Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF KIM VÂN KIỀU TRUYỆN (1875) - TRƯƠNG VĨNH KÝ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Năm 1875, hơn nửa thế kỷ sau khi Nguyễn Du mất, Trương Vĩnh Ký (1837-1898) đã xuất bản quyển “Kim, Vân, Kiều truyện” quốc ngữ. Đây là quyển truyện Kiều chuyển từ chữ Nôm (nho, nhu) sang “quốc ngữ” đầu tiên trong văn học Việt Nam. Không thấy ông Ký nói đã chuyển ngữ Kiều từ bản in nào. Trong lời tựa bằng tiếng Pháp, ông Ký chỉ ghi, đây là truyện thơ mà “mọi người đều thuộc lòng, bất kể là trẻ già hay trai gái”. Mọi người là những ai? Thuộc giai tầng nào? Chắc rằng, không phải là những người thuộc tầng lớp ăn trên ngồi chốc trong xã hội thời bấy giờ. ... "Không thể so sánh với văn chương khắp các nước, ta hẵng so sánh với văn chương hai nước có liền tiếp quan hệ với ta, là văn chương Tàu và văn chương Pháp. Văn chương Tàu thật là mông mênh bát ngát, như bể như rừng. Nhưng trong rừng văn bể sách đó, tưởng cũng ít quyển sánh được với truyện Kiều, mà xét cho kỹ có lẽ không có sách nào giống như truyện Kiều. Gốc truyện tuy do một bộ tiểu thuyết Tàu mà ra, nhưng vào tay Cụ Tiên điền ta biến hóa hẳn, siêu việt ra ngoài cả lề lối văn chương Tàu, đột ngột như một ngọn cô phong ở giữa đám quần sơn vạn hác vậy. Có người sánh truyện Kiều với Li-tao, nhưng Li-tao là một bài than, từ đầu đến cuối toàn một giọng bi đát thảm thương, so với Cung-oán của ta có lẽ đúng hơn. Có người lại sánh với Tây-xương, nhưng Tây-xương là một bản hát, từ điệu có véo von, thanh âm có réo rắt, nhưng chẳng qua là một mớ ca từ cho bọn con hát, không phải là một nền văn chương chân chính. Cứ thực thì truyện Kiều dẫu là đầm thấm cái tinh thần của văn hóa Tàu, dẫu là dung hòa những tài liệu của văn chương Tàu, mà có một cái đặc sắc văn chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự "kết cấu". Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ bài văn nho nhỏ ngăn ngắn, phàm làm sách chỉ biết cách biên tập, không sành cách kết cấu. Biên tập là cóp nhặt mà đặt liền lại; kết cấu là thu xếp mà gây dựng lên, thế nào cho thành một cái toàn bức các bộ phận điều hòa thích hợp với nhau, không thêm bớt được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn bức như thế, mà là một bức tranh thế thái nhân tình vẽ sự đời như cái gương tầy liếp vậy. Xét về cách kết cấu thì văn chương nước Pháp lại là sở trường lắm. Cho nên truyện Kiều có thể sánh với những áng thi văn kiệt tác của quí quốc, như một bài bi kịch của Racine hay một bài văn tế của Bossuet vậy. Đó là nói về cái thể tài văn chương. Còn về đường tinh thần thời trong văn học Pháp có hai cái tinh thần khác nhau, là tinh thần cổ điển và tinh thần lãng mạn. Tinh thần cổ điển là trọng sự lề lối, sự phép tắc; tinh thần lãng mạn là trong sự khoáng đãng, sự li kỳ. Truyện Kiều gồm được cả hai cái tinh thần ấy, vì vừa có cái đạo vị thâm trầm của Phật học, vừa có cái nghĩa lý sáng sủa của Nho học, vừa có cái phong thú