Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hẹn Hò Theo Kiểu của Em - Linda Howard

Trong mắt cô nàng, anh là một anh chàng sẽ khiến mọi bản năng, mọi hoóc môn trong cơ thể bạn phải bật dậy chú ý và thì thầm vào tai bạn, “Ôi, Chúa tôi, đây rồi, đây chính là người đàn ông đích thực, hãy tóm lấy anh ta và làm việc đó NGAY ĐI!” Còn trong mắt anh, thì cô là một cô nàng tóc vàng hoe tuy nóng bỏng nhưng õng ẹo phù phiếm, luôn làm quá mọi chuyện lên và không bao giờ cho những người xung quanh một giây phút yên bình. Ấy thế mà, sau hai năm “bỏ chạy” khỏi cô nàng theo đúng nghĩa đen, giờ khi gặp lại, anh lại thấy mê đắm cô hơn bao giờ hết. Anh bị cuốn vào giọng nói tiếng cười, vào những hiểm nguy kịch tính trong cuộc sống của cô, vào cả nét “õng ẹo phù phiếm” đáng yêu kia nữa. Và anh đề nghị hẹn hò lại từ đầu. Nhưng, một lần nữa cô nàng lại làm anh phát điên lên khi đưa ra một kiểu hẹn hò của-riêng-cô: Hẹn hò không sex.Là câu chuyện mở đầu bằng một vụ giết người… Tiếp diễn bằng chuyện hẹn hò có một không hai của cô nàng nhân chứng Blair Mallory nóng bỏng và anh chàng Trung úy Wyatt Bloodsworth điển trai mạnh mẽ… Tiểu thuyết tình cảm Hẹn hò theo kiểu của em sẽ đưa bạn vào một thế giới đầy lôi cuốn, kịch tính nhưng cũng không kém phần hài hước, ngọt ngào của tình yêu và đam mê. *** Đa số mọi người không coi công việc của một cổ động viên là nghiêm túc. Giá mà họ biết... Đó là tôi, như tất cả các cô gái Mĩ khác. Nếu bạn nhìn vào các bức ảnh trong những cuốn niên giám trường cấp ba của tôi, bạn sẽ nhìn thấy một cô gái tóc dài vàng hoe, rám nắng với nụ cười ngoác đến tận mang tai, trông rõ toàn bộ hàm răng trắng bóng của cô, nhờ sự giúp đỡ của hàng nghìn đô la cho việc nẹp và tẩy trắng. Là cho hàm răng, không phải cho tóc hay làn da rám nắng. Tôi có sự tự tin không cần cố gắng của một nàng công chúa tuổi teen tầng lớp trên của dân trung lưu; không điều gì tồi tệ có thể đến với tôi. Rốt cuộc, tôi là một cô nàng của Đội cổ vũ cơ mà. Tôi thú nhận điều đó. Thực tế là tôi tự hào vì điều đó. Rất nhiều người nghĩ những cổ động viên vừa không có đầu óc và vừa học đòi, nhưng đó là những người chưa bao giờ làm cổ động viên. Tôi tha thứ cho sự thờ ơ của họ. Cổ vũ là một công việc khó khăn, đòi hỏi cả kỹ năng, sức khoẻ và nguy hiểm nữa. Mọi người thường xuyên bị thương, thậm chí đôi khi còn mất mạng. Và người bị thương thường là con gái: các anh chàng là người tung lên, còn các cô gái là người bị tung lên. Nói theo từ chuyên ngành thì chúng tôi gọi đó là "flyers", nghe thật ngốc nghếch bởi vì dĩ nhiên là chúng tôi không thể bay rồi. Chúng tôi bị tung lên. Những người bị tung là những người sẽ ngã đập đầu và bị gãy cổ. Ừm, tôi chưa bao giờ bị gãy cổ, nhưng tôi đã bị gẫy tay trái, xương cổ và sái đầu gối phải. Tôi không thể đếm được bao nhiêu lần tôi bị bong gân và thâm tím nữa. Nhưng tôi giữ thăng bằng rất tuyệt, tôi có đôi chân khoẻ khoắn và tôi có thể vừa thực hiện backfip, vừa thực hiện split. Thêm vào đó, tôi đã vào đại học bằng học bổng dành cho Đội cổ vũ. Đây là một đất nước rất cool hay là gì nhỉ? Chà, dù sao, tên tôi là Blair Mallory. Vâng, tôi biết: đó là một cái tên ngớ ngẩn. Nó hợp với công việc cổ vũ và mái tóc vàng hoe. Tôi không thể làm gì được; đó là tên cha mẹ đặt cho tôi. Cha tôi tên là Blair nên tôi đoán tôi chỉ vừa đủ mừng vui vì tôi không phải là một Blair con. Tôi không nghĩ tôi là Nữ hoàng của buổi tựu trường nếu như tên tôi có là Blair Henry Mallory con. Tôi đủ hạnh phúc với cái cái tên Blair Elizabeth, xin cám ơn. Ý tôi là, những người làm trong làng giải trí thường đặt cho con họ những cái tên như kiểu Homer, vì Chúa. Khi những đứa trẻ đó trưởng thành và giết chết cha mẹ chúng, tôi nghĩ tất cả những trường hợp này nên được phán quyết là giết người vì lý do chính đáng. Nói đến đây lại gợi đến vụ án mạng mà tôi từng chứng kiến. Thực sự thì không hẳn vậy, nhưng ít nhất nó cũng như một kiểu logic. Mối liên hệ ấy, ý tôi là thế. Và những điều tồi tệ cũng xảy đến với nàng cổ động viên như tất cả công chúa người Mĩ khác. Tôi đã kết hôn, có phải thế không nhỉ? Nó cũng kiểu như một liên kết với án mạng. Tôi cưới Jason Carson ngay khi vừa tốt nghiệp đại học, vì thế trong vòng bốn năm, tên tôi là Blair Carson. Lẽ ra tôi không nên dại dột cưới một người có tên và họ vần điệu với nhau, nhưng có những thứ bạn chỉ học được từ trải nghiệm. Jason có đủ đặc điểm của một chính trị gia: tham gia hội đồng sinh viên, tham gia vận động cho cha mình trong chiến dịch tranh cử nghị sĩ bang, có chú làm thị trưởng, vân vân và vân vân. Jason quá ưa nhìn, anh ta có thể khiến con gái phải nói lắp, theo đúng nghĩa đen đấy. Thật tồi tệ là anh ta biết điều đó. Anh ta có mái tóc dài màu ánh nắng (đấy là diễn tả thi vị của mái tóc vàng hoe), những đặc điểm của một anh chàng đào hoa, mắt xanh thẳm và có hình thể xuất sắc. Hãy nghĩ đến John Kenedy con. Ý tôi là về cơ thể. Vậy nên chúng tôi ở đó, bức ảnh về một cặp đôi tóc vàng, răng trắng. Và cơ thể tôi cũng khá đẹp, nếu nhưng tôi được tự nói về mình.Chúng tôi còn có thể làm gì ngoài việc kết hôn? Bốn năm sau, chúng tôi không còn kết hôn nữa, giải phóng mối quan hệ lẫn nhau. Rốt cuộc, chúng tôi chẳng có gì chung ngoài vẻ bề ngoài và tôi thực sự không nghĩ rằng đó là nền tảng tốt cho một cuộc hôn nhân, bạn thấy sao? Jason muốn có con để chúng tôi trông giống tất cả các cặp đôi Mĩ khác khi anh ta tham gia chiến dịch tranh cử để trở thành nghị sĩ trẻ nhất bang, chuyện này thực sự, nếu bạn muốn biết, làm tôi cực kỳ cáu tiết, bởi vì trước đó anh ta đã từ chối không chịu có con và giờ đây, tất cả sự thay đổi đột nhiên đó phải chăng chỉ để thêm điểm vào cái chiến dịch tranh cử? Tôi nói với anh ta hôn mông tôi đi. Không phải là anh ta chưa từng làm thế trước đó, nhưng ngữ cảnh khác nhau, bạn biết đấy? Tôi bị xem như kẻ cướp trong việc dàn xếp vụ li dị. Có lẽ tôi nên cảm thấy có lỗi; ý tôi là, đó không phải hoàn toàn là chuyện về quyền bình đẳng để làm như thế. Nên đứng lên bằng chính đôi chân mình, tự mình đạt thành tựu, kiểu vậy kia. Và thực tế là tôi tin tất cả những điều đó; chỉ là tôi muốn khiến Jason phải chịu thiệt. Tôi muốn trừng phạt anh ta. Tại sao ư? Bởi vì tôi bắt gặp anh ta hôn em gái út của tôi, Jennifer, vào ngày tết khi những thành viên khác trong gia đình đang ở trong sào huyệt của mình, ngủ thiếp vì mệt sau trò chơi ném bóng gỗ. Khi đó Jenni mới mười bảy tuổi. Cơn giận dữ không làm tôi kém nhanh trí chút nào. Khi tôi thấy họ trong phòng ăn, tôi nhón chân bỏ đi và tìm một trong những cái camera chúng tôi dùng hôm đó để ghi lại sự kiện cho chiến dịch tranh cử của Jason - gia đình, tổ chức ngày lễ, bu quanh bàn đầy ú các loại bánh kẹo làm nghẽn động mạnh, chè chén say sưa và xem bóng đá. Anh ta thích chụp những cảnh cả gia đình tôi tụ tập cùng nhau vì gia đình tôi trông hơn gia đình anh ta rất nhiều. Jason sử dụng bất cứ cái gì có thể để