị trí khá đặc biệt cho Pierre và Jean, cuốn tiểu thuyết thứ tư, xuất bản năm 1888. Với dung lượng không lớn, chỉ như một truyện ngắn, Pierre và Jean có cấu trúc giản dị, văn chương trong sáng. Song, khảo sát sâu hơn, sẽ thấy bên dưới vẻ tự nhiên, đơn sơ, là công phu, là sự lão luyện về phương diện ngôn ngữ và thủ pháp thuật truyện. Về mặt sự kiện, chất liệu của cuốn tiểu thuyết khá ít ỏi: trong một gia đình có hai con trai, người em bất ngờ được thừa kế một tài sản lớn. Biến cố không ở bản thân sự kiện, không do sự kiện tạo nên, mà ở những gì chúng tiết lộ. Và câu chuyện là diễn tiến của một phát hiện – người con lớn phát hiện quá khứ của mẹ mình, phát hiện quan hệ thực sự giữa các thành viên trong gia đình mình. Dần dắt truyện vẫn là một người kể biết hết mọi điều, nhưng ở đây sự "biết hết" rằng có chừng mực, bởi người này hay lẩn mình đi tại những khoảnh khắc chủ chốt, hoặc cứ để lửng lơ một số điều không được nói ra (như ý nghĩ của bà mẹ, của nàng thiếu phụ Rosémilly), hoặc cho sự vật được soi rọi từ điểm nhìn của Pierre, người con cả. Phương thức kể chuyện như thế khiến Pierre và Jean chuỷên thành cuốn tiểu thuyết viết về quá trình của một tư duy, thế giới chính của truyện là thế giới tinh thần, tâm trạng. Đó cũng là chất liệu ưa thích của tiểu thuyết thế kỷ XX, khi các tác giả ngày càng có xu hướng đưa người đọc vào thế giới riêng của một tâm tư, một trí óc, với những dằn vặt, ám ảnh, độc thoại nội tâm. Điều này lý giải vì sao hiện nay nhiều nhà nghiên cứu lại đánh giá Pierre và Jean là một bước chuyển từ truyền thống tiểu thuyết thế kỷ XiX sang tính hiện đại đang manh nha. Một yếu tố khác cũng khiến Pierre và Jean được coi như có tinh bán lề giữa tiểu thuyết hai thế kỷ, giữa truyền thống và cái mới, đó là bài Tựa quan trọng, một tiểu luận được Maupassant đặt cho tiêu đề "Tiểu thuyết". Như một tuyên ngôn, bài Tựa phát biểu những suy nghĩ của Maupassant về phê bình, về thể loại tiểu thuyết, về công việc sáng tác, và về chủ nghĩa hiện thực. Maupassant chống lại thiên kiến hẹp hòi trong phê bình và nhận xét rất chính xác về tính chất mở của tiểu thuyết, một thể loại động, tự do, cho đến bấy giờ vẫn theo quy phạm hoá chặt chẽ. Ông cũng nêu lên ý kiến của mình về chủ nghĩa hiện thực, những ý kiến được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay tán thưởng, bởi theo họ, chúng lý giải nghịch lý cũng như tính biện chứng nội tại của khái niệm: sự thật và tính văn chương, phản ánh và hư cấu. Theo Maupassant, bằng việc lựa chọn sự kiện, bằng cách kết hợp, cấu tạo lại các sự kiện, nhà tiểu thuyết truyền đạt cho người đọc cái nhìn riêng của cá nhân anh ta đối với thế giới "tả thực là tạo ra ảo tưởng trọn vẹn về cái thực" do đó "các nhà hiện thực tài ba lẽ ra phải gọi là các nhà gây ảo tưởng thì đúng hơn". Suy nghĩ về công việc của nghệ sĩ, về những gì nghệ sĩ cần và có thể làm, Maupassant đã đặt chân vào con đường trên đó văn học thế kỷ XX sẽ quyết liệt dấn bước, đặt câu hỏi về bản thân, đặt câu hỏi về hành vi viết, hành vi đọc. Có thể đọc Pierre và Jean một cách thoải mái, như một câu chuyện nhẹ nhàng, pha chút ý vị trinh thám. Cũng có thể thưởng thức tác phẩm như một cuốn tiểu thuyết đậm sắc thái hội hoạ ấn tượng chủ nghĩa với hình ảnh trở đi trở lại và vai trò của nước, mô típ ưa thích trong hội hoạ ấn tượng, với tầm quan trọng dành cho sự cải tạo của cái nhìn, với thủ pháp cho nhân vật tự hình thành dần trong mắt độc giả, tương tự cách sử dụng những quệt màu liên tiếp để gợi bức tranh toàn cảnh. Lại cũng có thể, như một vài nhà phê bình phân tâm học Pháp, tìm thấy ở tác phẩm mặc cảm Oedips ngầm ẩn bên dưới cấu trúc gia đình, và sự thấp thoáng của cái vô thức. Đó là cách tiếp cận riêng, là sở thích, là hứng thú cá nhân, tùy thuộc, nói như Maupassant, vào cái tạng của mỗi người NGƯỜI DỊCH *** Henri René Albert Guy de Maupassant (1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn.   Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Anh bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Mont-Oriol (1887) Pierre et Jean (1888) Fort comme la Mort (1889) Notre Coeur (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Cô Fifi (Mademoiselle Fifi, 1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Miss Harriet (1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert (1884) Mời các bạn đón đọc Pierre Và Jean của tác giả Guy de Maupassant.
