Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoàng Hậu Margot - Alexandre Dumas

"Hoàng hậu Margot" là thiên tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu nhất Alexandre Dumas mà ngay khi ra đời đã gây tiếng vang lớn trong dư luận văn học ở Pháp và châu Âu lúc bấy giờ. Sau đó thiên tiểu thuyết này nhanh chóng được chuyển thành vở kịch lớn cùng tên, thu hút đông đảo người xem. Khi điện ảnh ra đời, tác phẩm đã được dựng thành phim và chiếu rộng rãi nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm "Hoàng hậu Margot", thông qua các chuyện tình éo le giữa hoàng hậu Margot với bá tước de Mole, cũng như giữa quận chúa de Nervers và bá tước de Coconnas, đã dựng lại một thời kỳ đẫm máu trong lịch sử nước Pháp vào giữa thế kỷ XVI. Đó là thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh tôn giáo cực kỳ tàn khốc giữa hai giáo phái Giatô và Tin lành. Đó cũng là thời kỳ tranh đoạt vương quyền quyết liệt trong nội bộ triều đình Pháp với đủ các mưu mô, thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm... Bạn đọc sẽ được gặp lại các nhân vật lịch sử có thật của thời đại đó: Thái hậu Catherine de Médicis, vua Charles IX, Henri de Navarre, quận công de Guise... mà nổi bật nhất trong số đó là Hoàng hậu Marguerite de Valois (Hoàng hậu Margot). Với tài năng sắc đẹp và trí tuệ phi thường của mình, hoàng hậu Margot đã đóng góp phần xứng đáng loại bỏ vai trò của dòng họ Valois lỗi thời và phản động để xác lập vương quyền cho Henri de Navarre, chồng mình, thuộc dòng họ Bourbon có phần tiến bộ hơn. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Tiếng Latinh của ông de Guise Từ ngày thứ hai, 18 tháng 8 năm 1572, lễ hội tưng bừng diễn ra tại cung điện Louvre. Trong những ngày ấy, tất cả các cửa sổ của toà Hoàng cung cổ kính đều được chiếu sáng rực rỡ thay cho cái vẻ âm u mà người ta vẫn thấy thường ngày. Nếu trước đây các quảng trường và phố xá đều vắng vẻ khi chuông đồng hồ ở Saint-Germain l Auxerrois mới điểm chín giờ tối, thì nay dù đã nửa đêm ở đó vẫn còn tấp nập, nhộn nhịp những đám thị dân. Trong bóng đêm, đó là những đám đông chen chúc, hỗn độn mang một vẻ dữ tợn như mặt biển tối sầm sôi động với những ngọn triều gầm réo. Những đợt triều đó, gồm hàng nghìn con người, tràn lên mặt kè sông, đổ vào các phố Fossés Saint-Germain, rồi dội vào chân tường điện Louvre, vào chân tường dinh thự de Bourbon. Nhưng có lẽ bắt nguồn ngay từ chính lễ hội này, một điều gì đó vừa bí ẩn vừa ghê gớm đang xuất hiện trong đám dân chúng này. Họ cảm thấy sự tưng bừng mà họ đang chứng kiến đây chỉ là màn giáo đầu cho một sự kiện nào đó vào tuần tới mà chính họ sẽ là những kẻ tham gia cuồng nhiệt nhất. Lẻ hội này chính là lễ thành hôn giữa công chúa Marguerite de Valois, con gái vua Henri II và là em vua Charle IX với Henri de Bourbon vua xứ Navarre. Sáng nay, trên một chiếc bục lớn trước cửa nhà thờ Đức Bà, Hồng y giáo chủ de Bourbon đã làm phép cưới cho đôi uyên ương theo đúng lễ nghi được dành riêng cho hôn lễ các công chúa nước Pháp. Đây là cuộc hôn nhân khiến hết thảy mọi người đều ngạc nhiên. Những người sáng suốt nhất cũng phải vắt óc suy đoán. Người ta không tài nào hiểu nổi vì sao phe Tân giáo và Cơ đốc giáo xưa nay vốn thù nghịch nhau giờ lại xích lại gần nhau đến như vậy. Làm sao ông hoàng Condé trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho quận công hoàng đệ d Anjou về việc cha ông bị tên Montesquiou ám sát tại Jarnac? Làm sao quận công de Guise trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho đô đốc de Coligny về việc cha mình bị Poltrot de Méré giết hại tại Orléans. Chưa hết! Cách đây chưa đầy hai tháng, hoàng hậu Jeanne de Navarre, người vợ can đảm của Antoine de Bourbon yếu đuối, người mẹ đã dẫn dắt con trai mình tới cuộc hôn nhân vương giả này, đã qua đời. Nhiều tin đồn kỳ lạ được lan đi quanh cái chết đột ngột đó. Khắp nơi dậy lên tiếng xì xầm, thậm chí còn có kẻ dám lớn tiếng cho rằng do bà đã phát giác được điều bí mật gì đó rất khủng khiếp nên Thái hậu Catherine de Médicis sợ bị tiết lộ, đã cho đầu độc bà bằng một đôi găng tay tẩm hương do một gã nào đó tên là René, người xứ Florence, vốn nổi tiếng khéo léo về các công việc loại này, chế tạo. Tiếng đồn ngày càng lan rộng và càng được khẳng định, vì sau khi bà hoàng vĩ đại này tạ thế, theo yêu cầu của con trai bà, hai thầy thuốc, trong đó có ông Ambroise de Paré nổi tiếng đã được phép mổ và nghiên cứu tử thi, trừ bộ não. Song thật oái oăm, vì Jeanne de Navarre đã bị đầu độc bằng đường khứu giác, nên chỉ có bộ não có thể để lại dấu vết của tội ác đó thì lại không được phép khám nghiệm. Người ta còn được biết vua Charle đã có một sự kiên trì đáng kinh ngạc đối với cuộc hôn nhân này đến mức được coi như một kẻ ương ngạch. Bởi vì xét cho cùng, ngoài việc đem lại hoà bình trong vương quốc, nó còn mở cửa để thu hút về Paris những thủ lĩnh Tân giáo chủ chốt, điều mà những người theo đạo Cơ đốc vẫn e ngại. Vì cặp tân hôn này, vợ thì theo đạo Cơ đốc, chồng thì theo Tân giáo, nên người ta buộc phải đề đạt tới Grégoire, là đấng tối cao tại Rome, xin được miễn trừ. Khi thấy lệnh miễn trừ đến