Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lam Ngọc

Với gấp đôi rắc rối, gấp ba hành động, và gấp bốn tình yêu, trong Lam ngọc, cô nữ sinh trung học Gwendolyn Shepherd càng lúc càng bị cuốn theo vào một bí mật xoắn vào các chiều thời gian xuyên nhiều thế kỷ. Có thể bất thình lình bị ném về quá khứ, hoặc đơn độc, hoặc vẫn đồng hành cùng Gideon mắt xanh đẹp trai choáng váng, có lúc sẽ sém rơi nước  mắt, có lúc sẽ vui, vì giờ đây bên cạnh Gwen gần như đã kè kè con quỷ đá Xemerius ranh mãnh đáng yêu ra đời từ thế kỷ 11. Nhưng mọi chuyện không dễ, vì đội cận vệ cùng ông bá tước nguy hiểm và anh chàng Gideon ra sức tìm cách ngăn cản Gwen tiếp cận những bí mật của họ. Thật không dễ khi Gwen con không tài nào hiểu: liệu Gideon coi cô là kẻ phản bội hay thực sự tin tưởng cô? Và, đôi mắt xanh chết người của hắn nhiều lúc đã làm con tim thiếu nữ ngây thơ của Gwen nhưu quên đập...   ...Tất cả các bà mẹ đều say mê Kerstin Gier, giờ thì con gái họ cũng vậy... *** Kerstin Gier chính là cây bút châu Âu có thể khiến người ta quên ngay Stephanie Meyer bằng một chuyện tình Romeo - Juliet quyến rũ xảy giữa các vùng thời gian, làm xáo động các độc giả hiện đại theo một cách khác biệt! Hồng ngọc (Rubinrot) đã trở thành hiện tượng xuất bản ở Đức trong khoảng 5 năm trở lại đây, được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng và dựng phim năm 2013. *** Khúc dạo đầu London, 14 tháng Năm năm 1602 Những con hẻm của Southwark chìm trong bóng đêm, tối tăm và hiu quạnh. Không khí phảng phất mùi rong rêu, cống rãnh và cá chết. Anh bất giác siết chặt tay cô rồi kéo cô đi tiếp. “Lẽ ra chúng ta cứ đi men theo bờ sông. Trong ngõ ngách hỗn độn này người ta không lạc đường mới lạ,” anh thì thào. “Đúng thế, và ở mỗi góc tối đều có bọn trộm cướp và sát nhân rình rập.” Giọng cô vang lên thích thú. “Tuyệt quá phải không? Còn tốt hơn ngàn lần so với việc ngồi làm bài tập về nhà trong bốn bức tường ngột ngạt!” Cô vén chiếc váy nặng và vội vã đi tiếp. Anh bất giác nhếch miệng cười. Lucy quả là có năng khiếu độc nhất vô nhị, lúc nào cũng tìm ra được mặt tích cực của hoàn cảnh. Ngay cả cái gọi là thời hoàng kim của nước Anh đang bị thực tại tăm tối bóc trần vẻ dối trá cũng không khiến cô kinh sợ, ngược lại là đằng khác. “Tiếc thật, chẳng bao giờ mình có hơn ba tiếng đồng hồ,” cô nói khi anh bắt kịp. “Hamlet chắc sẽ hay hơn nếu không phải xem vào nhiều kỳ.” Cô khéo léo né một vũng bùn kinh tởm, ít nhất thì anh cũng mong đó chỉ là bùn. Rồi cô tung tẩy nhảy vài bước và xoay tròn một vòng. “Lý trí đã biến tất cả chúng ta thành những kẻ nhát gan… tài thật, nhỉ?” Anh gật đầu, cố kiềm chế để không nhếch mép cười lần nữa. Anh luôn như thế bên Lucy. Nếu không cẩn thận thì trông anh sẽ như một thằng ngớ ngẩn! Họ đang trên đường tới cầu London. Lẽ ra đi qua cầu Southwark thì tiện hơn, nhưng rủi thay ở thời này nó còn chưa được xây. Nhưng họ phải nhanh chân lên, nếu không muốn cuộc ngang tắt về thế kỷ 17 của mình bại lộ. Trời ạ, nếu có thể lột