Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc
Cuốn sách này tất tần tật là về bạn. Nó viết về các cảm nhận của bạn, thái độ của bạn và về việc bạn giữ một cái nhìn tích cực trong cuộc sống. Bạn có muốn cuộc sống của mình cân bằng hơn với một tinh thần tự tin hơn, hạnh phúc hơn và thú vị hơn? Bạn có muốn có nhiều nghị lực và sự nhiệt tình hơn mà vẫn giữ được sự bình an bên trong? Nếu bạn muốn mạnh mẽ hơn và chủ động hơn để có thể làm được tốt hơn ở bất kỳ khía cạnh nào mà bạn chọn trong cuộc sống của mình, không vướng phải các cảm xúc tiêu cực… cuốn sách này là dành cho bạn. Nếu bạn thật sự muốn thay đổi, bạn hoàn toàn có thể! Bằng cách phát triển khả năng kiểm soát cảm xúc tốt hơn và thoát khỏi những cảm xúc không lành mạnh trói buộc bạn, bạn có thể học cách tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ đến nỗi nó có thể thay đổi cuộc đời bạn trở nên tốt đẹp hơn theo nghĩa đen. Bằng cách trở nên lành mạnh hơn về cảm xúc bạn sẽ hạnh phúc hơn, hài lòng hơn, và có thể vun đắp những mối quan hệ lành mạnh lâu dài được tốt hơn. Cảm xúc khống chế tất cả! Bất kể bạn đang làm gì, nếu bạn rơi vào một cơn hoảng loạn, tức giận không kiềm chế được hay chìm vào hố sâu trầm cảm – thì các cảm xúc của bạn sẽ thắng – các cảm xúc của bạn sẽ thống trị. Nếu bạn tự hỏi điều gì là quan trọng hơn, điều bạn biết hay điều bạn cảm thấy – bạn hiểu rằng điều bạn biết sẽ không còn quan trọng nữa nếu bạn cảm thấy tệ. Cũng như với sức khỏe thể chất, nếu bạn không có một cảm xúc tích cực mạnh mẽ và ổn định, thì chất lượng cuộc sống của bạn sẽ giảm đáng kể. *** Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc chỉ rõ “bẫy cảm xúc” sẽ được hình thành do 3 tư duy cơ bản khiến bạn đau khổ: Nài ép, Phóng đại tiêu cực, Định giá giá trị bản thân Từ đó sẽ sinh ra 3 loại cảm xúc tiêu cực – bẫy cảm xúc, sinh ra vô số những bẫy cảm xúc khác: Trầm cảm, Lo âu/Lo lắng, Tức giận Và tác giả cũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của cảm xúc là gì? Cảm xúc hình thành như thế nào? Và mỗi người có thể làm gì để cân bằng cảm xúc của chính mình? Bản chất của cảm xúc là gì? Bẫy cảm xúc khiến chúng ta mặc định những cảm xúc tiêu cực như: Lo âu, tức giận, trầm cảm. giống như một thói quen mặc nhiên của bản thân. Dần dần chúng ta chấp nhận nó và để nó trở thành bạn đồng hành trong cuộc đời. Đó là một cái bẫy mà nếu biết cách bạn có thể tự thoát được. Cảm xúc hình thành như thế nào? “Tôn trọng bản thân khác với sự ích kỷ ở chỗ, sự tôn trọng bản thân thể hiện những gì bạn nghĩ, cảm nhận và cư xử theo những cách giúp bạn thực hiện được mục tiêu của mình mà không nhất thiết gây trở ngại cho người khác.” Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc chỉ ra rằng chỉ có “yêu thương bản thân vô điều kiện”. Đó mới là nguồn cội của một trạng thái tinh thần lành mạnh trong bất cứ ai. Ba giai đoạn hình thành cảm xúc: Giai đoạn 1: Sự kiện châm ngòi Giai đoạn 2: Hệ thống niềm tin, gồm có cả ý nghĩ tích cực và tiêu cực Giai đoạn 3: Hiệu ứng cảm xúc, tra lại hệ thống niềm tin. Nếu ý nghĩ của bạn logic và hợp lý sẽ hình thành cảm xúc tích cực. Và khi ý nghĩ của bạn trở nên phi lý, sẽ hình thành cảm xúc tiêu cực trong bạn. Các bước kiểm soát cảm xúc quan trọng – Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc Kiểm soát cảm xúc dù là tích cực hay tiêu cực sẽ giúp cuộc sống của bạn trở nên thú vị hơn rất nhiều. Vậy thì hãy tập luyện những bước dưới đây đều đặn mỗi ngày để chứng kiến kết quả kỳ diệu nhé! Bước 1: Ý thức hơn về suy nghĩ của bản thân bạn. Khi bạn để ý chúng thật kỹ, bạn sẽ tìm thấy một số chỗ phi lý, và đó chính xác là nguyên nhân khiến bạn đau khổ. Bước 2: Tìm hiểu xem những ý nghĩ nào khiến bạn đau khổ. Bước 3: Tranh luận và từ chối tin theo các suy luận phí lý. Bước 4: Làm theo các niềm tin lành mạnh, có lý trí và thực tế hơn. Bước 5: Hành xử theo những niềm tin mới có lý trí này. Bước 6: Dành thời gian thực hành theo cường độ và tần suất nhất định. Phần đặc biệt – Làm thế nào để bớt đi những cảm xúc tiêu cực? Sau tất cả những chuẩn bị bên trên, tác giả Daniel Rutley sẽ bắt đầu phân tích, chỉ dẫn cụ thể. Đó là những giải pháp để khống chế, hạn chế, loại trừ cảm xúc tiêu cực. Một thứ cảm xúc tệ hại, độc hại đang chiếm ngự trong tấm trí của hàng triệu người. Daniel Rutley Psy.D. là một nhà tâm lý trị liệu lâm sàng trong thực hành tư nhân ở Mississippi. Ông cũng là tác giả bán chạy nhất của cuốn sách Thoát khỏi bẫy cảm xúc và nhiều cuốn sách khác. “Học cách kiểm soát cảm xúc của bạn để có thể chọn một chuỗi đầy đủ những cảm xúc lành mạnh. Bạn có thể chọn sôi nổi hay trầm ngâm, ngây ngất và hào hứng hay bình tĩnh và thanh thản. Đúng vậy, bạn thật sự có thể lựa chọn các cảm nhận của mình.” *** “CUỐN SÁCH NÀY LÀ VỀ BẠN!” Cuốn sách này tất tần tật là về bạn. Nó viết về các cảm nhận của bạn, thái độ của bạn và về việc bạn giữ một cái nhìn tích cực trong cuộc sống. Bạn có muốn cuộc sống của mình cân bằng hơn với một tinh thần tự tin hơn, hạnh phúc hơn và thú vị hơn? Bạn có muốn có nhiều nghị lực và sự nhiệt tình hơn mà vẫn giữ được sự bình an bên trong? Nếu bạn muốn mạnh mẽ hơn và chủ động hơn để có thể làm được tốt hơn ở bất kỳ khía cạnh nào mà bạn chọn trong cuộc sống của mình, không vướng phải các cảm xúc tiêu cực... cuốn sách này là dành cho bạn. Nếu bạn thật sự muốn thay đổi, bạn hoàn toàn có thể! Bằng cách phát triển khả năng kiểm soát cảm xúc tốt hơn và thoát khỏi những cảm xúc không lành mạnh trói buộc bạn, bạn có thể học cách tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ đến nỗi nó có thể thay đổi cuộc đời bạn trở nên tốt đẹp hơn theo nghĩa đen. Bằng cách trở nên lành mạnh hơn về cảm xúc bạn sẽ hạnh phúc hơn, hài lòng hơn, và có thể vun đắp những mối quan hệ lành mạnh lâu dài được tốt hơn. Cảm xúc khống chế tất cả! Bất kể bạn đang làm gì, nếu bạn rơi vào một cơn hoảng loạn, tức giận không kiềm chế được hay chìm vào hố sâu trầm cảm - thì các cảm xúc của bạn sẽ thắng - các cảm xúc của bạn sẽ thống trị. Nếu bạn tự hỏi điều gì là quan trọng hơn, điều bạn biết hay điều bạn cảm thấy bạn hiểu rằng điều bạn biết sẽ không còn quan trọng nữa nếu bạn cảm thấy tệ. Cũng như với sức khỏe thể chất, nếu bạn không có một cảm xúc tích cực mạnh mẽ và ổn định, thì chất lượng cuộc sống của bạn sẽ giảm đáng kể. *** Kiểm soát cảm xúc và lời khuyên thiết THực Ắt hẳn bạn đã từng nghe rất nhiều lời khuyên từ các nhà trị liệu, nhà tư vấn và những người bạn tốt về phát triển đức tin của bạn, tầm quan trọng của việc dựa vào trực giác, nâng cao các kỹ năng nuôi dạy con cái hay cải thiện các mối quan hệ. Dù những lời khuyên này có giá trị và mang dụng ý tốt đến thế nào, thì hiếm khi bạn làm theo nếu khi đó tinh thần bạn đang tụt dốc. Một người bình thường thấy rằng thật khó kiểm soát cảm xúc khi họ đang lo lắng về các hóa đơn chưa thanh toán. Con người có một khả năng gần như vô hạn là tự thuyết phục mình tin vào bất cứ điều gì, vì thế một sự quá tin vào trực giác có thể gây mơ hồ nếu bạn thiếu tự tin. Những lời khuyên tốt nhất về định hướng trẻ nhỏ và mối quan hệ sẽ bay vèo qua cửa sổ nếu người kiểm soát cảm xúc kém dễ cáu giận, lo âu hay ghen tức. Khi đang đau buồn, lời khuyên thực tế nghe có lý trong các cuốn sách self-help, trên tivi và từ các nguồn đáng tin cây sẽ bị phớt lờ. Bạn đã bao giờ cho một người bạn một lời khuyên tuyệt vời chỉ để anh ta hay cô ta lờ nó đi chưa? Vấn đề với nhiều người là họ không nhận ra rằng cảm xúc của họ có tác động mạnh mẽ lên cuộc sống của họ đến thế nào. Các quyết định mà người ta đưa ra là dựa vào các trạng thái cảm xúc của mình hơn là vào bất kỳ một yếu tố đơn lẻ nào khác. Người ta thường nghĩ, “Đó là một quyết định logic” và đó là lý do vì sao họ đưa ra nó. Nhưng nếu một lựa chọn cảm giác không đúng lắm, thì đa số mọi người sẽ không chọn nó dù có hợp lý đến đâu. Lựa chọn mà hầu hết mọi người đưa ra là lựa chọn mà họ cảm thấy đúng - dù logic hay không. Đó là lý do chúng ta thường thấy nhiều người đưa ra các quyết định mà rõ ràng là không có chút logic nào và dường như hoàn toàn ngớ ngẩn. Sự khác nhau này là do chúng tanhưng các lựa chọn và quyết định của họ dưới một ánh sáng không bị chi phối bởi cảm xúc. Cảm xúc dẫn dắt và tô màu cho quá trình đưa ra quyết định của chúng ta. Điều này xảy ra một cách vô thức. Theo tiềm thức. Nằm ở lớp bên dưới mức nhận thức của chúng ta.   Mời các bạn đón đọc Thoát Khỏi Bẫy Cảm Xúc của tác giả Daniel Rutley & Tạ Thanh Hải (dịch).