Những Đứa Con Phố Arbat - Anatoli Rybakov
Anatoly Naumovich Rybakov (Anatoli Rybakov) sinh ngày 14.1.1911 trong một gia đình gốc Do Thái ở Chernygov, từ năm 1919 chuyển về Moskva sống tại phố cổ Arbat. Tốt nghiệp phổ thông, nhà văn tương lai phải làm nhiều nghề kiếm sống: công nhân xưởng hóa chất, bốc vác, lái xe… nên hai mươi chín tuổi mới bước chân vào trường đại học Giao thông vận tải. Thế nhưng, học được ba năm, ngày 5 -11.1933, A. Rybakov bị bắt và lĩnh án tù giam ba năm vì tội “tuyên truyền phản cách mạng”. Mãn hạn tù, không được phép cư trú trong thành phố, anh lang thang hầu khắp nước Nga, nhận làm tất cả các công việc kiếm sống miễn là không phải khai báo, cho đến năm 1938 mới được vào biên chế chính thức, làm kỹ sư trưởng phòng quản lý vận tải đường bộ khu vực Riazan. Năm 1941, chiến tranh bùng nổ, A. Rybakov vào phục vụ trong các đơn vị vận tải quân đội, tham gia chiến đấu ở hầu khắp các mặt trận từ Moskva đến Berlin, năm 1946 làm đến chức trưởng ban cơ giới của quân đoàn, mang hàm kỹ sư thiếu tá. Do những thành tích xuất sắc trong chiến đấu chống quân phát xít, Rybakov được sửa lý lịch, thành “không có tiền sự, tiền án” và đến năm 1960 thì được khôi phục danh dự hoàn toàn. Một trường đời như thế mà để ngoài văn chương thì thậm vô lý - và năm 1947, Rybakov bắt đầu hướng vào hoạt động văn học, mở đầu là thiên truyện phiêu lưu li kỳ dành cho tuổi thiếu niên Thanh đoản kiếm (1948, được đưa lên màn ảnh hai lần, vào năm 1954, 1973) rồi hai phần tiếp theo: Con chim đồng (1956, thành phim năm 1974) và Tiếng súng (1975, trước đó, năm 1974 đã được dựng thành phim Mùa hè cuối cùng của tuổi thơ). Thành công của hai cuốn sách đầu tay giúp nhà văn tự tin đi tiếp mạch truyện viết cho thiếu niên: từ Những cuộc phiêu lưu của Krosh (1960, thành phim năm 1961) ông viết hai cuốn tiếp theo Những kỳ nghỉ của Krosh (1966, thành phim năm 1979), Người lính vô danh (1970, hai lần lên màn ảnh - Phút mặc niệm, 1971 và Người lính vô danh, 1984).  Ở thể loại tiểu thuyết dành cho người lớn, Rybakov thử sức bằng cuốn Những người cầm lái (1950, về những chiến sĩ lái xe vận tải, cựu đồng nghiệp của mình), và năm sau được giải thưởng Stalin hạng nhì. Khi Stalin thấy trong danh sách những nhà văn được đề nghị tặng giải thưởng mang tên mình có Rybakov, ông bèn bảo A. Fadeev, người đứng đầu Hội Nhà văn Liên Xô hồi ấy: “Thế đồng chí có biết người này đã bị khai trừ đảng và ba lần bị tòa xử về tội phản cách mạng?” Và Rybakov đã giải trình được: ông chưa hề được kết nạp nên không có chuyện khai trừ, còn án tù thì đã được hủy từ khi ông đang ở chiến trường. Tiếp đó, Rybakov thành công lớn với Ekaterina Voronina (1955, về đường đời một cô gái mồ côi trở thành nhà quản lý giao thông đường sông với những thăng trầm theo thời cuộc, được dựng thành phim năm 1957) rồi cho ra đời Mùa hè ở Sosnyaky (1964, về nhân tình thế thái tại công trường xây dựng một khu liên hợp hóa chất bên bờ hồ Baikal). Năm 1978, cuốn Cát nặng