chậm, Jeanne de Navarre tỏ ra rất lo ngại. Một hôm bà đã bày tỏ với Charle IX nỗi e ngại rằng lệnh miễn trừ có thể không đến thì được nhà vua trả lời: - Xin đừng quá e ngại, cô thân mến ạ! Cháu còn tôn trọng cô hơn cả đức giáo hoàng và yêu quý em gái cháu hơn là cháu lướng. Tuy cháu không phải là người Tân giáo nhưng cháu cũng không phải là thằng ngốc và nếu cái ông giáo hoàng ấy quá đần thì đích thân cháu sẽ cầm tay Margot đến cưới con trai cô giữa những lời giảng kinh Tân giáo. Lời đó lập tức được truyền từ cung Louvre tới khắp thành phố, làm hả lòng hả dạ những người Tân giáo đồng thời khiến những người Giatô phải hậm hực, suy nghĩ. Những người này đang tự hỏi xem liệu có phải nhà vua đã thực sự phản lại họ không hay ông ta chỉ đóng một tấn tuồng mà một sớm một chiều nó sẽ được kết thúc một cách hết sức bất ngờ. Đối với Charle IX, nhiều điều thật không giải thích nổi, nhất là thái độ của ông đối với đô đốc de Coligny, người đã điên cuồng chống lại nhà vua trong suốt năm, sáu năm nay. Và cũng trong thời gian đó, Charle IX đã từng treo giá cái đầu ông này một trăm năm mươi ê quy vàng. Ấy thế mà nay nhà vua chỉ tin dùng có mỗi mình ông ta, lại còn gọi ông ta là cha và cao giọng tuyên bố rằng từ nay trở đi chỉ có ông ta là người xứng đáng được quyền điều khiển chiến cuộc. Đến nỗi Thái hậu Catherine de Médicis, người điều khiển chính các hành động, ý đồ, thậm chí cả nguyện vọng của nhà vua trẻ tuổi này, cũng phải tỏ ra lo ngại thực sự. Điều lo ngại này không phải là vô căn cứ, vì trong một lúc thổ lộ tâm tình, Charle IX đã bày tỏ với đô đốc về cuộc chiến ở Flandres như sau: - Thưa cha, có một điều phải lưu ý: đó là Thái hậu. Như cha đã biết, bà ta cứ muốn dúng mũi vào mọi việc. Hiện nay bà ta còn chưa biết tí gì về việc này. Chúng ta phải giữ kín để bà ta mù tịt, vì con biết lúc nào bà ta cũng cứ sôi sục lên, bà ta sẽ làm hỏng việc mất. Dù lõi đời và khôn ngoan đến mấy, Coligny cũng khó mà nghi ngờ một sự tin cậy hoàn toàn đến như vậy. Trước đó, ông đến Paris lòng đầy nghi kỵ và trước khi ông rời Châtillon, một bà già nông dân đã quỳ sụp xuống chân ông kêu khóc: "Ôi, thưa ngài, ông chủ tốt bụng của chúng con, xin người đừng đi Paris. Nếu người tới đó, người sẽ chết cùng với tất cả những ai đi theo người". Nhưng rồi nỗi nghi ngại trong ông cũng dần dần tan biến. Nó cũng tan biến đối với Téligny, con rể ông, người được nhà vua ban cho những ân sủng đặc biệt, được nhà vua gọi là người anh em và xưng hô cậu cậu tớ tớ như ông thường cư xử với những người bạn thân nhất của mình. Vì vậy trừ một vài kẻ còn định kiến và đa nghi, hết thảy những người Tân giáo đều cảm thấy yên lòng. Cái chết của cố hoàng hậu Jeanne de Navarre được coi là hậu quả của bệnh sưng màng phổi. Trong những gian phòng rộng lớn ở Louvre tràn ngập những người Tin lành với lòng tin tưởng rằng, nhờ cuộc hôn nhân của thủ lĩnh Henri trẻ tuổi, họ sẽ được quay lại cái thời giàu sang phú quý. Đô đốc de Coligny, La Rochefoucault, ông hoàng Condé, Téligny, tóm lại là tất cả những nhân vật đầy thế lực của giáo phái này, những người mà ba tháng trước đây vua Charle và Thái hậu Catherine đã nhăm nhăm muốn treo cổ, đều hoan hỉ thấy mình được nghênh tiếp trọng thể và bỗng chốc trở nên đầy thế lực ở Paris. Chỉ còn Thống chế Monmorency là người duy nhất không tài nào tin được sự hoà hợp lạ lùng này. Không một lời hứa hẹn nào có thể làm xiêu lòng ông, không một sự giả dối nào có thể che được mắt ông, cho nên ông vẫn một mực ẩn dật trong lâu đài của mình ở Isle - Adam, viện cớ rằng vẫn còn đau buồn về cái chết của thân phụ mình là nguyên soái Andre Monmorency bị Robert Stuart giết bằng một phát súng lục tại trận Saint-Denis. Nhưng cứ xét sự kiện này xảy ra đã trên ba năm nay và tính đa cảm là một thứ đạo đức không mấy hợp thời thượng, nên chẳng mấy ai tin tưởng vào cái chuyện chịu tang quá đỗi lâu ngày như vậy. Vả chăng, cứ trông vào mọi sự đang diễn ra cũng khiến cho cử chỉ đó của thống chế Monmorency thành sai trái: Nhà vua, thái hậu, quận công d Anjou và quận công d Alençon hết lòng thù tạc tiếp khách khứa trong ngày hội của Hoàng gia. Quận công d Anjou nhận được từ chính những người Tân giáo những lời khen ngợi xững đáng về hai trận đánh ở Jarnac và Moncontour mà ở đó ông đã giành được thắng lợi trước khi tròn tuổi mười tám, về mặt này ông còn trẻ hơn cả Cédar và Alecxandre. Quận công d Alençon nhìn tất cả những điều trên với con mắt vờ vĩnh đầy ve vuốt của mình. Thái hậu Catherine vui mừng rạng rỡ và tràn trề vẻ ân cần. Bà hết lời khen ngợi ông hoàng Henri de Condé về cuộc hôn nhân mới đây của ông ta với Marie de Clevơ. Cuối cùng là chính ông de Guise lại mỉm cười với những kẻ kình địch dữ dội của tộc họ và quận công de Maten thao thao bàn với ông de Tavan và đô đốc về cuộc chiến tranh, hơn lúc nào hết, đang cần phải được tuyên bố chống Philip II. Ở giữa những nhóm người nói trên nổi bật lên một người. Người đó đang đi đi lại lại, đầu hơi nghiêng nghiêng và với đôi tai tinh tường đã thâu tóm được tất cả mọi chuyện. Đó là một chàng trai khoảng mười chín tuổi, cặp mắt sắc sảo, tóc đen cắt ngắn, lông mày rậm, mũi khoằm