50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học
Cuốn sách 50 việc cần làm trong khi học đại học: là những lời khuyên đến từ những trải nghiệm thực tiễn của một sinh viên ngành điện ảnh Nhật Bản. Tuy nề nếp sinh hoạt, phong tục tập quán của xã hội Nhật có những đặc thù khác với xã hội Việt Nam chúng ta, nhưng vẫn có cái rất chung: Đã là sinh viên ai cũng muốn thực hiện khát vọng, ước mơ của mình, đạt nhiều thành quả trong học tập để mai này khi bước vào đời gặt hái được nhiều thành công. Vì một ngày mai tốt đẹp hơn, chúng tôi xin giới thiệu đến bạn đọc, nhất là các bạn đọc trẻ tập sách nhiều suy tư và kinh nghiệm thực tiễn quý báu, thú vị này. *** 50 việc cần làm là bộ sách kỹ năng bán chạy ở rất nhiều nước trên thế giới. Sách tập hợp lời khuyên của tiên sinh Akihiro Ankatani về những chủ đề mà các bạn trẻ quan tâm: rèn luyện bản thân, tạo dựng sự nghiệp, kinh doanh, kết hôn. Mỗi chủ đề tác giả đưa ra đúng 50 lời khuyên, trình bày vô cùng đơn giản, khúc chiết nhưng ý tứ sâu xa. 50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20 - Akihiro Ankatani Cái gọi là môn học bắt buộc ở tuổi 20 có nghĩa là những việc mà chỉ ở tuổi 20 mới có thể làm được. Chỉ những ai ở tuổi ấy cứ bôn ba qua lại một cách uổng công vô ích đến một lúc nào đó mới mới thấm thía rằng: tuổi hai mươi là giai đoạn huy hoàng nhất trong cuộc đời mỗi người. 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học Trên đời này chỉ có 2 loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng - mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Những sinh viên có hoài bão phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy cơ hội khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Vì vậy, quãng đường đại học cũng chính là khoảng thời gian để bạn học cách vượt qua những thử thách đầu đời. 50 Việc Cần Làm Trước Khi Kết Hôn - Akihiro Nakatani Thượng đế sở dĩ chưa để cho bạn kết hôn, là vì trước khi kết hôn, bạn còn rất nhiều việc phải làm. Sau khi kết hôn, người ta mới ân hận: sớm biết thế này, thì những việc cần làm trước khi kết hôn, mình đã thực hiện chu đáo cả rồi. Tiếc rằng trước khi kết hôn, người ta thường không hiểu giá trị của thời gian sống độc thân nên đã đem phung phí khoảng thời gian quý báu đó. 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng Đầu bếp của tiệm ăn Shousi làm gì vào khoảng thời gian giữa cao điểm ban ngày và ban đêm? Nhân viên Akimasi đã tận dụng khoảng thời gian rỗi ấy để học tiếng Anh. Mặc dù cửa hàng không tăng lương và cũng không có bất kỳ khoản phí hỗ trợ nào cho việc này, nhưng anh vẫn kiên trì học tiếng. Bởi vì Akimasi muốn kể tỉ mỉ cho thực khách nước ngoài biết cách thưởng thức món ăn như thế nào, cách nấu món ấy ra sao... Đôi khi chỉ những cố gắng nhỏ từ bản thân bạn nhưng sẽ mang đến những lợi ích không ngờ trong kinh doanh. *** Akihiro Nakatani Akihiro Nakatani sinh năm 1959. Ông là một nhà văn, diễn viên và một nhà sản xuất tài năng và nổi tiếng ở Nhật Bản. Ông bắt đầu sự nghiệp với vai trò là một DJ vào năm 1973. Năm 1976, ông được trao giải thưởng của Hiệp hội Các nhà thơ của Asahi Tanka. Năm 1982, ông đã là một nhà văn được nhiều người biết tên. Năm 1984, sau khi tốt nghiệp khóa kịch nghệ tại trường đại học Waseda, ông làm giám đốc kinh doanh tại công ty Hakuhodo - công ty đứng thứ hai Nhật Bản về quảng cáo. Ông đã nhận được giải thưởng ACC bốn năm liên tiếp, kể từ năm 1987. Năm 1990, ông viết quyển "Mensetsu No Tatsujin (Masters for interviews)", về cách để thành công trong phỏng vấn xin việc. Quyển sách gây được tiếng vang lớn và bán được hơn 2,5 triệu bản. Năm 1991, ông thành lập văn phòng của riêng mình. Ông đã xuất bản hơn 370 quyển sách về các chủ đề như kinh doanh, cuộc sống và tình yêu; và đã bán được 2,5 triệu bản một năm ở Nhật Bản, 1 triệu bản tại Hàn Quốc và 4 triệu bản trên toàn thế giới. Hiện nay, sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được phát hành ở nhiều quốc gia. Tác phẩm tiêu biểu 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học 50 Việc Cần Làm Đối Với Khách Hàng  50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20  50 việc cần làm trước khi kết hôn 50 việc cần làm ở tuổi 30… *** hế giới chỉ có hai loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng, mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Các sinh viên thực hiện khát vọng, mơ ước của mình phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy những cơ hội gặp được trong khi học đại học. Tôi cũng là một trong số những sinh viên đó. Nhìn lại cả quãng đường thời đại học, tôi đã phát hiện ra một điểm chung: gặp gỡ với con người cũng là gặp gỡ với sách vở. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 1: Giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 2: Khi cảm thấy “Điều này là không thể!” tiềm năng sẽ xuất hiện một cách mạnh mẽ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 3: Nghe những buổi diễn thuyết làm chấn động lòng người. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 4: Đi nghe giảng không chỉ để lấy được tín chỉ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 5: Một ngày ở đại học dài bằng một năm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 6: Vấn đề tự học. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 7: Mở sách sau khi về đến nhà, cho dù là đã rất khuya. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 8: Lập kế hoạch học tập như đang ôn thi. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 9: Hãy làm quen với những người làm cho bạn căng thẳng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 10: Học tập chăm chỉ hơn cả trong thời gian thi cử. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 11: Đừng học tập một cách miễn cưỡng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 12: Bình tĩnh suy nghĩ xem bản thân mình có thực sự thích học hay không. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 13: Học tập không chỉ ở trong tháp ngà. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 14: Nên có một quyển bài tập không có đáp án.   