tiêu dao của Trang Lão, lấy lẽ phải ông Khổng mà chế lại sự thần bí của nhà chùa, sự khoáng dật của hai họ. Nhưng mà ngay trong văn chương nước Pháp tưởng cũng không có sách nào giống hẳn như truyện Kiều, vì truyện Kiều có một cái đặc sắc mà những nền kiệt tác trong văn chương Pháp không có. Đặc sắc ấy là sự "phổ thông". Phàm đại văn chương, không những ở nước Pháp, ở nước nào cũng vậy, chỉ có những người thượng lưu học thức mới thưởng giám được, kẻ bình dân không biết tới. Người Pháp không phải là ai ai cũng biết đọc kịch Racine hay là đọc văn Bossuet. Nhưng Người Nam thời ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, "lẩy" Kiều để ứng dụng trong sự ngôn ngữ thường, kẻ thông minh hiểu cách thâm trầm, kẻ tầm thường hiểu cách thô thiển, nhưng ngâm nga lên thảy đều lấy làm vui tai, sướng miệng, khoái trí, tỉnh hồn. Thử hỏi cổ kim Đông Tây đã có một áng văn chương nào cảm người được sâu và được rộng như thế chưa. Tưởng dễ chỉ có một truyện Kiều ta là có thể tự cao với thế giới là văn chương chung của cả một dân tộc 18, 20 triệu người, già, trẻ, lớn, bé, giỏi, dốt, sang, hèn, đều thuộc lòng và đều biết hay cả." Trích: Phạm Quỳnh diễn thuyết về Nguyễn Du và Kiều (1924)

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Gia Đạo Truyền Thông Bảo
Pho sách này đã xuất bản in lần thứ nhất năm 1936, đã bán hết ngay, nay theo ý muốn của nhiều độc giả hỏi mua, nên đã soạn lại những bài đã dùng kiến hiệu mục kích trong pho sách ấy. Lại góp thêm được nhiều bài mới của các vị Linh Mục và nhiều Danh Y đã kinh nghiệm dùng có kết quả mỹ mãn, thì cũng được soạn kỹ càng và xếp đặt có thứ tự để tiện dùng, nay đem tái bản hiến chư quý vị. Pho sách này đã xuất bản in lần thứ nhất năm 1936, đã bán hết ngay, nay theo ý muốn của nhiều độc giả hỏi mua, nên đã soạn lại những bài đã dùng kiến hiệu mục kích trong pho sách ấy. Lại góp thêm được nhiều bài mới của các vị Linh Mục và nhiều Danh Y đã kinh nghiệm dùng có kết quả mỹ mãn, thì cũng được soạn kỹ càng và xếp đặt có thứ tự để tiện dùng, nay đem tái bản hiến chư quý vị. Pho sách này đã xuất bản in lần thứ nhất năm 1936, đã bán hết ngay, nay theo ý muốn của nhiều độc giả hỏi mua, nên đã soạn lại những bài đã dùng kiến hiệu mục kích trong pho sách ấy.Lại góp thêm được nhiều bài mới của các vị Linh Mục và nhiều Danh Y đã kinh nghiệm dùng có kết quả mỹ mãn, thì cũng được soạn kỹ càng và xếp đặt có thứ tự để tiện dùng, nay đem tái bản hiến chư quý vị. Pho sách này có giá trị đặc biệt : 1) Là vì có đủ mọi môn nội ngoại khoa, mọi bệnh loài người và lục súc, nhất là mục bệnh Phụ-nữ, và mục chữa bệnh Tiểu-nhi, có cả hình vẽ, xem hổ-khẩu và quan hình sát sắc. 2) Sách này có giá trị, vì có đủ nhiều bài thuốc viên, thuốc chén, thuốc nam, thuốc mường và chữa mẹo đỡ tổn tiền. 3) Sách này có giá trị, vì có nhiều bài chữa mọi thứ bệnh, tùy tính hàn, nhiệt và tùy vận khí từng năm, bài này không thích hợp năm này, thì đã có bài khác ; bài này khó tìm vị, thì đã