Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Người Chân Chính - Boris Polevoy

Năm 1954, khi từ bưng biền về hoạt động bí mật ở Sài Gòn, tôi đến cửa hàng Albert Portail ở đường Catinat mua sách báo ngoại văn. Tình cờ tôi thấy một số sách Liên Xô dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Xã hội Pháp (Editions Sociales) bày bán tự do. Tôi lựa được một cuốn tiểu thuyết rất hay: “Một người chân chính” (Un homme veritable) của nhà văn Xô viết Bôris Pôlêvôi. Tôi bắt đầu dịch ngay trong những thời gian rảnh rỗi, nhất là vào ban đêm. Lúc đầu tôi định chuyển thể để có thể đăng trên các báo Sài Gòn hoặc ra sách, như kiểu anh Năm Châu chuyển thể vở “Người mặt cháy”. Nhưng dưới sự kiểm duyệt rất khắc nghiệt của địch nên không thể qua mặt được. Tôi liền gửi đăng trên báo Sông Chung (sau này là báo Trung Lập) của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Sau đó tôi sửa chữa lại lần nữa bản dịch gửi ra Hà Nội. Vợ tôi (chị Lê Đoan) lúc đó là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam đã đưa bản dịch cho Nhà xuất bản Thanh Niên. Cuốn sách được in 2 lần, mỗi lần với số lượng lớn 15.000 bản. Nhà xuất bản còn đề nghị tác giả Bôris Pôlêvôi gửi ảnh và lời tựa cho cuốn sách kèm với bản tự thuật của ông. Vì tôi dịch cuốn sách từ tiếng Pháp, chớ không phải tiếng Nga, nên phải nhờ Giáo sư Phạm Huy Thông hiệu đính theo nguyên bản tiếng Nga. Anh Phạm Huy Thông lại có dịp gặp cả tác giả Bôris Pôlêvôi và anh hùng Xô viết Alếchxây Mêrétxép nên việc xuất bản cuốn “Một người chân chính” càng có giá trị thắt chặt quan hệ anh em giữa Liên Xô và Việt Nam. Đây là bản dịch rất sớm các tác phẩm văn học của Liên Xô. Vì cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài, tôi rất tiếc không gặp được Bôris Pôlêvôi và anh hùng Alếchxây Mêrétxép, chỉ có liên hệ thư từ với Bôris Pôlêvôi. Chính tác giả đã gởi cho tôi nhiều tác phẩm văn học của Liên Xô và cả sách học tiếng Nga để tôi tự học khi còn ở chiến khu. Bôris Pôlêvôi còn khuyên tôi nên dịch cuốn “Tấm kiếng Parabôn” của Alếchxây Tônstôi, tôi cũng đã dịch và in thành truyện nhiều kỳ (feuilleton) trong tuần san “Hòa bình trung lập” của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Cuốn “Một người chân chính” có tính giáo dục, rèn luyện thanh niên rất cao, gần như cuốn “Thép đã tôi thế đấy”. Bởi vì phi công Alếchxây Mêrétxép sau khi bị bắn hạ trên bầu trời Đức chiếm đóng, gãy hai chân, đã bằng hai tay bò suốt 18 ngày đêm vừa đói vừa rét, để về căn cứ Hồng Quân. Sau khi lắp chân giả, anh lại bay nhiều ngày tấn công địch đến thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh chống Phát xít. Anh được phong Anh hùng lực lượng võ trang Liên Xô và được bầu vào Ban Chấp hành “Hội đồng Hòa bình thế giới” chính anh đã lên tiếng nhiều lần ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam trên các diễn đàn Quốc tế. Tôi có ý định tái bản cuốn “Một người chân chính” vì cuốn sách là một tác phẩm có giá trị văn học, có giá trị giáo dục thanh thiếu niên, ngay cả trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Người dịch Minh Đô (Phạm Dân). *** LỜI TÁC GIẢ Tôi chưa sang thăm nước Việt Nam. Nhưng tôi có cảm tưởng là mình đã từng sống ở đấy, đã quen biết cảnh thiên nhiên giàu đẹp của đất nước này, với những khu rừng nhiệt đới, những con sông hùng tráng và những thung lũng phì nhiêu, những người Việt Nam tuy tầm vóc không cao lắm, nhưng gần cảnh vật và những con người ấy, không ai có thể coi là bé nhỏ. Những năm trước đây, khi nhân dân Việt Nam đang tiến hành cuộc đấu tranh thần thánh và anh dũng chống bọn thực dân được trang bị đẩy đủ thì những người Xô viết chúng tôi đã theo dõi quá trình các trận chiến đấu anh dũng của các bạn với tấm lòng kính phục và thông cảm sâu sắc. Nhân dân chúng tôi biết rõ giá trị của lòng dũng cảm, tinh thần can đảm và lòng yêu mến tự do. Người anh hùng họ biết kính phục tinh thần anh dũng của những người anh hùng khác. Vì vậy người Việt Nam ở xa chúng tôi, đã trở thành người bạn gần gũi và thân thiết. Chúng tôi rất vui mừng trước mỗi thắng lợi chống thực dân của các bạn và đã gửi đến đất nước các bạn lời chào hòa bình. Ngày nay với tấm lòng kính phục anh em, chúng tôi rất yêu mến những người Việt Nam quang vinh đang nắm trong tay vận mệnh của mình để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc. Tôi hy vọng Alếchxây Mêrétxép, nhân vật có thực trong cuốn sách của tôi, một người Xô viết bình thường sẽ được gặp những người bạn tốt trong hàng ngàn vạn người lao động của nước Việt Nam mới. Chính vì ở nước các bạn cũng biết rõ giá trị tinh thần anh dũng chân chính, nên Alếchxây Mêrétxép đã đến với các bạn như tình anh em. Mạc tư khoa (Mascơva) 2-1960 Bôris Pôlêvôi *** LỜI TỰ THUẬT CỦA TÁC GIẢ   Tôi sinh ngày 17 tháng 3 năm 1908 tại Mátxcơva, nhưng tôi lớn lên ở Tưve (bây giờ gọi là Calinin); cho nên tôi có thể có lý do để tự coi mình là một công dân Calinin. Cha tôi xưa là luật gia. Ông chết vì bệnh lao năm 1916. Tôi gần như không còn nhớ gì hết về ông, nhưng cứ phán đoán theo tủ sách rất tốt ông để lại, trong đó có đầy đủ các nhà văn cổ điển Nga và nước ngoài, và theo lời mẹ tôi nói lại, thì đối với thời ông, ông là một người có đầu óc tiến bộ và có học vấn cao rộng. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi vào làm việc ở một nhà thương xưởng máy, làm thầy thuốc, và mẹ con chúng tôi dọn đến ở trong một xưởng dệt lớn của bọn buôn bán Marôdốp. Tôi ở đấy suốt thời thơ ấu và thời niên thiếu của tôi. Chúng tôi ở trong chỗ gọi là “nhà nhân viên”, nhưng bạn học và bạn chơi của tôi là các con cái thợ thuyền, và vì mẹ tôi làm việc ở nhà thương nên công việc bận rộn bù đầu và chả mấy khi gần gũi con được, có những khi tôi cứ cả ngày ở trong các nhà ngủ công cộng của công nhân hay ở vùng ngoại ô quanh đấy. Tôi học hành không đến nỗi quá kém ở trường, nhưng cũng không hào hứng quá độ, và vào ngày giờ rảnh, tôi hoặc ra giữa dòng sông Tưmaca - một dòng nước hôi thối chảy ngang qua xưởng - và hoặc đắm chìm trong sách vở trong thư viện của cha. Tuy bận bịu, mẹ tôi cũng cố gắng hướng dẫn tôi đọc sách và khuyên nhủ tôi đọc sách của những tác giả mà mẹ tôi ưa thích nhất. Những cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Gôgôn, Sêkhốp, Nêcưraxốp, Pimialốpski. Nhà văn tôi thích nhất là Goócki. Khi còn là sinh viên, cha mẹ tôi đều rất tôn sùng ông, và tủ sách của gia đình gồm hầu tất cả những sách của ông xuất bản trước cách mạng. Thời còn bé, tôi lại còn có một chiều hướng thích thú khác nữa, là yêu thiên nhiên. Học lớp tư, tôi đã là một “người lãnh đạo” nhóm các nhà sinh vật học trẻ tuổi và đã tham dự những cuộc gặp gỡ của thanh thiếu niên thành phố và của thanh thiếu niên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô viết Nga. Ở nhà tôi lúc nào cũng có chứa những khách lạ: một lần, có con ưng không biết tại sao lạc đến bay lới phới trong sân xưởng và đụng phải dây điện tín gẫy cánh; một lần khác, có con quạ con bị ngã từ trên ổ xuống được tôi cứu thoát khỏi móng mèo, có con nhím và có cả con rắn nước mà tôi dọn dẹp chỗ cho ở giữa hai khung cửa sổ, trong một đường rãnh nhỏ đã đào riêng cho nó. Trong thành phố bấy giờ có xuất bản một tờ báo địa phương: tờ Sự thật Tưve. Trong những năm hai mươi [1] có thành lập nên trong xưởng một mạng lưới quan trọng các thông tín viên công nhân. Tòa báo đặt trong căn nhà sắp xếp dụng cụ cứu hỏa. Và lũ bé con chúng tôi vô cùng kính phục nhìn những kẻ ra vào căn nhà gạch nhỏ ấy. Những thông tín viên công nhân mà! Những người viết bài trong báo mà! Chủ tịch của tổ chức đó, bác thợ nguội Gurianốp, là một trong những người được trọng vọng nhất nhà máy. Chắc hẳn là từ thuở xa xăm ấy đã chớm nở trong tôi cái chiều hướng thích thú đối với nghề viết báo, bấy giờ tôi đã coi như nghề hay nhất, quan trọng vô cùng, lại có cái khía cạnh đôi chút huyền bí. Tôi đang học lớp sáu khi báo Sự thật Tưve đăng bài báo nhỏ đầu tiên của tôi. Bài, theo như tôi còn nhớ được, có bảy dòng; nó kể chuyện một nhà thơ nông dân có tiếng tên là Đưrốtgin, đến thăm trường. Báo đăng bài đó cuối trang tư và tôi nhớ là đâu không có ký tên. Nhưng tôi thì tôi biết là ai viết bài đó, nên tôi không bao giờ rời số báo có đăng bài đó cho đến lúc nó rách tan từng mảnh trong túi tôi. Từ đó, tôi viết đều