Vì ngày mai hãy làm việc thứ 15: Soạn một quyển từ điển cho riêng mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 16: Biết không thể làm mà vẫn làm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 17: Có công mài sắt có ngày nên kim. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 18: Cho dù đã thôi học cũng vẫn có việc có thể làm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 19: Đừng quên học bài, làm bài tập. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 20: Cần thực tiễn nhưng cũng cần lý luận. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 21: Bám sát thực tế, tuần tự tiến dần lên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 22: Hãy kết bạn với những lưu học sinh chịu khó học hành. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 23: Hãy học tập những tác phẩm cổ điển. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 24: Phải nhớ kỹ đây là chuyên môn của bạn, chứ không phải chỉ là hứng thú. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 25: Tìm một chốn cho riêng mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 26: Sống ở trong trường. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 27: Phải biết rõ chỗ nào có thể tìm được tư liệu cần thiết. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 28: Giúp thầy làm một số việc. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 29: Hãy sưu tập thật nhiều. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 30: Sáng tạo cái gì đó như một bộ phim hay chẳng hạn. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 31: Phương pháp tăng cường thể lực. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 32: Có từ hai quyển sổ ghi chép trở lên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 33: Chưa tận mắt chứng kiến, không nên tùy tiện khen chê. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 34: Hãy vứt bỏ thành kiến. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 35: Đừng đi làm thêm. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 36: Lập kế hoạch tác chiến để có sinh hoạt phí. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 37: Mua một quyển sách trị giá hơn ba vạn yên. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 38: Chỉnh lý các album ảnh từ hồi bé. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 39: Hãy cân nhắc kỹ khi thực hiện ước mơ của mình, nếu ước mơ ấy ngược với kỳ vọng của cha mẹ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 40: Đêm khuya đi dạo trở về, vẫn dành thời gian viết nhật ký.   Vì ngày mai hãy làm việc thứ 41: Nhận ra sự vô tri ban đầu, tức là đã tiếp cận ước mơ. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 42: Xem một quyển sách làm cho mình được một cú hích. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 43: Mỗi ngày viết một trang, viết cái gì cũng được. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 44: Tập cho mình có thể vừa nghe giảng vừa xem sách. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 45: Luyện cách đọc nhanh. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 46: Giữ những quan điểm không giống với người khác. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 47: Chơi với một người bạn thân. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 48: Có một nơi ẩn mình bí mật. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 49: Mỗi tuần lễ dành ra một ngày chỉ để nói chuyện với chính mình. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 50: Đi du lịch trong nước một mình. ĐỌC THỬ GIAO TIẾP VỚI NHÂN VẬT ĐƯỢC MỌI NGƯỜI CHO LÀ NGƯỜI ƯU TÚ SẼ LÀM XUẤT HIỆN CÁI TÔI THỨ HAI NƠI BẠN Thời đại học, việc không thể không làm là gì? Đó chính là khởi động, làm xuất hiện, làm hiển lộ cái tôi thứ hai. Có lẽ bạn vẫn chưa ý thức được về cái tôi thứ hai đó. Mục đích của thời đại học chính là phải làm xuất hiện cái tôi thứ hai. Nhưng mà, làm sao để có thể làm xuất hiện cái tôi thứ hai? Thời đại học xem có vẻ như là dài bất tận. Chợt nhìn lại mới thấy thời đại học thực ra chỉ là ngắn ngủi tạm thời. Đối với không ít người, việc lớn – những việc cần và đáng làm, chưa thành một mảy may đã đành phải đi qua thời đại học mà không để lại được một dấu ấn gì. Những người việc lớn chưa thành ấy không phải bởi vì họ không nỗ lực, mà bởi họ không biết việc lớn là việc gì. Chỉ cần biết bản chất cũng như tầm quan trọng của những việc cần và đáng làm thì sẽ không sống hoài khoảng thời gian quý báu ở trường đại học của mình. Nói cho cùng, chỉ có một việc bạn nhất định phải làm trong thời đại học. Đương nhiên, ngoài việc này ra, vẫn còn rất nhiều việc khác có thể làm, nhưng chỉ cần làm tốt việc này thì mọi việc còn lại đều sẽ thuận lợi, nắm chắc phần thắng trong tay. Đó chính là giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. Bất kể đó là một vị tướng hay một nô lệ. Nói chung, người đó có thể là một ông thầy. Cũng có thể là sinh viên xuất sắc. Cũng có thể là người quen gặp ở nơi xin việc. Cũng có thể là người xa lạ không hẹn mà gặp trên đường đi du lịch. Cũng có thể là người lớn tuổi. Cũng có thể là người cùng tuổi với bạn. Cũng có thể là người ít tuổi hơn bạn. Nếu nhân vật được mọi người cho là rất ưu tú trẻ hơn bạn, điều đó cho thấy bạn cũng là một người có tài Tại sao? Bởi vì sự có mặt của thiên tài trẻ tuổi trong thế giới thiên tài là một chuyện vô cùng bình thường. Tóm lại, trong thời đại học nếu có thể giao tiếp với nhân vật được mọi người coi là rất ưu tú, thì mọi vấn đề còn lại sẽ được giải quyết ổn thỏa. Vì ngày mai hãy làm việc thứ nhất Giao tiếp với nhân vật được mọi người cho là người rất ưu tú. KHI CẢM THẤY “KHÔNG THỂ NHƯ THẾ!” TIỀM NĂNG SẼ XUẤT HIỆN MẠNH MẼ Tôi có may mắn được quen biết với một người được công nhận là rất ưu tú. Đó chính là giáo sư Văn hóa nhân loại học Tây Giang Nhã Chi. Đương nhiên ngoài giáo sư Tây Giang ra, tôi còn nhận được sự giúp đỡ của nhiều vị giáo sư khác. Nhưng những gì tôi học được từ giáo sư Tây Giang có hơi khác với những vị khác. Lúc đó, giáo sư Tây Giang từ nước ngoài trở về Nhật Bản, bắt đầu giảng dạy môn Nhân loại học