thêm vào chiến dịch của mình. Dù sao tôi đã chộp được bức ảnh rất tuyệt về Jason và Jenni với đèn flash và toàn cảnh nên anh ta biết tôi đã túm được gáy anh ta. Anh ta sẽ làm gì, đuổi theo tôi và túm tôi lại trước mặt cha tôi, vật tôi xuống để cướp lại cái camera ư? Không có chuyện như vậy. Bởi anh ta sẽ phải giải thích và anh ta không thể hi vọng tôi sẽ đứng về phía anh ta trong câu chuyện bịa đặt đó được. Một điều khác nữa là, cha tôi sẽ đá bay anh ta qua ti vi vì dám động vào một sợi tóc của người cùng tên với ông. Tôi đã nói rằng tôi là đứa con gái yêu thích của cha chưa nhỉ? Vì thế tôi đệ đơn li dị và Jason cho tôi tất cả những gì tôi đòi hỏi, chỉ với một điều kiện là tôi phải đưa cho anh ta bức ảnh anh ta và Jenni cùng với phim âm bản của nó. Ờ, chắc rồi, tại sao không nhỉ? Cứ như thể tôi không có nhiều hơn một bản copy ấy. Có lẽ Jason nghĩ tôi quá ngu ngốc để nghĩ đến chuyện làm điều đó. Sẽ không hề có lợi nếu đánh giá thấp mức độ bẩn thỉu mà bạn sẽ chơi. Vì lý do này mà tôi thực sự không nghĩ Jason sẽ trở thành một chính trị gia giỏi. Tôi cũng nói với mẹ là Jenni đã để cho Jason hôn nó. Bạn không nghĩ là tôi sẽ để đứa em gái nhỏ hư thân mất nết đâm lén sau lưng tôi thoát tội phải không? Không phải tôi không yêu thương Jenni, nhưng nó là đứa trẻ của gia đình và nó vẫn nghĩ là nó sẽ có bất cứ thứ gì mà nó muốn. Đôi khi cũng phải cho nó thấy khác như vậy. Tôi cũng nhận thấy rằng tên nó có vần; Jenni Mallory. Thực tế là Jennifer nhưng nó chưa bao giờ được gọi như thế nên không tính. Tôi không biết có chuyện gì với mấy cái tên có vần nữa nhưng chúng thực sự là tin tồi tệ với tôi. Sự khác biệt là, tôi tha thứ cho Jenni bởi vì nó là máu mủ. Còn Jason thì không đời nào tôi tha thứ. Vì thế mẹ đã lo trông chừng Jenni, đứa đã khóc lóc sướt mướt xin lỗi và hứa sẽ làm đứa con gái tốt hoặc ít nhất cũng phải cho thấy sẽ có khẩu vị khá hơn; và em gái giữa của tôi, Siana, đứa đang học trường luật, đã lo thương thuyết với Jason. Cái tên "Siana" được cho là tên trại đi của "Jane", nhưng theo tôi, cái tên đó có nghĩa thực sự là "con cá mập chén người có lúm đồng tiền". Đó là Siana. Với hành động của nữ giới nhà Mallory, vụ li dị tiến hành xong xuôi trong một thời gian kỷ lục mà bố còn chưa biết được chính xác tại sao tất cả chúng tôi lại nổi điên với Jason. Không phải là vì ông quan tâm; mà là nếu chúng tôi nổi điên thì ông cũng nổi điên thay cho chúng tôi. Ông không ngọt ngào sao? Tôi nhận được khá nhiều tiền từ vụ dàn xếp li dị với Jason, cám ơn. Tôi cũng nhận được chiếc Mercedes mui trần màu đỏ (há há, Linda thích xe màu đỏ thì phải), tất nhiên là thế rồi, nhưng tiền là quan trọng nhất bởi vì những gì tôi đã làm được với nó. Tôi mua một nhà thể dục thể thao. Một trung tâm thể dục thẩm mĩ. Cuối cùng thì bạn đồng hành cùng sức khoẻ của bạn cơ mà, và tôi biết tất cả về việc giữ phom người. Siana gợi ý tôi gọi nó là "Blair's Beautiful Butt" nhưng tôi nghĩ nó sẽ hạn chế nhóm khách hàng và có lẽ khiến người ta sẽ bị ấn tượng là tôi đã đi hút mỡ. Mẹ nghĩ ra cái tên "Great Bods" và tất cả chúng tôi đều thích, vì thế nó trở thành cái tên mới của Halloran's Gym trước đây. Tôi ném một đống tiền vào việc tân trang và trang trí lại, nhưng khi tôi hoàn thành, nơi nàyđáng phải hét lên là nơi "cao cấp". Những tấm gương bóng loáng, thiết bị là loại tốt nhất trên thị trường; những phòng tắm, phòng thay đồ, vòi hoa sen được làm lại hoàn toàn; hai phòng sauna và một bể bơi được xây dựng thêm, cùng với một phòng mát xa riêng. Thành viên của Great Bods có thể lựa chọn các lớp yoga, aerobics, Tea Bo hoặc đám đá. Nếu yoga không làm bạn dễ chịu thì bạn có thể làm việc khác bạn thích mà không cần phải rời khỏi toà nhà này. Tôi cũng quả quyết rằng tất cả nhân viên của tôi đều được đào tạo về CPR (Hô hấp nhân tạo - Cấp cứu hồi sức), bởi vì bạn không bao giờ biết được khi nào thì một ông sếp với một-cơ-thể-đã-mất- dáng với hàm lượng cholesterol cao sẽ đâm đầu vào cái máy tập nhằm làm giảm trọng lượng với nỗ lực lấy lại được dáng vóc thời tuổi teen chỉ trong vòng một đêm để có thể gây ấn tượng với cô thư ký mới của mình, và đây là kết quả: đau tim vì quá sức. Bên cạnh đó, nó cũng là thứ khá ấn tượng trên các bài quảng cáo. Tất cả tiền bạc và khóa đào tạo CPR là rất bõ. Trong vòng một tháng mở cửa, Great Bods đã đạt hiệu quả nhanh chóng. Tôi bán thẻ hội viên theo tháng hoặc theo năm - có khoản giảm giá nếu bạn trả tiền cả năm cho khoá học, một chiến lược khôn ngoan vì nó sẽ lôi kéo bạn và rồi sau đó hầu hết mọi người sẽ tận dụng hết các thiết bị vì họ không muốn phí phạm tiền của mình. Những chiếc ô tô trong bãi đỗ giúp nhận biết thành công, và, chà, bạn biết họ nói gì về nhận thức rồi đấy. Dù sao, thành công cũng sản sinh như chuột vậy (thực ra là như thỏ nhưng người Việt mình thì cho rằng chuột mới đẻ lắm ). Tôi rùng mình từ đầu tới tận vớ phủ chân - một trong số những loại không bị coi là lạc hậu, nhưng chúng thực sự chưa phải là thứ khá nhất làm đôi chân bạn trông tuyệt hơn. Giày cao gót mới đứng đầu danh sách này, còn vớ phủ chân là lựa chọn gần thứ hai thôi. Tôi dùng cả hai. Tất nhiên là không phải đồng thời rồi. Pờ liz. Great Bods mở cửa từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối, giúp cho tất cả mọi người có thể dễ dàng sắp xếp lịch của mình. Ban đầu, các lớp yoga của tôi vắng teo, chỉ có vài phụ nữ tham gia, vì thế tôi thuê mấy anh chàng trong đội bóng đại học đẹp giai và được ái mộ tham gia vào lớp yoga một tuần. Vô số các chàng học lớp cử tạ và Tae Bo, đàn ông đến tận răng, đổ xô vào làm bất cứ thứ gì mà những anh chàng trẻ trung đẹp giai của tôi làm để giữ phom người chuẩn và phụ nữ thì hối hả tham gia vào cùng lớp với cùng những anh chàng trẻ trung đó. Vừa hết một tuần, lượng thành viên tham gia vào lớp yoga đã tăng lên gấp bốn lần. Đám đàn ông khám phá ra yoga khó nhằn thế nào và lợi ích của nó thế nào nên hầu hết bọn họ đều ở lại - và vì thế nên phụ nữ cũng vậy. Tôi có cần phải nói là tôi đã tham gia vài lớp học tâm lý hồi đại học không nhỉ? Nên đây là tôi, vài năm sau: ba mươi tuổi và sở hữu một công việc kinh doanh thành công khiến tôi luôn bận rộn và cũng mang lại nhiều lợi nhuận rất hấp dẫn. Tôi bán chiếc mui trần màu đỏ và mua một cái màu trắng vì tôi muốn hạ thấp mình đi một chút. Chẳng khôn ngoan chút nào khi một người phụ nữ sống một mình lại thu hút được quá nhiều chú ý. Ngoài ra, tôi cũng muốn một chiếc xe mới. Tôi yêu mùi vị đó. Vâng, tôi biết tôi có thể mua một chiếc Ford hay đại loại thế, nhưng việc tôi lái xe lượn lờ khắp thị trấn trong chiếc mui trần Mercedes mà Jason không thể nào làm vậy vì nó sẽ ảnh hưởng xấu đến hình ảnh tranh cử của anh ta, chẳng khác nào như cái kim đâm vào mông Jason. Anh ta có thể chết vì ghen tị với tôi. Tôi hi vọng thế. Dẫu sao tôi cũng không đỗ chiếc mui trần ở khu vực bãi đỗ xe công cộng phía trước bởi vì tôi không muốn gây bàn tán