đặn trong báo Sự thật Tưve: bắt đầu là phản ánh mọi việc gì lôi thôi ở thành phố, rồi vào những đề nghiêm chỉnh hơn; cuối cùng, khi tòa soạn chú ý đến tôi, tôi được giao cho làm những phóng sự nho nhỏ về thời sự ở thành phố trong các xưởng, các nhà máy. Tôi tiếp tục học phổ thông, rồi tôi vào trường kỹ thuật công nghiệp; tôi chuyển ngành hóa học và cắm đầu vào phân tích chất lượng và số lượng. Nhưng tôi đã mơ màng tới những phòng tòa soạn phảng phất mùi mực in; trong những giờ nghe giảng, tôi viết trộm những bài báo hay những thiên phóng sự về những đề khá là xa với những đề mà giáo sư đang diễn đạt. Cứ như thế dần dần tôi đi đến làm cái nghề làm báo Xô viết, cái nghề mà tôi luôn vẫn coi như ngành văn chương nhiều hứng thú hơn tất cả các ngành khác. Báo Sự thật Tưve bấy giờ là một tờ báo rất là sinh động: Nhờ báo biết nắm lấy đúng lúc và “cho ra” cái gì có vẻ mới, hay và có giá trị trong công tác lao động xã hội chủ nghĩa ở xí nghiệp và ở thôn xóm. Làm việc báo chí, tôi quen quan sát cẩn thận, suy nghĩ về các sự việc, và chỉ viết về những vấn đề mà tôi biết thật đầy đủ. Tôi bỏ những tháng nghỉ ngơi của tôi để làm việc cho nhà báo, cố gắng lợi dụng thì giờ ấy để mà quan sát. Tấm gương huy hoàng của Goócki, mà tôi đọc tác phẩm từ bé, soi sáng đường đi cho tôi chẳng khác ngọn hải đăng. Tôi học được tinh thần quan sát là chính ở nơi ông. Một mùa hè nọ, tôi định sẽ cho tòa soạn một thiên phóng sự về những xí nghiệp làm nghề rừng và những xí nghiệp làm nghề thả bè trên sông trong vùng Tưve. Tôi đi tuốt đến quận Xêligiarốpski. Ở đó, tôi tới những xí nghiệp làm nghề rừng, tôi lên bè trôi sông và tôi làm việc ở đó, cầm tay lái, giữ tay chèo ở phía sau bè. Cứ thế là từ nguồn sông Vonga tôi xuống đến tận Calinin, rồi lại còn xuống thấp hơn thế nữa, đến tận Rưbinscơ, nơi đó kết thúc thật là mỹ mãn, lịch trình của tôi vừa lúc những bè cây cặp đúng bến. Trong khi rong ruổi như vậy, báo đăng loạt bài của tôi tựa là Trên những bè trôi sông. Tôi viết những bài đó ban đêm, gần ngọn lửa nhỏ đốt ở giữa nhà lều trên bè. Một mùa hè khác, tòa soạn báo Thôn xóm Tưve giao cho tôi làm một thiên phóng sự về tình hình chủ nghĩa xã hội thâm nhập đời sống các thôn xóm chưa tổ chức thành nông trang. Tôi đến làng Míchsina một nơi cùng tận trong tỉnh Tưve, làm nghề sắp xếp sách trong thư viện và viết một loạt bài báo về đời sống trong làng về những bước đầu tiên của lao động tập thể. Năm 1927, tập bài báo đầu tiên của tôi ra đời. Các bạn tôi trong tòa báo của thanh niên cộng sản Thế hệ trẻ không bảo gì tôi cả mà cứ gửi nó đến cho Mácxim Goócki ở Xorente. Khi hay biết được, tôi cuống cuồng cả lên. Bắt nhà đại văn hào phải mất công đọc các sáng tác chẳng ra gì mấy đó, mà tôi lại nhận thức được vô cùng rõ ràng là thật là còn non nớt, thì theo tôi thật là một việc xúc phạm. Cho nên tôi ngạc nhiên lạ lùng khi nhận được một cái gói to lùm lùm đề tên tôi, có dán tem nước ngoài, chữ viết to và cứng cáp lắm. Tự tay viết đến sáu trang giấy, Goócki nghiên cứu tỉ mỉ và rất đỗi khoan dung các tác phẩm tuổi trẻ đó của tôi. Ông khuyên tôi nên làm việc không ngừng, học tập các nhà văn cổ điển mà mài giũa văn như “anh thợ tiện mài giũa kim khí”. Bức thư ấy của nhà đại văn hào đối với tôi thật là bằng không biết bao nhiêu năm học tập. Tôi đã từng phen suy nghĩ về mỗi chữ ông viết, ra sức rút ra những kết luận đúng đắn và hữu ích. Goócki đã giúp tôi hiểu được rằng nghề làm báo và nghề viết văn là những nghề khó khăn, đòi hỏi phải học tập và lao động nhiều hơn bất cứ nghề nào khác. Tôi hiểu rằng không thể nào làm được những nghề ấy theo lối tài tử được, phải bỏ hết tâm lực vào, và chỉ có thế mới mong trở nên được một người lao động thực sự trong ngành báo chí bônsêvích. Thời ấy, tôi học xong trường kỹ thuật, vừa vào làm việc ở xưởng nhuộm, nơi in những thứ vải gọi là “vải Ấn độ”. Xưởng này là một bộ phận của nhà máy liên hợp Vô sản. Chẳng bao lâu, tôi đứng đầu một nhóm thông tín viên công nhân ở đó. Công việc của tôi ở xưởng và công tác xã hội của tôi ở nhà máy chẳng để cho tôi mấy thì giờ để làm cái việc tôi thích thú hơn cả, là làm báo. Mà sự ưa thích của tôi thì lại cứ ngày càng rõ. Cuối cùng, suy nghĩ chín chắn rồi, tôi thôi việc ở xưởng để vào làm biên tập viên tờ báo của thanh niên trong tỉnh, là tờ Thế hệ trẻ. Ở đó có một tập thể biên tập viên tốt, sau đó nhiều người đã trở nên những người làm báo có giá trị. Hoạt động thật là sôi nổi. Quỹ tờ báo nhỏ bé, rõ là không đủ cho sáu hay tám trang báo mà chúng tôi cứ hàng tuần cho ra hai kỳ. Cho nên phần chính công việc là phải do những nhà thông tín viên trẻ tuổi làm công không giúp cho. Tinh thần phát huy sáng kiến của báo đó đã khiến cho báo được từng phen khen ngợi trên những cột báo của Sự thật. Tôi đã làm việc ở tòa báo Thế hệ trẻ rồi, khi báo thôi, làm việc cho báo địa phương của Calinin là tờ Sự thật Vô sản, cứ thế không lúc nào ngừng mãi cho tới chiến tranh. Tôi viết những thiên phóng sự cùng những bài báo, và tôi phụ trách các mục kinh tế và văn hóa. Tôi được kết nạp Thanh niên năm 1930; năm 1940 tôi gia nhập Đảng Cộng sản, Nhờ trường học lớn của Đảng bônsêvích mà tôi trở nên được một nhà văn. Vừa tiếp tục cộng tác biên tập, tôi vừa viết truyện, nhưng, nghe đúng theo lời khuyên nhủ của Goócki, tôi chỉ cho đăng một phần nhỏ thôi trên báo hay trong tập niên lịch của vùng, là tập Ngày nay. Năm 1939, tập san Tháng Mười đăng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi: Xưởng nóng hổi. Tôi định cố tóm thâu trong cuốn sách đó toàn bộ kết quả của những điều tôi đã quan sát được về tình hình phát triển của phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong những xí nghiệp ở Calinin và về hoàn cảnh trong đó phát sinh ra được những sáng kiến của những kẻ phát minh. Tôi đã tự mắt mình quan sát tất cả những cái đó và tôi đã viết phóng sự nhiều về việc này. Sách, sở dĩ thời ấy được đôi chút hoan nghênh, đó là nhờ trước hết ở sự vĩ đại của những sự việc mà sách viết ra, kể đến và của những con người đã là những vai chính của truyện. Tôi muốn được nhấn mạnh nhất là vào một điểm, là đề truyện và nhân vật trong truyện đều là từ trong đời sống mà lấy ra; những ai công tác từ lâu trong các xưởng chế tạo dụng cụ vận chuyển ở Calinin đều đã nhận ra ngay bạn mình trong đám nhân vật trong truyện, và, rốt cuộc, anh là vai nam chính trong truyện đã mời tôi dự lễ cưới chị là vai nữ chính. Hôm lễ, đã đùa khá nhiều về cái điều đó: chính là nhân vật trong tiểu thuyết bắt buộc phải làm cho xong hẳn công việc của tác giả, để cho tác phẩm được kết thúc có hậu, dầu không ly kỳ chi mấy. Công tác lâu năm trong báo chí đã khiến tôi viết được những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, nhưng chính công tác của tôi trong tờ Sự thật, mà tôi là thông tín viên chiến tranh khi cuộc chiến tranh dân tộc vĩ đại bùng nổ, đã là bổ ích nhất cho sự nghiệp nhà văn của tôi. Có người đôi khi hỏi tôi: - Cố nhiên là anh làm báo thành ra bị trở ngại nhiều trong công tác viết văn của anh; cái đời nhà làm báo vốn rồn rập, cứ bắt là phải viết về những đề tài nhất định phải gửi bài đến những ngày giờ hẹn trước, chẳng kể tâm tình mình mỗi lúc thế nào, rồi lại kèm vào đấy nữa là phải viết đúng là bao nhiêu hàng chữ. Những câu hỏi loạt ấy không khiến tôi khó chịu, chỉ khiến tôi buồn cười, vì chính là công tác trong báo chí bônsêvích đã đưa tôi tới con đường văn chương. Làm báo giúp tôi biết rút ra cái chủ yếu, ghi cái gì là mới, là đã cộng sản rồi trong tâm tình của những người đương thời. Là thông tín viên chiến tranh của báo Sự thật, tôi lúc nào cũng ở những điểm quyết định của mặt trận mênh mông, nơi quyết định số mạng của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Tôi đã thu thập được ở đó một khối lượng tài liệu vô giá. Mọi người đã biết rằng những vai chính trong những cuốn sách của tôi: Một Người chân chính và Người Xô viết chúng ta, đều là những nhân vật có thật. Phần lớn tên thật ngoài đời thế nào, tên trong sách của tôi cũng là thế, đôi khi có thay đổi rất ít mà thôi. Ý đầu tiên của hai cuốn sách này là do ở tòa báo Sự thật mà ra. Sự việc xảy ra như thế này này. Tháng 2 năm 1942, có đăng một bài tựa là: Thành tích của Mátvây Cuzơmin. Bài ấy, tôi đã viết vội vã, sau khi đưa ma vị anh hùng ấy. Đó là