như mỏ chim ưng, có nụ cười tinh quái, mặc dù râu cằm và ria mép mới chớm mọc. Chàng mới nổi bật nhờ trận đánh d Arnay le Duc, nơi chàng đã tỏ ra gan dạ đến mức liều lĩnh. Chàng nhận được hết lới khen ngợi này đến lời ca tụng khác. Chàng chính là học trò yêu của Coligny và là người hùng trung tâm của lễ hội. Ba tháng trước đây, tức là lúc thân mẫu chàng chưa băng hà, người ta gọi chàng là hoàng tử xứ Bearn, hiện nay người ta gọi chàng là vua xứ Navarre trong khi chờ đợi để rồi sẽ gọi chàng là vua Henri đệ tứ. Tuy vậy, thỉnh thoảng một áng mây u tối lướt nhanh qua vầng trán chàng. Chắc là chàng chưa quên cách đây mới hai tháng thôi, mẹ chàng đã lìa đời, và hơn ai hết, chàng vẫn ngờ rằng mẹ mình bị đầu độc Nhưng áng mây u tối đó chỉ thoáng lướt qua vì những kẻ chuyện trò với chàng, những kẻ tâng bốc chàng, những kẻ đang kề vai sát cánh với chàng chẳng phải ai xa lạ mà chính là những kẻ đã ám hại mẹ chàng: bà Jeanne d Albert(1) dũng cảm. Cách vua xứ Navarre vài bước, quận công de Guise trẻ tuổi, với vẻ tư lự và lo âu đang chuyện gẫu với Téligny trong lúc ông này tỏ ra vui vẻ và cởi mở. So với anh chàng người Bearn, quận công vẫn còn may mắn hơn. Mới hai mươi hai tuổi mà tiếng tăm của ông đã nổi như cồn, gần được như cha ông là Françoise de Guise vĩ đại. Quận công là một lãnh chúa tao nhã, cao lớn, ánh mắt đầy tự hào pha lẫn kiêu ngạo, với cái vẻ đường bệ bẩm sinh khiến người ta có cảm giác rằng bên cạnh ông, những ông hoàng khác nom chỉ như những gã tiện dân. Mặc dù còn trẻ, ông vẫn được những người Gia tô giáo tôn làm thủ lĩnh của họ, cũng giống như những người Tin lành(2) coi Henri de Navarre là thủ lĩnh của mình. Thoạt tiên, quận công mang tước hiệu hoàng từ xứ Goanhvin và tham chiến lần đầu trong cuộc vây hãm Orléans dưới quyền chỉ huy của cha mình. Chính cha ông đã ngã gục trên cánh tay ông, trước khi chết còn kịp chỉ cho ông thấy đô đốc Coligny là kẻ ám hại mình. Cũng như Anibal, quận công đã nghiêm trang thề trước vong linh cha: nhất quyết báo thù đô đốc Coligny cùng cả nhà ông ta, quyết tróc nã, tiêu diệt những kẻ cùng giáo phái với đô đốc đến kẻ cuối cùng mới thôi, vì quận công đã tự phong cho mình làm thiên thần báo oán của Chúa. Vị hoàng thân này đã làm dấy lên một sự ngạc nhiên quá mức khi người ta tận mắt thấy ông, người vốn rất trung thành với lời thề của mình, nay lại chìa tay ra với kẻ thù muôn kiếp, hơn thế lại còn chuyện trò thân mật với con rể của con người mà ông ta sẽ quyết giết như đã hứa với người cha hấp hối. Buổi tối này quả thực đầy những sự việc đáng ngạc nhiên. Thực tế, nếu có biệt tài tiên đoán được mọi sự kiện của tương lai (mà may thay con người lại không có), nếu có khả năng đọc được những điều sâu kín trong lòng người mà chỉ Chúa mới nắm được, thì người quan sát nào được may mắn dự buổi lễ hội này chắc chắn sẽ cực kỳ khoái trá trước cảnh tượng kỳ dị nhất về tấn trò đởi mà sử sách đã từng nói tới. Nhưng cái người quan sát ấy lại không có mặt trong những sảnh phòng bên trong cung Louvre, mà chỉ tiếp tục đứng ngoài phố, nhìn lễ hội với cặp mắt nảy lửa và với giọng gầm gừ đe doạ. Người quan sát ấy chính là quần chúng. Với cái linh cảm được mài sắc ấy một cách kỳ diệu bởi nỗi căm thù, quần chúng theo dõi từ xa bóng của những kẻ thù không đội trời chung của họ và thể hiện các cảm tưởng của mình một cách rõ ràng như một người điếc tò mò đứng xem người ta nhảy múa. Âm nhạc tạo ra nhịp điệu và làm say lòng người nhảy nhưng người điếc thì chỉ thấy đó là những động tác hết sức lố lăng. Cái tiếng nhạc làm say sưa những người Tân giáo cũng chính là âm thanh tự mãn của dòng họ. Những ánh chớp lóe lên trong mắt thị dân Paris giữa đêm tối, đó là những ánh chớp của lòng căm thù, nó sẽ chiếu sáng cả tương lai. Mặc dù vậy trong cung cấm mọi việc vẫn tiếp diễn một cách vui vẻ. Lại thêm một màn khá ngoạn mục khiến hết thảy mọi người đều cảm thấy khá êm ái và huy hoàng: ấy là lúc vị hôn thê kiều diễm trẻ trung, sau khi gỡ chiếc áo choàng lễ phục dài sát đất và chiếc khăn voan, bước vào phòng lễ hội. Cùng sóng đôi với nàng là quận chúa de Nervers xinh đẹp, bạn chí cốt của nàng. Sau đó, anh nàng, vua Charle IX, đưa nàng đi giới thiệu với các đình thần quan trọng nhất trong số khách của ông ta. Vị hôn thê đó là con gái vua Henri II, viên ngọc của ngai vàng nước Pháp, Marguerite de Valois, người mà trong tình thân mật, nhà vua Charle IX chỉ gọi là cô em Margot của tôi. Chắc chắn từ xưa tới nay chưa có một sự tiếp đón nào lại xững đáng hơn sự tiếp đón mà người ta đang giành cho hoàng hậu mới xứ Navarre lúc này. Marguerite chưa đầy hai mươi tuổi mà đã trở thành đối tượng đề ca ngợi của hết thảy những thi sĩ. Người thì so sánh nàng với nữ thần Bình minh, kẻ thì ví nàng với Cythérée(3). Vẻ đẹp của nàng quả là nghiêng nước nghiêng thành trong cái triều đình mà Catherine de Médicis đã thu hút về tất cả những mỹ nhân như những tiên dung làm đắm đuối lòng người. Nàng có mái tóc đen, nước da sáng rỡ, mắt nhìn mê đắm ẩn sau hàng mi dài, đôi môi nhỏ đỏ thắm, cổ cao thanh tú, thân hình thon thả và mềm mại, bàn chân nhỏ nhắn như chân con trẻ của nàng ẩn trong đôi hài sa