ở khoa Văn học, còn tôi thì đang học ngành kịch nghệ thuộc khoa Văn học trường đại học Tảo Đạo Điền. Đúng vào lúc đó, tôi đã may mắn được gặp giáo sư. Tuy nhiên, cho dù không có lần gặp gỡ không hẹn mà được ấy, cũng không thể oán trách số mệnh không công bằng. Những cuộc gặp gỡ không hẹn trước, không phải chính là ngẫu nhiên hay sao? Không có gì quý giá cho bằng những cuộc gặp gỡ không hẹn mà được. Cho nên, hôm nay nếu bạn đã bỏ lỡ cơ hội thì có khả năng bạn cũng sẽ là người bỏ lỡ cơ hội suốt đời. Tôi chưa từng gặp giáo sư trước khi nghe ông giảng bài. Một lần nghe giáo sư giảng, lòng tôi trào dâng một niềm xúc động mạnh mẽ. Đối với một kẻ vừa bước chân vào trường đại học như tôi, sự cảm nhận, tiếp thu nơi tôi hầu như không thể thích ứng nổi với lượng kiến thức khổng lồ cũng như khả năng điều động tư duy siêu việt của giáo sư trong khi lên lớp. Đã may mắn chọn đúng cùng một chuyên ngành như giáo sư, tôi ước sớm muộn trở thành một người tài giỏi như ngài.   Lúc đó tôi nghĩ, về sau cho dù những công việc tôi làm không có liên quan đến ngành học đi chăng nữa, nhưng nếu cũng có một tư duy mẫn tiệp như giáo sư thì hay lắm. Ôi, biết đến ngày nào tôi mới được như giáo sư! Khả năng thu thập thông tin mới nhất của giáo sư thật là có một không hai, khó ai có thể vượt qua. Tôi càng lúc càng cảm thấy lực bất tòng tâm, thấy vô vọng và thất bại. Trong đầu tôi bỗng bật ra một câu nói: “Không thể như thế được!” Cảm nhận một nguy cơ như thế này chính là điểm then chốt của vấn đề. Một trong những việc bạn phải làm thời đại học là cảm nhận một điều gì đó là không thể được. Khi giao tiếp với một nhân vật được mọi người cho là rất ưu tú, cảm nhận về những điều “không thể được” sẽ xuất hiện nơi bạn. Và khi đó những năng lực tiềm tàng bên trong con người bạn sẽ được dịp cuồn cuộn trào dâng. Vì ngày mai hãy làm việc thứ 2 Khi cảm thấy “Điều này là không thể!” tiềm năng sẽ xuất hiện một cách mạnh mẽ. NGHE CÁC BÀI GIẢNG CỦA NHỮNG NGƯỜI THỰC SỰ TÀI NĂNG, SẼ CÓ ĐƯỢC NHỮNG CHẤN ĐỘNG MẠNH MẼ Ấn tượng sâu sắc còn đọng lại nơi tôi không chỉ là nội dung bài giảng của giáo sư Tây Giang. Nội dung của bài giảng tự nó đã trở nên không còn là quan trọng nhất, mà cái quan trọng chính là những rung động, chấn động tôi cảm nhận được từ giáo sư khi lên lớp. Khi nói chuyện với người khác, tôi đã từng chú ý đến những điều mình truyền đạt ngoài nội dung của cuộc nói chuyện. Điều quan trọng là tạo được một sự chấn động, thu hút sự chú ý nơi người khác. Đối tượng giao tiếp không chỉ giới hạn trong giới sinh viên. Không cần biết là bạn đang nói cái gì, quan trọng là chỉ cần bạn tạo được một sự chú ý nơi người khác. Ngược lại, bất luận là truyền đạt, chuyển tải bao nhiêu nội dung, nếu như đối phương không cảm nhận được một chút chấn động, không nảy sinh một sự chú ý nào thì tôi nghĩ đây chính là một cuộc trò chuyện thất bại. Bài nói chuyện hay cuộc nói chuyện nên phong phú về ý nghĩa và sinh động, có sức sống. Cùng một nội dung sẽ không có hai lần trình bày giống nhau, bởi số người tham dự và trạng thái tinh thần của diễn giả có thay đổi. Mỗi lần diễn thuyết không luôn hoàn toàn giống nhau, cũng như những lần diễn kịch. Mà đã là kịch thì chắc chắn không thể nào làm ra vẻ xuất sắc để lấy lòng người khác. Những buổi lên lớp của giáo sư Tây Giang đối với tôi thật giống như những buổi biểu diễn nghệ thuật xiếc hay những trận quyết đấu về việc vận dụng trí óc. Lâu nay có lẽ bạn vẫn từng cho rằng các vị giáo sư ở đại học thì có gì đâu, chẳng qua cứ nói đi nói lại mãi một môn học, một đề tài suốt năm này qua năm khác không có gì thay đổi. Một khi đã nghĩ như vậy thì hẳn nhiên bạn sẽ không cảm thấy thú vị gì trước bài giảng của các vị giáo sư. Nhưng mà, bạn lầm rồi. Đương nhiên một cộng một chỉ có thể là hai, không thể nào có thể là ba. Tuy nhiên, để giải thích tại sao một cộng một là hai thì có nhiều phương pháp. Giả như nói về việc dạy học, có lúc bạn cảm thấy mình dạy rất hay, nhưng có lúc bạn lại cảm thấy mình thất bại. Chỉ điều này thôi đủ thấy chẳng có buổi diễn giảng nào hoàn toàn giống nhau. Những buổi diễn giảng mang lại cho người nghe cảm giác mới mẻ là kết quả của sự động não nhằm tìm tòi những phương pháp diễn đạt càng lúc hay hơn, tinh xảo hơn, thuyết phục hơn. Và những buổi diễn giảng làm xúc động lòng người, gây cảm giác phấn khích, cho dù là cùng một vấn đề nhưng nghe lại vẫn không thấy nhàm chán. Giáo sư đứng trước bảng đen, như đang bước vào một cuộc đọ sức sinh tử. Xin bạn cũng hãy nghe giảng với tinh thần và thái độ nghiêm túc chăm chỉ như giáo sư! Hồi trung học tôi có tham gia vào đội cờ tướng của trường. Phương pháp đánh cờ thì tôi đã rõ, nhưng khi xem thuyết minh của người hướng dẫn môn đánh cờ trên tivi tôi thường có một cảm giác mờ mịt. Người hướng dẫn như thể đang chìm đắm trong thế giới riêng của anh ta. “Đi như thế này, rồi lại đi như thế này, à, không được, đây không phải là nước đi tốt.” Anh ta cứ ngồi thì thầm một mình như vậy, không cần biết người xem khó chịu như thế nào. Tuy không biết những chỉ dẫn cụ thể của người hướng dẫn, nhưng tôi vẫn ngầm cảm thấy ván cờ này đã đi đến chỗ xuất sắc tinh xảo nhất. Đối với những tay mê cờ, đây là điều khó chấp nhận nhất. Giải thích cách đánh cờ, ngoài việc giải thích, hướng dẫn còn thường mang lại cho người ta một cảm giác sợ sệt khó gọi thành tên. Ví như trong một cuộc cờ, người đi trước ra một nước. Người đi sau phát hiện tình hình bất lợi, cầm chắc thua cuộc, bèn nói lời đầu hàng: “ Ôi, tôi thua rồi.” Sức cuốn hút kỳ lạ của môn đánh cờ chính là ở chỗ nó thực giống như một cuộc giao chiến thực thụ. Một bài diễn giảng cũng giống như một ván cờ đầy khí thế sục sôi. Người nghe trong khi nghe cũng cảm nhận được cái khí thế ấy. Hãy cảm nhận sự chấn động, xúc động từ những buổi diễn giảng đầy khí thế của những con người thực sự tài năng! Việc đó vô cùng có ích đối với bạn! Vì ngày mai hãy làm việc thứ 3 Nghe những buổi diễn thuyết làm chấn động lòng người. Mời các bạn đón đọc 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng của tác giả Akihiro Nakatani.  