chuyện một nông dân tập thể, đã bát tuần, thuộc nông trang tập thể Bình minh, trồng gai, cụ nông dân này đã lập lại cử chỉ anh hùng của Ivan Xuxanin. Bài viết vội và không có giá trị chi mấy. Lần đầu tôi ở mặt trận về, anh chủ bút báo Sự thật gọi tôi đến và trách tôi viết về một thành tích đáng kính phục như vậy một cách quá ư vội vã, y như một phóng viên nhà báo. - Thật tiếc là lẽ ra có thể kể câu chuyện này một cách khác hẳn, - anh trách tôi như vậy. Rồi, với thói quen của anh là hay tổng quát, anh nói thêm: - Tôi đã bảo tất cả các anh thông tín viên chiến tranh, và tôi xin hết điều căn dặn anh: Cứ ghi cho đầy đủ chi tiết những công trạng của những người Xô viết mà các anh có cái may mắn được chứng kiến. Đó là bổn phận công dân của các anh, và, hơn thế nữa, đó là bổn phận đảng viên Đảng Cộng sản của các anh. Nghĩ coi: trong cuộc chiến tranh này, nhân dân Liên Xô đã vượt qua về dũng cảm tất cả các vị anh hùng của tất cả các thời đại xưa cũ. Và để cho không quên chi hết về những thành tích hiển hách ấy, để cho mọi người Xô viết biết rõ đồng bào mình đã đánh phát xít như thế nào, đã thắng nó như thế nào, thì phải ghi tất cả, tất cả. Tôi liền mang theo một tập vở to, đóng bìa cứng, và tôi bắt đầu ghi vào đó thật là rành mạch địa chỉ các vị anh hùng hay những người đã chứng kiến những sự việc quan trọng, nhất là những tấm gương anh dũng mà tôi biết được. Là thông tín viên chiến tranh, tôi bay nhảy từ góc mặt trận này đến một góc mặt trận khác, khi thì tôi tới cùng quân du kích, khi thì tôi vào rừng, nơi các biệt đội nhảy dù chuẩn bị đánh chớp nhoáng phía sau lưng địch, rồi tôi lại trở về chiến tuyến ở Stalingơrát, về tuyến lồi Cuốcscơ ở Goócxun Sépchengơrat, tới sông Visla, tới sông Naixơ, tới sông Spưtê, và đâu đâu tôi cũng đã được chứng kiến cái bản lĩnh anh hùng của người Xô viết, đã làm phai mờ cả những thành tích hiển hách của các bậc anh hùng xưa: Ivan Xuxanin, Mácpha, Côgina, Côsơca người thủy thủ Xêbastôpôn, và biết bao nhiêu người nữa mà lịch sử ta, văn chương ta còn nhớ tên, nhớ tuổi. Suốt thời chiến tranh như thế là tôi đã ghi chép được sự việc về sáu mươi nhăm câu chuyện thuộc loại ấy. Một trong những câu chuyện ấy kể lại buổi gặp gỡ kỳ lạ với trung úy Vệ quốc Marétxép, phi công ở một phi trường lâm chiến, gần Oren, thời tấn công đánh lấy thành phố ấy. Đó là đề tài cuốn Một Người chân chính. Tôi đã rút ra từ những điều tôi đã ghi chép được hai mươi bốn câu chuyện tôi cho là quan trọng hơn cả, điển hình hơn cả, bộc lộ rõ hơn cả tinh thần của con người Xô viết. Và tôi đã viết thành những bài truyện ngắn, tập hợp lại trong một cuốn sách lấy tựa là Người Xô viết chúng ta. Giờ đây, xong chiến tranh rồi, tôi cứ tiếp tục làm việc theo đúng phương châm ấy, là kể những cái mà tôi đã chứng kiến. Trong truyện lấy tên là Trở về, tôi đã cố gắng trình bày bằng một hình thức nghệ thuật một mẫu đời của một anh thợ đúc nổi tiếng ở Mátxcơva. Đề tài của cuốn tiếu thuyết Vàng cũng là lấy ra từ trong đời sống thực sự: nó kết liễu vào lúc tấn công trên mặt trận Calinin, đầu năm 1942. Cái quan tâm đến sự xác thực đó, không phải là một cái gì riêng cho một mình tôi chút nào. Đời sống của chúng ta, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cứ ngày một đổi thay hoài; nó tiến lên, nó cung cấp cứ mỗi ngày, mỗi giờ, cho nhà văn những đề vừa giản dị vừa say mê, lấy ở kinh nghiệm hàng ngày thấy có. Người Xô viết, được lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản dìu dắt, đạt đến đỉnh cao của sự vĩ đại trong lao động cũng như trong chiến đấu. Những công lao cao cả làm nên vì Tổ quốc, ta cố suy diễn đặt để nó ra thì thật là rất khó, ngay đối với một nghệ sĩ có trí tưởng tượng mãnh liệt nhất. Nhưng đời sống Xô viết chúng ta thì cung cấp cho nhà văn biết bao nhiêu tâm tình thật vô cùng là phong phú. Công tác làm báo luôn luôn đưa chúng tôi tiếp xúc với những người đáng lưu ý nhất của thời buổi này, và cho phép chúng tôi được thấy những người ấy trong lao động và trong đấu tranh. Nghề làm báo khiến cho mắt chúng tôi sắc hơn, tai chúng tôi thính hơn. Riêng về bản thân tôi, thì những sự việc mà đời sống hiến dâng cho, thay thế vào chỗ trí tưởng tượng văn chương của tôi bị thiếu sót. Những nhân vật mà tôi phác họa ra, mà đời sống vượt tràn ra khỏi những trang sách của tôi, hoàn thành cái gì còn chưa hoàn chỉnh trong sách tôi: chúng tôi đã cùng nhau gặp gỡ nhau lại với anh Marétxép ở Vácxava, không phải với danh nghĩa nhân vật và tác giả tiểu thuyết, mà lần này với danh nghĩa cùng là đại biểu Liên Xô tại Đại hội thế giới lần thứ hai của các Chiến sĩ Hòa bình. Malích Gápđulin, nhân vật truyện Một anh hùng ca ra đời hiện lãnh đạo Viện Văn học trong Viện Hàn lâm khoa học nước Cadắc và chị nông dân ở Pôntava, chị Uliana Bialôgơrút, người đã cứu được lá cờ của một trung đoàn chiến xa, trong truyện Lá cờ của trung đoàn của tôi, thì sau chiến tranh đã được tặng thưởng huân chương về kết quả chị đã thu được trong vụ mùa củ cải. Được chứng kiến hạnh phúc của những con người ấy, hoạt động say mê của những con người ấy, lao động sáng tác của những con người ấy, lòng ta thật là vui sướng không cùng không tận. Làm nhà văn ở xứ sở của chủ nghĩa xã hội, là được hướng một hạnh phúc lớn lao không bờ bến. Bôris Pôlêvôi Mátxcơva Tháng 11 năm 1950   Mời các bạn đón đọc Một Người Chân Chính của tác giả  Boris Polevoy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nửa Mặt Trời Vàng - Chimamanda Ngozi Adichie
Chimamanda Ngozi Adichie đã mang đến một tác phẩm thông minh, hy vọng và từ bi cho lịch sử đau đớn của Biafra trong cuốn tiểu thuyết "Nửa mặt trời vàng". Để nắm bắt được câu chuyện của cuốn tiểu thuyết này, trước hết cần biết về địa danh Biafra. Đây là một bang ly khai của miền Đông Nigeria, chỉ tồn tại được ba năm, và tên nó đã trở thành khẩu hiệu toàn cầu trong cuộc chiến tranh chống nạn đói. Cuốn tiểu thuyết Nửa mặt trời vàng tập trung vào câu chuyện của hai chị em sinh đôi, Olanna và Kainene, con cái của giới tinh hoa. Họ phải đấu tranh với lòng trung thành với sự thất vọng và phản bội. Du học Anh quốc trở về, hai chị em song sinh Olanna và Keinene với hai tính cách trái người đã đi theo hai con đường khác nhau. Keinene nối nghiệp cha - một ông trùm có thanh thế của miền Bắc Nigeria, và bắt đầu mối tình với Richard, một người say mê nghiên cứu văn hóa nghệ thuật Igbo. Còn Olanna chuyển đến sống cùng anh chàng “người tình cách mạng” Odenigbo của mình, họ tìm được sự hòa hợp tuyệt đối về tâm hồn và chí hướng. Olanna là một mẫu người phụ nữ cũ, yêu chồng và chăm con, nhân ái với người giúp việc, hòa hợp với láng giềng và bạn bè, vâng lời cha mẹ, chiều chuộng người chị sanh đôi của mình. Là cô gái con nhà giàu lái xe hơi riêng, được chàng công tử Hausa tên là Mohammed yêu say đắm nhưng Olanna từ chối tình yêu này để chọn yêu một anh giảng viên nghèo thích làm cách mạng. Chiến tranh khiến cuộc sống của nàng trở nên nghèo khó, thiếu thốn đến độ không có cả cháo ăn với cá khô (một món ăn của dân nghèo mà Olanna có dịp chứng kiến ở nhà láng giềng của người cậu khi Olanna đến thăm cậu). Tình yêu của Olanna và Odenigbo là một tình yêu rất bình thường. Trong khi đó, Keinene lại là điển hình cho mẫu người phụ nữ hiện đại, cá tính mãnh mẽ, quyết liệt. Cô có một mối tình với Richard, nhưng bản thân cô luôn băn khoăn, cô xem trọng sự nghiệp, và luôn thể hiện bản lĩnh trước mọi sóng gió của đời sống. Khi cuộc nội chiến Biafra còn trong thời kỳ phôi thai, Kainene đã viết một lá thư ngắn, trong đó cô phân vân: “Có phải tình yêu là cái nhu cầu đặt không đúng chỗ mà hầu như lúc nào em cũng cần có anh bên cạnh? Có phải tình yêu là cái cảm giác an toàn em cảm thấy trong sự im lặng của hai đứa mình? Có phải là cái cảm giác chúng ta thuộc về nhau, cái cảm giác có đầy đủ mọi thứ khi chúng ta có nhau?” Trong tình yêu, cô gái da đen tuyệt đối là người cầm cương, dẫn dắt chàng trai da trắng vào thế giới của cô. Có lẽ, hình tượng Kainene cũng chính là một ẩn dụ nghệ thuật mà tác giả muốn hướng đến, trong mối quan hệ giữa châu Phi và nền văn minh phương Tây. Cuốn tiểu thuyết được kể qua những quan điểm lồng vào nhau của ba nhân vật: Ugwu, chú bé nhà quê 13 tuổi, ít học, mê tín, ngô nghê, thần tượng hóa ông chủ và bà chủ của chú là Odenigbo