ra đời. Tiểu thuyết này kể về chặng đời 1910 - 1950 của một gia đình người Do Thái tại một địa phương có nhiều dân tộc chung sống ở miền bắc Ukraina, về mối tình sâu nặng bất chấp mọi rào cản qua hàng chục năm, về thảm kịch lò thiêu người của bọn phát xít làm thiệt mạng hàng triệu người dân tộc thiểu số thuộc những quốc gia khác và xóa sổ gần 1/3 tổng số người Do Thái trên toàn cầu, đồng thời kể lại gương chiến đấu dũng cảm của những chiến sĩ du kích chống phát xít. Tác phẩm đỉnh cao này kết hợp được cả vẻ đẹp văn chương, cả chiều sâu triết học, vừa có sự phân tích lý giải những sự kiện lịch sử, vừa có tính biểu tượng cao: hình tượng nữ nhân vật chính trong mối tình kể trên, và sau đó, ở phần cuối tiểu thuyết, là người mẹ, người vợ của Rakhile đầy tính ẩn dụ về lòng căm thù của dân Do Thái đối với phát xít Đức. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập năm 2008. Chịu số phận lận đận hơn cả là tiểu thuyết Những đứa con của phố Arbat: được tác giả viết xong từ những năm 1960, thời Khrutshov, nhưng đến năm 1987 thời Gorbachov phát động cuộc cải tổ mới có thể đến với độc giả và năm 2005 thành phim truyền hình nhiều tập. Trong lứa thiếu niên ở phố Arbat đầu thế kỷ XX khá nhiều người tài, trong đó có nhà thơ - nhạc sĩ Bulat Okudjava và nhà văn Anatoli Rybakov cùng sống ở dãy nhà đánh số lẻ. Cả hai nhà văn bậc thầy này đều đã ra mặt trận chiến đấu: Okudjava - con trai của một tù nhân - tình nguyện nhập ngũ khi mới mười bảy tuổi, còn Rybakov – cựu tù nhân về tội “tuyên truyền phản cách mạng” – sung vào đơn vị vận tải quân sự và được phục hồi danh dự khi Okudjava đã có năm năm tuổi Đảng. Những đứa con của phố Arbat là tác phẩm sớm nhất viết về số phận lứa thanh niên mới lớn vào những năm 1930 và được dịch giả Lê Khánh Trường nhanh chóng chuyển sang tiếng Việt. Cốt truyện tự nhiên dựa trên những biến cố có thật trong đời tác giả, với nhãn quan đúng đắn của nhà văn, nhìn nhận chuyện quá khứ tuy vương nỗi buồn thương, nhưng bao trùm là một thái độ khoan dung, không oán thán, Những đứa con của phố Arbat được coi như một “quả bom tấn trong văn học”, mang lại vinh quang thực thụ cho nhà văn. Được đà, tác giả sau đó viết tiếp cả một chùm ba tiểu thuyết nữa: 1935 và những năm khác (1989), Kinh hoàng (1990), Bụi và tro (1994).  Cũng như đối với nhiều tác phẩm trước đó, Rybakov thường đi tiếp mạch của cuốn truyện thành công để làm thành những cuốn sách trọn bộ. Đặc biệt, giữa bộ truyện này với bộ truyện kia vẫn có mối liên quan gắn bó: nhân vật chính trong Những đứa con của phố Arbat là Sasha Pankratov từng xuất hiện thấp thoáng trong cuốn Tiếng súng. Người đọc có thể thấy nét đặc sắc này khi có trong tay bộ Tuyển tập tác phẩm Anatoli Rybakov gồm bảy cuốn, xuất bản năm 1995.  Anatoli Rybakov mất ngày 23.12.1998 tại New York, được đưa về an táng tại Moskva. Những đứa con phố Arbat NXB văn học 198x Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Phố Arbat của tác giả Anatoli Rybakov.