phăng cái cổ áo trắng cứng đơ này ra thì giá nào anh cũng trả! Nó đâu khác gì cái vòng nhựa đeo quanh cổ lũ chó sau khi phẫu thuật. Lucy rẽ sang con phố đâm ra bờ sông. Có vẻ như đầu óc cô vẫn vấn vương với Shakespeare. “Anh phải cho ông ta bao nhiêu để được phép vào Globe Theatre thế, Paul?” “Bốn đồng xu to, nhưng anh cũng không biết thế là bao nhiêu.” Anh cười. “Có lẽ bằng cả năm tiền lương của hắn.” “Dù sao cũng đạt mục đích. Chỗ ngồi lý tưởng.” Họ đi như chạy đến cầu London. Cũng như lúc đến đây, Lucy dừng lại, ngắm nghía những ngôi nhà xây trên cầu, nhưng anh kéo cô đi tiếp. “Em có nhớ lời ông George dặn không: Hễ dừng chân quá lâu dưới cửa sổ thì sẽ bị giội bô lên đầu đấy,” anh nhắc. “Hơn nữa em còn đánh động làm người ta để ý!” “Không giống như mình đang đứng trên cầu nhỉ, trông chẳng khác gì một con phố bình thường. Ô, anh nhìn kìa, tắc đường! Đã đến lúc họ phải xây thêm vài cây cầu nữa rồi.” Khác với những ngõ hẻm, trên cầu đông nghịt, song đám xe kéo, võng lọng và xe ngựa đi về phía bờ kia sông Thames không nhích lên được phân nào. Xa xa đằng trước vẳng lại tiếng cười nói, tiếng chửi bới, tiếng ngựa hí, nhưng không ai rõ tại sao lại tắc ứ như vậy. Sát bên họ, một người đội mũ đen ngồi trong xe ngựa thò đầu ra. Cổ áo đăng ten trắng hồ cứng của ông ta uốn cong lên tới tận tai. “Không có đường nào khác đi qua con sông hôi thối này sao?” Ông ta gọi vống lên với người đánh xe bằng tiếng Pháp. Gã xà ích lắc đầu. “Kể cả nếu có thì cũng không quay đầu được nữa, ta đang mắc kẹt ở đây! Tôi sẽ chạy lên phía trước xem có chuyện gì. Chắc là sẽ sớm đi tiếp được thôi, thưa ngài.” Người đàn ông gầm gừ bức bối rồi rụt cái đầu đội mũ cùng chiếc cổ áo vào xe, trong khi xà ích đã trèo xuống, cố len qua đám đông nhốn nháo. “Anh nghe chưa, Paul? Người Pháp,” Lucy thì thào háo hức. “Khách du lịch đấy!” “Ừ. Hay thật. Nhưng mình phải đi tiếp, không còn nhiều thì giờ nữa.” Anh nhớ mang máng đã từng đọc ở đâu đó rằng sẽ có lúc người ta phá cây cầu này và xây lại nó ở cách vị trí cũ mười lăm mét. Đây thật không phải một chỗ tốt để vượt thời gian. Họ bám theo gã đánh xe người Pháp. Nhưng đi được mấy bước thì người và xe chen chúc không làm sao chen qua nổi. “Nghe đâu có một xe chở dầu bị bắt lửa,” người đàn bà phía trước họ nói bâng quơ. “Không cẩn thận khéo lại thiêu rụi cả cây cầu mất.” “Theo như tôi biết thì không phải là hôm nay,” Paul lẩm bẩm và tóm tay Lucy. “Đi nào, chúng ta sẽ trở ngược lại và đợi vượt thời gian ở bờ bên kia.” “Anh còn nhớ mật khẩu chứ? Phòng trường hợp chúng ta không tới kịp.” “Hình như cút đi là vừa thì phải.” “Gutta cavat lapidem[1], ngốc ạ.” Cô khúc khích cười ngẩng lên nhìn anh. Đôi mắt xanh của cô lấp lánh phấn khích. Anh sực nhớ Falk đã nói gì khi anh hỏi về thời điểm hoàn hảo. “Anh sẽ chẳng phí sức lảm nhảm. Anh cứ hành động thôi. Sau đó có thể cô ấy sẽ cho chú một cái tát và thế là chú hiểu ngay.” Đương nhiên Falk muốn biết anh ám chỉ ai. Nhưng Paul không mấy hứng thú với những cuộc tranh luận mở đầu