và Olanna. Ugwu thông minh, ham học, được sự bảo bọc và thương yêu của hai vợ chồng Odenigbo – Olanna. Chú cũng yêu thương gia đình chủ như chính gia đình mình. Olanna, một phụ nữ thượng lưu của Biafra đã từ bỏ cuộc sống tươi đẹp của mình để đến sống cùng người yêu, chàng giáo sư nghèo, Odenigbo; và Richard, một nhà báo Anh, nhận được tài trợ để viết một cuốn tiểu thuyết Nigeria. Cuộc sống đẩy ba nhân vật chính đến Nsukka, ở phía Nam Nigeria, nơi trở thành trung tâm của cuộc nội chiến ở nước này. Adichie đã đào sâu cuộc xung đột chính trị này, tạo nên nhưng căng thẳng về kinh tế, sắc tộc, văn hóa và tôn giáo giữa các dân tộc khác nhau của Nigeria, để rồi sau đó làm bật lên những hậu quả nặng nề về tình cảm và những tổn thương tâm lý đối với mỗi nhân vật. Đồng thời khắc họa một vùng đất xa xôi, oằn mình trong bi thương mà rực rỡ và say đắm. Đây là một cuốn tiểu thuyết siêu việt với nhiều vấn đề sắc xảo, trong đó đã làm bật rõ ảnh hưởng tàn bạo của cuộc chiến tranh đối với nông dân và trí thức, là một bài học lịch sử trong hình thức hư cấu, được viết một cách mạnh mẽ, đầy đặn, chảy trôi. Lối kể chuyện của Adichie trong cuốn tiểu thuyết dù không phong phú, có đôi lúc khá nghèo nàn, đơn thuần, nhưng khi viết về lòng trung thành và sự phản bội, nữ nhà văn tỏ rõ bút lực của mình nhất, với những trang viết thấm đẫm đời sống. Cô dường như là người rất thích đặt nhân vật của mình tại các ngã tư, nơi những giá trị trái ngược đụng độ và va chạm nhau. Những tác phẩm văn học phản ánh cuộc chiến Biafra đã có một lịch sử khá lâu đời với những tác phẩm của các nhà thơ Christopher Okigbo, đến Chinua Achebe, Cyprian Ekwensi và Flora Nwapa. Sinh năm 1977, Adichie không sống trong giai đoạn nội chiến, nhưng trí tưởng tượng của cô dường như được hình thành từ đó: Một số thành viên trong gia đình cô sống sót qua Biafra, một số khác thì không. Và giống như nhà văn trẻ người Mỹ Tom Bissell, người mà cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành một người say mê định hình thông qua người cha cựu chiến binh bị tàn phế, Adichie tiếp cận bạo lực trong quá khứ của đất nước với sự pha trộn giữa khoảng cách thế hệ và ám ảnh gia đình. Sự xa lạ và gắn bó này mang lại cho Nửa mặt trời vàng một giai điệu đồng cảm, xúc động, vượt lên những câu chuyện về anh hùng, bạo lực hay quỷ dữ. Nền văn học Nigeria dường như còn khá xa lạ với bạn đọc Việt Nam.   sẽ là một cơ hội thú vị để làm quen và hiểu về lịch sử đất nước Nigeria của lục địa đen. Chắc chắn bạn sẽ hoàn toàn bị hấp dẫn bởi những chi tiết sinh động của cuốn sách này với bối cảnh là cuộc nội chiến Biafra. Chiến tranh và những hậu quả do chiến tranh gây ra như chết chóc, tàn phá, đói kém... ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng có những điểm giống nhau. Nỗi đau đớn do cuộc chiến Biafra mang đến cho mỗi người dân Nigeria trở nên thêm sâu sắc, bi thương bởi sự kỳ thị sắc tộc, tôn giáo, giai cấp. Chimamanda Ngozi Adichie hiện nay được coi là nhà văn nữ trẻ tuổi xứ Nigeria xuất sắc nhất từ khi quyển tiểu thuyết Nửa mặt trời vàng có số bán hàng triệu bản trên khắp thế giới và được trao tặng giải thưởng văn chương Orange của Anh quốc. *** Đây là một quyển sách phong phú về lịch sử, lấy chiến tranh Biafra làm bối cảnh và bao gồm mấy chủ đề có thể được phân tích. Chúng ta có thể đọc quyển sách này qua chủ đề kỳ thị sắc tộc, tôn giáo, giai cấp trong một quốc gia hay có thể nhìn qua một lăng kính đơn giản hơn, đó là cuộc đời và chuyện tình của hai chị em song sinh trong thời chiến tranh. Tuy nhiên đối với tôi, một độc giả Việt Nam, thì điểm quan trọng nhất trong Nửa Mặt Trời Vàng chính là cuộc nội chiến Biafra có nhiều điểm tương đồng với chiến tranh Việt Nam. Một trong những điểm tương đồng này là, tuy là nội chiến nhưng lại có một hay vài cường quốc “giật dây” phía sau. Cũng giống như chính quyền Pháp đã chia Việt Nam thành ba miền và áp dụng chính sách chia để trị, chính quyền Anh đã chia Nigeria thành ba miền và lợi dụng sự khác biệt về ngôn ngữ, phong tục, tôn giáo, sắc tộc để chia rẽ nội bộ Nigeria. Để bạn đọc tiện theo dõi cốt truyện lồng vào bối cảnh lịch sử chiến tranh Biafra, tôi xin giới thiệu sơ lược lịch sử hình thành cuộc nội chiến này. Vào năm 1885, sau cuộc chiến tranh với Napoleon, đế quốc Anh bành trướng sang châu Phi. Năm 1901, Nigeria chính thức nằm dưới sự bảo hộ của Anh. Con sông Niger chảy từ miền Tây Bắc của Nigeria gặp sông Benue chảy về hướng Đông Nam tạo thành hình chữ “Y” chảy dọc xuống miền Nam, chia Nigeria thành ba miền. Miền Bắc cua Nigeria có diện tích lớn nhất và dân số đông nhất, đa số là người Hausa-Fulani và theo tôn giáo Muslim. Người dân vùng này sinh sống bằng cách khai thác quặng mỏ và buôn bán. Họ tuân phục các vị tiểu vương Hồi giáo gọi là Emir. Các Emir là lãnh tụ cả về tôn giáo lẫn chính trị và áp dụng chế độ chuyên chế. Họ sống cô lập, hạn chế tiếp xúc với ngoại quốc để chống sự xâm nhập của Thiên Chúa giáo. Tước vị và của cải được lưu truyền từ đời cha qua đời con. Càng về sau miền Bắc của Nigeria càng trở nên cô lập hơn, người dân ngày càng nghèo khổ và ít học hơn. Phía Tây Nam của Nigeria, đa số là người Yoruba sinh sống. Chế độ chính trị cũng gần giống như chế độ của người Hausa ở miền Bắc; họ tuân phục những vị tiểu vương Oba nhưng chế độ này ít chuyên chế hơn. Họ có thể thăng tiến trong xã hội nhờ tài nghệ hay của cải. Sự giàu có hay chức vị không bị bắt buộc phải theo truyền thống cha truyền con nối. Người Igbo sống ở vùng Đông Nam bao gồm khoảng hơn 600 bộ lạc độc lập, tự trị, và theo chế độ dân chủ. Mọi chuyện quan trọng đều được mang ra thảo luận và bình bầu ở sân làng. Người dân Igbo có quyền tham gia ý kiến vào những quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh tồn của chính họ và của bộ lạc. Anh quốc áp dụng chính sách chia để trị, lợi dụng sự khác biệt về phong tục, ngôn ngữ và sự tự hào của ba miền để gây chia rẽ nội bộ. Các tiểu vương Emir nộp thuế cho chính quyền Anh để được bảo vệ chống sự xâm nhập của Thiên Chúa giáo. Vì thế các nhà truyền giáo hoạt động ở khu vực phía Nam của Nigeria. Dân Igbo và Yoruba tiếp cận với nền văn hóa mới của chính quyền bảo hộ Anh. Họ cho con đi học các trường đại học ở nước ngoài nhiều hơn và khuếch trương các hải cảng để giao dịch thương mại. Người Igbo ở vùng Đông Nam trở nên giàu có, thịnh vượng và hấp thụ văn hóa Tây phương. Người ta khám phá ra những mỏ dầu lớn ở khu vực sông Niger. Vào những năm 1940 và 1950, người Igbo và Yoruba là những lực lượng tiên phong giành quyền độc lập cho Nigeria. Năm 1960, người Anh trao trả quyền độc lập cho Nigeria. Họ chủ trương thống nhất quốc gia và chia làm các tiểu bang để quản lý. Người miền Bắc của Nigeria e ngại rằng dân Igbo sẽ chiếm thế thượng phong trong việc điều hành chính quyền vì họ có nền học vấn tân tiến, có khuynh hướng cởi mở với Công giáo và Tây phương, do đó cương quyết tiếp tục chia Nigeria làm ba miền như trước. Năm 1965, có một cuộc nổi loạn, khoảng 30.000 người Igbo bị giết và cả triệu người phải chạy loạn. Tháng Giêng năm 1966, một nhóm sĩ quan trẻ người Igbo đảo chính cướp chính quyền. Tháng Bảy năm 1966, sĩ quan miền Bắc đảo chính lại, chọn Yakubu Gowon, một sĩ quan Công giáo của một bộ lạc nhỏ, lên làm lãnh tụ. Gowon dùng quân đội để cai trị. Người dân chống đối đòi trở lại chế độ dân sự. Cuộc bạo động kéo dài, có khoảng tám đến mười ngàn người Igbo bị giết; cả người miền Bắc sống ở các thành phố miền Đông Nam cũng bị sát hại. Tháng Giêng năm 1967, lãnh tụ của ba miền họp mặt ở Aburi ký hiệp ước liên bang nhưng người miền Bắc không đồng ý. Obafemi Awolowo, lãnh tụ của quân đội miền Tây Nam, tuyên bố nếu miền Đông Nam rút tên ra khỏi liên bang thì miền Tây Nam cũng rút lui. Chính phủ miền Đông Nam không chấp nhận Hiệp ước Aburi. Tháng Năm ngày 26, miền Đông Nam tuyên bố ly khai và ngày 30, Chukwuemeka Odumegwu Ojukwu, lãnh tụ lực lượng quân đội miền Đông Nam tuyên bố thành lập xứ Cộng hòa Biafra vì lý do người Hausa đã giết người Igbo. Nguyên do chính là vì nhiều mỏ dầu được khám phá ở khu vực miền Nam; trong khi sự phồn thịnh của nền kinh tế Nigeria chủ yếu dựa vào việc khai thác dầu. Thoạt tiên Lực lượng Quân sự Liên bang xem đây là một cuộc nổi loạn nhỏ, chỉ cần lực lượng cảnh sát là có