tanh. Những người Pháp coi nàng như quốc bảo, tự hào được thấy trên đất nước họ nở ra một bông hoa lộng lẫy đến thế. Những người nước ngoài đến nước Pháp không những loá mắt về sắc đẹp của nàng khi được nhìn nàng mà họ còn choáng ngợp về kiến thức của nàng nếu được nói chuyện với nàng. Bởi Marguerite không chỉ là người phụ nữ đẹp nhất thời đại mà nàng còn là người phụ nữ có học thức nhất. Người ta dẫn lại lời một nhà bác học Ý, sau khi được nàng tiếp chuyện trong một giờ bằng tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp, đã bước ra và thốt lên trong niềm xúc động: "Được hội kiến với triều đình mà chưa được gặp Marguerite de Valois nghĩa là chưa nhìn thấy cả nước Pháp và chưa gặp triều đình". Cũng vì thế nên không thiếu những lời đàm tiếu nhằm vào vua Charle IX và hoàng hậu xứ Navarre. Về tài đàm tiếu của những người Tin lành thì khỏi phải bàn, vì vậy đã có nhiều lời ám chỉ quá khứ, nhiều ước đoán cho tương lai được khéo léo xen vào giữa những lời hô hào qui thuận nhà vua. Nhưng đối với tất cả những lời ám chỉ này, Charle chỉ trả lời với một nụ cười xảo quyệt trên đôi môi tái nhợt: - Khi trao cô em Margot của tôi cho Henri de Navarre, tôi đã trao trái tim mình cho tất cả những người Tin lành trong vương quốc. Đó là lời làm yên lòng kẻ này và khiến kẻ khác tủm tỉm cười, vì nó thực sự có hai nghĩa: một là theo nghĩa nhân ái, vì hắn Charle cũng không có ẩn ý gì trong câu nói thực lòng đó; hai - nó mang theo một nghĩa khác: nó nhằm lăng mạ cô dâu, chú rể và nhằm cả vào kẻ thốt ra câu nói đó. Thực ra câu nói này có thể gợi lại những điều tai tiếng âm ỉ do những kẻ sính tin đồn muốn tìm cách làm vấy lên tấm áo tân hôn của Marguerite de Valois. Trong lúc đó, de Guise vẫn đang chuyện trò với Téligny, nhưng ông không chú tâm lắm vào chuyện trò mà thỉnh thoảng lại ngoái đầu nhìn về nhóm các bà, các cô trong đó hoàng hậu xứ Navarre nổi bật lên rực rỡ. Mỗi khi ánh mắt của nàng bắt gặp cái nhìn của chàng quận công trẻ tuổi thì một áng mây mở lại lướt qua vầng trán duyên dáng được kết những ngôi sao bằng kim cương tạo nên một vầng hào quang lung linh của nàng và khi ấy một ý định mơ hồ nào đó được để lộ ra qua thái độ sốt ruột và xao xuyến của nàng. ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Hậu Margot của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Britt-Marie Đã Ở Đây
Britt-Marie không chịu được sự bừa bãi. Một cái khay đựng đầy dao kéo vô tổ chức luôn nằm ở đầu danh sách những tội ác không thể dung thứ của bà. Bà không phải là kẻ đi phán xử khác người – bất kể họ là kẻ có cư xử kém văn hóa hay bê bối, hoặc khả nghi đạo đức. Chỉ là đôi khi người ta cứ suy diễn sai những gợi ý đầy tính giúp đỡ của bà như là sự chỉ trích, mà thực sự không phải ý định của bà. Nhưng ẩn bên trong sự kỳ quặc về mặt xã hội và dáng điệu tất bật đó là một người phụ nữ có nhiều trí tưởng tượng, những đam mê bay bổng và một trái tim nồng hậu mà không ai xung quanh nhận ra. *** Một con người, bất kỳ con người nào, có rất ít cơ hội để đứng nguyên đó, buông thả thời gian, rơi vào một khoảnh khắc. Và yêu ai đó vô bờ bến. Nổ tung vì đam mê. Một vài lần khi chúng ta còn bé, có lẽ thế, đối với những người từng được là trẻ con. Nhưng sau đó, chúng ta được phép hít bao nhiêu hơi thở bên ngoài sự tù túng của bản thân? Bao nhiêu cảm xúc chân thực khiến chúng ta cười phá lên mà không cảm thấy xấu hổ? Chúng ta có bao nhiêu cơ hội để được ban phước bởi sự lãng quên? Sự đam mê đúng là trẻ con. Nó tầm thường và ngây ngô. Nó không phải là một điều mà chúng ta học được, nó thuộc về bản năng, và nó áp đảo chúng ta. Xô ngả chúng ta. Nó cuốn phăng chúng ta đi. Mọi cảm xúc khác thuộc về trái đất, còn đam mê thuộc về vũ trụ. *** Fredrik Backman là blogger, nhà báo, nhà văn người Thụy Điển với các tác phẩm nổi tiếng đã được được dịch ra hơn 40 thứ tiếng như Người đàn ông mang tên Ove, Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi, Britt-Marie đã ở đây. Tác phẩm: Người Đàn Ông Mang Tên Ove Bà Ngoại Tôi Gửi Lời Xin Lỗi Britt-Marie Đã Ở Đây ... *** Review sách Britt-Marie Đã Ở Đây (Fredrid Backman) Binh Boog:   ạn muốn tìm một cái gì đó văn chương bóng bẩy, điêu luyện trong từng câu chữ? Không, bạn sẽ không tìm thấy cái đó trong Fredrick Backman đâu. Tất cả những gì trong đó là một sự gần gũi đời thường như cân đường hộp sữa vậy. Đâu đó chỉ là những câu chuyện giữa cuộc sống đời thường, những cái gì thân thuộc có thể nói là thường nhất trong những cái bình thường nhưng nó như một ly cafe sữa vậy. Nhấm từ từ để thưởng thức vị đắng rồi vị ngọt vào đầu lưỡi, nó từ từ thấm dần thấm dần vào trong bạn. Fredrik Backman rất có duyên và rất giỏi trong việc xây dựng hình tượng các nhân vật “cây cao bóng cả”. Trong con mắt mọi người họ là những người kỳ lạ, có thể là phiền phức. Nhưng ai cũng có quá khứ, cũng có những khó khăn của mình chẳng qua là họ cho nó vào trong mà ít ai hiểu được. Hài hước là chất không thể thiếu trong Fredrik Backman. Mọi sự việc với những hành động tưởng như không bình thường của các nhân vật lại là chất để gây cười, thậm chí một vụ cướp cũng trở nên hài hước. Nhưng đâu chỉ hài hước, mà