om xòm về chiếc xe. Tôi có một khu vực đỗ xe riêng dành cho nhân viên phía sau nhà thể dục, với lối vào tiện lợi hơn nhiều; chỗ đỗ xe dành riêng cho tôi, khá lớn để những chiếc xe của người khác không lại gần được, ở ngay phía trước cửa. Là người sở hữu cũng có mặt mạnh của nó. Tuy nhiên, là một người chủ tốt bụng, tôi cũng cho dựng những tấm kim loại lớn che kín phía sau nhà thể dục để chúng tôi có thể đậu xe dưới mái che và được che chắn khi chui ra, chui vào xe. Khi trời mưa, tất cả mọi người đều tán thưởng cái mái che đó. Tôi là chủ nhưng tôi không tin tưởng vào việc hống hách với nhân viên của mình. Ngoại trừ chỗ đỗ xe, tôi không đòi hỏi bất cứ đặc quyền nào cả. Ừm, tôi nghĩ là việc ký vào phiếu trả lương của họ đã là một mối lợi to lớn rồi, và tôi đã quản lý tất cả tiền nong và đưa ra tất cả các quyết định cuối cùng, nhưng tôi cũng trông chừng cho tất cả bọn họ. Chúng tôi có gói bảo hiểm y tế rất tốt, bao gồm cả nha khoa, tôi trả cho họ tiền công hậu hĩnh - cộng với việc họ được thoải mái nhận dạy lớp học riêng của mình vào ngày nghỉ để có thêm thu nhập - và tôi cho họ rất nhiều kỳ nghỉ. Vì lý do này, tôi không phải thay thế nhân viên nhiều lắm. Một số thay đổi không tránh được bởi vì cuộc sống thay đổi và người ta chuyển đi, những thứ kiểu đó, nhưng hiếm khi nhân viên của tôi bỏ việc để làm một công việc khác trong vùng. Giữ chân nhân viên rất tốt cho việc kinh doanh. Khách hàng thích cảm thấy họ quen biết giáo viên và người huấn luyện. Thời gian đóng cửa là chín giờ tối và tôi thường ở lại khoá cửa để nhân viên của tôi có thể về nhà với gia đình hoặc tham gia cuộc sống xã hội hay bất cứ điều gì khác. Đừng cho rằng điều đó nghĩa là tôi không có cuộc sống xã hội. Thực sự là giờ tôi không còn hẹn hò nhiều như ngày vừa mới li dị, nhưng Great Bods chiếm nhiều thời gian của tôi và nó cũng quan trọng với tôi nên tôi chăm lo cho công việc của mình. Tôi có ý tưởng sáng tạo mới cho việc hò hẹn của mình: chúng tôi sẽ đi ăn trưa, điều đó rất tốt nếu như anh chàng đó hoá ra không tuyệt như tôi hi vọng bởi vì "bữa trưa" thì chỉ có hạn. Bạn gặp gỡ, bạn ăn, bạn rời đi. Nhờ vậy mà nếu tôi không khoái buổi hẹn hò đó, tôi sẽ không phải né tránh anh ta hay nghĩ ra lý do xin thứ lỗi không thoả đáng vì không thể mời anh ta vào nhà. Bữa trưa có vai trò rất tốt, sự sáng suốt trong hẹn hò. Nếu tôi thích anh ta thì sẽ có nhiều tuỳ chọn mở ra sau đó, chẳng hạn như một cuộc hẹn hò thực sự sau giờ làm hoặc vào chủ nhật khi Great Bods đóng cửa. Dù sao, vào một đêm - tôi đã nói rằng tôi từng chứng kiến một vụ giết người, phải không nhỉ? - tôi khoá cửa như mọi khi. Muộn một chút vì tôi đang tiếp tục luyện tập các kỹ xảo; bạn không bao giờ biết được khi nào bạn cần thực hiện cú backflip đâu. Tôi luyện tập đến khi mướt mồ hôi, vì thế tôi tắm và gội đầu trước khi vớ lấy đống đồ của mình và tiến về phía cửa cho nhân viên. Tôi tắt đèn rồi mở cửa và bước ra ngoài mái che. Ồ, chờ đã, tôi đi hơi quá rồi. Tôi chưa nói về Nicole. Nicole Goodwin "gọi tôi là Nikki" là cái gai của tôi. Cô ta gia nhập Great Bods khoảng một năm trước và lập tức khiến tôi phát điên mặc dù mất hai tháng tôi mới nhận thấy. Nicole là một trong những người có giọng nói nhẹ như hơi thở khiến ngay cả những người đàn ông mạnh mẽ cũng phải tan chảy. Điều đó khiến tôi muốn kìm hãm cô ta lại. Có cái quái gì trong giọng nói thì thầm bắt chước MariLyn Monroe lại khiến đàn ông thích thế nhỉ? Một số đàn ông, ít ra là vậy. Nicole cũng quét lên mình sự ngọt ngào giả dối khi cô ta nói chuyện nữa; thật lạ là những người quanh cô ta vẫn chưa bị làm sao bị bệnh tiểu đường đấy. Ít ra cô ta cũng không làm cái trò lấy-tay-xoắn-xoắn-tóc. Nhưng đó là bởi vì tôi không làm thế - trừ phi tôi đang trêu chọc ai đó, vậy đấy. Nhìn chung, tôi chuyên nghiệp hơn. Bạn thấy rồi đấy, cô ta là con mèo bắt chước. Và tôi là con mèo mà cô ta bắt chước theo. Đầu tiên là tóc. Tóc tự nhiên của cô ta chỉ hơi vàng thôi nhưng trong vòng hai tuần vào Great Bods, tóc cô ta trở nên vàng óng, uốn thành từng lọn. Giống như của tôi, thực tế là thế. Khi đó tôi không thực sự chú ý bởi vì tóc cô ta không dài như tóc tôi nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, khi tất cả những chi tiết nhỏ bắt đầu đâu vào đấy thì tôi nhận ra rằng tóc cô ta có cùng màu với tôi. Rồi cô ta bắt đầu cột tóc đuôi ngựa để khỏi vướng víu khi cô ta tập luyện. Thử đoán xem ai cũng buộc tóc lên khi cô ấy tập luyện nhỉ? Tôi không trang điểm đậm khi làm việc bởi vì nó phí thời gian: nếu một cô gái nóng bừng mặt đến mức độ nào đó thì lớp trang điểm biết mất. Ngoài ra, da tôi khá đẹp với đôi lông mày và lông mi sậm màu nên tôi không lo lắng về khuôn mặt mộc. Tuy nhiên, tôi thích dùng sữa dưỡng có hạt li ti lấp lánh khiến cho da tôi lung linh huyền ảo. Nicole hỏi tôi dùng loại sữa dưỡng nào và như một kẻ đần độn, tôi nói cho cô ta biết. Ngày hôm sau, da Nicole cũng lung linh như vậy. Bộ đồ tập luyện của cô ta bắt đầu trông giống của tôi: áo nịt và vớ phủ chân khi tôi tập luyện, với quần yoga xắn lên khi tôi đi xem xét tổng quan các hoạt động tập luyện. Nicole bắt đầu mặc áo nịt ngực và vớ phủ chân, nếu không thì cô ta nhún nhảy quanh quẩn trong cái quần yoga. Và ý của tôi là nhún nhảy. Tôi còn không tin là cô ta có áo lót. Thật không may, cô ta là một trong những người phụ nữ nên có mấy thứ đấy. Các thành viên nam của tôi (tôi thích nói thế) dường như thích cách ăn mặc lố lăng này, nhưng tất cả những cái đưa đẩy đó khiến tôi hoa cả mắt, nên nếu tôi phải nói chuyện với cô ta, tôi tập trung vào duy trì việc tiếp xúc bằng ánh mắt. Rồi cô ta có một chiếc mui trần màu trắng. Nó không phải là một chiếc Mercedes, nó là chiếc Mustang nhưng nó vẫn - màu trắng và nó là chiếc mui trần. Còn gì rõ ràng hơn nữa mà cô ta có thể tạo ra đây? Có lẽ tôi nên thấy là mình được tâng bốc, nhưng tôi không thấy vậy. Không có vẻ như Nicole thích tôi và sao chép tôi vì ngưỡng mộ. Tôi nghĩ cô ta ghét tôi. Cô ta luôn tạo vẻ ngọt ngào thái quá khi nói chuyện với tôi, bạn biết không? Kiểu-nói-Nicole "Ồ, chị yêu, đó phải là đôi hoa tai tuyệt nhất đấy!" có nghĩa là "Tôi muốn nhổ nó ra khỏi tai bà và để lại cái tai máu chảy ròng ròng, mụ chó cái ạ." Một trong những thành viên của trung tâm - một phụ nữ, tất nhiên - thậm chí một lần còn nhận xét sau khi nhìn Nicole khệnh khạng bỏ đi, các bộ phận cơ thể nảy tưng tưng, như sau: "Ngời phụ nữ đó sẽ xé toạc cổ họng chị, đổ xăng lên người chị, đốt cháy chị và vứt chị vào máng xối rồi quay lại và nhảy nhót trên đống tro tàn của chị khi lửa tắt." Thấy chưa? Không phải tôi đặt điều đâu nhé. Bởi vì tôi mở cửa tự do, tôi phải cho phép bất cứ ai muốn tham gia được tham gia, nhìn chung thì nó cũng chẳng sao, mặc dù có lẽ tôi nên phân loại những thành viên tóc tai trước, nhưng có một điều khoản mà tất cả những người tham gia phải chấp nhận là nếu có ba thành viên khác phàn nàn về hành