thể tái hồi trật tự nhưng Biafra đã đánh lui lực lượng cảnh sát. Tuy nhiên chỉ vài tháng sau, lực lượng quân sự của liên bang đã đánh chiếm lại phần lớn lãnh thổ và vào năm 1968, Biafra chỉ còn lại một phần mười lực lượng ban đầu. Tháng Chín năm 1968, quân đội Biafra bị kiệt lực vì thiếu vũ khí. Tháng Sáu năm 1969, chính quyền Nigeria bắt đầu phong tỏa thuốc men và lương thực. Tháng Mười năm 1969, Ojukwu kêu gọi sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc để ngưng chiến. Chính quyền liên bang Nigeria kêu gọi Biafra đầu hàng. Tháng Mười hai, quân đội liên bang cắt Biafra thành hai mảnh. Ojukwu chạy sang Ivory Coast giao quyền lãnh đạo cho Philip Effiong. Tháng Giêng năm 1970, Effiong đầu hàng. Con số người chết vì nạn đói lên đến hơn một triệu. Chiến tranh và những nỗi buồn do chiến tranh gây ra như chết chóc, tàn phá và đói kém, ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng có những điểm giống nhau. Người dân sống trong chiến tranh là người dân bất hạnh. Qua quyển sách này độc giả sẽ nhìn thấy nỗi bất hạnh của người dân sống trong vùng đất đòi độc lập và tự trị Biafra và tôi nghĩ độc giả có lúc sẽ đặt quyển sách xuống, thở dài, đôi khi lau giọt nước trào ra nơi khóe mắt khi liên tưởng đến những đau khổ và sự đối diện với cái chết hằng ngày của người Việt Nam. Chiến tranh là một đề tài rất rộng lớn mà tôi không hiểu biết đủ; lạm bàn có thể gây ngộ nhận. Với vai trò của một người dịch, sau vài tháng đọc từng lời từng chữ của cuốn sách, tôi cảm thấy rất gần gũi và yêu mến các nhân vật mà tôi tin là sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết này, bạn cũng sẽ yêu mến họ. Người đầu tiên tôi chắc chắn bạn sẽ yêu mến là Ugwu, chú bé nhà quê mười ba tuổi, ít học, mê tín dị đoan, ngô nghê, thần tượng hóa ông chủ và bà chủ của chú là Odenigbo và Olanna. Ugwu thông minh, ham học, được sự bảo bọc và thương yêu của hai vợ chồng Odenigbo-Olanna. Chú cũng yêu thương gia đình chủ như chính gia đình mình. Ugwu bị đẩy vào chiến trận và trưởng thành trong chiến tranh. Chimamanda Ngozi Adichie đã chăm sóc, “vun trồng” kỹ lưỡng nhân vật Ugwu. Ugwu là biểu tượng của Nigeria mà Adichie đã gởi tất cả hy vọng, từ một quốc gia nghèo nàn, kém phát triển về kinh tế và văn hóa sau cuộc nội chiến sẽ trưởng thành, có tiếng nói và chỗ đứng trên thế giới. Đây là nhân vật chính và quan trọng nhất trong quyển sách này; tôi nghĩ là nên để bạn đọc thưởng thức và nhận xét. Bạn cũng sẽ yêu mến đôi vợ chồng Odenigbo — Olanna. Đây là đại diện cho giới trí thức trẻ của Nigeria lúc bây giờ. Odenigbo là một giảng viên ở Đại học Nsukka. Anh cùng với một nhóm giảng sư và sinh viên đã khởi đầu đòi hỏi được quyền thành lập quốc gia Biafra. Odenigbo, nhà trí thức trẻ tuổi, nhiệt tâm yêu nước, có ý chí cách mạng, có lòng nhân đạo, và là người bạn tốt của Ugwu. Có tài biện luận và yêu chủ nghĩa xã hội, tuy là nhà Toán học, anh dùng hết thì giờ của mình viết báo kêu gọi người dân Nigeria đứng lên đòi quyền độc lập và cải tổ xã hội. Odenigbo yêu rất nồng nàn nhưng cũng dễ sa ngã. Mẹ mất trong chiến tranh, tài trí của anh bị thui chột cũng vì chiến tranh, về phương diện tình yêu và hôn nhân, Odenigbo là một thí dụ điển hình mà khi yêu, người phụ nữ đã đặt kỳ vọng vào tiềm năng của một người đàn ông để rồi sau khi kết hôn, người phụ nữ sẽ nhận ra rằng những kỳ vọng này là ảo vọng. Những điểm đáng yêu ban đầu, về sau trở thành những điều khó chịu. Ban đầu rượu brandy làm Odenigbo hứng chí, ánh mắt long lanh và dễ dàng trở thành nhà hùng biện xuất chúng, chỉ sau vài ly rượu. Về sau, nỗi buồn chiến tranh và cái chết của mẹ biến anh thành người bạc nhược về tinh thần. Rượu trở thành chất độc giết chết khả năng suy nghĩ của anh. Sự phấn đấu không còn, rượu được dùng để khuây khỏa nỗi buồn chiến tranh. Anh phụ lòng yêu thương của Olanna ít nhất là một lần. Còn lần thứ hai, tác giả cố tình nhập nhằng để độc giả muốn hiểu thế nào cũng được. Olanna, một cô gái trẻ thuộc tầng lớp thượng lưu trong xã hội, có nhan sắc của một mỹ nhân ngư. Nhan sắc của cô chinh phục tất cả mọi người từ những đồng nghiệp của Odenigbo như bác sĩ Patel, nhà thơ Okeoma, bác sĩ Nwala anh em họ của Okeoma. Ngay cả Richard, tuy yêu thương Kainene nhưng cũng ngã lòng trước sắc đẹp của nàng. Và cả chú bé Ugwu nhà quê cũng say mê nhan sắc của cô chủ, tuy nhiên sự say mê này mang sắc thái vừa sợ vừa phục một thần tượng. Tuy là một thiếu nữ được hấp thụ nền văn hóa Tây phương, học chương trình Anh từ lúc tiểu học, tốt nghiệp đại học ngành Xã hội học ở London, Olanna được Adichie chọn làm biểu tượng của người phụ nữ Nigeria truyền thống. Một mẫu người vượng phu ích tử, yêu chồng và chăm con, nhân ái với người giúp việc, hòa hợp với láng giềng và bạn bè, vâng lời cha mẹ, chiều chuộng người chị sanh đôi của mình. Là con gái một nhà giàu có, lái xe hơi riêng, được chàng công tử Hausa tên là Mohammed yêu say đắm nhưng Olanna từ chối tình yêu này để yêu một anh giảng viên nghèo thích làm cách mạng. Chiến tranh khiến cuộc sống của nàng trở nên nghèo khó, thiếu thốn đến độ không có cả cháo ăn với cá khô (một món ăn của dân nghèo mà Olanna có dịp chứng kiến ở nhà láng giềng của người cậu khi Olanna đến thăm cậu). Tình yêu của Olanna và Odenigbo là một tình yêu rất bình thường. Bạn đọc sẽ nhìn thấy qua Olanna hình ảnh người mẹ và người vợ Việt Nam trong chiến tranh. Một người phải lo lắng hôm nay ăn gì, phải tìm mua thức ăn ở đâu, và nhất là làm sao chi tiêu cho hợp lý. Người đọc dễ dàng cảm thấy một tình yêu chân thật, say đắm, nồng nàn của đôi uyên ương này. Và cũng qua nhân vật Olanna, người đọc cảm nhận được nỗi sợ hãi của một người dân sống trong bom đạn, hằng ngày phải đối diện với cái chết của người thân yêu và của chính mình. Ugwu, Odenigbo và Olanna là những nhân vật mà người đọc sẽ dễ dàng yêu mến họ. Kainene và Richard cũng đáng yêu nhưng phức tạp hơn. Cái đáng yêu của họ không dễ dàng được nhận thấy bởi vì hai nhân vật này không giống mẫu người đáng yêu truyền thống. Trong một xã hội da màu đã từng bị đặt dưới sự bảo hộ của chính quyền thuộc địa như Anh và Pháp, người đàn ông da trắng có một vị trí khá cao. Tuy nhiên Chimamanda Adichie đã truất phế cái quyền lực của một người da trắng mà xã hội thuộc địa ưu ái dành cho Richard. Richard là một thanh niên nghèo, mồ côi, sống nhờ tình thương và sự dưỡng nuôi của người bác. Anh đẹp trai, đỏm dáng, dịu dàng, hiền lành đến độ có thể bị xem là nhu nhược. Richard có cái mơ mộng của một nghệ sĩ và không thích đua chen với cuộc đời. Ngay cả cái nghề ký giả của anh cũng do bà bác dàn xếp. Rời Anh quốc để qua Nigeria, Richard có ý muốn thoát ly và tự lập. Anh muốn tìm hiểu bản thân và định hướng cuộc đời mình. Bác Elizabeth dàn xếp cho anh gặp Susan, một phụ nữ nhiều tuổi hơn Richard. Susan ngỏ ý muốn giúp anh có chỗ ở yên tĩnh để anh có thể viết văn. Richard về sống chung với Susan và rất nhanh chóng, cô yêu anh. Tuy không có ý định nhưng vô tình Richard trở thành một “gigolo” hay trai bao của Susan. Richard khám phá nghệ thuật đúc đồng thành bình hoa có cột dây của người Igbo và vì yêu bộ môn nghệ thuật này, anh ở lại Nigeria để nghiên cứu với ý định viết sách về nó. Trong một buổi tiệc Richard đi dự với tư cách người hộ tống Susan, anh gặp Kainene và ngay lập tức anh say mê Kainene bởi vẻ đẹp kỳ lạ và cá tính độc đáo của nàng. Hấp lực của Kainene mạnh đến độ anh chỉ muốn gạt Susan ra khỏi cuộc đời anh. Anh đã không ngần ngại nói dối Susan để mình có thì giờ riêng tiếp tục trò chuyện với Kainene. Kainene là hiện thân của một phụ nữ mới, đi trước thời đại khoảng chừng 50 năm. Có thể nói hiện nay, số người phụ nữ thật sự nắm quyền lãnh đạo kinh tế và thương mại tuy có nhiều hơn những năm 60 của thế kỷ XX nhưng vẫn còn là thiểu số. Nigeria của những năm 60, người đàn ông là chủ gia đình. Dân Igbo có tục lệ đa thê. Người đàn ông ở gian nhà chính. Mỗi người vợ và con của họ ở trong gian nhà riêng, chung quanh căn nhà chính. Các bà vợ tự trồng rẫy, làm ruộng của mình. Đến bữa ăn họ được chia phiên người nào nấu thức ăn gì và mang đến cho chồng. Họ trọng nam khinh nữ. Tuy nhiên, Kainene vừa tốt nghiệp đại học ở ngoại quốc về đã lập tức nắm quyền quản lý cơ sở thương nghiệp của bố và được ông bố tán dương là có giá trị