cái hài hước ấy chỉ là gia vị để che dấu đi những tổn thương, những khó khăn trong lòng mỗi người thôi. Một lần nữa chào mừng các bạn đến với thế giới của bà Britt Marie. Cuộc sống của bà là sống cuộc sống của người khác, suốt 40 năm bà không ra khỏi nhà, cuộc sống của bà là ông Kent chồng bà mặc dù ông là người đàn ông mắc lỗi khi có bồ, là natri bicarbonate là Faxin những chất tẩy rửa để làm sạch, là sự sạch sẽ ngăn nắp khi dao nĩa trong tủ bếp lúc nào cũng phải được phân chia theo loại rõ ràng, mọi thứ lúc nào cũng cần phải ngăn nắp, sạch sẽ và đặc biệt là không có bóng đá. Nhưng bà ở tình thế bắt buộc lại vô tình trở thành huấn luận viên của một đội mà không thể coi là một đội bóng. Những ai yêu bóng đá nhất là giải Ngoại hạng Anh có lẽ sẽ tìm thấy sự đồng cảm và yêu thích trong quyển sách này. Bóng đá đem lại cho cuộc sống như đã chết, đã lụi tàn ở Borg một cái gì khác. Đôi khi bạn ủng hộ một đội bóng chỉ vì không có ai ủng hộ nó. Làm kẻ ngoại đạo như bà Britt Marie cũng khản cả tiếng chỉ vì hò hét, đau như chính mình bị đau khi các cầu thủ ở Borg bị thương. Tỷ số một trận đấu bóng liệu có quan trọng không khi bạn thua với tỷ số 1- 14 nhưng bạn vẫn sẵn sàng hò hét ăn mừng chỉ vì bàn thắng mà mình đã ghi được hay bạn thua 0 - 5 nhưng trận đấu vẫn bị gián đoạn chỉ vì bạn cản phá được một quả phạt đền trong trận đấu đó. Mọi thứ với đội bóng ngẫu nhiên của bà Britt Marie là cách mà họ chiến đấu, cách mà họ được vui vẻ khi được làm điều đó. Luôn tìm thấy một cái gì đó nghèn nghẹn khi người ta vẫn phải ra đi dù không mong muốn. Nhưng vẫn còn cả một tương lai phía trước, cuộc sống vẫn cứ phải tiếp diễn. *** Review Thu Hoài - zing.vn: Đến một độ tuổi nhất định, gần như mọi câu hỏi mà người ta tự vấn đều xoay quanh một điểm, ta nên sống cuộc đời mình như thế nào? Britt-Marie cảm thấy những yêu cầu của bà không hề khó thực hiện. Tất cả những điều bà muốn chỉ là một ngăn kéo cất nĩa dao muỗng gọn gàng theo đúng thứ tự. Và bất cứ ai cũng phải chùi giày ở thảm trước khi bước vào sàn nhà bóng loáng bà mới lau. Và ăn tối lúc 6 giờ. Và không chơi bóng đá. Không phải Britt-Marie ghét bóng đá, hay bất cứ môn thể thao nào khác. Bà chỉ đơn giản là không hiểu được tại sao người ta phải khiến mình bị lấm bẩn, bị gãy chân, xước xát mặt chỉ để tranh giành một quả bóng. Hơn nữa, môn bóng đá ở Borg cũng không được chăm chút nhiều cho lắm. Britt-Marie tìm đến Borg, một nơi khỉ ho cò gáy ở vùng nông thôn không phải để làm người lau dọn, hay một người giải quyết các xung đột, và càng không phải là huấn luyện viên của một đội bóng nhí. Bà đơn giản chỉ muốn tìm một công việc để chứng minh với thế giới rằng mình vẫn còn sống và tồn tại, thay vì chỉ thu lu ở nhà đợi chồng đi làm về và rồi bị phản bội. Từ một phụ nữ “văn minh” trở thành ban huấn luyện bóng đá bất đắc dĩ cho lũ trẻ ở Borg, Britt-Marie bỗng trở thành điểm tựa cho tất cả những người dân nơi đây, thổi bừng sức sống cho cái thị trấn xám xịt này. Và khi đó, lần đầu tiên trong đời, Britt-Marie thực sự tìm được một nơi thuộc về. Tiếp nối thành công của Người đàn ông mang tên Ove và Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi, Fredrik Backman tiếp tục cho ra mắt cuốn tiểu thuyết Britt-Marie đã ở đây, giữ nguyên tinh thần của bộ truyện: chỉ những người đặc biệt mới làm nên điều khác biệt. Britt-Marie là một nhân vật phụ đã xuất hiện trong cuốn sách trước về mối quan hệ giữa bà ngoại và cô gái nhỏ Elsa, nay trở lại với cuốn sách mới, bạn đọc có cơ hội được biết nhiều hơn về cuộc sống của bà. Ở tuổi 63, lần đầu tiên trong đời Britt-Marie có một chuyến phiêu lưu thực thụ. Vốn là một người ưa sạch sẽ ngăn nắp và chỉ muốn sống một cuộc sống bình thường nhất có thể, nhưng kể từ khi Britt-Marie đặt chân đến Borg, bà đã phá bỏ hầu hết hết các nguyên tắc của mình. Ẩn bên trong sự kỳ quặc mọi người chỉ thấy được bằng mắt thường là một tâm hồn giàu trí tưởng tượng, những đam mê bay bổng và một trái tim nhân hậu chỉ có thể cảm nhận được bằng trái tim. Nếu nhìn vào Britt-Marie và ông Ove, mở đầu mọi câu chuyện của họ đều khá buồn cười và hài hước, bởi họ đều là những người khác biệt – những người như họ rất hiếm trong xã hội này, nếu như họ có thực sự tồn tại. Vậy nên khi cư xử không giống như người bình thường, họ thực ra đang chứng minh bản thân mình khác biệt, ta chỉ nhận ra điều đó rõ hơn qua Elsa và những câu chuyện thần tiên của bà ngoại đã giải thích về thế giới người lớn như cách chúng ta sống bây giờ: lo lắng, sợ hãi, cô đơn, buồn bã và đau đớn. Đây chính là sự kỳ diệu trong những cuốn sách của Fredrik Backman: khả năng mang lại nước mắt cho độc giả cả trong niềm vui và nỗi buồn, đôi khi chỉ cần đến một chương truyện. Nói như vậy không có nghĩa là ta so sánh cuộc sống của Backman theo bất kỳ cách nào với cuộc sống của các nhân vật trong sách hoặc câu chuyện của họ. Ông đơn giản chỉ nói ngôn ngữ của nhân vật qua chuyện họ đang trải qua, và để giúp họ phát triển vượt ra ngoài bản thân mình theo cách mà chỉ những người kể chuyện thành thạo mới thực sự làm được. Mời các bạn đón đọc Britt-Marie Đã Ở Đây của tác giả Fredrik Backman.