sẵn bài dễ tìm vị, để mà lựa chọn, tiện bề tra cứu. Pho sách này có giá trị đặc biệt :1) Là vì có đủ mọi môn nội ngoại khoa, mọi bệnh loài người và lục súc, nhất là mục bệnh Phụ-nữ, và mục chữa bệnh Tiểu-nhi, có cả hình vẽ, xem hổ-khẩu và quan hình sát sắc.2) Sách này có giá trị, vì có đủ nhiều bài thuốc viên, thuốc chén, thuốc nam, thuốc mường và chữa mẹo đỡ tổn tiền.3) Sách này có giá trị, vì có nhiều bài chữa mọi thứ bệnh, tùy tính hàn, nhiệt và tùy vận khí từng năm, bài này không thích hợp năm này, thì đã có bài khác ; bài này khó tìm vị, thì đã sẵn bài dễ tìm vị, để mà lựa chọn, tiện bề tra cứu.4) Sách này có giá trị vì cuối sách có Vân Niên Cố Hàn so sánh năm Dương Lịch với năm Can Chi (Âm Lịch) biết để dễ gia giảm vị thuốc tùy năm, thì thuốc mới hiệu nghiệm. Lại có bản đồ nhị thập tứ tiết, 24 phần năm, phân ra tứ thì bát tiết, nghề làm thuốc cần biết. Lại có bản đồ chỉ những ngày con nước, biết để làm ăn. Lại có bản đồ chỉ những ngày giông tố, biết để tránh nạn. 5) Sách có giá trị vì có diễn giải phân minh 309 vị thuốc Nam, tính dược cần dùng trong pho sách này và các sách thuốc khác, xếp thứ tự theo vần A. B. C. 4) Sách này có giá trị vì cuối sách có Vân Niên Cố Hàn so sánh năm Dương Lịch với năm Can Chi (Âm Lịch) biết để dễ gia giảm vị thuốc tùy năm, thì thuốc mới hiệu nghiệm. Lại có bản đồ nhị thập tứ tiết, 24 phần năm, phân ra tứ thì bát tiết, nghề làm thuốc cần biết. Lại có bản đồ chỉ những ngày con nước, biết để làm ăn. Lại có bản đồ chỉ những ngày giông tố, biết để tránh nạn. 5) Sách có giá trị vì có diễn giải phân minh 309 vị thuốc Nam, tính dược cần dùng trong pho sách này và các sách thuốc khác, xếp thứ tự theo vần A. B. C. 4) Sách này có giá trị vì cuối sách có Vân Niên Cố Hàn so sánh năm Dương Lịch với năm Can Chi (Âm Lịch) biết để dễ gia giảm vị thuốc tùy năm, thì thuốc mới hiệu nghiệm.Lại có bản đồ nhị thập tứ tiết, 24 phần năm, phân ra tứ thì bát tiết, nghề làm thuốc cần biết.Lại có bản đồ chỉ những ngày con nước, biết để làm ăn.Lại có bản đồ chỉ những ngày giông tố, biết để tránh nạn.5) Sách có giá trị vì có diễn giải phân minh 309 vị thuốc Nam, tính dược cần dùng trong pho sách này và các sách thuốc khác, xếp thứ tự theo vần A. B. C.Thật đã giầy công phu sưu tầm, nên ngày nay, mới có quyển sách thuốc quý báu này. 6) Sách thuốc này có giá trị, vì có nhiều Linh Mục các nơi và nhiều Danh Y đã góp sức kinh nghiệm giúp bài đã dùng công hiệu vào sách này, như Linh Mục Đặng-chính-Tế, Linh Mục Nguyễn-thúy-Hiến, cha Ngôn, cha Tịnh, cha Bích và cha Q. cha P. cha B. và các Danh Y như ông Trương-đắc-Bằng, ông Nguyễn-đức-Văn, ông Trương-đình-Hựu, ông Nguyễn-văn-Biện, ông Nguyễn-chí-Đạo, ông Nguyễn-văn-Ký, ông Giáo thụ Ích, ông Nguyễn-mạnh-Bổng, ông Đặng-văn-Thước và nhiều Danh Y khác. Thật đã giầy công phu sưu tầm, nên ngày nay, mới có quyển sách thuốc quý báu này. 6) Sách thuốc này có giá trị, vì có nhiều Linh Mục các nơi và nhiều Danh Y đã góp sức kinh nghiệm giúp bài