gấp đôi một người con trai. Kainene là một cô gái vượt qua những giới hạn mà xã hội Nigeria đã dành sẵn cho phụ nữ. Kainene khẳng định quyền tự do chọn lựa và quyết định cuộc đời mình, cho dù sự quyết định hay chọn lựa của Kainene không được xã hội chấp nhận hay tán thành. Tính tự quyết và tự do trong việc chọn lựa thể hiện qua cách trang điểm, ăn mặc, cách chọn người để yêu và bạn giao du. Ngay cả cái quyết định tối hậu ảnh hưởng đến mạng sống của cô là vượt vòng đai cấm để đi tìm mua thức ăn cho dân tị nạn cũng là một quyết định đơn độc. Kainene không phải là một người quyết định dựa vào sự tán đồng của người chung quanh. Cô có thái độ kiên định của một người lãnh đạo, quyết đi trên con đường đã chọn cho dù phải hy sinh tính mạng. Độc giả có thể không thích Kainene lúc mới vừa gặp cô. Không thể nói là Kainene đẹp bởi vì cô không có vẻ đẹp mà xã hội của cô đã tạo tiêu chuẩn. Cô có hình dáng khác thường, cao bằng một người đàn ông ngoại quốc, gầy đến độ trông giống như một thanh niên. Tính khí thì kỳ quặc, tô môi son đỏ chóe, hút thuốc phì phèo. Trong cái nhìn của Richard, anh cho rằng cô giống những cô nàng “bồ nhí” của các ông lớn hơn là con gái của một Ông Trùm thầu khoán, tốt nghiệp đại học ở ngoại quốc mới về. Kainene ít nói đến lạnh lùng, hay châm biếm mỉa mai. Thế nhưng người đọc sẽ nhận ra rằng không thể nhìn hình bìa mà đánh giá nội dung của quyển sách. Càng vào sâu trong truyện, Kainene càng để lộ lòng nhân ái, biết suy nghĩ, quyết định đúng đắn. Kainene dùng tài quản lý của mình để săn sóc, nuôi nấng người tị nạn. Cô dùng sự suy xét và quyết đoán để cứu người thanh niên đào ngũ vì đói nên đi trộm khoai và bị dân tị nạn đánh đập. Cô can đảm mạo hiểm vượt tuyến để đi tìm mua thức ăn về nuôi sống mọi người trong trại tị nạn. Cô có thái độ và lòng can đảm của một nhà lãnh đạo đáng kính phục. Thông thường trong những cuộc tình dị chủng, đa số là người đàn ông da trắng kết hợp với phụ nữ da màu. Trường hợp ngược lại, người đàn bà da trắng kết hợp với đàn ông da màu, ít xảy ra hơn. Rất thường xuyên, người đàn ông da trắng ở cương vị chủ động cung cấp tài chánh, vật chất và bảo vệ người phụ nữ da màu. Người đàn ông da trắng mang người phụ nữ da màu vào trong cái xã hội mà anh ta đã quen thuộc và người phụ nữ như loài cá sống trong nước lạ thường ở cương vị phục tùng. Trong Nửa Mặt Trời Vàng, Adichie đã cấu tạo một môi trường ngược lại. Kainene mang Richard vào thế giới của nàng, một nơi mà nàng có quyền hành và thế lực. Kainene là người che chở và bảo bọc người tình. Chẳng những Adichie đã tước đoạt tất cả sức mạnh và quyền lực của người da trắng trong xã hội da đen bằng cách khắc họa một nhân vật Richard nghèo, không vây cánh, không quyền lực, mà còn cấu tạo ra một Richard đầy thất bại; suốt thời gian ở Nigeria anh đã không xuất bản được tác phẩm nào (một bị thất lạc trong chiến tranh và một bị Kainene đốt bỏ khi cô biết Richard đã ngủ với Olanna). Adichie còn tước đoạt cả quyền làm người đàn ông của Richard bằng cách biến anh thành kẻ bất lực khi lần đầu hai người giao hoan. Tại sao Adichie lại sáng tạo một nhân vật nữ có cá tính rất mạnh và một nhân vật nam có bản tính rất mềm mại, dịu dàng đến độ nhu nhược và cho hai nhân vật này yêu nhau? Tôi nghĩ nên để các bạn tự tìm câu trả lời. Bạn đọc có thể nhận thấy Richard yêu Kainene say đắm, yêu đến độ tôn thờ và khiếp sợ bản lĩnh của cô. Tuy nhiên khó có thể khẳng định là Kainene yêu Richard. Cô vẫn còn phân vân không biết tình cảm của cô đối với Richard có phải là tình yêu hay không. Lúc cuộc nội chiến Biafra còn trong thời kỳ phôi thai, Kainene đã viết một lá thư ngắn, trong đó cô phân vân: ”Có phải tình yêu là cái nhu cầu đặt không đúng chỗ mà hầu như lúc nào em cũng cần có anh bên cạnh? Có phải tình yêu là cái cảm giác an toàn mà em cảm thấy trong sự im lặng của hai đứa mình? Có phải tình yêu là cái cảm giác chúng ta thuộc về nhau, cảm giác có đầy đủ mọi thứ khi chúng ta có nhau?” ... Mời các bạn đón đọc Nửa Mặt Trời Vàng của tác giả Chimamanda Ngozi Adichie.
Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn - Trần Dần
Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là Những ngã tư và những cột đèn của nhà văn Trần Dần. Chuyện rằng: vào giữa những năm 1960, nhà văn Trần Dần, khi đang trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo của bản thân đã được một vài cán bộ công an hảo tâm tìm cách cho đi thâm nhập một số trại giam do Bộ Công an quản lý đang giam giữ những ngụy quân thời Pháp sau ngày tiếp quản Thủ đô. Kiểu đi như thế gọi là “đi thực tế” để khi về viết văn trên những cứ liệu của thực tế chuyến đi đó. Công thức ở đây là: cơ sở cung cấp tài liệu về một vấn đề cụ thể, nhà văn đi cho thấy, tiếp xúc cho biết, và cái viết ra thường chỉ là một báo cáo, một sơ đồ, dù có được vẽ vời thêm cho có vị văn chương. Vậy, với Trần Dần, bài toán đặt ra là: viết về hoàn cảnh của những người ngụy quân Pháp ở Hà Nội khi chiến tranh kết thúc, phần thắng thuộc về đội quân cách mạng, với định hướng viết đã rõ ràng là họ phải quy phục chế độ mới. Đề bài này không khó đối với ngòi bút Trần Dần. Nếu an phận, viết theo lối trả bài (trả cả ơn nghĩa nữa, nếu có), ông dễ phóng bút viết được nhanh, được trơn tru, nộp quyển, và quên đi nhanh chóng cái viết ra đó. Nhưng ông đã không làm thế, vì nhân cách là văn cách của ông không cho phép làm thế. Trần Dần, nhà văn luôn táo bạo quyết liệt trong từng câu chữ, hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng, trong từng cái viết. Viết, với ông, bao giờ cũng là phải mới, phải khác, phải cách tân. Vì vậy, kết quả chuyến thực tế ấy, dưới tay ông đã thành tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn (NNTVNCĐ). Trần Dần đã giải được bài toán văn chương một cách xuất sắc. Câu chuyện của anh ngụy binh Dưỡng và mấy người bạn cùng cảnh ngộ trong những ngày đầu tiếp quản Thủ đô nếu kể ở ngôi thứ ba khéo lắm cũng chỉ được một truyện kể. Trần Dần đã chuyển nó thành ngôi thứ nhất thông qua hình thức cuốn nhật ký của Dưỡng, xen kẽ là lời kể của một vài nhân vật khác có tham dự vào đường dây hoạt động của nhân vật được kể ở ngôi thứ ba. Bằng hình thức này, Dưỡng đã được phát tiết tất cả những suy tư lời lẽ, hành vi của một thanh niên Hà Nội tạm chiếm, của một người lính lái tàu bò, và được bộc bạch tự nhiên nhất toàn bộ trạng thái tâm lý của mình vào một thời điểm hệ trọng của thời cuộc và số phận. Nhưng cái chính ở đây không phải chỉ ở nội dung cuốn nhật ký, mà ở cái cách ghi nhật ký của Dưỡng. Cái cách ghi ấy mới là một nội dung chính của cuốn tiểu thuyết của Trần Dần, nó thể hiện rõ trạng huống của một thành phố từ chiến tranh sang hòa bình và trạng thái của những con người bị mắc kẹt trong trạng huống ấy.  Còn có thể nói được rất nhiều về và từ cuốn tiểu thuyết NNTVNCĐ của Trần Dần. Trên đây tôi chỉ nói nhanh nói sơ về giải pháp nghệ thuật mà nhà văn đã đưa ra để thực hiện sáng tạo văn chương của mình. Đấy chính là cách viết nội dung chứ không phải kể nội dung, như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã từng chuyển dẫn từ lý thuyết văn học của Nga về. Cho nên không phải câu chuyện kể làm nên nội dung, mà là cách kể câu chuyện, hay hình thức đó cũng chính là nội dung. Điều đáng kinh ngạc là 45 năm trước, trong hoàn cảnh bị vây bủa của bản thân và sự bít bùng của một xã hội thời chiến, Trần Dần đã độc hành mở cho mình một con đường tiểu thuyết mà bây giờ ngoái lại sau lưng ông vẫn hầu như chưa có ai tiếp bước. May mắn bản thảo được giữ lại để bây giờ in ra. Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là NNTVNCĐ. Đó là Trần Dần từ 45 năm trước, khi cuốn sách mới được viết ra.  Đó là Trần Dần ở 45 năm sau, khi cuốn sách đã được in ra, trở thành một hiện tượng của văn học nước nhà năm 2011.  Kinh ngạc vì sức sáng tạo đột khởi và đột biến của một gương mặt văn chương quyết liệt nhất Việt Nam, nhưng cũng chính vì thế lại thấy buồn cho văn học Việt Nam sau nửa thế kỷ vẫn thấy là cũ mòn so với tác phẩm này. Do vậy, Trần Dần, bằng thơ và văn của ông để lại, vẫn mãi còn thách thức các nhà văn, nhà thơ Việt Nam.  *** Trần Dần Được đánh giá là người cách tân trong thơ cả về hình thức (với lối thơ bậc thang) lẫn tư tưởng (đa diện, triết lý...) và về thơ Trần Dần có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Ngay sau Phong trào Thơ mới, Trần Dần đã chủ trương làm thơ theo trường phái tượng trưng cùng với nhóm Dạ đài. Theo nhà thơ Dương Tường: "Thơ Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng chính ông ấy cũng nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị chân thiện mỹ đều là khó hiểu”. Mặc dù suốt 30 năm thơ ông không được xuất bản nhưng ông vẫn miệt mài sáng tác theo con đường nghệ thuật mà mình suốt đời theo đuổi. *** Tác giả và tác phẩm có bao giờ chia nhau cùng số phận? Có bao giờ đi bên nhau suốt hành trình cuộc đời? Trần Dần và Những ngã tư và những cột đèn của ông có lẽ là những ngoại lệ, có xa cách, có hội ngộ, và mỗi bên theo đuổi một số phận khác thường. Trần Dần viết Những ngã tư và những cột đèn sau một thời gian tiếp xúc với nhiều ngụy binh cũ thời Pháp thuộc. Sở Công an Hà Nội đã cấp giấy phép ra vào trại giam, để sau đó bản thảo được gửi lên Sở Công an, khi đã hoàn thành. Đây là bản viết tay duy nhất, đề năm 1966. Cuộc chia tay của tác giả và tác phẩm kéo dài 22 năm. Một ngày năm 1988 Sở Công an Hà Nội mang bản thảo trả lại Trần Dần, tại nhà riêng, cùng tập thơ chép tay Cổng tỉnh. Tất cả vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng toàn bộ các nhà xuất bản đều từ chối ông, cùng Những ngã tư và những cột đèn, mặc dù trên danh nghĩa, Trần Dần và các bạn của ông thời Nhân văn-Giai phẩm đã được Hội Nhà văn chính thức ra quyết định phục hồi năm 1987. Những ngã tư và những cột đèn, cùng mọi tác phẩm khác, lại bị trả vào ngăn kéo. Phải chờ thêm bốn năm sau ngày nhận lại hội tịch, tác phẩm đẩu tiên của Trần Dần mới được xuất bản, năm 1990, là cuốn Bài thơ Việt Bắc. Trước khi Trần Dần mất hẳn khả năng làm việc, vì bệnh tật, ông đã quay trở lại với Những ngã tư và những cột đèn một lần nữa, lần cuối cùng. Ông chép lại, và sửa chữa chủ yếu về văn phong. Trong nhật ký 1989, ông nhắc nhiều lần về tiểu thuyết này, ông còn muốn viết một tiểu thuyết nữa. Thế rồi một Những ngã tư và những cột đèn khác ra đời, nhưng cũng là lúc ông khép lại nhật ký đời ông, khép lại những Sổ bụi, cùng toàn bộ sáng tác. Đấy là những ngày giao thừa giữa năm 1989 và 1990. Lần xuất bản thứ nhất này, của Những ngã tư và những cột đèn, sẽ đánh dấu 21 năm nữa, từ ngày bản thảo được sửa chữa. Và 44 năm, sau ngày tiểu thuyết được hoàn thành.   Những ngã tư và những cột đèn có thể là một tiểu thuyết về chiến tranh, như lời thông báo của anh nhà văn không tên, ở trang đầu cuốn sách? Những tình bạn, những tình yêu, đã đi qua chiến tranh, đi qua hòa bình, rồi lại rơi vào chiến tranh, có còn nguyên vẹn? Và những tính cách, thói quen con người, có thể nào không thay đổi cùng hoàn cảnh? Không một cảnh chiến tranh, nhưng hai chữ chiến tranh đi vào tiểu thuyết ngay từ trang một và trôi theo nhật ký, như một ám ảnh, cho đến trang cuối cùng. Chiến tranh do vậy, tồn tại như một bè đệm. Để “con người TOÀN PHẦN và CỤ THỂ vẫn tiếp tục trong chiến tranh. Và mạnh hơn chtến tranh”, Trần Dần kể như vậy, về Những ngã tư và những cột đèn, trong nhật ký 1989. Nhưng bản thảo lần thứ hai còn mang thêm một bè đệm khác, cả anh ngụy binh cũ tên Dưỡng, cả anh nhà văn không tên, đều chia nhau cùng một suy tư, về hiện tại, về quá khứ. Họ xử sự với thời gian cùng một cách. Dưỡng tính thời gian theo lối của riêng anh: để gọi tên mùa thu là mùa đông, để ngày tiếp quản tháng Mười trở thành mồng một Tết. Anh nhà văn đi tìm những định nghĩa về thời gian, luôn luôn nhầm lẫn giữa tuần lễ bảy ngày và Chủ nhật. Thời gian của toàn bộ tiểu thuyết di chuyển liên tục, từ 11 năm trước, đến 11 năm sau, rồi lại về 11 năm trước, vậy thì đâu sẽ là hiện tại thực? Dường như những nghi vấn của họ với thời gian, thực chất để đòi những câu hỏi khác về trách nhiệm của người đang sống, đối với hiện tại, và quá khứ. Trong một trang nhật ký 1989 Trần Dần viết: “Người ta nói nhiều, đến bố cục, chủ đề, í đồ không rõ… Xong người ta bàng hoàng và bảo: in cái này hơn Người người lớp lớp. Vâng, đúng là xa lạ. Tôi tuyên ngôn: tào lao - xông xênh - bàng hoàng. Vô hình, nhưng rõ rệt. Hiện hữu vô hình ấy, là một thực thể. Bàng hoàng ở đó. Bàng hoàng ở những ngã tư. Ai chẳng luôn gặp, những ngã tư. Để rẽ đường nào?” Rồi ở một trang khác, ông lại quay về Những ngã tư và những cột đèn: “Đời lắm ngã tư? Rẽ một ngã tư là trách nhiệm sinh tử, phải cẩn thận, kẻo hối bất kịp. Nhưng cẩn thận, không có nghĩa tính toán, chi li, chi hoe, mà trực cảm mang hết mình, ngửi ngửi ngã tư cẩn trọng rồi hãy rẽ”. 45 năm, kể từ ngày nhà văn bắt đầu chép lại cũng bằng mực tím “250 trang nhật kí, lem nhem mực tím” của anh ngụy binh Dưỡng, cho đến hôm nay, những ngã tư của tiểu thuyết vẫn đóng kín. Đây là “những ngã tư đời láo nháo nốt chân. Láo nháo cột đèn láo nháo đèn” của thế kỷ đã qua. Hôm nay, một ngày năm 2010, chúng mở cửa nằm chờ những bước chân độc giả, để gặp gỡ một thế hệ mới. Vũ Văn Kha Mời các bạn đón đọc Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn của tác giả Trần Dần.
Bí Thư Tỉnh Ủy - Vân Thảo
Tiểu thuyết Bí thư Tỉnh ủy dựa trên nguyên mẫu cuộc đời ông Kim Ngọc, nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc (sau là Vĩnh Phú), người gắn liền với danh xưng "cha đẻ của khoán hộ", khơi nguồn vượt rào cho đổi mới kinh tế sau này. Từ những sự kiện phong phú và các tư liệu khác về cuộc đời của ông, nhà văn Vân Thảo đã xây dựng nên cuốn tiểu thuyết về một nhân vật Bí thư Tỉnh ủy, khắc họa hình ảnh một người cộng sản chân chính, luôn suy nghĩ và hành động trên cơ sở lý tưởng của Đảng và thực tiễn đời sống nhân dân chứ không phải trên giấy tờ hành chính. Ngoài câu chuyện Khoán hộ, những bài học về nhân cách, đạo đức và dũng khí của một người lãnh đạo là những bài học đáng suy ngẫm. Tiểu thuyết cũng phần nào tái hiện lại quãng thời gian của sự ra đời, phát triển cũng như kết cục của khoán hộ, tiền thân của khoán 10 sau này. Qua đó giúp bạn học hiểu thêm về một giai đoạn phát triển kinh tế nông nghiệp Bắc Bộ thời kỳ chiến tranh song phả đầy hơi thở nóng hổi như vừa mới ngày hôm qua. *** Nhà văn Vân Thảo, tác giả kịch bản "Bí thư tỉnh ủy" (cũng là tác giả tiểu thuyết cùng tên) cùng ê kíp làm phim đang hồi hộp chờ đợi những phản hồi của khán giả. Ông cũng cho biết, tiểu thuyết "Bí thư tỉnh ủy" tuy mới xuất bản hồi đầu năm nhưng hiện đang được NXB Trẻ chuẩn bị tái bản (có sửa chữa) lần thứ 3. Nhà văn Vân Thảo cho biết, từ khi nghỉ hưu, ông có nhiều thời gian dành cho công việc sáng tác hơn. Những lúc rảnh rỗi, ông dành nhiều thời gian để tìm hiểu về một con người được coi là "cha đẻ của khoán hộ" là Bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc. Và từ lúc nào, ông đã ấp ủ viết một tiểu thuyết về con người huyền thoại này. Tuy vậy, ông biết rằng để thực hiện được ý tưởng này là một việc không hề đơn giản. Những sáng kiến táo bạo trong nông nghiệp một thời của ông Kim Ngọc là một trong những ví dụ sinh động để Đảng ta cho ra đời ra đời chính sách "khoán 10", làm thay đổi diện mạo nền nông nghiệp Việt Nam cách đây hơn 20 năm. Nhưng sáng kiến khoán hộ của ông Kim Ngọc ở thời điểm những năm 60 đã vấp phải phản ứng mạnh mẽ, khiến vị Bí thư tỉnh ủy từng phải chịu kiểm điểm. Nhà văn Vân Thảo cho biết, chính ông cũng là người từng phản ứng với cách làm của Bí thư Kim Ngọc và đó là câu chuyện về "ý thức hệ". Thế nhưng, chính điều này đã khiến Vân Thảo luôn mang trong mình nỗi áy náy, muốn viết một cái gì đó để mọi người hiểu thêm về cuộc đời của con người đáng trân trọng ấy như một cách... "chuộc lỗi". Nhà văn Vân Thảo hiện thời sáng tác hoàn toàn trên máy vi tính - công cụ làm việc hữu ích nhưng còn khá xa lạ với nhiều nhà văn ở tuổi "thất thập cổ lai hi" như ông. Ông tâm sự: "Lao động của nhà văn là một thứ lao động nhọc nhằn, một thứ lao động vô hình, không có không gian, không có thời gian. Khi ngồi vào bàn đánh máy, những con chữ dần hiện ra trên màn hình, nhưng đấy chỉ là khi tôi hiện thực hóa những gì mình đã nghĩ từ trước đó, trong lúc ăn, trong lúc ngủ, lúc đi tập thể dục buổi sáng… Tiểu thuyết và kịch bản phim "Bí thư tỉnh ủy" hiện đang là tác phẩm khiến tôi hài lòng nhất ở thời điểm này, nhưng tôi vẫn có những ước vọng lớn hơn. Bởi nghề viết không bao giờ có đỉnh" Mời các bạn đón đọc Bí Thư Tỉnh Ủy của tác giả Vân Thảo.