bằng “Chú thừa biết những mối quan hệ giữa dòng họ de Villiers và Montrose chỉ nên mang tính công việc!” và kết thúc, “Hơn nữa đám con gái nhà Montrose đều đanh đá, sau này họ đều thành tinh như quý bà Arista cả.” Đanh đá gì chứ! Các cô Montrose khác thì rất có thể, nhưng Lucy thì chắc chắn không. Lucy, người mỗi ngày đều khiến anh càng thêm yêu thương, người được anh tin cậy gửi gắm những điều anh chưa từng nói với bất cứ ai. Lucy, người mà… Anh hít một hơi sâu. “Sao anh đứng lại?” Lucy hỏi, nhưng anh đã cúi xuống áp môi mình lên môi cô. Suốt ba giây, anh lo sợ sẽ bị cô đẩy ra, nhưng dường như cô đã vượt qua được sự bất ngờ và đáp lại nụ hôn của anh, ban đầu dè dặt, rồi mỗi lúc một nồng nàn hơn. Thực ra đây không hề là thời điểm hoàn hảo và thực ra họ đang quá vội, vì bất cứ lúc nào họ cũng có thể vượt thời gian, và thực ra thì… Điều thứ ba thực ra là gì thì Paul quên khuấy. Giờ chỉ có Lucy là tất cả. Nhưng rồi khi ánh mắt lướt qua một bóng người đội mũ tối màu sùm sụp, anh kinh hoàng nhảy lùi lại. Lucy ngơ ngác nhìn anh một thoáng, rồi cô đỏ mặt cúi gằm xuống chân. “Em xin lỗi,” cô ngượng ngùng lẩm bẩm. “Larry Coleman cũng bảo em hôn giống như xát cả vốc phúc bồn tử gai xanh vào mặt người ta.” “Phúc bồn tử gai?” Anh lắc đầu. “Mà Larry Coleman là thằng quỷ tha ma bắt nào?” Giờ thì cô ngơ ngác thực sự và anh cũng chẳng ngạc nhiên. Bằng cách nào đó anh phải cố trấn áp cơn rối loạn đang hoành hành trong đầu. Anh kéo Lucy ra khỏi vầng sáng của những ngọn đuốc, giữ vai và nhìn sâu vào mắt cô. “Nghe này, Lucy. Thứ nhất: Hôn em giống như là… như là… ăn dâu tây. Thứ hai: Anh mà tóm được thằng Larry Coleman đó, anh sẽ đấm dập mũi hắn. Thứ ba: Em hãy nhớ thật kỹ lúc chúng mình dừng lại. Nhưng bây giờ mình đang có một vấn đề nho nhỏ.” Anh lặng im hất hàm về người đàn ông cao lớn đang ưng dung bước ra từ dưới bóng chiếc xe thồ và cúi xuống bên cửa sổ cỗ xe ngựa của người Pháp nọ. Lucy tròn mắt khiếp đảm. “Xin chào, nam tước,” hắn nói bằng tiếng Pháp. Nghe giọng hắn, Lucy bấu chặt tay Paul. “Rất vui được gặp được ngài. Đường từ Flanders tới đây xa thật.” Hắn gạt chiếc mũ trùm đầu xuống. Trong xe vang lên một tiếng kêu thảng thốt. “Tên bá tước mạo danh! Ngươi làm gì ở đây? Sao lại thế này?” “Em cũng rất muốn biết,” Lucy thì thầm. “Ngài chào hỏi hậu duệ của mình như vậy sao?” Người kia vui vẻ đáp. “Dù sao thì ta cũng là cháu nội của cháu nội cháu nội ngài. Và mặc dù ta vẫn thường bị gọi là kẻ vô danh, ta đảm bảo với ngài là ta có tên đàng hoàng. Thậm chí còn nhiều tên là đằng khác. Ngài cho phép ta lên xe hàn huyên chứ? Đứng đây không được thoải mái cho lắm, và cầu còn tắc lâu.” Không cần đợi câu trả lời hoặc ngoái nhìn xung quanh lấy một lần, hắn mở cửa trèo vào xe. Lucy kéo Paul né sang bên, cách xa ánh đuốc thêm hai bước nữa. “Đúng ông ta đấy! Nhưng trẻ hơn nhiều. Chúng ta nên làm gì bây giờ?” “Không làm gì cả,” Paul thì thầm. “Chúng ta đâu thể tới đó chào hỏi! Đúng ra chúng ta không được phép có mặt ở đây.” “Nhưng sao