vi, cách cư xử trong phòng thay đồ hoặc một số lần vi phạm nào đó trong một năm thì người bị phàn nàn sẽ không được tham gia tiếp khi hết hạn làm hội viên. * Search: Là một người chuyên nghiệp, tôi sẽ chẳng đá đít Nicole đi chỉ bởi vì cô ta làm tôi bực mình chết đi được. Nó làm tôi khó chịu nhưng tôi vẫn kiềm chế vì tôi phải là người chuyên nghiệp. Tuy nhiên, là Nicole, cô ta thường xuyên gây khó chịu, lăng mạ, sỉ nhục, hay nói chung là gây bực mình với tất cả những người phụ nữ cô ta giao thiệp trong ngày. Cô ta bày bừa trong khu vực thay dồ và để cho người khác dọn dẹp. Cô ta cạnh khoé người khác khi người ta không có phom người chuẩn và chiếm dụng máy tập mặc dù quy định là chỉ được dùng tối đa là ba mươi phút cho một lần tập. Đa phần người ta chỉ than phiền bằng cách chê bai, nhưng cũng có một số phụ nữ đến nói với tôi với đôi mắt toé lửa và nhất quyết đòi ghi vào phiếu phàn nàn. Tạ ơn chúa, Jesus. Số lời than phiền được ghi lại trong hồ sơ của Nicole đã hơn con số ba khi thẻ hội viên của cô ta hết hạn và tôi có thể nói với cô ta - một cách dịu dàng, tất nhiên là vậy - rằng cô không được gia hạn thẻ hội viên nữa và cô ta nên thu dọn sạch sẽ tủ đựng đồ của mình. Kết quả là một tiếng kêu thét có thể làm cả con bò ở nước bên cạnh sợ hãi. Cô ta chửi tôi là chó cái, đĩ điếm, con đàn bà dâm đãng và đó mới chỉ là khởi đầu. Tiếng chửi bởi the thé của cô ta mỗi lúc một to hơn, chỉ đủ lôi kéo được sự chú ý của tất cả mọi người ở Great Bods và tôi nghĩ cô ta sẽ đánh tôi mất nếu cô ta không biết rằng tôi sung sức hơn cô ta và chắc chắn sẽ đánh trả cô ta, mạnh hơn. Cô ta gạt phăng mọi thứ trên bàn - hai chậu cây, đơn xin gia nhập, hai cái bút bi - xuống sàn nhà và bắn một phát đạn cuối cùng trước khi đi khỏi, nói rằng sẽ cho luật sư của cô ta liên hệ với tôi. Tốt thôi. Bất cứ điều gì. Tôi sẽ điều luật sư của tôi kiện cô ta một ngày nào đó. Siana còn trẻ nhưng nó có thể gây chết người, và nó không ngại chơi bẩn. Chúng tôi thừa hưởng điều đó từ mẹ. Những người phụ nữ túm tụm xung quanh xem cơn thịnh nộ của Nicole vỗ tay tán thưởng khi cánh cửa đóng lại sau cô ta. Đàn ông thì chỉ đơn thuần tỏ ra ngơ ngác. Tôi vãi đái vì Nicole không dọn dẹp tủ đựng đồ của cô ta nên tôi sẽ phải cho cô ta quay lại một lần nữa để cô ta lấy tất cả những gì thuộc về cô ta. Tôi nghĩ về chuyện hỏi Siana về việc tôi có thể đòi Nicole sắp xếp cuộc hẹn để dọn hết những thứ trong tủ để đồ của cô ta và yêu cầu có một cảnh sát làm nhân chứng cô ta đã thu hết đồ và ngăn chặn một cơn thịnh nộ khác hay không. Thời gian còn lại trong ngày trôi qua trong sự rực rỡ huy hoàng. Tôi đã thoát khỏi Nicole! Tôi thậm chí chả buồn quan tâm đến việc dọn dẹp cái đống bừa bộn cô ta gây ra bởi vì cô ta đã đi rồi, đi rồi, đi rồi. OK. Đó là những gì về Nicole. Để tôi quay lại với cái đêm tôi ở cửa vào phía sau, vân vân và vân vân. Ánh đèn đường ở góc chiếu sáng khu vực đỗ xe nhưng bóng tối vẫn sâu thẳm. Mưa phùn rơi đều đều làm tôi lẩm nhẩm chửi thề bởi vì con đường chết giẫm sẽ làm bẩn xe tôi và màn đêm bao phủ sương mù. Mưa và sương mù chẳng phải là một sự kết hợp hoàn hảo gì. Tạ ơn Chúa, tôi không làm tóc xoăn nên tôi chả phải phiền lòng vì những sợi tóc xoăn tít trong những trường hợp kiểu thế này. Nếu bạn đã từng có cơ hội trở thành nhân chứng cho một sự kiện vô cùng đáng giá, ít ra bạn cũng muốn trông mình ở tình trạng tốt nhất. Tôi khoá cửa và quay ngang trước khi tôi nhận ra chiếc xe ở góc sau của khu đỗ xe. Nó là một chiếc Mustang màu trắng. Nicole đang chờ tôi, chết tiệt thật. Dây thần kinh báo động của tôi rung lên ngay lập tức, báo động làm tôi mệt mỏi - thì trước đó cô ta đã trở nên hung dữ mà - tôi lùi lại dí lưng vào tường để cô ta không thể tóm lấy tôi từ đằng sau. Tôi nhìn theo tất cả các hướng, cho rằng cô ta sẽ tiến đến phía tôi từ trong bóng tối nhưng không có gì xảy ra hết và tôi lại nhìn chiếc Mustang, tự hỏi liệu có phải cô ta đang ngồi trong đó và chờ tôi không. Cô ta sẽ làm gì, bám theo tôi ư? Hay cô gắng đuổi bắt tôi trên đường? Tiến đến ngang xe tôi và bắn tôi vài phát đạn? Đối với cô ta, tôi không thể nói trước điều gì. Mưa và sương mù khiến khó có thể nói được có ai ngồi trong chiếc Mustang không, nhưng rồi tôi nhận thấy có bóng người ở phía bên kia chiếc xe, và tôi nhìn thấy một mái tóc vàng hoe. Tôi thò vào túi lấy chiếc điện thoại và bật lên. Nếu cô ta bước đến phía tôi một bước, tôi sẽ gọi 911. Rồi cái hình dáng phía bên kia chiếc Mustang bắt đầu động đậy và di chuyển, một cái bóng to hơn và tối hơn tách ra khỏi Nicole. Trời đất. Ôi, quỷ thật, cô ta đưa người đến để đánh tôi. Tôi bấm số 9 và số 1 đầu tiên. Một tiếng nổ xé toạc màn đêm làm tôi nhảy dựng lên và ý nghĩ đầu tiên của tôi là sẽ có ánh sáng loé lên gần đó. Nhưng đó không phải là loại loé sáng hay làm rung chuyển mặt đất. Rồi tôi nhận ra âm thanh đó có lẽ là tiếng súng và tôi có thể là mục tiêu, tôi thét lên vì hoảng loạn khi tôi ngã cả bốn vó xuống sau chiếc xe. Thực tế là tôi đang cố hét nhưng tất cả những gì phát ra chỉ như tiếng của Minnie Mouse khiến tôi sẽ phải xấu hổ nếu tôi không phải đang trong trạng thái sợ gần chết. Nicole không nhờ đến cơ bắp; cô ta nhờ một kẻ giết mướn. Tôi làm rơi điện thoại và trong bóng tối, tôi không thể nhìn thấy nó. Chẳng ích gì nếu tôi cố gắng nhìn ngó xung quanh khi tôi thực sự không thể mất thời gian tìm điện thoại. Tôi bắt đầu khua tay trên nền để cố gắng định vị nó. Ôi, cứt thật, sẽ ra sao nếu kẻ giết mướn kia đến đây để xem hắn đã bắn trúng tôi ngay phát đầu tiên chưa? Ý tôi là, tôi đã ngã xuống đất nên nghĩ rằng tôi bị bắn trúng là hoàn toàn có lý. Tôi có nên ép bẹp dí mình xuống và giả vờ chết không nhỉ? Trườn dưới chiếc xe? Cố gắng quay lại toà nhà và khoá cửa lại? Tôi nghe tiếng động cơ khởi động và nhìn lên khi chiếc xe bốn chỗ từ từ đi lên con đường hẹp và khuất khỏi tầm nhìn dọc theo toà nhà. Tôi nghe nó chậm lại và dừng ở chỗ giao với con đường bốn làn, Parker, ở phía trước rồi hoàn toàn hoà dần vào dòng xe cộ. Đó có phải kẻ giết mướn không nhỉ? Nếu có ai đó khác ở khu đỗ xe, chắc hẳn anh ấy hoặc cô ấy đã nghe thấy tiếng súng và không lái xe đi bình thản như thế. Chỉ có kẻ bắn người mới lái xe bình thản như vậy, đúng không? Bất cứ ai khác cũng sẽ chẳng dám đi khỏi đây, như tôi đang liều lĩnh muốn vậy. Chắc là Nicole đã nghĩ ra lý do đáng xấu hổ để thuê tên giết mướn đó; hắn còn chẳng thèm kiểm tra xem chắc chắn tôi đã chết chưa. Nhưng nếu gã giết mướn có bỏ đi chăng nữa thì Nicole đâu? Tôi chờ đợi và nghe ngóng nhưng chẳng có tiếng bước chân hay âm thanh chiếc Mustang khởi động gì cả. Tôi nằm ép bụng xuống và len lén nhìn qua một trong những bánh xe trước của tôi. Chiếc Mustang trắng vẫn đỗ ở bãi đỗ xe nhưng không hề có dấu hiệu gì của Nicole cả. Cũng không có ai đi ngang qua chạy vào kiểm tra tiếng súng hay xem có ai bị thương hay không. Great Bods nằm ở một quận khá tốt với những cửa