đã dùng công hiệu vào sách này, như Linh Mục Đặng-chính-Tế, Linh Mục Nguyễn-thúy-Hiến, cha Ngôn, cha Tịnh, cha Bích và cha Q. cha P. cha B. và các Danh Y như ông Trương-đắc-Bằng, ông Nguyễn-đức-Văn, ông Trương-đình-Hựu, ông Nguyễn-văn-Biện, ông Nguyễn-chí-Đạo, ông Nguyễn-văn-Ký, ông Giáo thụ Ích, ông Nguyễn-mạnh-Bổng, ông Đặng-văn-Thước và nhiều Danh Y khác. Thật đã giầy công phu sưu tầm, nên ngày nay, mới có quyển sách thuốc quý báu này.6) Sách thuốc này có giá trị, vì có nhiều Linh Mục các nơi và nhiều Danh Y đã góp sức kinh nghiệm giúp bài đã dùng công hiệu vào sách này, như Linh Mục Đặng-chính-Tế, Linh Mục Nguyễn-thúy-Hiến, cha Ngôn, cha Tịnh, cha Bích và cha Q. cha P. cha B. và các Danh Y như ông Trương-đắc-Bằng, ông Nguyễn-đức-Văn, ông Trương-đình-Hựu, ông Nguyễn-văn-Biện, ông Nguyễn-chí-Đạo, ông Nguyễn-văn-Ký, ông Giáo thụ Ích, ông Nguyễn-mạnh-Bổng, ông Đặng-văn-Thước và nhiều Danh Y khác.
Mấy thầy tu huyền bí ở Tây Tạng và Mông Cổ (Scan) - Đoàn Trung Còn
Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông Cổ Mấy Thấy Tu Huyền Bí Ở Tây Tạng Và Mông CổĐoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhMẤY LỜI ĐẦU MẤY LỜI ĐẦU MẤY LỜI ĐẦUSách này được phân làm ba phần: Sách này được phân làm ba phần: Phần thứ nhất, từ mục thứ nhất đến mục thứ 9, là những điều trông thấy của bà Alexandra David Neel trong thời gian bà du hành bên xứ Tây Tạng. Phần thứ nhất, từ mục thứ nhất đến mục thứ 9, là những điều trông thấy của bà Alexandra David Neel trong thời gian bà du hành bên xứ Tây Tạng.Phần thứ hai, từ mục thứ 10 cho đến mục thứ 17, ghi lại những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông Jean Marquès Rivière, một người Pháp có đến Tây Tạng và thọ giới xuất gia, tu trì trong các ngôi chùa lớn bên ấy. Riêng về ông J. M. Rivière, sẽ được đề cập đến trong mục thứ 10. Phần thứ hai, từ mục thứ 10 cho đến mục thứ 17, ghi lại những cuộc khảo sát và nghiên cứu của ông Jean Marquès Rivière, một người Pháp có đến Tây Tạng và thọ giới xuất gia, tu trì trong các ngôi chùa lớn bên ấy. Riêng về ông J. M. Rivière, sẽ được đề cập đến trong mục thứ 10.Phần thứ ba, trích dịch trong quyển “Từ Súc sinh, Nhân loại đến Thánh thần” của ông Ferdinand Ossendowski, một nhà mạo hiểm người Ba-lan đã từng đến Mông Cổ và Tây Tạng. Ông này được một vị thượng tọa chùa Na-ra-băn-si, là người được tôn sùng như một vị Phật sống thời nay, ban cho một chiếc nhẫn quý. Nhờ vậy, nên khi đi qua các nơi trong xứ Mông Cổ và Tây Tạng, ông thường được người ta ủng hộ một cách nhiệt thành. Nhất là giới tăng sĩ ở các chùa luôn đón tiếp ông như một người đã đắc Đạo đi truyền Pháp. Nhờ vậy mà ông được biết lắm điều huyền bí trong chốn cửa Thiền. Phần thứ ba, trích dịch trong quyển “Từ Súc sinh, Nhân loại đến Thánh thần” của ông Ferdinand Ossendowski, một nhà mạo hiểm người Ba-lan đã từng đến Mông Cổ và Tây Tạng. Ông này được một vị thượng tọa chùa Na-ra-băn-si, là người được tôn sùng như một vị Phật sống thời nay, ban cho một chiếc nhẫn quý. Nhờ vậy, nên khi đi qua các nơi trong xứ Mông Cổ và Tây Tạng, ông thường được người ta ủng hộ một cách nhiệt thành. Nhất là giới tăng sĩ ở các chùa luôn đón tiếp ông như một người đã đắc Đạo đi truyền Pháp. Nhờ vậy mà ông được biết lắm điều huyền bí trong chốn cửa Thiền.