ông ấy lại ở đây?” “Một sự tình cờ ngu xuẩn. Dù thế nào cũng không được để ông ấy nhìn thấy mình. Đi thôi, chúng ta phải tới bờ sông.” Nhưng không ai nhúc nhích. Cả hai cùng nhìn như bị thôi miên vào ô cửa sổ xe ngựa tối mò, cảm thấy còn hiếu kỳ hơn cả khi nhìn lên sân khấu Globe Theatre ban nãy. “Trong lần gặp trước, ta đã nói rõ cho ngươi biết ta nghĩ gì về ngươi,” giọng nam tước người Pháp vọng ra từ trong xe. “Ồ, đúng là ngài đã làm thế thật!” Tiếng cười khẽ của vị khách khiến Paul nổi da gà, dù anh không nói được vì sao. “Quyết định bất di bất dịch!” Nam tước hơi lạc giọng. “Ta sẽ giao cỗ máy ma quái đó cho bên liên minh, bất kể các ngươi có dùng mưu ma chước quỷ nào để ngăn cản ta. Ta biết ngươi cùng hội cùng thuyền với quỷ dữ.” “Ông ta nói thế nghĩa là sao?” Lucy thì thầm. Paul chỉ lắc đầu. Lại một tiếng cười khẽ vang lên. “Cụ tổ cạn nghĩ và mù quáng của ta ơi! Cuộc đời của ngài - và cả của ta - sẽ thảnh thơi biết bao nếu ngài chịu nghe ta thay vì nghe lão giáo chủ hay những kẻ cuồng tín đáng thương bên liên minh. Giá mà ngài biết dùng trí tuệ thay vì chuỗi tràng hạt, giá mà ngài nhận thức được rằng vai trò của mình còn lớn hơn những gì cha cố của ngài giảng giải.” Có vẻ như nam tước kia đọc “Kinh Lạy Cha” thay cho câu trả lời. Lucy và Paul chỉ nghe thấy ông ta khẽ lẩm bẩm. “Amen!” Người khách thở dài. “Vậy đây là lời cuối của ngài về chuyện này?” “Ngươi là quỷ dữ hiện hình!” Nam tước thốt lên. “Ra khỏi xe ngay và đừng bao giờ xuất hiện trước mắt ta.” “Tùy ngài thôi. Vậy chỉ còn một việc nhỏ. Lâu nay ta chưa nói ra vì không muốn khiến ngài lo lắng không cần thiết. Nhưng chính mắt ta trông thấy trên mộ ngài ghi ngày mất là 14 tháng Năm năm 1602.” “Nhưng đó là…” Nam tước nói. “… hôm nay, chính xác. Từ giờ tới nửa đêm cũng không còn dài.” Một tiếng khò khè vang lên từ phía nam tước. “Ông ấy đang làm gì thế?” Lucy thì thào. “Ông ấy đang phá vỡ luật lệ của chính mình.” Paul nổi da gà tới tận gáy. “Ông ấy nói về…” Anh ngừng bặt vì cảm giác nôn nao quen thuộc lan truyền trong lòng dạ. “Xà ích của ta sẽ quay lại ngay,” nam tước nói, giọng lúc này đã lo sợ thực sự. “Ừ, ta cũng biết thế,” Vị khách đáp khá thờ ơ. “Thế nên ta cũng đang vội đây.” Lucy áp tay lên bụng. “Paul!” “Anh biết, anh cũng cảm thấy rồi. Chết tiệt… Phải chạy thôi, nếu không chúng ta sẽ rơi xuống sông mất.” Anh tóm lấy tay cô kéo đi, thận trọng không để lộ mặt về phía cửa sổ xe ngựa. “Lẽ ra ngài mất tại quê nhà, do một trận cúm đáng ghét biến chứng,” Họ nghe thấy tiếng người khách trong lúc len lén đi qua. “Nhưng hiện giờ ngài lại đang có mặt ở London với sức khỏe dồi dào - nói cho cùng là nhờ những lần thăm hỏi của ta - nên đã có gì đó bị lệch lạc nghiêm trọng. Là con người chu đáo, ta thấy phải có trách nhiệm giúp Thần Chết một tay.” Paul đang mải quan tâm đến cảm giác nôn nao trong dạ và nhẩm tính xem còn bao nhiêu mét nữa là tới bờ, thế nhưng ý nghĩa của những lời nói kia len lỏi vào tâm thức khiến anh khựng lại. Lucy khẽ huých vào sườn anh. “Chạy