hiệu nhỏ và nhà hàng gần đó, nhưng không có nhà dân - các cửa hiệu và nhà hàng cung cấp thực phẩm cho hầu hết các công sở quanh đây vì thế tất cả các nhà hàng đều đóng cửa vào sáu giờ, các cửa hiệu cũng không mở cửa sau đó. Nếu có ai đó rời khỏi Great Bods muộn hơn và muốn ăn sandwich thì nơi gần nhất cũng cách khoảng năm toà nhà. Cho đến bây giờ, tôi chưa từng nhận ra khu vực đỗ xe của nhân viên đơn độc thế nào vào giờ đóng cửa. Không ai khác nghe thấy tiếng súng. Chỉ mình tôi. Tôi có hai lựa chọn. Chìa khoá xe tôi ở trong ví. Tôi có hai chùm chìa khoá bởi vì số chìa khoá tôi cần cho nhà thể dục này làm chùm chìa khoá quá cồng kềnh khi tôi đi làm mấy việc lặt vặt hoặc mua sắm. Tôi có thể lấy chìa khoá xe không chậm trễ, mở khoá xe bằng điều khiển từ xa và nhảy vào trước khi Nicole có thể nhìn thấy tôi - trừ vì cô ta đứng ngay ở bên kia xe của tôi. Tôi không biết được cô ta nghĩ gì, nhưng điều gì cũng có thể. Nhưng chiếc xe, đặc biệt là chiếc mui trần, không đủ để giữ khoảng cách với con mèo bắt chước bị thần kinh ấy. Sẽ ra sao nếu cô ta có một khẩu súng? Tấm mui mềm không ngăn được đạn. Lựa chọn khác là moi chùm chìa khoá to của nhà thể dục ra khỏi túi, cảm nhận tìm chiếc chìa khoá cửa, mở khoá rồi chui vào trong. Việc này mất thời gian hơn nhưng tôi sẽ an toàn hơn nhiều đằng sau cánh cửa đã khoá. Ừm, tôi nghĩ tôi còn lựa chọn thứ ba, tôi sẽ tìm kiếm Nicole và cố gắng nhảy bổ vào cô ta, tôi có thể nếu tôi biết chắc chắn cô ta không có súng. Mặc dù vậy, tôi không biết chắc, nên chẳng có cách nào chơi trò anh hùng cả. Tôi có mái tóc vàng hoe nhưng tôi không ngu. Ngoài ra, đánh nhau cũng làm gẫy ít nhất hai cái móng tay của tôi. Nhất định thế. Vì thế tôi khua khoắng túi cho đến khi thấy những chiếc chìa khoá của mình. Chùm chìa khoá có cái gì đó ở giữa giữ mấy cái chìa không bị trượt lung tung để chúng luôn luôn theo đúng thứ tự. Chìa khoá cửa là cái đầu tiên bên trái. Tôi tách nó ra, rồi, ngồi thấp người, bước đi như vịt ngược trở lại cửa. Chuyển động kiểu đó trông thực sự khủng khiếp nhưng đó là cách luyện tập rất tuyệt cho đùi và mông. Không có ai nhảy xổ vào tôi. Không có âm thành nào ngoại trừ âm thanh xe cộ xa xa trên đường Parker, và không hiểu vì sao chuyện này còn đáng sợ hơn cả việc nếu như cô ta gào thét nhảy qua nóc chiếc xe của tôi và lao vào tôi. Không phải là tôi nghĩ Nicole có thể nhảy xa như thế, trừ phi là kỹ năng thể dục của cô ta rất, rất khá, khá hơn cô ta đã thể hiện, và tôi thì biết thừa là không được như thế, cô ta chỉ là mẫu người khoa trương thôi. Cô ta còn chẳng thể thực hiện được một cú split, và nếu cô ta có thử làm một cú backflip thì chắc sức nặng của ngực cô ta sẽ làm cô ta ngã đập mặt. Chúa ơi, tôi ước giá như cô ta thử làm cú backflip một lần. Tay tôi chỉ còn run một chút - ừm, hơn một chút một tẹo thôi - nhưng tôi vẫn có thể mở khoá cửa ngay lần mở đầu tiên. Thực tế là tôi đã bắn qua khe cửa và thực sự, tôi ước giá mà tôi cho mình có thêm một hay hai inch trống nữa vì tôi đã làm tím tay mình khi va vào rầm cửa. Nhưng rồi tôi cũng đã ở bên trong và tôi đóng sầm cửa lại, cài then, rồi lui lại đề phòng cô ta bắn qua cửa. Tôi luôn để hai ngọn đèn công suất thấp sáng vào ban đêm nhưng chúng đều ở phía trước. Công tắc đèn ở hành lang sau ở ngay cạnh cửa, tất nhiên là vậy, và không đời nào tôi đi đến quá gần cửa. Bởi vì tôi không thể nhìn thấy tôi đi đâu nên tôi tiếp tục lần mò dọc theo hành lang - rồi đến phòng nghỉ và cuối cùng đến cánh cửa thứ ba, đó là văn phòng tôi. Tôi cảm thấy như cầu thủ bóng chày chạy về đến đĩa nhà. An toàn! Bây giờ giữa tôi và ả chó cái là những bức tường và cánh cửa đã khoá, tôi đứng dậy và bật đèn trần rồi nhặt điện thoại lên, giận dữ bấm số 911. Nếu cô ta nghĩ rằng tôi không khiến cô ta bị bắt vì điều này, cô ta đã hoàn toàn đánh giá thấp mức độ giận dữ của tôi rồi. ... Mời các bạn đón đọc Hẹn Hò Theo Kiểu của Em của tác giả Linda Howard.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Địa Ngục hay Thiên Đường - Mark Twain
Gia đình bà góa Margaret, đứa con gái Helen, cùng hai người dì Hester và Hannah Gray luôn tôn sùng sự trung thực. Dù chỉ một lần nói dối rồi thú nhận ngay lập tức của Helen cũng đủ khiến hai người dì thấy hổ thẹn. Nhưng để Margaret khỏi chịu thêm đau khổ vì bệnh tật đau đớn, hai người dì đã nói dối Margaret về tình trạng sức khỏe của con gái bà - Helen. Và sau sự ra đi của hai mẹ con Margaret, một thiên thần đã xuất hiện hỏi tội hai người dì. Thiên đường hay địa ngục đang chờ đợi cả hai? *** Samuel Langhorne Clemens, thường được biết tới với bút danh Mark Twain (30/11/1835 – 21/4/1910) được vinh danh là nhà văn khôi hài vĩ đại nhất nước Mĩ – từ lời khuyên bỗ bã dành cho các bé gái, lập trường quái gở về sự sáng tạo và kiệt tác của ông xoay quanh vấn đề thủ dâm. Nhưng đằng sau sự hài hước đầy quyến rũ ấy là sự chiêm nghiệm sâu sắc về tinh thần con người cùng với những rối rắm của nó. Trong The Autobiography of Mark Twain: Volume 1 (tạm dịch: Cuốn tự truyện của Mark Twain: tập 1) (public library) – nơi Twain bàn về sự tương phản, kiềm hãm lẫn nhau của hai khía cạnh đạo đức và trí tuệ – ta bắt gặp câu chuyện cảm động về cách mà mẹ ông đã dạy ông về tầm quan trọng của lòng vị tha. Nếu bạn chưa từng đọc The Autobiography of Mark Twain (tạm dịch: Cuốn tự chuyện của Mark Twain), thì xin hãy cân nhắc – Twain đã dành nhiều thập kỷ để viết nó, nhưng tác phẩm chưa bao giờ được hoàn tất và ông đã cấm con cháu của mình xuất bản bản thảo cho đến 100 năm sau ngày ông mất. Một thế kỉ chờ đợi cũng đáng lắm cho một tác phẩm như vây. *** N ửa đêm, hai bà lão còn ngồi bên nhau, than khóc thì họ tưởng chừng trông thấy một thiên thần hiện ra giữa vầng hào quang chói loà. Thiên thần bảo hai bà: — Những kẻ nói dối sẽ bị đày xuống hoả ngục đời đời. Hai người hãy hối cải đi! Hai bà lão quỳ xuống dưới chân thiên thần và cúi đầu, tỏ lòng tôn kính. Nhưng lưỡi của hai bà cứng lại nên họ đành ngậm câm. — Nói đi, - thiên thần bảo, - nói lên để cho ta có thể mang lời giải đáp ra trước toà án của Thiên Chúa và mang lại cho hai người phán quyết tối hậu. Hai bà vẫn quỳ, hai mái đầu bạc vẫn cúi rập xuống, một người nói — Tội chúng tôi lớn lắm, và chúng tôi rất nhục nhã, tủi hổ. Chỉ có một sự ăn năn, hối cải triệt để mới cứu rỗi được chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ khốn khổ đã biết rõ sự yếu đuối của loài người là vô hạn và chúng tôi biết nếu chúng tôi còn bị đẩy vào những tình thế nghiệt ngã thì chúng tôi cũng sẽ phạm tội như trước. Những người cương nghị có thể chống chọi và được cứu rỗi, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ sa ngã và đánh mất linh hồn. Hai bà lão ngẩng đầu lên để van xin. Nhưng thiên thần đã biến mất. Trong lúc họ ngạc nhiên và than khóc, thiên thần trở lại và cúi xuống hai bà, nói nhỏ phán quyết. Mời các bạn đón đọc Địa Ngục hay Thiên Đường của tác giả Mark Twain.