Quỷ Bạc
Tên eBook: Quỷ Bạc (full prc, pdf, epub) Tác giả: Teresa Denys Thể loại: 18+, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Tên tiếng Anh: The Silver Devil Biên dịch: Shane_D Hiệu chỉnh: minogirl, bibi in love, mayphieulang, lehuyenlily Nguồn: tve-4u.org Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Truyện không dành cho người dưới 18  tuổi. Bầu trời xanh ngắt. Cuộc diễu hành huyên náo đến điếc đặc tai. Những lời reo hò cổ vũ, những cái liếc mắt lả lơi, những sắc màu ngập tràn đường phố. Kẻ tung hô, kẻ ngoái nhìn. Cứ như một tuồng kịch. Các khung cửa sổ chật ních. Người người người người người người. Đầy rẫy. Choáng ngợp. Và tẻ ngắt. Đột ngột, có ai đó ở trên cao, cao lắm. Ai đó khoác lên mình chiếc áo màu đen, với mái tóc cũng đen dài. Ai đó nơi chân trời xanh thẳm thẳm. Ai đó như một con chim nhỏ giữa bốn bề rộng lớn. Ta nheo mắt, ngược nắng nhìn. Ai đó như quạ con bé nhỏ của ta. Phải. Của ta. Và ta sẽ tìm được nàng... Mời các bạn đón đọc Quỷ Bạc của tác giả Teresa Denys.
Lạc mất và Hy vọng - Colleen Hoover
Tên eBook: Lạc mất và Hy vọng Tác giả: Colleen Hoover Nguyên tác: Hopeless Thể loại: Best seller, Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Người dịch: Lạc Anh Kích thước: 14.5 x 20.5 cm Số trang: 506 Ngày xuất bản: 01/07/2014 Giá bìa: 115.000 ₫ Công ty phát hành: Thái Uyên Nhà xuất bản: NXB Lao Động Chụp pic: sundaefruit Type: Meobongxu87, salie_20, saral, intheend Beta: kararoxbee Tạo prc: Dâu Lê Nguồn: luv-ebook.com Nguồn: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu:    Họ đã lạc mất nhau… từ mười ba năm trước. Mười ba năm kiếm tìm trong vô vọng của chàng trai, cũng là mười ba năm chọn cách lãng quên, khóa chặt ký ức của cô gái mang tên Hope - Hy vọng.   Vậy mà số phận vẫn cho họ gặp lại nhau, tình cờ và nhiều bí ẩn. Họ để mắt đến nhau từ cái nhìn đầu tiên, bị hút vào nhau nồng nàn say đắm, và đã không chỉ like, không chỉ love, mà còn live - sống vì nhau.   Và rồi cô gái khám phá ra mảnh ký ức xa xôi kia trong những giấc mơ chớp nhoáng. Những bí mật thân phận, những uẩn khúc gia đình lần lượt được phơi bày. Còn có một cuộc đời khác từ mười ba năm trước mà trong vô thức cô luôn né tránh. Giờ đây, cô đối diện với nó vô vọng, hoang mang.   Nhưng lần này, cô đã có chàng trai ở bên. Người đã cho cô biết thế nào là cảm xúc bất diệt của nụ hôn đầu. Người đã hứa trao cho cô những lần đầu tuyệt diệu nhất và những lần cuối cùng vĩnh cửu nhất. Người đã cho cô biết thế nào là tin yêu và hy vọng từ những ngày bé thơ:   “Hứa với mình là khi ông ta làm cậu buồn, cậu hãy nghĩ đến bầu trời nhé?”   Tôi không biết sao cậu ấy muốn tôi hứa, nhưng vẫn gật đầu.   “Nhưng tại sao?”   “Bởi vì,” cậu ấy lại ngửa mặt lên nhìn những vì sao, “bầu trời luôn luôn đẹp. Dù khi tối tăm, mưa giông hay âm u, nó vẫn rất đẹp để ta ngắm nhìn. Mình yêu nó, vì mình biết nếu mình có thất bại, cô đơn hay sợ hãi, mình chỉ cần nhìn lên và nó sẽ ở đó… luôn luôn đẹp đẽ, dẫu có bất cứ chuyện gì.” Tác giả COLLEEN HOOVER:   Colleen Hoover là nữ tác giả có sách bán chạy nhất của New York Times. Năm 2012, bà xuất bản series truyện đầu tiên gồm ba cuốn Slammed, Point of Retreat và This girl. Năm 2013, bà xuất bản series thứ hai bao gồm Hopeless, Losing Hope và Finding Cinderella. Các tiểu thuyết của bà đều viết về những câu chuyện tình yêu đầy đam mê nhưng cũng chứa nhiều uẩn khúc, với một văn phong lãng mạn, tràn đầy thấu cảm và yêu thương. Trong số đó, tiểu thuyết Lạc mất & Hy vọng (Hopeless) gây ấn tượng mạnh với độc giả hơn cả. Cuốn sách đã dẫn đầu bảng xếp hạng của New York Times trong một thời gian dài, trở thành tiểu thuyết dành cho lứa tuổi trưởng thành hay nhất năm 2013. Mời các bạn đón đọc Lạc mất và Hy vọng của tác giả Colleen Hoover.