đi!” cô kêu lên rồi vùng chạy. “Chỉ còn vài giây nữa thôi!” Anh cố nhấc đầu gối bải hoải, và trong lúc chạy, khi bờ sông gần kề bắt đầu nhòe đi trước mắt, anh nghe thấy từ trong xe vọng ra một tiếng thét rùng rợn cố nén, tiếp theo là tiếng khò khè: “Quỷ dữ!” - rồi chỉ còn sự im lặng chết chóc. Mời các bạn mượn đọc sách Lam Ngọc của tác giả Kerstin Gier & Đỗ Phương Thùy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bản Đồ Mây - David Mitchell
Bản đồ mây là một cuốn sách đồ sộ, gây kinh ngạc bởi cách dẫn dắt và kể chuyện thiên tài của David Mitchell. Tác phẩm được dẫn dắt bởi 6 câu chuyện riêng lẻ, xảy ra trong những khoảng không gian, thời gian hoàn toàn khác biệt nhau. Đầu tiên là dòng tự sự theo kiểu nhật ký của Adam Lewing viết trên con tàu giữa Thái Bình Dương vào thế kỷ XIX. Phần thứ 2 được viết dưới dạng những bức thư gửi từ một lâu đài của Bỉ của nhà soạn nhạc trẻ Frobisher đến người bạn Rufus Sixsmith. Phần thứ 3 được kể theo lối trần thuật đơn thuần về sự kiện nhà bảo trẻ Luisa Rey, đã khám phá ra một vụ scandal hạt nhân của một tập đoàn lớn. David Mitchell kết nối câu chuyện bằng cách cho các nhân vật ở các phần “đọc” hoặc “xem” nhau. Chuyến phiêu lưu của Adam Ewing được chàng nhạc sĩ Frobisher đọc, những lá thư của Frobisher gửi cho Sixsmith được cô nhà báo trẻ Luisa Rey đọc. Tiếp đến, chuyện về Luisa trở thành một bản thảo tiểu thuyết, và Cavendish đọc về hành trình khám phá sự thật của Rey, và cuộc đời của Cavendish được dựng thành một bộ phim cũ, khiến Sonmi-451 được xem phim về Cavendish, và cuối cùng là Zachry tôn thờ Sonmi và có trong tay orison của cô. Nếu chỉ dừng ở đây thì sự thiên tài của Mitchell đã không được bộc lộ: ở phấn tiếp theo, Sonmi-451 trước khi chết, lại muốn xem nốt bộ phim về Cavendish, Cavendish đọc nốt cuốn tiểu thuyết về Luisa Rey, Luisa Rey tới lượt mình nghe bản Lục tấu Vân đồ của Frobisher. Một vòng tròn hoàn hảo của lịch sử, và loài người. Mỗi phần đều kết thúc ở đoạn cao trào nhất, và không hề có một nút mở nào được gợi cho độc giả, điều đó càng khiến độc giả lao vào trận địa, với một sự tò mò dữ dội. Chuyện gì đang xảy ra, chúng ta đang ở đâu, đang đi đâu, và đang là ai? *** David Stephen Mitchell (sinh 12 tháng 1 năm 1969) là một tiểu thuyết gia người Anh. Ông đã viết sáu tiểu thuyết, hai trong số đó, number9dream (2001) và Cloud Atlas (2004) đã lọt vào danh sách cho giải Booker. Ông đã sống ở Ý, Nhật Bản và Ireland. Mitchell sinh ra ở Southport ở Merseyside, Anh, và lớn lên ở Malvern, Worcestershire. Ông học tại Trường trung học Hanley Castle và tại Đại học Kent, nơi ông nhận bằng văn học Anh và Mỹ theo sau là bằng cao học trong văn học so sánh. Mitchell sinh sống ở Sicily trong một năm, sau đó chuyển đến Hiroshima, Nhật Bản, nơi ông giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên kỹ thuật trong 8 năm, trước khi trở về Anh, nơi ông có thể sống bằng các khoản thu nhập bằng nghề viết văn.   Mời các bạn đón đọc Bản Đồ Mây của tác giả David Mitchell.