50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng
50 việc cần làm là bộ sách kỹ năng bán chạy ở rất nhiều nước trên thế giới. Sách tập hợp lời khuyên của tiên sinh Akihiro Ankatani về những chủ đề mà các bạn trẻ quan tâm: rèn luyện bản thân, tạo dựng sự nghiệp, kinh doanh, kết hôn. Mỗi chủ đề tác giả đưa ra đúng 50 lời khuyên, trình bày vô cùng đơn giản, khúc chiết nhưng ý tứ sâu xa. 50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20 - Akihiro Ankatani Cái gọi là môn học bắt buộc ở tuổi 20 có nghĩa là những việc mà chỉ ở tuổi 20 mới có thể làm được. Chỉ những ai ở tuổi ấy cứ bôn ba qua lại một cách uổng công vô ích đến một lúc nào đó mới mới thấm thía rằng: tuổi hai mươi là giai đoạn huy hoàng nhất trong cuộc đời mỗi người. 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học Trên đời này chỉ có 2 loại sinh viên, sinh viên thực hiện khát vọng - mơ ước của mình và sinh viên đại học đơn thuần. Những sinh viên có hoài bão phần đông hiểu được rằng cần phải nắm lấy cơ hội khi còn ngồi trên ghế giảng đường. Vì vậy, quãng đường đại học cũng chính là khoảng thời gian để bạn học cách vượt qua những thử thách đầu đời. 50 Việc Cần Làm Trước Khi Kết Hôn - Akihiro Nakatani Thượng đế sở dĩ chưa để cho bạn kết hôn, là vì trước khi kết hôn, bạn còn rất nhiều việc phải làm. Sau khi kết hôn, người ta mới ân hận: sớm biết thế này, thì những việc cần làm trước khi kết hôn, mình đã thực hiện chu đáo cả rồi. Tiếc rằng trước khi kết hôn, người ta thường không hiểu giá trị của thời gian sống độc thân nên đã đem phung phí khoảng thời gian quý báu đó. 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng Đầu bếp của tiệm ăn Shousi làm gì vào khoảng thời gian giữa cao điểm ban ngày và ban đêm? Nhân viên Akimasi đã tận dụng khoảng thời gian rỗi ấy để học tiếng Anh. Mặc dù cửa hàng không tăng lương và cũng không có bất kỳ khoản phí hỗ trợ nào cho việc này, nhưng anh vẫn kiên trì học tiếng. Bởi vì Akimasi muốn kể tỉ mỉ cho thực khách nước ngoài biết cách thưởng thức món ăn như thế nào, cách nấu món ấy ra sao... Đôi khi chỉ những cố gắng nhỏ từ bản thân bạn nhưng sẽ mang đến những lợi ích không ngờ trong kinh doanh. *** Akihiro Nakatani Akihiro Nakatani sinh năm 1959. Ông là một nhà văn, diễn viên và một nhà sản xuất tài năng và nổi tiếng ở Nhật Bản. Ông bắt đầu sự nghiệp với vai trò là một DJ vào năm 1973. Năm 1976, ông được trao giải thưởng của Hiệp hội Các nhà thơ của Asahi Tanka. Năm 1982, ông đã là một nhà văn được nhiều người biết tên. Năm 1984, sau khi tốt nghiệp khóa kịch nghệ tại trường đại học Waseda, ông làm giám đốc kinh doanh tại công ty Hakuhodo - công ty đứng thứ hai Nhật Bản về quảng cáo. Ông đã nhận được giải thưởng ACC bốn năm liên tiếp, kể từ năm 1987. Năm 1990, ông viết quyển "Mensetsu No Tatsujin (Masters for interviews)", về cách để thành công trong phỏng vấn xin việc. Quyển sách gây được tiếng vang lớn và bán được hơn 2,5 triệu bản. Năm 1991, ông thành lập văn phòng của riêng mình. Ông đã xuất bản hơn 370 quyển sách về các chủ đề như kinh doanh, cuộc sống và tình yêu; và đã bán được 2,5 triệu bản một năm ở Nhật Bản, 1 triệu bản tại Hàn Quốc và 4 triệu bản trên toàn thế giới. Hiện nay, sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng và được phát hành ở nhiều quốc gia. Tác phẩm tiêu biểu 50 Việc Cần Làm Trong Khi Học Đại Học 50 Việc Cần Làm Đối Với Khách Hàng  50 Việc Cần Làm Ở Tuổi 20  50 việc cần làm trước khi kết hôn 50 việc cần làm ở tuổi 30… *** Rõ ràng là bạn sẽ không thể có cách thuyết phục khách hàng nếu như không biết được họ là ai và họ muốn gì. Thử tưởng tượng trong một cuộc giao tiếp mà bạn chỉ thao thao bất tuyệt, tôi là A, tôi muốn B, bạn nên làm C, bạn đừng làm D… sẽ chẳng có một khách hàng nào đủ kiên nhẫn để nghe hết từ A đến Z cả! Và càng tệ hơn nữa là trong khi bạn có thể nói “tất tần tật” về bản thân thì lại “quên” đi khách hàng của bạn là ai, thậm chỉ gọi nhầm tên, địa chỉ của họ. Nếu cuộc giao tiếp thật sự “rơi” vào tình huống này thì kết quả có lẽ bạn đã thấy trước… Vậy nên, kỹ năng thuyết phục khách hàng trước hết nên là kỹ năng ghi nhớ, ghi nhớ tất cả những thông tin của khách hàng, càng nhiều càng tốt! (tất nhiên chỉ là những thông tin cần thiết liên quan đến quá trình thương thảo) Tiếp theo, điều quan trọng hơn nữa là sau khi bạn biết họ là ai, bạn phải biết khách hàng của bạn muốn gì. Kinh doanh hiện đại đã chỉ ra rằng muốn thành công bạn phải “bán cái khách hàng cần chứ không phải cái bạn sản xuất”. Và vì vậy, biết khách hàng muốn gì là điều kiện tiên quyết để có thể “đánh đúng tâm lí” và thuyết phục họ. Biết được khách hàng muốn gì thì kỹ năng tiếp theo bạn nên có đó là biết cách hướng cuộc hội thoại về kết quả: lợi ích cuối cùng thuộc về khách hàng. Trong một quyển sách nghiên cứu về văn hóa kinh doanh của các nước trên thế giới, tác giả Richard R. Gesteland đã nhấn mạnh rằng ở Nhật Bản (một trong những nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới), khái niệm “Customer is King” (khách hàng là vua) đang dần được thay thế bằng khái niệm “Customer is God” (khách hàng là thượng đế) để nói lên tầm quan trọng của khách hàng trong đời sống kinh doanh. Vậy nên, trong tổng hòa cuộc giao tiếp, hãy để khách hàng “hiểu” rằng sử dụng