Ánh Sáng Vô Hình
Đây là cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Thế giới thứ II kể về số phận một cô gái mù người Pháp và cậu bé mồ côi người Đức. "Marie Laure sống cùng cha tại Paris, gần bảo tàng Lịch sử tự nhiên, nơi cha cô làm thợ khóa chính. Khi lên 6 tuổi, Marie Laure bị mù. Cha cô đã dựng một mô hình thu nhỏ hoàn chỉnh về khu phố hai cha con đang sống để cô có thể ghi nhớ bằng cách chạm và lần tìm đường về nhà. Năm Marie Laure 12 tuổi, Đức Quốc xã chiếm giữ Paris, cô cùng cha chạy trốn đến thành phố nằm trong tường thành, Saint-Malo, nơi ông chú thích ẩn dật của cha cô sống trong một ngôi nhà cao ven biển. Hai cha con họ đã mang theo một viên đá quý giá trị nhất và cũng nguy hiểm nhất viện bảo tàng. Cậu bé mồ côi Werner lớn lên cùng em gái trong một khu mỏ than ở Đức. Cậu bị một chiếc điện đài thô sơ mà hai anh em tìm được thu hút, sau này Werner trở thành chuyên gia lắp ráp và sửa chữa những thiết bị thông tin. Tài năng ấy đem lại cho cậu một vị trí trong học viện tàn bạo của Đoàn Thanh niên Hitler, sau đó là nhiệm vụ đặc biệt theo dấu quân kháng chiến. Ngày càng nhận thức được cái giá sinh mệnh con người phải trả cho trí tuệ của mình, Werner đi qua trung tâm cuộc chiến, cuối cùng, đến Saint-Malo, nơi cậu gặp gỡ Marie-Laure." "Cảm nhận tinh tế về từng chi tiết vật chất và những phép ẩn dụ tài tình" của Doerr ( theo báo San Francisco Chronicle ) thật tuyệt vời. Khéo léo đan cài cuộc đời của Marie-Laure và Werner, ông đã làm sáng tỏ cái cách con người cố gắng đối tốt với nhau bất chấp bao khó khăn chồng chất. Mất đến 10 năm sáng tác, " Ánh sáng vô hình" thực sự là một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời và vô cùng xúc động của  Anthony Doerr - nhà văn của " những câu chữ không bao giờ mất đi sức lay động" ( theo thời báo Los Angeles Times ). *** Marie Laure, cô gái nhỏ người Pháp, năm lên 6 tuổi không may bị mù. Cha cô là thợ khóa và là người nắm giữ chìa khóa của Bảo tàng Lịch sử tự nhiên, ông làm cho cô một mô hình thu nhỏ của khu phố để cô có thể dễ dàng đi lại và tìm được đường về nhà. Werner cậu bé mồ côi người Đức sống trong khu mỏ than, cậu bé là một thiên tài và có niềm say mê đặc biệt với việc sửa chữa các thiết bị thông tin. Chính nhờ tài năng ấy cậu được vào Học viện Quân sự Hitle. Nhưng chiến tranh đã làm đảo lộn cuộc sống của hai con người trẻ tuổi này. Marie Laure mất đi người cha thân yêu của mình, cô sống trong niềm đau khổ và niềm thương nhớ với cha. Đối với cô chỉ có những lần được đi ra bãi biển Môle nhúng đôi chân trần của mình xuống dòng nước lạnh băng, lúc đó cô mới có được khoảng thời gian ngắn ngủi thôi không nghĩ về người cha yêu quý của mình. Hai con người ở hai đầu chiến tuyến nhưng cái cách họ gặp nhau và đối xử với nhau cho ta thấy được tình người trong chiến tranh. Họ cùng nhau giúp đỡ nhau vượt qua những ngày tháng khốc liệt của bom đạn. Cuốn tiểu thuyết viết rất hay về những chiếc điện đài, những mảnh vỏ ốc, thành phố Breton của Saint-Malo, về viên kim cương truyền thuyết và cái cách con người cố gắng đối tốt với nhau bất chấp bao khó khăn xung đột. Ngòi bút tinh tế, giàu cảm xúc, đậm chất Mỹ của Anthony Doerr đã kết nối thành công suy nghĩ chân thực của hai nhân vật trẻ tuổi trong cuộc chiến tranh tàn khốc với độc giả. Ánh sáng vô hình cho thấy khả năng cảm nhận nhạy bén về những chi tiết vật lý và những phép ẩn dụ bóng bẩy của Anthony Doerr thật kinh ngạc. 10 năm cầm bút, tác phẩm này là một kiệt tác nghệ thuật, một cuốn tiểu thuyết vô cùng cảm động. Tác phẩm cũng lọt vào danh sách 10 cuốn sách hay nhất năm 2014 của New York Times và được Hudson Booksellers chọn là Cuốn sách của năm 2014. Năm 2015, cuốn sách được trao giải thưởng danh giá Pulitzer cho tiểu thuyết hư cấu. Hãng phim 20 th Century Fox cũng đã nhanh chóng mua lại bản quyền phim của cuốn tiểu thuyết này. Cuốn sách được nhiều nhà chuyên môn đánh giá cao về nội dung, lẫn giá trị nghệ thuật. Đây được coi là cuốn sách tốn nhiều giấy mực nhất của giới phê bình văn học. Trịnh Dung - Zing.vn *** Review Regina Morgenstern:   Một cuốn tiểu thuyết lịch sử quá xuất sắc về nhiều mặt. Nếu có một điều duy nhất nào mình không thích về cuốn sách này, đó chính là nó khá dài và diễn biến chậm. Nhưng không vì vậy mà mình cảm thấy chán nản khi đọc "Ánh sáng vô hình".Lấy bối cảnh thế chiến II, với 2 tuyến nhân vật chính là Werner ở Đức và Marie-Laure bị mù ở Pháp - đều ở độ tuổi còn rất nhỏ, tác giả Anthony Doerr đã dựng nên một cốt truyện rất tài tình để rồi đưa hai tầm hồn này tới lại gần với nhau. Đây không phải là bức tranh khắc họa một chiến tuyệt khốc liệt với nhiều tổn thất cho cả hai bên. Đây là những câu chuyện đầy thương cảm về cuộc đời 2 người còn trẻ bị cuốn vào vòng xoáy tưởng chừng không hồi kết của chiến tranh: Werner được huấn luyện để phục vụ cho Đức từ rất sớm, Marie-Laure phải sống một cuộc sống thấp thỏm lo âu với đôi mắt mù lòa. Bên cạnh mạch kể chính lại là những câu chuyện nhỏ lẻ hết sức sâu sắc, như cái cách dân Pháp ghét lính Đức đến mức tìm đủ mọi cách để chọc phá, hay tìm cách để truyền thông tin phục vụ quân Đồng minh bất chấp sự cấm đoán của quân Đức chiếm đóng. "Ánh sáng vô hình", mình ban đầu đã suy hết từ điều nọ sang thứ kia. Mình cho rằng nó là những "điều tốt đẹp nho nhỏ mà chúng ta không nhìn thấy trong thời điểm chiến tranh", rằng cuốn sách này sẽ cho chúng ta rõ hơn về những điều ấy. Nào ngờ nó là một khái niệm đơn giản nằm ngay trong cuốn sách, một ẩn ý của tác giả: sóng radio (vật lý)! Trong cuốn sách này có hai hình ảnh biểu tưởng lớn nhất là viên đá Biển Lửa - tương truyền có khả năng khiến người ta bất tử và chiếc radio. Có lẽ ai cũng rõ, radio là một công cụ không thể thiếu