Giữa Lòng Tăm Tối
Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Joseph Conrad (1857 - 1924) là một trong những tác gia vĩ đại nhất của nền văn học Anh quốc. Ông là bậc thầy của nghệ thuật tạo tổng thể văn xuôi, phong cách tự sự, xây dựng nhân vật và mô tả tâm lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều cây bút khác sau này như TS Eliot, F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway hay George Orwell. Thế nhưng tác giả của những áng văn đầy chất thơ Shakespeare này lại là một người gốc Ba Lan tới định cư tại xứ sở sương mù, và đến tận năm hai mươi tuổi mới nói trôi chảy tiếng Anh. Là người ngoại quốc, từng trải qua những năm tháng lênh đênh trên những con tàu thương gia của Anh và Pháp, Conrad đã truyền tải được xúc cảm của những miền đất khác vào nền văn học Anh, phản ánh một thế giới hoàn toàn bị thống trị bởi người châu Âu. Giữa lòng tăm tối là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Joseph Conrad, là kiệt tác văn học mà giới mộ điệu văn chương đều đã quen thuộc. Cuốn tiểu thuyết bao trọn câu chuyện phiêu lưu hải hồ của Marlow dựa trên hành trình có thật của chính tác giả vào năm 1890. Là người của biển cả, Marlow nghe theo tiếng sóng vẫy gọi, khao khát đi tới những miền đất chưa định danh trên địa đồ - “những khoảng trống của niềm hân hoan”, “một vạt trắng cho giấc mơ huy hoàng”, dấn thân vào “vùng tăm tối vô phương thấu hiểu”, cùng với tính hiếu kỳ thản nhiên của một trí óc tế nhị và trạng thái điềm tĩnh của một con tim sắt đá. Trên một con tàu hơi nước vá víu xập xệ thiếu thốn đủ đường, cùng thủy thủ đoàn là mấy tay da đen của bộ tộc ăn thịt người lúc nào cũng bốc mùi thịt hà mã thiu, Marlow ngược dòng con sông Congo hùng vĩ, bí hiểm mà mê hoặc để hoàn thành một nhiệm vụ tưởng chừng như bất khả thi. Ông phải đi cứu Kurtz - người được ca tụng khắp nơi là “thiên tài toàn năng”, kiếm được nhiều ngà voi nhất Công ty, được cả dân da đen yêu kính hết mực và đang ốm thập tử nhất sinh ở vùng thượng nguồn - về với văn minh, trước khi gã lìa đời. Sau bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy của chốn rừng thiêng nước độc, Marlow tới được nơi, gặp được người, nhưng chỉ trở về với một tập tài liệu và lời tuyệt mệnh: “Nỗi kinh hoàng! Nỗi kinh hoàng!” Miền hoang dã Phi châu tạo ra bao nhiêu trở ngại cho con tàu của Marlow thì Giữa lòng tăm tối cũng gây ra bấy nhiêu sóng gió trong giới văn chương thậm chí cả giới phân tâm học, hoạt động nhân quyền hay nghiên cứu châu Phi cũng nhảy vào cuộc. Người ta bàn ra tán vào, khẩu chiến rồi cả bút chiến với nhau về cách hành văn của tác giả, cấu trúc, ý nghĩa của tác phẩm và vô vàn những thứ khác. Một trong những chủ đề được tranh cãi quyết liệt nhất chính là vấn đề phân biệt chủng tộc. Chinua Achebe - nhà văn, nhà thơ người Nigeria từng chỉ trích tác phẩm này là “phân biệt chủng tộc một cách khủng khiếp” với những hình ảnh miêu tả người da đen như những kẻ mọi rợ ngu đần, như những con vật chịu đòn roi. Những tình cảnh đáng thương, những vụ tra tấn kinh hoàng đều được kể lại bằng chất giọng lạnh lùng, vô cảm. Thế nhưng những lập luận khác lại cho rằng tại thời điểm Conrad viết cuốn tiểu thuyết này, khái niệm “phân biệt chủng tộc” vẫn chưa thành hình, quan niệm về khác biệt chủng tộc vẫn còn in đậm. Đó là thời người da đen bị trưng bày như thú lạ tại những nước đế quốc, và bị đối xử như súc vật, nô lệ tại những vùng thuộc địa. Vì thế, không thể trách cứ Conrad được. Tuy vậy, chính nhà văn cũng từng khẳng định rằng Giữa lòng tăm tối ngầm ý chỉ ra “tội ác của sự kém hiệu quả và ích kỷ thuần túy khi khai hóa văn minh ở châu Phi”. Thật vậy, hãy đọc những dòng này trong truyện: “Tôi ngờ rằng với họ cai trị chỉ đơn thuần là bóp nghẹt, không hơn. Họ là kẻ chinh phục, mà chinh phục thì chỉ cần vũ lực - vốn chả có gì đáng huênh hoang, vì sức mạnh của anh chỉ là ngẫu nhiên phát sinh từ cái yếu của kẻ khác. Họ vơ vét được bao nhiêu hay bấy nhiêu, vơ vét để mà vơ vét. Đó chẳng qua là cưỡng đoạt bằng bạo lực, sát nhân có tình tiết tăng nặng trên diện rộng...” Như thế, Giữa lòng tăm tối, ở một chừng mực nào đó, có thể coi là một bản cáo trạng về lòng tham, thói ưa hủy diệt và quyền lực chuyên chế của chủ nghĩa thực dân, “một bài phân tích về sự suy nhụt nhuệ khí của người da trắng, khi anh ra thoát khỏi vòng kiềm tỏa của châu Âu, bám rễ ở miền nhiệt đới với vũ khí trang bị đến tận chân răng, để thu lợi từ tầng lớp bị trị”. Và con sông dẫn tới “trái tim của một vùng tăm tối khôn cùng” không phải là con sông Congo cuộn xoáy ở lục địa Đen mà là con sông Thames êm đềm, dưới bầu trời hôn ám của “đế chế nơi mặt trời không bao giờ lặn”. Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Bằng ngôn từ mơ hồ mà dứt khoát, huyền bí mà hữu hình, Joseph Conrad đã viết nên một áng văn đậm chất thơ, hấp dẫn, ám ảnh và đầy tính biểu tượng - một kiệt tác của của nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy, của phiêu lưu, của thiên nhiên hoang dại, hùng vĩ, và ảo tưởng của cả thời đại. *** Nellie, chiếc thuyền hai buồm, buông neo không một tiếng buồm lật phật, lặng lẽ nghỉ ngơi. Nước đã xuống, gió cơ hồ đã lặng; được buộc dưới sông, nó chỉ còn một việc là đậu đó đợi triều lên. Cửa sông Thames trải dài trước mắt chúng tôi, như khởi đầu của một thủy lộ dài bất tận. Ngoài khơi xa biển và trời liền thành một tấm áo không thấy đường may, và trong không gian lung linh này, những cánh buồm rám nắng vẫn dập dờn trên ngọn thủy triều như đứng yên thành từng cụm vải bạt đỏ chóp nhọn, lấp lánh ánh vécni từ những cột buồm. Sương lan trên những bãi bồi phẳng lì chạy dài tít tắp về phía biển. Bầu trời trên Gravesend[1] tăm tối, còn phía xa dường như vẫn ngưng tụ thành một quầng u ám thảm sầu, âm trầm bất động trùm lên đô thành lớn nhất và vĩ đại nhất trên trái đất. Tay Giám đốc Công ty là thuyền trưởng và chủ nhà của chúng tôi. Bốn người bọn tôi[2] trìu mến nhìn bóng lưng gã đứng trên mũi thuyền, nhìn về phía biển. Cả sông không có hình ảnh nào đại dương bằng nửa gã. Nhìn gã như một hoa tiêu, niềm tin của người đi biển được nhân cách hóa. Khó mà nhận ra, nghề của gã không phải ngoài kia, nơi giang khẩu lung linh, mà ở sau lưng, giữa vùng âm trầm u ám nọ. Giữa chúng tôi, như đã có lần tôi từng nói[3], có sự gắn bó của biển khơi. Ngoài việc neo đậu lòng nhau sau những quãng dài xa cách, nó còn giúp chúng tôi chịu đựng được những huyên thuyên, thậm chí là định kiến, của nhau. Tay Luật sư - loại bạn già chơi rất được - bởi tuổi cao đức trọng nhất hội, sở hữu cái đệm duy nhất trên boong, và