Tấm Ván Phóng Dao - Mạc Can
Câu chuyện về cơ bản được trần thuật từ một nhân vật xưng “tôi” - người kể chuyện. Gọi là kể chuyện, nhưng câu chuyện không dựa trên một cốt truyện rõ ràng. Nếu bảo kể lại rất khó. Chỉ có thể đại loại thế này: Nhân vật ông Ba đứng ra kể về cuộc đời, số kiếp của ông cùng những người trong gia đình - một gánh xiếc rong hành nghề ở các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ những năm tạm chiếm. Trong chương trình biểu diễn của gánh xiếc này có một tiết mục được coi là hấp dẫn nhất, là linh hồn của các đêm diễn (nên cũng trở thành quan trọng nhất trong việc câu khách, bán vé, mưu sinh) - màn phóng dao của ba vai diễn: Tôi - người đứng sau tấm ván có nhiệm vụ giữ tấm ván cho vững, cô em gái còn nhỏ tuổi đứng áp lưng vào mặt trước của tấm ván, và người anh trai cả trong vai phóng dao cầm 12 lưỡi dao sáng loáng phóng trực diện lần lượt cắm xung quanh khuôn mặt người em gái. Sau nhiều đêm thành công, có một đêm, do người phóng dao bị phân tâm, cô em gái đã bị nạn. Cũng từ đêm kinh hoàng đó cô gái trở thành một phế nhân mang triệu chứng bệnh tâm thần, gánh xiếc cũng tan vỡ, gia đình ly tán, mỗi người một số phận đau buồn theo những cách khác nhau... Nhưng đây không phải là một truyện kể, mà là một tiểu thuyết, được viết bằng kỹ thuật, nghệ thuật của tiểu thuyết. Toàn bộ câu chuyện và các nhân vật tham gia vào câu chuyện được trình bày như một quá trình, sự sống cứ thế mở ra sống động trong từng vi mạch. Hiệu quả là: Tác phẩm vần vụ những suy tư, chiêm nghiệm, day dứt, nghiền ngẫm về số kiếp con người. Tất cả đã hoà kết, cộng hưởng lại, tạo cho tác phẩm một ám ảnh, một ba động lớn. Viết tiểu thuyết này, tác giả chọn cách thức trần thuật theo kiểu hồi ức. Từ thời gian hiện tại, nhân vật tôi - ông Ba nay đã già cả, độc thân, làm nghề bán dạo các con rối bằng vải tự làm - kể lại câu chuyện của những ngày cả gia đình hành nghề xiếc rong. Thỉnh thoảng ông đến thăm bà em (trước kia là cô đào đứng trước tấm ván) cũng đã già, sống độc thân, sau lần bị nạn có một bộ óc trẻ con và gần như đánh mất ý niệm về thời gian, cả hai cùng ngồi vẩn vơ lúc quên lúc nhớ chắp nối những mẩu quá khứ u buồn. Ông già đã để cho ký ức lúc chập chờn bảng lảng khói sương, lúc chói gắt dữ dội đi về xen ngang thì hiện tại. Chất liệu hồi ức được biểu đạt ở đây không hiện ra theo cách trình tự mà được đảo lộn, xáo trộn; không nặng về kể tả, mà nặng về tâm trạng, suy tư, chiêm nghiệm, cật vấn. Đây là một dạng truyện viết theo cách của một hồi ức tự nghiệm. Tính chất cảm thương và u buồn bao trùm, đè nặng lên từng câu chữ. Mạc Can đã tiếp nối thật tự nhiên và đầy trách nhiệm chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của nền văn học Việt Nam: Trực tiếp hướng về số kiếp con người theo cách biểu hiện lòng xót thương đau đớn đối với con người và cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện nhân cách con người - những giá trị nhân văn cổ điển vĩnh hằng. Đó là mạch nguồn chảy mạnh mẽ trong lòng văn chương dân tộc đã có từ xa xưa, qua Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, qua Thạch Lam, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao và rất nhiều nhà nghệ sĩ tên tuổi khác. Trong một bối cảnh xã hội có nhiều rạn nứt và đổ vỡ như xã hội hiện đại hôm nay, chỉ có các giá trị nhân văn cổ điển mới có khả năng cứu vãn thế giới. Các giá trị nhân văn cổ điển lành tính sẽ xoa dịu, sẽ hàn rịt lại những tổn thương tinh thần to lớn của con người hiện đại. Tôi tin tưởng điều đó. Thành công của Tấm ván phóng dao chẳng phải là một minh chứng đầy sức thuyết phục đó sao! Tác phẩm làm ấm lòng những người kỳ vọng vào nền tiểu thuyết Việt Nam hôm nay. *** Mạc Can tên thật là Lê Trung Can, sinh năm 1945, trong một gia đình nghèo, lại đông anh em. Các anh em ông mỗi người mỗi cảnh, vất vả mưu sinh bằng trăm thứ nghề và người nào cũng nghèo rớt. Ông là một nghệ sỹ, nhà văn Việt Nam. Ông nổi tiếng là một nghệ sỹ đa tài, tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động nghệ thuật như đóng hài, đóng phim, biểu diễn ảo thuật và viết văn. Tháng 3/2011, “nhà văn trẻ” Mạc Can trở về Sài Gòn sau gần 2 năm sống ở Mỹ để lấy cảm hứng viết cuốn sách dạng hồi ký mang tên Nhớ (NXB Trẻ và Tủ sách Tuổi trẻ ấn hành). Có thông tin cho biết, khoảng đầu năm 1980, có một đoàn làm phim của Nhật đến Sài Gòn ghi hình. Mạc Can được mời vào vai người đi chợ để giới thiệu các sản vật Việt Nam. Khởi đầu sự nghiệp viết văn ở tuổi 60 bằng tiểu thuyết “Tấm ván phóng dao”, cứ ngỡ Mạc Can chỉ ghé qua khu vườn văn chương thoáng chốc rồi đi. Thế nhưng 9 năm qua, ông đã lần lượt cho ra đời nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn được bạn đọc yêu thích. Ông được giải của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005, ông cũng được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn TP.HCM. *** Tác phẩm tiêu biểu: Truyện, tập truyện: Món nợ kịch trường (1999) Tờ 100 đôla âm phủ (2004) Cuộc hành lễ buổi sáng (2005) Người nói tiếng bồ câu (2006) Ba…ngàn lẻ một đêm (2010) Nhớ (2011) Mạc Can – Truyện ngắn chọn lọc (2013) Tiểu thuyết: Tấm ván phóng dao (2004) Phóng viên mồ côi (2007) Những bầy mèo vô sinh (2008) Quỷ với bụt và thần chết (2010 Tạp bút: Tạp bút Mạc Can (2006) *** Không có gì làm cho tôi sợ hơn là cơn mưa lúc nửa đêm, vì với tiếng tôi, nhìn giọt mưa rơi long lanh, nghe tiếng mưa rì rào, tí tách, chẳng khác nào những lời thì thầm bên tai, nhắc nhở lại quá nhiều nỗi buồn, của cuộc đời đã qua. Ai có tới một chợ quê, trong cảnh tha phương cầu thực với các gánh hát nghèo mới biết, mưa cầm chân người mua vui ở nhà, mưa làm cho sân khấu phông màn buông rủ buồn hiu. Con hát đói lạnh, không biết ngày mai sẽ ra sao, mà vốn liếng nào có gì cho cam, ngoài một giọng hát, hay một trò xiếc, trên hai bàn tay trắng. Mưa rơi lộp độp trên mái lá nhà lồng chợ vắng tanh, chợ không người, sân khấu không ánh đèn, không khán giả, buồn ai oán, chung quanh mờ mịt gió nước, tiếng ếch nhái ồm ộp, một lúc vang vang, một lúc lặng thinh. Tiếng mưa rơi hoài, não ruột suốt canh thâu, tôi thao thức mòn mỏi cho tới khi thiếp đi, bàn tay lạnh vô tình đưa lên khuôn mặt không thể nào gột sạch dấu phấn trắng, chì đen, son đỏ. Đôi mắt sâu thăm thẳm lấy đêm làm ngày, trong mưa, từ cõi nào vảng lại tiếng cầu kinh hoang mang, dàn đồng ca của kiếp côn trùng nơi bùn lầy nước đọng không khác gì cuộc đời những người hát rong! Tôi chợt thúc dậy ngu ngơ, phải một lúc mới nhớ mình đang ở đâu, tôi đang ngồi trên cái giường của tôi, một tấm ván đầy vết dao, những vết thương không bao giờ lành, đau đớn, ẩm ướt. Ngoài kia, một khoảng không gian u ám, bỗng có vài ánh đèn dầu tù mù, tiếng người thì thầm, chợ quê nhóm lúc nào, người ta gọi là chợ ma, trời chưa sáng chợ đã vội tan, còn một mình tôi trơ trọi ngơ ngác, mộng du nửa thức nửa ngủ, tôi đi, mơ hồ giữa trời đêm, đứng nhìn về phía nhà lồng chợ, nơi gánh hát rong của gia đình tôi mới tới chiều nay. Cơn mưa làm cho tấm bảng quảng cáo hình nhân nhạt nhoà, loang lổ, mưa cũng làm cho tấm bảng hiệu Nghệ Tinh, tên gánh hát nghèo của cha tôi hoen úa đi, mà cũng mưa khiến cho cả nhà đói meo như vầy đây, cha mẹ tôi cứ mãi lang bang, chúng tôi không có tương lai, sống rày đây mai đó, biết khi nào có một mái nhà, được về nhà. Cuối trời một màu mây biếc, màu tím pha chút xanh lam lạnh nhạt, lúc sau ủng hồng một ngày mới, trên những chiếc lá non còn long lanh giọt nước mưa khuya, còn ngày hôm qua ư, đã chết đi rồi. Tôi rất thích những buổi sáng tinh sương, mọi vật như ngưng lại, hay là chưa bắt đầu cho những xôn xao, tâm hồn con người ta cũng chọt bâng khuâng yêu mến cuộc sống hơn, yêu người và mọi vật chung quanh hơn. ... Mời các bạn đón đọc Tấm Ván Phóng Dao của tác giả Mạc Can.