Thiên Nga Đen - Nassim Nicholas Taleb
Trước khi khám phá ra thiên nga đen tồn tại trên đời (ở Úc), người ta vẫn tin rằng tất cả chim thiên nga trên đời đều có màu trắng. Phát hiện bất ngờ này đã thay đổi toàn bộ thế giới quan của nhân loại (về thiên nga). Chúng ta không biết rất nhiều thứ nhưng lại hành động như thể mình có khả năng dự đoán được mọi điều. Và trong cuốn sách này, tác giả Nassim Nicholas Taleb đã đi sâu vào khai thác những sai lầm của tư tưởng cố hữu ấy. Theo ông, “thiên nga đen” là một biến cố tưởng chừng như không thể xảy ra với ba đặc điểm chính: không thể dự đoán, có tác động nặng nề và sau khi nó xảy ra, người ta lại dựng lên một lời giải thích để khiến nó trở nên ít ngẫu nhiên hơn, dễ dự đoán hơn so với bản chất thật của nó. Thành công đáng kinh ngạc của Facebook có thể được coi là một “thiên nga đen”, việc nước Anh rời khỏi Liên minh châu Âu cũng là một “thiên nga đen”. Thiên nga đen luôn ẩn hiện trong mọi mặt của cuộc sống với những tác động khó lường, theo cả hướng tiêu cực và tích cực. Tinh tế, táo bạo nhưng không kém phần thú vị, Thiên Nga Đen chắc chắn là cuốn sách không thể bỏ qua cho những ai đam mê hiểu biết. Và cuốn sách này, bản thân nó cũng chính là một thiên nga đen… *** Điều tồi tệ nhất mà cuốn sách này đề cập đến không chỉ là đường cong hình chuông và các nhà thống kê tự lừa dối chính mình, hay các học giả chịu ảnh hưởng của Plato - những người cần đến các học thuyết để tự lừa dối mình, mà đó chính là động lực để “tập trung” vào những gì có ý nghĩa đối với chúng ta. Ngày nay, việc sống trên hành tinh này đòi hỏi nhiều khả năng tưởng tượng hơn những gì hiện có. Chúng ta đang thiếu khả năng tưởng tượng nhưng lại kìm nén khả năng của người khác. Xin lưu ý rằng tôi không thực hiện cuốn sách này theo phương pháp thu thập “bằng chứng xác thực” cẩn thận vốn rất phiền toái. Tôi sẽ giải thích nguyên nhân đó trong Chương 5, và gọi sự quá tải của các ví dụ này là chủ nghĩa kinh nghiệm ngây thơ (naive empiricism) - hàng chuỗi giai thoại được chọn lựa để khớp với một câu chuyện sẽ không cấu thành bằng chứng. Bất kỳ ai đang tìm kiếm sự xác thực sẽ tìm thấy nó với mức độ đủ để lừa dối chính mình - và chắc chắn là cả những đồng nghiệp của mình. 5 Ý tưởng về Thiên Nga Đen được dựa theo cấu trúc của tính ngẫu nhiên qua trải nghiệm thực tế. Nói tóm lại, trong bài tiểu luận (cá nhân) này, tôi dám thách thức các thói quen tư duy của chúng ta, và khẳng định rằng thế giới này đang bị thống trị bởi những gì cực độ, bí ẩn, ít có khả năng xảy ra (dựa theo vốn hiểu biết hiện tại của chúng ta) trong khi, chúng ta dành thời gian nói chuyện phiếm, tập trung vào những gì đã biết và cứ lặp đi lặp lại. Điều này nói lên sự cần thiết phải sử dụng một sự kiện cực độ làm điểm khởi đầu và không xem nó như một ngoại lệ mà ta có thể dễ dàng bỏ qua. Tôi cũng xin đưa ra một nhận định táo bạo (và dễ mếch lòng) hơn rằng, bất chấp tiến trình với phát triển về kiến thức của chúng ta, hoặc có lẽ bởi tiến trình và sự phát triển về kiến thức đó, tương lai ngày càng trở nên khó dự đoán hơn trong khi cả bản chất con người lẫn “khoa học” xã hội dường như đang hợp sức không cho chúng ta biết về điều đó. ... Mời các bạn đón đọc Thiên Nga Đen của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Ai Rồi Cũng Chết! - Atul Gawande