nằm trên tấm thảm duy nhất. Tay Kế toán ôm theo hộp domino và đang lẩn mẩn xây nhà với những mảnh ngà. Marlow ngồi xếp bằng ở đuôi tàu, lưng dựa vào cột buồm lái. Má hóp, da vàng, lưng thẳng, dung mạo khắc khổ, đôi tay buông xuôi, lòng bàn tay ngửa ra trước, gã nhìn như một bức ngẫu tượng. Tay giám đốc, yên tâm là neo đã chắc, xuống đuôi tàu nhập bọn với chúng tôi. Cả bọn uể oải trò chuyện đôi lời. Rồi boong tàu chìm trong im lặng. Bởi lẽ gì đó, chúng tôi không bắt đầu ván domino ấy. Chúng tôi thấy trầm tư, chẳng có hứng làm gì ngoài tĩnh tâm quan sát. Ngày tàn dần trong cái bình lặng của ánh quang huy thanh tĩnh và tú lệ. Nước tỏa sáng một cách bình yên; vòm trời, không một gợn mây, như một khoảng mênh mông ôn nhuận ngập tràn thứ ánh sáng vô nhiễm; màn sương trên đầm lầy miền Essex[4] giống một tấm sa mỏng phát quang, rủ xuống từ những triền cao cây phủ trong nội địa, buông từng lớp trong mờ lên những bãi bồi. Chỉ riêng vùng ảm đạm phía tầy, vần vũ trên thượng lưu, là mỗi lúc một thêm u ám, như thể phẫn nộ trước sự lấn tới của mặt trời. Và cuối cùng, trong một đường lặn hình cung không thể cảm nhận được, mặt trời chìm dần, và từ màu trắng rực đổi sang sắc đỏ đục không phát quang và tỏa nhiệt, như thể sắp đột ngột tắt lịm, bị hạ sát khi chạm phải quầng u ám đang vần vũ trên một vùng người. Lập tức mặt nước bắt đầu thay đổi, và vẻ bình lặng kia bớt xán lạn nhưng lại nồng đậm hơn. Con sông lâu đời an tĩnh nghỉ ngơi giữa dòng nước mênh mang lúc ngày tàn, sau bao thuở phục vụ đắc lực chủng tộc định cư hai bên bờ, trải rộng trong vẻ tôn nghiêm bình đạm của một thủy lộ dẫn đến những chốn tận cùng trái đất. Bọn tôi quan sát dòng chảy khả kính này, không phải dưới hồng quang rực rỡ của một ngày ngắn ngủi một đến rồi đi không trở lại, mà trong ánh sáng uy nghi của ký ức trường tồn. Và quả thực, với kẻ từng, như người ta vẫn nói, “đi theo tiếng gọi biển khơi” với niềm đam mê và sùng kính, không gì dễ dàng hơn việc triệu hoán những anh linh quá khứ trên hạ lưu sông Thames. Con nước thủy triều vẫn miệt mài, tận tụy xuống lên, tràn ngập ký ức về người và thuyền từng được nó đưa về lại cố hương hoặc đem vào hải chiến. Nó từng quen biết và phục vụ tất cả những con người mà dân tộc này hằng tự hào, từ Sir Francis Drake tới Sir John Franklin, đều là Hiệp sĩ, có tước hiệu và không tước hiệu[5] - những hiệp khách giang hồ của biển cả. Nó từng vận chuyển những con tàu với cái tên lấp lánh như ngọc trong đêm tối thời gian, từ chiếc Golden Hind trở về với hai mạn tròn chất đầy châu báu và được ngự giá Nữ hoàng đến thăm, rồi từ ấy rời xa dòng chảy huyền thoại này[6], đến chiếc Erebus và Terror, theo đuổi những cuộc chinh phục khác - và không bao giờ quay lại[7]. Nó biết rõ cả hải thuyền và hải khách. Họ giong buồm từ Deptford, Greenwich và Erith[8] - kẻ phiêu lưu lẫn người lập nghiệp; tàu Hoàng gia cùng thuyền thương khách; thuyền trưởng, đô đốc, đám hắc thương[9] vùng Viễn Đông, các “tướng lĩnh tự phong của Hải đội Đông Ấn. Săn vàng hay cầu danh, ai nấy đều khởi hành theo dòng chảy ấy, mang gươm, và thường là cầm đuốc, sứ giả của quyền uy từ lục địa, hộ tống một điểm tinh hỏa từ ngọn lửa thiêng. Có sự vĩ đại nào không từng theo con nước của dòng sông ấy đến với bí ẩn của một miền đất lạ!... Giấc mơ của con người, hạt giống của thịnh vượng chung, mầm mống của đế quốc. Mặt trời lặn; hoàng hôn trùm lên dòng sông, và ánh đèn bắt đầu xuất hiện ven bờ. Hải đăng Chapman, một vật thể ba chân mọc lên từ bãi lầy, chiếu sáng rực rỡ. Ánh đèn từ những con tàu di chuyển trên thủy đạo - một dòng ngược xuôi tấp nập của những ngọn đèn. Và xa hơn về tây, trên thượng lưu, vùng trời phía trên thành phố khổng lồ kia vẫn mang dấu hiệu bất tường, một vầng âm trầm u ám trong ánh tịch dương, một tia nhìn giận dữ chói gắt dưới trời sao. “Nơi đây,” Marlow đột ngột lên tiếng, “cũng từng là một trong những chốn tối tăm trên trái đất.”[10] Gã là người duy nhất trong cả hội còn “đi theo tiếng gọi biển khơi.” Nếu có nói xấu được gã điểm gì thì đó là gã không đại diện cho tầng lớp của mình. Gã là hải khách nhưng cũng là lãng khách, trong khi phần lớn những người đi biển khác sống một cuộc đời, ta tạm gọi là, yên vị. Đầu óc họ mang tâm thức tại gia, và nhà của họ luôn đi cùng họ - con tàu; và tổ quốc của họ cũng vậy - biển cả. Tàu nào cũng giống tàu nào, và biển cả thì muôn đời vẫn thế. Trong sự bất biến của môi trường quanh họ, những duyên hải xa xôi, những mặt người xứ lạ, những bao la biến động của cuộc đời, tất cả lướt qua, được che phủ không phải bởi cảm giác huyền bí mà dưới một thái độ vô tri ít nhiều khinh thị; bởi đối với người đi biển, chẳng có gì huyền bí trừ bản thân biển cả, người tình của sự hiện tồn của y, và khó nhìn thấu như chính số mệnh. Với họ, sau giờ lao động, một cuộc dạo chơi hoặc truy hoan tùy tiện trên bờ là đủ khám phá bí mật của cả một lục địa, và nhìn chung họ thấy bí mật này chả có gì đáng biết. Chuyện của dân đi biển có một sự giản đơn trực diện, toàn bộ ý nghĩa của nó chỉ gói gọn trong một cái vỏ lạc vỡ[11]. Nhưng Marlow không phải dân đi biển điển hình (không kể xu hướng huyên thuyên ở gã), và với gã, ý nghĩa của sự kiện không nằm trong hạt lạc, mà ở ngoài, bao quanh sự tích phát sinh ra nó giống như nguồn sáng nhiệt phát sinh hồng quang, tương tự như những quầng sáng đôi khi ta vẫn quan sát thấy nhờ quang phổ của ánh trăng. Bình luận của gã không làm ai ngạc nhiên. Marlow là như thế. Phát ngôn ấy được đón nhận trong im lặng. Thậm chí chẳng ai buồn lầm bầm; và lúc này gã đang nói, rất chậm rãi... “Tôi đang nghĩ về thời xa xưa, khi quân La Mã lần đầu đặt chân đến đây, một ngàn chín trăm năm trước[12] - như mới hôm qua... Ánh sáng đã phát xuất từ dòng sông này từ... thời các Hiệp sĩ, nhỉ? Phải; nhưng nó như một lưỡi lửa chạy trên đồng cỏ, một vệt chớp giữa trùng mây. Chúng ta sống dưới ánh sáng bập bùng ấy - cầu cho nó bền lâu như vòng quay của trái đất này! Nhưng hôm qua bóng tối vẫn ở đây. Thử tưởng tượng, cảm giác của viên chỉ huy một chiếc... gọi là gì nhể? – Trireme[13] ưu tú trên Địa Trung Hải, đột nhiên bị điều lên phương bắc; vội vàng đi đường bộ băng qua Gauls; và được giao một con thuyền, loại vẫn được các quân đoàn La Mã - hẳn toàn những kẻ khéo tay ghê gớm - đóng cả trăm chiếc trong một, hai tháng, nếu những gì ta vẫn đọc là đáng tin. Thử hình dung ra gã ở đây - nơi tận cùng thế giới, biển màu chì, trời màu khói, kiểu thuyền vững chãi như cây đàn concertina[14] - bơi ngược sông đem theo quân nhu, hoặc mệnh lệnh, hoặc gì cũng được. Bờ cát, đầm