trong các cuộc chiến tranh nói chung và Thế chiến II nói riêng, vậy nên đưa hình ảnh sóng radio vào tên sách cũng hợp tình hợp lý. Nhưng phải đọc hết cuốn sách này, các bạn mới vỡ lẽ ra tầm quan trọng của sóng radio, cách mà nó tạo nên mạch truyện, cách mà nó gắn kết các nhân vật với nhau! Quả là diệu kì, một cái tên mà mang bao ý nghĩa, một hình ảnh được sử dụng đầy sáng tạo! Để nói hết về cuốn sách này quả thực là không thể. Một cuốn sách chứa chan cảm xúc, đậm tính nhân văn và tràn đầy nghị lực. Quả không hổ danh tác phẩm đoạt giải Pulitzer! *** Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Thế giới thứ II kể về số phận một cô gái mù người Pháp và cậu bé mồ côi người Đức, nhưng lại khiến chúng ta phải nhìn nhận lại thời đại thông tin ngày nay. Hiếm người biết rằng trong số những vật báu Đức Quốc xã săn lùng trong Thế Chiến thứ hai có cả một viên kim cương nguyên chất với sức mạnh làm cho người giữ nó bất tử nhưng lại đem đến xui rủi cho những người xung quanh. Giống như tất cả những lời đồn xoay quanh Đức Quốc xã, đây là một câu chuyện có màu sắc hư ảo, nhưng những chi tiết nghe qua càng phi lý thì người ta lại càng thấy đáng tin. Ai chứ quân Đức Quốc xã đi tìm kiếm sự bất tử thì có gì lạ? Câu chuyện về viên kim cương Lửa Biển, tuy chỉ là chuyện trong cuốn tiểu thuyết Ánh sáng vô hình của Anthony Doerr, đủ cho ta thấy sức mạnh của những lời đồn đại. Trong một thời kỳ không biết nên tin vào ai hay vào cái gì, những luồng thông tin như thế có thể điều khiển người ta mù quáng đến mức quên mình, như những câu chuyện xảy ra xung quanh Werner Pfennig, một binh nhì Đức, trong Ánh sáng vô hình. Giữa một thời đại mù mờ tin tức liên lạc như Chiến tranh Thế giới II, không có gì ngạc nhiên khi những nguồn tin chính xác trở thành tài nguyên quý giá. Werner được chiêu mộ vào quân đội chính bởi cậu là một thiên tài khoa học kỹ thuật, có thể lắp ráp sửa chữa mọi loại điện đài và dựa vào sóng điện đài để tính toán vị trí quân địch. Werner nắm trong tay sức mạnh của thông tin, và với sức mạnh ấy cậu đã gây ra nhiều cái chết. Khỏi phải nói những điều khủng khiếp nào có thể xảy ra bởi một sai lầm đơn giản trong tin tức của cậu. Nhưng những tin tức bên ngoài thì không thiếu sai lạc. Những lời đồn thổi phồng về quân Đức Quốc xã đủ lan truyền sự sợ hãi từ khi chưa một bóng lính nào xuất hiện. Quân Đức - người thợ làm vườn khẳng định - có sáu mươi nghìn máy bay chiến đấu; quân Đức có thể hành quân trong nhiều ngày mà không cần ăn; quân Đức giao cấu với bất cứ nữ sinh nào chúng gặp. Một phụ nữ đứng sau quầy bán vé nói rằng quân Đức mang lựu đạn khói và giắt súng chống tên lửa ở thắt lưng; quân phục của chúng, cô thì thào, được làm từ một chất liệu còn cứng hơn thép. Và khi thành phố bị chiếm đóng, những lời đồn vẫn tiếp tục lan rộng, bóp nghẹt những cư dân trong sợ hãi. Còn ở bên kia chiến tuyến, quân Đức theo đuổi cuộc chiến với niềm tin được củng cố bởi những lời đồn đại phần thực phần hư, những lời ca ngợi Lãnh tụ Hitler với khả năng vô song và những tin tức khẳng định thắng lợi ngay cả khi quân sĩ tử trận còn thường hơn cơm bữa. Cùng lúc đó, việc trao đổi thông tin bị kiểm duyệt gắt gao. Những chiếc radio đúng tiêu chuẩn Đức không bắt được các kênh nước ngoài, trong khi sử dụng loại radio khác là bất hợp pháp. Những bức thư giữa Werner khi còn ở Học viện Chính trị Quốc gia và em gái cậu phải qua bộ phận kiểm duyệt của trường trước khi đến tay người nhận, và những thông tin không thích hợp sẽ bị bôi đen để không thể đọc được. Quả là một sự mỉa mai khi không thể tiếp cận thông tin từ những người thân thuộc đáng tin mà chỉ được phép nghe những lời đồn không rõ căn cứ. Rốt cuộc, giữa cuộc chiến đuổi bắt những bóng ma lời đồn, chỉ có sự thật bên trong là đáng để người ta tin vào. Những niềm tin mà Werner chia sẻ với em gái từ ngày còn bé, đó mới là ngọn đèn soi sáng cho cậu thoát khỏi cái bóng tăm tối của chiến tranh. Giữa những lời đồn, những thông tin sai lệch, lòng tin vào thiện tâm giữ cậu đi đúng hướng. Werner chọn tin vào cô gái mù người Pháp, chỉ từ một ngày quan sát cô, chỉ từ những lời của Jules Verne cô đã đọc để cậu bắt được trên điện đài, cậu đã quyết định giúp đỡ cô. Cậu thà đặt lòng tin vào một người gần như xa lạ còn hơn tiếp tục làm thuộc hạ của một đế chế giả dối. Đế chế tạo dựng trên nền tảng những lời đồn thổi, những thông tin bưng bít thì không thể đứng vững quá lâu. Werner đã từng tin vào những cơ hội mà Lãnh tụ có thể cho cậu và nước Đức. Werner đã từng tận tuỵ lần theo sóng điện đài để tìm những bóng ma quân Xô Viết, “những kẻ nổi dậy hết sức nguy hiểm, có kỷ luật; chúng làm theo mệnh lệnh của những chỉ huy tàn bạo, hung ác,” để đến lúc ra trận mới nhận ra rằng những kẻ chống đối mà cậu tiếp tay kết liễu chỉ là “những kẻ khố rách áo ôm, những kẻ cố cùng liều thân chẳng có gì để mất.” Khoảng cách giữa những lời tuyên truyền bên tai cậu và hiện thực mà cậu biết càng ngày càng lớn, cho tới khi cậu không thể bỏ qua được nữa. Hệ thống tin tức phi nhân cuối cùng đã không chiến thắng được lòng tin của con người. Câu chuyện từ Thế Chiến thứ hai, nhưng cũng không hiếm trong thời đại thừa mứa thông tin ngày nay. Internet có thể giúp thổi phồng những tin đồn không ai bận tâm xác minh, và khiến người ta lao vào sát phạt nhau mà không cần biết mình làm tổn thương những ai. Thông tin thời nào cũng là quý giá, và nó có thể xé nát hoặc hàn gắn thế giới, tuỳ vào cách ta sử dụng. Khi một lời nói ra vô danh, chẳng ai phải chịu trách nhiệm về nó, và người ta lao vào phân tích, đánh giá cũng chẳng mất gì. Nhưng bạn à, hãy dùng niềm tin, nỗ lực và lòng tốt của mình một cách tỉnh táo. Mời các bạn đón đọc Ánh Sáng Vô Hình của tác giả Anthony Doerr.