Thông qua tác phẩm, bác sĩ Atul Gawande giúp người đọc nhìn nhận thực tế về sự hữu hạn của bản thân và trách nhiệm sống tốt để không hối tiếc vì hoài phí tuổi xuân. Tác phẩm best-seller Ai rồi cũng chết! được viết bởi Atul Gawande, một bác sĩ phẫu thuật đã dành nhiều năm cuộc đời mình để nghiên cứu và làm sáng tỏ những giới hạn của y học. Kể từ cuốn sách đầu tiên đạt giải thưởng sách quốc gia Phức thể, bác sĩ Gawande nỗ lực dùng ngòi bút của mình để truyền đạt đến với độc giả thông điệp "Dù cho các công nghệ y khoa và chữa bệnh có tân tiến đến đâu, bác sĩ vẫn chỉ là con người và là con người, tất cả đều hữu hạn". Đến tác phẩm Ai rồi cũng chết!, ông đã mạnh dạn động chạm đến chủ đề có sức nặng này. Giữa một thế giới hiện đại tôn thờ tuổi trẻ và vật chất công nghệ, nơi quá nhiều người tin rằng mình còn có thể sống rất lâu, các công nghệ y học sẽ giúp chúng ta trường thọ, không mấy ai sẵn sàng đối diện với sự thật: tuổi xuân sẽ nhanh chóng qua đi, cơ thể rồi sẽ sa sút bệnh tật, sẽ mất đi khả năng làm được những điều mình thích và cuối cùng cái chết sẽ đến.  *** Ai rồi cũng chết! là một tuyệt phẩm đánh động lòng người được viết nên bởi bác sĩ kiêm tác giả best-seller Atul Gawande. Cuốn sách không chỉ có khả năng lay chuyển ngành y học hiện đại, mà nó còn sẽ giúp làm biến đổi hoàn toàn cuộc sống của muôn người - bao gồm chính bạn! Ngành y học thế giới đã có nhiều bước phát triển vượt bậc trong những năm qua: giảm thiểu tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh, nâng cao tỉ lệ sống sót sau chấn thương, chữa trị và kiểm soát được nhiều loại bệnh tật - kể cả nhiều căn bệnh từng được xem là không có thuốc chữa trong quá khứ. Nhưng dù có bành trướng hùng mạnh đến đâu, y học vẫn muôn đời bất lực trước quy luật sinh-lão-bệnh-tử bất biến của con người: Mỗi khi con người phải đối diện với Tuổi Già và Cái Chết, những công cụ y học vốn dĩ quyền năng bỗng chốc phản bội lại chính lý tưởng cứu nhân độ thế mà chúng đang phục vụ. Bằng những công trình nghiên cứu khoa học giá trị và những câu chuyện sống động từ các bệnh nhân và người thân của chính mình, bác sĩ Gawande bóc trần cho chúng ta thấy những hệ lụy và nỗi đau mà con người phải gánh chịu bởi nghịch lý trên. Viện dưỡng lão vốn dĩ được lập ra với mục đích ban đầu tốt đẹp là giúp cho người cao tuổi có một cuộc sống hạnh phúc và viên mãn bất chấp tuổi già, nhưng nhiều nhà dưỡng lão ngày nay bị biến tướng thành những tòa nhà khép kín không khác gì nhà tù, nơi mà người già không được phép ăn những món ăn họ thích và không được phép làm những gì mình muốn. Nhiều bác sĩ được đào tạo xuất sắc về mặt chuyên môn, nhưng lại không biết cách làm thế nào để nói cho bệnh nhân biết sự thật về bệnh tình của họ; thay vào đó, bác sĩ lại vin vào những hy vọng hão huyền về khả năng cứu sống người bệnh của y học và đề xuất cho bệnh nhân hàng loạt biện pháp chữa trị để nuôi những hy vọng hão đó. Rốt cuộc, hành động này chỉ khiến cho người bệnh và cả thân nhân của họ thêm hao mòn khổ sở chứ không hề mang lại ích lợi gì cho họ cả về mặt thể xác lẫn tinh thần. *** Atul Gawande là tác giả của các cuốn sách: Ai rồi cũng chết,  Better (Tốt hơn nữa) và Complications (Các biến chứng). Năm 2006 ông đã từng đoạt giải thưởng MacArthur Fellowship, một trong những giải thưởng cao quý nhất trong các ngành khoa học, xã hội, nhân văn, nghệ thuật. Ông là bác sĩ phẫu thuật nội tiết và tổng quát ở Boston. Atul Gawande còn là cộng tác viên của tờ báo The New Yorker và là giảng viên Trường Y thuộc Đại học Harvard. Ngoài ra, ông còn điều hành chương trình Phẫu thuật An toàn của Tổ chức Y tế Thế giới. Hiện nay, ông cùng vợ và ba con sống tại Newton, Massachusetts, Mỹ. Mời các bạn đón đọc Ai Rồi Cũng Chết! của tác giả Atul Gawande.