lầy, rừng rú, man dân - cơ hồ không có gì vừa miệng người văn minh, không có gì để uống ngoài nước sông Thames. Ở đây chẳng có rượu Falernian[15], và cũng chẳng có chuyện lên bờ. Thi thoảng lại thấy một doanh trại thất tung trong hoang dã, như cây kim mất tích giữa đụn rơm - giá, sương, bão táp, bệnh dịch, lưu đày và chết chóc - cái chết lởn vởn trong không khí, dưới nước, trong bụi rậm. Binh sĩ chắc hẳn chết ở đây như ngả rạ. Phải rồi - gã sống sót. sống tốt là đằng khác, sống mà không nghĩ ngợi gì nhiều, có chăng chỉ đủ để sau này khoác lác về những gì đã trải qua. Họ đủ nam nhi để đối mặt với bóng tối. Mà có lẽ gã đã phấn chấn hơn khi tơ tưởng đến cơ hội được đề bạt lên hải đội ở Ravenna[16] trong ngày một ngày hai, nếu gã có bạn bè thân cận ở Rome và sống sót qua mùa lam chướng này. Hoặc hãy nghĩ tới một công dân trẻ tử tế, khoác toga - chắc hẳn cháy túi vì cờ bạc - theo gót thái thú, hoặc thuế quan, thậm chí thương gia, đến đây mong kiếm chác được chút gì. Đặt chân lên đầm lầy, cuốc bộ xuyên rừng, và khi đến dịch trạm trong nội địa, thì cảm thấy cái man di, man di cùng cực, vây bủa lấy mình, - tất cả sự sống hoang dã bí hiểm sục sôi trong rừng rậm, trong rừng già, trong tim đám man dân. Chẳng có thời gian để làm quen với những bí ẩn ấy. Gã phải sống giữa chốn vô minh, vốn dĩ là điều đáng hận. Song nó cũng tỏa ra sức dụ hoặc, tác động lên gã. Thứ dụ hoặc nảy sinh từ oán hận - hãy tưởng tượng nỗi hối hận, cơn khát khao đào tẩu, sự ghê tởm trong bất lực, tâm lý buông xuôi, cảm giác căm ghét ngày một dâng cao.” Mời các bạn đón đọc Giữa Lòng Tăm Tối của tác giả Joseph Conrad.
Tôi Với Người Chung Một Trái Tim - Du Tử Lê
Du Tử Lê (sinh 1942) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ Việt Nam đang định cư ở nước ngoài. Ông sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai. Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn. Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam vì có thái độ chống đối cộng sản quyết liệt. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông sang tỵ nạn bên Hoa Kỳ. Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứng, Tay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ. *** “Nó nhỏ tí thua mọi thứ hạt giống, nhưng khi nó đã lớn lên thì nó to hơn rau cỏ mà thành một cây đến đổi chim trời đến nương náu trên cành nó.” Mt. 13. 22. Hai tuần lễ trôi qua như một chớp mắt. Mười bốn ngày tôi không ra khỏi nhà. Mười bốn ngày, chàng cũng chỉ ra khỏi nhà trong những lúc thật cần thiết. Thức ăn được dự trữ. Văn phòng giao cho người khác. Trước cửa nhà, chúng tôi treo tấm bảng “đi vắng”. Mỗi một ngày đi qua, tôi một bước gần hơn tới chiếc mộ huyệt chôn sống đời mình. Mỗi một ngày đi qua, Cảo không ngớt rót vào tai tôi “nếu thực sự thương anh, Thiện nên lấy Phong.” Hay chàng bảo “Lấy Phong, là Thiện yêu anh vậy.” Tôi nghĩ chàng không sung sướng khi nói câu này. Tôi biết chàng phải vận dụng tất cả sự cao thượng, hy sinh để trước sau chỉ nói với tôi, một câu như vậy. Tôi hiểu mình phải quyết định, Quyết định để cứu nhau. Quyết định để còn chàng, còn tôi nữa, trong tình yêu của chàng. Trở về Seattle, tôi đồng ý đề nghị làm đám cưới thật gấp của Phong. Ba tôi điện thoại thông báo mọi chuyện với Cảo. Gia đình tôi muốn chàng hiện diện trong ngày cử hành hôn lễ. Tôi cũng vậy. Tôi bảo “đến với Thiện, lần cuối”. Cảo không hứa. Chàng nói, chàng chỉ xin lúc Cha làm thủ tục hỏi có phải tôi tự ý bằng lòng lấy Phong hay không thì tôi sẽ nhìn xuống cuối nhà thờ. “Có thể Thiện sẽ tìm thấy anh nơi sát cửa.” ... Mời các bạn đón đọc Tôi Với Người Chung Một Trái Tim của tác giả Du Tử Lê.
Thư Gửi Về Trung Quốc Xa Xưa - Herbert Rosendorfer
Cao Đài, một vị quan tứ phẩm đời nhà Tống đã quyết định du hành vào tương lai 1000 năm sau, mục đích muốn xem đất nước Trung Hoa và con cháu ngàn đời của họ sống như thế nào. Nhưng không ngờ nơi ông đến lại là nước Đức thế kỷ 20 mà không phải là Trung Quốc. Từ đó, biết bao nhiêu thứ mới lạ mở ra trước mắt ông. Cuốn sách này là tập hợp những bức thư Cao Đài viết cho bạn mình là Di Ngô, những lá thư từ Đức gửi về Trung Hoa đời nhà Tống, qua đó Cao Đài đã kể cho bạn nghe những việc xảy ra với ông và những điều lạ lùng ở thế giới xa xôi này. *** Nguyên tác “Thư gửi về Trung Quốc xa xưa” của Herbert Rosendorfer xuất bản lần đầu tiên năm 1983 và được tác giả chỉnh sửa năm 1991 (ấn bản thứ 15). Năm 2008, nghĩa là chỉ trong vòng hai mươi lăm năm, tác phẩm này đã được tái bản tới lần thứ 37! Một con số rất ấn tượng và đầy thuyết phục! Nhưng sao không phải “xa xăm” mà “xa xưa”? Tất nhiên có xa xăm, vì những bức thư này được viết ở Đức và gửi về Trung Quốc. Song “xa xưa” chính vì Cao Đài – một quan tứ phẩm đầu thời Tống (thế kỷ 10) ở Trung Hoa – do hiếu kỳ đã dùng “la bàn-thời gian” du hành một nghìn năm vào tương lai và nơi đáp xuống không phải đế đô Khai Phong như đã tính toán mà là thành phố Min-chen ở Đức. Vì phải chờ tám tháng sau mới tới ngày có thể đáp “la bàn-thời gian” trở về cố hương, Cao Đài buộc phải sống ở Đức và đã viết thư kể cho bạn là Di Ngô về chuyến phiêu lưu cùng nhận xét của mình về con người, phong tục, cuộc sống, lịch sử, chính trị, tôn giáo và văn học của “bọn mũi lõ” vào cuối thế kỷ 20. Tất nhiên Cao Đài không phát âm được chính xác tên người, đất nước, đồ vật trong tiếng Đức nên người dịch mạn phép chua thêm, trong ngoặc, cách phát âm để độc giả nào xa lạ với ngôn ngữ này có thể cảm nhận dễ dàng hơn nét trào lộng của một tác phẩm ý nhị. Và, vì Cao Đài không thể biết được những thuật ngữ hiện đại của chúng ta như đĩa hát, máy truyền hình (hay TV), giáo hoàng... nên đã sáng tạo ra những từ lạ tai và ngộ nghĩnh như... bạn đọc sẽ thấy. Cuối cùng, để có thể chuyển được phần nào không khí cổ văn trong ba mươi bảy bức thư của Cao Đài, người dịch mạnh dạn dùng một số từ học lóm từ truyện kiếm hiệp Trung Hoa: đệ, huynh, tại hạ, túc hạ, tiểu nhị, tửu bảo... chỗ nào không thích hợp, rất mong được bạn đọc thể tất. Tháng 11 năm 2013 Lê Chu Cầu *** Lưu ý của tác giả Những ngày tháng, theo lịch cổ Trung Quốc, trong các thư của viên quan Cao Đài gửi người bạn Di Ngô đã được chuyển sang lịch Âu châu. Trong phong cách viết thư của người Trung Quốc xưa, những thể thức chào hỏi cuối thư hết sức phức tạp và cầu kỳ nên đã được đơn giản hóa và chỉ dịch theo nghĩa. Trong thư gốc, Cao Đài gọi bạn bằng tên húy và ký bằng tên hiệu, thỉnh thoảng bằng húy danh, song để giản tiện tất cả được thay bằng tên họ. ... Mời các bạn đón đọc Thư Gửi Về Trung Quốc Xa Xưa của tác giả Herbert Rosendorfer.