Ở đây, xin nói qua về bà Alexandra David Neel. Bà là một nhà tu người Pháp. Có kẻ nói bà là người Mỹ, song theo lời tự nhận của chính bà, thì bà là người Pháp. Vì ham mộ giáo lý đạo Phật nên bà đã từng đặt chân đến nhiều nơi có những ngôi chùa xưa và tham học với nhiều vị danh tăng. Bà đã viếng khắp cõi Thiên Trúc, có làm lễ ở những nơi thờ dấu tích và tro tàn xá-lợi của đức Phật. Bà cũng có đến nước Nhật, dự nhiều buổi lễ trang nghiêm trong các chùa lớn do các vị lão tăng chủ trì. Bà có sang Trung Hoa, từng sống cuộc đời thanh tĩnh giữa chư tăng trong một số ngôi chùa cổ ở Bắc Kinh. Đặc biệt là bà có viếng qua khắp những miền linh thiêng trong xứ Tây Tạng, nương náu trong vòng mười bốn năm ở các đỉnh núi tuyết, gần gũi với các vị danh tăng đạo cao đức cả. Chính bà có quen thân với đức Ban-thiền Lạt-ma, một trong các vị đứng đầu hàng tăng sĩ Tây Tạng mà khắp xứ đều tôn trọng và xem như là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Bà là người tận tâm với Phật Pháp, đã từ bỏ nếp sống phong lưu, quý phái mà chịu nhọc nhằn sống đến các nơi hẻo lánh để cầu Đạo, cho nên bà biết nhiều chuyện tích rất hay. Tuy chính phủ Tây Tạng vẫn cấm người da trắng vào xứ này, song bà được chính giới tăng sĩ giúp đỡ nên bước đường tu niệm và nghiên cứu của bà đều được dễ dàng hơn. Bà có soạn nhiều quyển sách giá trị về Phật giáo và về phong tục xứ Tây Tạng. Có thể kể ra đây một số như là: Ở đây, xin nói qua về bà Alexandra David Neel. Bà là một nhà tu người Pháp. Có kẻ nói bà là người Mỹ, song theo lời tự nhận của chính bà, thì bà là người Pháp. Vì ham mộ giáo lý đạo Phật nên bà đã từng đặt chân đến nhiều nơi có những ngôi chùa xưa và tham học với nhiều vị danh tăng. Bà đã viếng khắp cõi Thiên Trúc, có làm lễ ở những nơi thờ dấu tích và tro tàn xá-lợi của đức Phật. Bà cũng có đến nước Nhật, dự nhiều buổi lễ trang nghiêm trong các chùa lớn do các vị lão tăng chủ trì. Bà có sang Trung Hoa, từng sống cuộc đời thanh tĩnh giữa chư tăng trong một số ngôi chùa cổ ở Bắc Kinh. Đặc biệt là bà có viếng qua khắp những miền linh thiêng trong xứ Tây Tạng, nương náu trong vòng mười bốn năm ở các đỉnh núi tuyết, gần gũi với các vị danh tăng đạo cao đức cả. Chính bà có quen thân với đức Ban-thiền Lạt-ma, một trong các vị đứng đầu hàng tăng sĩ Tây Tạng mà khắp xứ đều tôn trọng và xem như là hóa thân của đức Phật A-di-đà. Bà là người tận tâm với Phật Pháp, đã từ bỏ nếp sống phong lưu, quý phái mà chịu nhọc nhằn sống đến các nơi hẻo lánh để cầu Đạo, cho nên bà biết nhiều chuyện tích rất hay. Tuy chính phủ Tây Tạng vẫn cấm người da trắng vào xứ này, song bà được chính giới tăng sĩ giúp đỡ nên bước đường tu