Mang Xuống Tuyền Đài - John Grisham
Nguyên tác: The Chamber Tác giả: John Grisham Dịch giả: Hoàng Hải Thủy Làng Văn, Canada, xuất bản 1998 Truyện The Chamber – Mang Xuống Tuyền Ðài – làm tôi cảm động. Truyện tả tình gia đình, tình ông cháu, tình cô cháu. Truyện xẩy ra trong một tỉnh miền Nam Hoa Kỳ, nơi trước năm 1960 có nạn kỳ thị Ðen Trắng rất nặng. Ông già Cayhall bị giam trong tù, bị xử án tử hình vì tội đặt bom làm chết người, án tử sắp được thi hành. Adam, một luật sư trẻ tuổi vừa ra trường, cháu nội của ông già Cayhall, về tỉnh này để cứu ông nội khỏi bị người ta giết. Ông bố của Adam tự tử chết, bà mẹ của Adam đi lấy chồng khác, Adam có bà cô ruột là cô Lee ở thành phố có nhà tù giam ông già Cayhall. Cô Lee Cayhall sống ly thân với ông chồng chủ ngân hàng, vợ chồng cô có anh con trai nhưng anh này là dân Gay, tiếng Sài Gòn xưa gọi là Pê Ðê, anh sang Hà-lan làm bồi nhà hàng và sống như vợ chồng với một gã đàn ông. John Grisham không tả rõ, tôi đọc và dịch The Chamber, tôi thấy và tôi cảm động vì mối tình của Cô Cháu Lee- Adam. Cô Lee muốn có anh con đàng hoàng như Luật sư Adam, Adam cô đơn ao ước có bà mẹ đẹp, hiền như cô Lee. Mời quí vị đọc đoạn truyện tả khi Adam còn nhỏ, ông bố Adam tự tử, cô Lee đến dự tang lễ và thăm chị dâu và hai cháu: Adam cháu trai, Carmen cháu gái. *** Sau hai mươi ba năm, Adam Hall trở lại nơi ra đời. Chàng không thấy xúc động mà cũng chẳng cảm thấy được hân hoan chào đón hay bị xua đuổi. Tuy không có gì để ngán sợ nhưng Adam vẫn lái xe với tốc độ hết sức khiêm tốn, để cho tất cả những xe chạy sau qua mặt. Con đường chàng đi dài như vô tận giữa những cánh đồng mênh mông của vùng đồng bằng sông Mississippi. Trên một quãng đường dài 5 cây số, xe chàng chạy cùng chiều với một con dê lướt mình trên đồng cỏ mượt, qua ấp Walls, thị trấn thứ nhất đáng gọi là thị trấn trên xa lộ 61. Qua nghiên cứu, chàng biết con đường này là một trong những trục lộ chính mà hàng trăm ngàn người da đen nghèo khổ đã đi từ miền Nam lên miền Bắc, đến những thành phố Memphis, St. Louis, Chicago, Detroit…, những nơi họ có thể tìm được việc làm và nơi cư ngụ. Chính ở những dãy nhà tồi tàn, lụp xụp, những tiệm rượu đầy màu sắc dọc theo xa lộ này mà nhạc Blues đã ra đời và phát triển lên miền Bắc. Tại đây nó hoà đồng với nhạc Thánh ca và nhạc Đồng quê để rồi cả ba kết hợp và sản sinh ra nhạc Rock and Roll. Vừa lái xe, Adam vừa nghe băng nhạc của ban nhạc Muddy Waters khi xe chàng chạy ngang quận Tunica, một quận lị có tiếng nghèo nhất nước. Âm nhạc không làm chàng dễ chịu hơn được bao nhiêu. Sáng nay ở nhà cô Lee, chàng không ăn sáng, nói rằng không đói nhưng thực ra gan ruột chàng như thắt lại, không thể ăn được. Càng đến gần nhà tù Parchman, gan ruột chàng càng thắt chặt hơn. Rồi cuối cùng Adam cũng đến nơi phải đến. Trông bên ngoài không có vẻ gì là nhà tù. Không thấy có những bức tường cao, những hàng rào thép gai, vọng gác, lính canh, không có những đám tù nhân hung ác hộc lên, hú lên khi có người lạ đi ngoài hàng rào. Chỉ có hàng chữ xi-măng đắp trên vòm cổng: “Khám đường bang Mississippi”. ... Mời các bạn đón đọc Mang Xuống Tuyền Đài của tác giả John Grisham.