dịch vụ hay sản phẩm của bạn sẽ mang lại lợi ích cao nhất cho họ, sẽ không thể có nơi thứ 2 có dịch vụ hoặc giá tốt hơn. Tóm lại, khách hàng phải cảm nhận được “lợi ích tuyệt đối” trong suốt cuộc thương thảo. Sẽ không quá khi nói rằng kỹ năng giao tiếp sẽ quyết định việc thuyết phục khách hàng của bạn. Các “thủ thuật” về ánh mắt, cách chào hỏi, cách bắt tay, cách mỉm cười, cách nói chuyện… sẽ “ghi dấu” hình ảnh của bạn trong mắt khách hàng. Một ánh mắt thân thiện, một nụ cười “vừa phải” sẽ làm bạn đẹp hơn rất nhiều trong mắt người đối diện. Dáng điệu của bạn cũng nên để lại sự tự tin cần thiết để khách hàng có đủ niềm tin vào những điều bạn nói. Ngoài ra, những kỹ năng giao tiếp khác cũng cần được chú trọng, bởi vì bạn không nên (và không được phép) để lại bất kì một sai sót nào trong quá trình tiếp xúc. Bởi lẽ, một khi những “ấn tượng ban đầu” này tốt đẹp thì xem như bạn đã thành công một nửa, còn ngược lại, có lẽ sẽ rất khó khăn cho cuộc thương thảo của bạn. Thật đáng tiếc, điều này có thể khiến các nhân viên bán hàng dành những quãng thời gian quý báu của họ vào việc nỗ lực xác định và giải thích bản thân nội dung thông điệp mà không diễn tả được giá trị kinh doanh tới các khách hàng. Thay vào đó, bạn cần phải kể một câu chuyện khai phá các thách thức kinh doanh và phương pháp của công ty bạn để giải quyết những vấn đề đó. Khi nó bắt đầu trở nên thích hợp trong cuộc thảo luận, bạn sẽ phác họa nó trong các cụm từ viết tắt và kết nối nó giữa những bức tranh và các giải pháp. Tiếp theo, hãy biểu lộ rằng: “Tại công ty XYZ, chúng tôi gọi đó là….”   Mời các bạn đón đọc 50 Việc Cần Làm Khi Gặp Khách Hàng của tác giả Akihiro Nakatani.
Con Mắt Biên Tập
Tác giả cuốn sách là những nhà báo và chuyên gia tên tuổi trong giới truyền thông Mỹ. Bà Jane T. Harrigan là giáo sư khoa báo chí ở Đại học New Hampshire kiêm cố vấn cho nhiều ấn phẩm đa dạng. Bà Jane đã có 23 năm giảng dạy nghiệp vụ biên tập. Còn Karen Brown Dunlap là giám đốc Viện Báo chí Poynter ở Florida và đã hai lần tham gia ban giám khảo giải thưởng báo chí Pulitzer. "Con mắt biên tập" là cuốn sách nghiệp vụ báo chí đầu tiên trong tủ sách "Nghề báo" do công ty Sài Gòn truyền thông thực hiện. Nhà báo Trần Trọng Thức, người có nhiều đóng góp với các tờ Tin Sáng, Tuổi Trẻ, Lao Động, Thời báo Kinh tế Sài Gòn... và hiện nay là tờ Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần đã viết lời giới thiệu cuốn sách. Tuần Việt Nam xin trân trọng giới thiệu tới quí vị độc giả: Bài báo đến với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng". L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nổi tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên đã cho rằng, một Ban Biên Tập thật giỏi với những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xĩnh. Một Ban Biên Tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một Ban Biên Tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập". Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biên tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoài nghi. Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày trang báo... Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết. Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết. Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ. Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi. Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nên tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc. Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với độc giả. Báo chí là một sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí. Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thì "Con mắt biên tập" (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Sài Gòn Media và báo Sài Gòn Tiếp Thị giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh được những vấp ngã mà còn giúp những ai muốn đi xa hơn trong nghề viết hệ thống lại kỹ năng cơ bản. Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới đang phát triển không ngừng. Không quá đáng khi nói rằng, "Con mắt biên tập" là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh phong cách viết báo hiện đại mà chúng ta đang hướng đến. *** LỜI GIỚI THIỆU           Để một bài báo đến được với bạn đọc là một quá trình không đơn giản bởi phải qua rất nhiều công đoạn. Tác giả những bài viết có chất lượng cao thường được độc giả yêu mến và cảm phục, thế nhưng người làm cho bài báo ấy hoàn chỉnh hơn, chính xác hơn và hấp dẫn hơn lại không được mấy ai biết đến. Đó là các biên tập viên, những người thường được ví von là "những nhà báo thầm lặng".     L.R.Blanchard thuộc hệ thống báo chí Gannett nối tiếng trên thế giới, khi nói về tầm quan trọng của biên tập viên, đã cho rằng, một ban biên tập thật giỏi với -những biên tập viên trình độ nghiệp vụ trung bình cũng chỉ có thể cho ra đời một tờ báo xoàng xỉnh. Một ban biên tập tầm thường mà có những người biên tập đầy năng lực thì có thể đưa ra công chúng một tờ báo hạng khá. Một ban biên tập bản lĩnh được hậu thuẫn bởi những người biên tập giỏi thì bảo đảm xã hội có được một tờ báo thật hay. Ông nói thêm: "Dù người viết nổi tiếng đến thế nào đi nữa, bài của họ chỉ có lợi hơn nếu được người khác đọc và biên tập".     Vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng cùng với quá trình phát triển của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng. Đã từ lâu, nhiệm vụ của biên tập viên chủ yếu là sửa sai, gạn lọc và trau chuốt câu cú làm cho bài viết giản dị, dễ hiểu. Để làm công việc vừa nói một cách hoàn mỹ, người biến tập cần tra cứu, đối chiếu tài liệu và hội ý với người viết. Bài viết sau khi được sửa sẽ trở nên trong sáng, mạch lạc và ít sai sót hơn. Nhưng chừng ấy vẫn chưa đủ, anh ta còn phải sống trong dòng thời sự chủ lưu, có trí phán đoán, sự uyên bác trong nhiều lĩnh vực, óc biện luận và phản biện, trí tưởng tượng, đức tính thận trọng và khiêm tốn, đồng thời cũng phải biết hoàn nghi.     Giờ đây khái niệm biên tập đã được mở rộng, biên tập viên có mặt hầu như ở các khâu quan trọng trong quá trình sản xuất của một tờ báo với nhiều chức danh khác nhau, từ biên tập nội dung đến biên tập kỹ thuật, từ biên tập tít tựa các bài viết đến hình ảnh và cả biên tập trình bày tang báo…     Với ban biên tập, họ là một bộ phận tham mưu đắc lực về nội dung tờ báo. Với phóng viên họ là người bạn đồng hành cùng làm việc, có khi tham gia từ bước đầu tư duy đề tài, trao đổi thông tin lẫn giúp hoàn chỉnh bài viết.     Khái niệm huấn luyện viên viết báo (Writing-coach) được nói đến trong cuốn sách nghiệp vụ báo chí mà bạn đọc đang cầm trên tay có thể cho chúng ta hình dung biên tập viên làm việc như một huấn luyện viên trong thể thao. Họ không dạy dỗ mà cùng làm việc và chia sẻ thông tin với phóng viên, biết phát huy thế mạnh của từng người trong đội ngũ và tôn trọng phong cách của các cây viết.     Sửa bài nhưng không được sửa ý, đó là nguyên tắc mà người biên tập nào cũng thuộc nằm lòng. Chính sự tôn trọng ý tưởng của người viết khiến báo chí phản ánh được những góc nhìn khác nhau về một vấn đề được xã hội quan tâm, mới không bị rập khuôn như cách hiểu máy móc báo chí là một công cụ.     Với cộng tác viên, biên tập viên làm vai trò trung gian giữa người làm báo và người viết báo. Vai trò ấy khiến việc sửa bài cho người bên ngoài đôi khi khó khăn và phức tạp hơn. Đã có không ít các bậc học giả, các chuyên viên mà tên tuổi đã trở thành "thương hiệu" khi thấy bài viết của mình bị sửa đôi chút đã vội phê phán tòa soạn một cách nặng nề rằng: đẻ đứa con ra không ai muốn con mình bị cắt chân, cắt tay. Thật ra người biên tập không độc ác như vậy, anh ta chỉ cắt những mẩu thịt thừa và vài dị tật của cơ thể ấy mà thôi.     Thế nhưng điều này không phải lúc nào cũng được các tác giả đồng tình. Chẳng hạn không ít cộng tác viên là chuyên viên lỗi lạc, nội dung các bài viết của họ nhiều khi được chuyển tải bằng những ngôn ngữ có tính bác học, phù hợp với phong cách nghiên cứu. Nhưng khổ nỗi, tờ báo lại có yêu cầu là làm sao để hầu hết độc giả của mình nắm bắt được những kiến thức uyên thâm ấy bằng một thứ ngôn ngữ đời thường dễ hiểu, đó là ngôn ngữ của báo chí. Cho nền tìm được một chuyên viên, một học giả, một nhà văn viết báo giỏi là điều rất quý đối với một tờ báo. Nếu không được như vậy, thì công việc của người biên tập sẽ rất nặng nề để tranh thủ được sự vừa lòng cả hai phía người viết và người đọc.     Thực tế cho thấy để bài báo hoàn chỉnh hơn thì công việc biên tập nên khởi đầu từ chính tác giả. Người viết, nếu được trau dồi kỹ năng sẽ biết những nguyên tắc căn bản về sửa bài để tránh bớt những sơ sót, cũng như để hoàn thiện cách sử dụng từ ngữ và lối hành văn. Bài viết của những nhà báo thận trọng sau khi qua tay người biên tập giỏi có khả năng sẽ tăng thêm hiệu ứng, tờ báo tạo thêm được uy tín với dộc giả.     Báo chí là một sản phẩm của sản phẩm của xã hội. Định chế xã hội dù có khác nhau nhưng đạo đức nghề nghiệp vẫn cần được chuẩn hóa trên cơ sở tôn trọng sự thật, tính trung thực và khách quan, vì sự tiến bộ mọi mặt của con người và sự phát triển của cộng đồng. Làm thế nào để góp phần làm cho xã hội ngày hôm nay tốt hơn hôm qua và ngày mai tốt hơn hôm nay, phải chăng suy nghĩ đó đã khiến ngày càng có nhiều người thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau tham gia vào đời sống báo chí.     Trong một không gian viết báo ngày càng được mở rộng như vậy thí CON MẮT BIÊN TẬP (The Editorial Eye) của hai tác giả Jane T. Harrigan và Karen Brow Dunlap được Công ty Sài Gòn truyền thông giới thiệu với người đọc vào thời điểm này rõ ràng đã đáp ứng nhu cầu của những người yêu nghề báo. Có thể xem đây là một cẩm nang nghiệp vụ đúng nghĩa với những chỉ dẫn chi tiết dành cho cả người viết lẫn người làm báo, không chỉ bổ ích cho phóng viên mới vào nghề tránh đuợc những vấp ngã mà còn giúp những ai muôn đi xa hơn irên con đường viết lách hệ thống lại kỹ năng cơ bản.     Nội dung cuốn sách này còn bổ sung cho những khiếm khuyết trong giáo trình báo chí ở các trường đại học hiện nay, nơi mà những nhà báo tương lai được truyền đạt kiến thức đại cương và lý thuyết nhiều hơn các kỹ năng nghiệp vụ của báo chí thế giới dang phát triển không ngừng.     Không quá dáng khi nói rằng, CON MẮT BIÊN TẬP là một đóng góp đáng kể trong việc hoàn chỉnh nhông cách viết báo hiện đại mà chúng ta dang hướng đến.     TRẦN TRỌNG THỨC     NHÀ BÁO Mời các bạn đón đọc Con Mắt Biên Tập của tác giả Jane T. Harrigan & Karen Brown Dunlap.