niệm và nghiên cứu của bà đều được dễ dàng hơn. Bà có soạn nhiều quyển sách giá trị về Phật giáo và về phong tục xứ Tây Tạng. Có thể kể ra đây một số như là:– Những cuộc thuyết pháp của các vị Lạt-ma) – Những cuộc thuyết pháp của các vị Lạt-ma)– Cuộc du hành của một người phụ nữ Paris đến Lhassa – Cuộc du hành của một người phụ nữ Paris đến Lhassa– Pháp thuật vì ái tình và tà thuật – Những phong tục xứ Tây Tạng mà rất ít người biết đến – Pháp thuật vì ái tình và tà thuật – Những phong tục xứ Tây Tạng mà rất ít người biết đến– Vị Lạt-ma đắc ngũ thông – Vị Lạt-ma đắc ngũ thông– Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng – Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây TạngPhần thứ nhất trong sách này có 9 mục, được soạn từ nơi quyển “Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng” vừa kể trên. Quý độc giả có lòng muốn tu học, nên xem qua cho biết sự tu luyện khó nhọc, cam go của các vị tăng sĩ trên vùng cao núi tuyết. Quý ngài sẽ thấy nhiều sự linh diệu, ly kỳ và nhiều phép huyền vi của các vị tu hành chân chính. Phần thứ nhất trong sách này có 9 mục, được soạn từ nơi quyển “Mấy thầy tu huyền bí và chư vị Pháp sư ở Tây Tạng” vừa kể trên. Quý độc giả có lòng muốn tu học, nên xem qua cho biết sự tu luyện khó nhọc, cam go của các vị tăng sĩ trên vùng cao núi tuyết. Quý ngài sẽ thấy nhiều sự linh diệu, ly kỳ và nhiều phép huyền vi của các vị tu hành chân chính.Soạn dịch và cho ra đời quyển sách này, tôi mong muốn là sẽ góp được một phần nào phổ biến rộng thêm giáo lý nhà Phật, khuyến khích những ai còn nghi ngờ trở nên tin chắc, giúp cho các vị cư sĩ tu tại gia đem lòng tín phục mà công nhận rằng: tinh thần được trau luyện kỹ thì trở nên mạnh mẽ vô ngần, và cầu cho các bậc xuất gia càng dũng mãnh mà tiến tới trên đường đức hạnh và giải thoát. Soạn dịch và cho ra đời quyển sách này, tôi mong muốn là sẽ góp được một phần nào phổ biến rộng thêm giáo lý nhà Phật, khuyến khích những ai còn nghi ngờ trở nên tin chắc, giúp cho các vị cư sĩ tu tại gia đem lòng tín phục mà công nhận rằng: tinh thần được trau luyện kỹ thì trở nên mạnh mẽ vô ngần, và cầu cho các bậc xuất gia càng dũng mãnh mà tiến tới trên đường đức hạnh và giải thoát.Đoàn Trung Còn Đoàn Trung Còn Đoàn Trung Còn
THUẬT SỐNG LÂU - VÕ THƯỢNG BÍCH & NGUYỄN TÀI SỸ
Thuật Sống Lâu là một cuốn kim chỉ nam dinh dưỡng khá tân tiến, khoa học.Thuật Sống Lâu là một cuốn sách căn bản vệ sinh có chiều hướng phòng ngừa bệnh tật.Và cũng là một cuốn sách chỉ dẫn phương tiện tập định tâm, tập trung tư tưởng. Thuật Sống Lâu là cải thiện thể xác và tâm linh đi đến “toàn mỹ”.Muốn được sống lâu phải kiên tâm luyện tập, tu dưỡng mới thành công.“Thể dục tối cần cho mức thăng bằng của cơ thể và trí óc cũng như đồ ăn và giấc ngũ vậy. Ai chịu tập thể dục một cách điều hòa thích ứng và thường xuyên sẽ còn trẻ trung trong khi tuổi đã quá 70. Muốn được thế, hàng ngày phải dùng thứ thuốc Trường xuân là THỂ DỤC” – Bác sĩ Dulley White.
TẠO LẬP VŨ TRỤ VÀ SINH HÓA MUÔN LOÀI VẠN VẬT
Những lời tiên tri về Thiên Cơ ( Bộ Máy Trời) thường được giữ kín bằng ẩn ngữ, vì tục ngữ có câu "Có Trời mà cũng có ta". Bộ máy Trời do Đấng Sáng Tạo ấn định trước bằng Luật Thiên Điều với Tam Giáo Tòa và những luật trong thiên nhiên như: Luật Âm Dương, Nhân Quả, Luân Hồi, Hy Sinh và Tiến Hóa theo chu kỳ và sự quân bình công bằng trong trời đất. Tuy nhiên, ở Hậu Thiên thì loài người có thể tự điều chỉnh luật Trời, tự sửa đổi số mạng mình bằng cách trả nợ hay nghiệp cũ, tạo phước mới và tu tiến thì Luật Trời cũng phải theo con người, vì "Thuận nhơn tức là thuận Thiên, thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong". Những lời tiên tri về Thiên Cơ ( Bộ Máy Trời) thường được giữ kín bằng ẩn ngữ, vì tục ngữ có câu "Có Trời mà cũng có ta". Bộ máy Trời do Đấng Sáng Tạo ấn định trước bằng Luật Thiên Điều với Tam Giáo Tòa và những luật trong thiên nhiên như: Luật Âm Dương, Nhân Quả, Luân Hồi, Hy Sinh và Tiến Hóa theo chu kỳ và sự quân bình công bằng trong trời đất. Tuy nhiên, ở Hậu Thiên thì loài người có thể tự điều chỉnh luật Trời, tự sửa đổi số mạng mình bằng cách trả nợ hay nghiệp cũ, tạo phước mới và tu tiến thì Luật Trời cũng phải theo con người, vì "Thuận nhơn tức là thuận Thiên, thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong".Nói riêng Trái Đtấ hay Quả Cầu 68 nầy thì Hậu Thiên đã có hằng tỉ năm rồi. Đã có không biết số lần chu kỳ và không biết bao nhiêu nền văn minh đã bị chôn vùi dù nền văn minh khoa học vật chất rất cao hơn cả nền văn minh hiện nay và những người còn sống sót phải làm lại từ A,B,C cho nền văn minh kế tiếp. Những chu kỳ : Thành, Trụ, Hoại, Diệt lớn của Vũ Trụ lại có những chu kỳ nhỏ. Nói riêng Trái Đtấ hay Quả Cầu 68 nầy thì Hậu Thiên đã có hằng tỉ năm rồi. Đã có không biết số lần chu kỳ và không biết bao nhiêu nền văn minh đã bị chôn vùi dù nền văn minh khoa học vật chất rất cao hơn cả nền văn minh hiện nay và những người còn sống sót phải làm lại từ A,B,C cho nền văn minh kế tiếp. Những chu kỳ : Thành, Trụ, Hoại, Diệt lớn của Vũ Trụ lại có những chu kỳ nhỏ.