Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mộ Đom Đóm

Mộ đom đóm là một câu chuyện về chiến tranh. Một chiến tranh mà khói xám và lửa hồng chỉ điểm xuyết. Một chiến tranh mà trạng thái chết chỉ phảng phất, còn “đang chết” mới là trạng thái thường trực, là lực lượng án ngữ, chiếm ngự từ thể xác đến tâm hồn con người, cuối cùng thẳng tay nhấn chìm tất thảy. Một chiến tranh được tiếp cận ở bình diện thô ráp và nguyên thủy nhất từng thấy: cái đói. Vì đói mà kiết lị, vì đói mà lở loét, vì đói mà chấy rận, vì đói mà hao mòn. Không chỉ đói ăn, còn đói nhân cách. Mộ đom đóm kéo giật tới trước mắt người đọc những chân dung thoái hóa phái sinh từ cái đói thời loạn, như khả năng ợ lên nhai lại như bò, như suy nghĩ dị dạng trong ứng xử, trong tiêu khiển bình thường. Không chỉ người đói mà thú vật cũng đói, thậm chí chuột cũng đói, và quay ra gặm nhấm tất thảy những gì có thể, kể cả con người. Bỏ qua những màn bom rải thảm, những trận nổ rung trời, chiến tranh trong Mộ đom đóm tự lột trần mình bằng tội ác lớn nhất của nó: không chỉ cướp đi nhân mạng, mà còn tiêu diệt nhân tính. *** Ngày 21 tháng Chín năm 1945, một đứa trẻ lang thang chết trong ga Sannomiya. Ở đai cuốn bụng đầy rận của cậu, người ta tìm thấy một hộp đựng kẹo. Khi nhân viên nhà ga ném chiếc hộp vào bóng tối, những con đom đóm bay lên tán loạn, và những mẩu xương trắng lăn ra. Đó là xương đứa em gái bốn tuổi của cậu, đã chết do suy dinh dưỡng... Tập truyện Mộ đom đóm bao gồm sáu tác phẩm khởi đầu sự nghiệp văn học của Nosaka Akiyuki, trong đó có hai tác phẩm giành Giải thưởng Naoki. Một là truyện “Mộ đom đóm” với lối viết độc đáo, khắc họa đầy ấn tượng cuộc sống trước khi chết đói của hai anh em lang thang. Hai là “Tảo nâu của Mỹ”. *** NOSAKA AKIYUKI Sinh năm 1930 ở Kamakura, tỉnh Kanagawa. Đang học Đại học Waseda thì bỏ dở con đường bằng cấp. Sau khi trải qua nhiều nghề khác nhau, ông trở thành phóng viên. Năm 1963 ông cho ra đời tác phẩm đầu tay nhan đề Người viết truyện khiêu dâm. Tác phẩm tiếp cận đề tài tình dục bằng giọng văn gay gắt mà hài hước, đã bất ngờ thu hút sự chú ý của dư luận. Năm 1967, Nosaka trình làng hai tác phẩm. Tảo nâu của Mỹ lấy tư liệu từ thực trạng xã hội thời kì bị chiếm đóng, và Mộ đom đóm khắc họa những trải nghiệm chiến tranh, bom đạn và đổ nát. Một năm sau, hai tác phẩm này được trao giải Naoki. Ngoài ra, Nosaka còn một số tác phẩm đáng chú ý như Hoa tử nhân cát nơi vách núi Honegami, 1945 - Mùa hạ - Kobe... *** Cổng Nam ga Sannomiya, thuộc tuyến đường sắt của Bộ Vận tải. Seita ngồi bệt dưới sàn, hai chân duỗi thẳng, rệu rã tựa lưng vào cây cột trơ cả bê tông do tróc lớp gạch ốp. Dưới cái nắng cháy da, đã gần một tháng không tắm mà đôi má hốc hác của cậu vẫn trắng nhợt, hõm xuống. Tối đến, cậu nhìn theo bóng gã đàn ông nghênh ngang đốt đuốc, oang oang mắng chửi như phường trộm cướp. Sáng ngày, cậu ngồi phân biệt đám học sinh vẫn tới trường như chưa có chuyện gì xảy ra. Áo màu kaki nhưng mang bọc vải trắng là trường Cấp hai Kobe 1, đeo cặp là trường cấp hai công lập cấp thành phố. Học sinh các trường cao đẳng nữ* như trường công lập cấp tỉnh 1, trường dân lập Shinwa, Shoin và Yamate đều mặc quần thụng, chỉ khác nhau ở cổ áo thủy thủ. Tương đương với cấp 2, thuộc hệ thống giáo dục quốc dân áp dụng từ năm 1941, thay thế toàn bộ các hệ thống trước đó. (Các chú thích trong sách là của người dịch hoặc ban biên tập tiếng Việt.) Trong đám đông ùn ùn đi ngang qua, có người ngửi thấy thứ mùi khó chịu nên nhìn xuống, rồi vội vã nhảy ra như tránh tà. Seita đã không còn cả sức để lết đến khu vệ sinh ngay trước mặt nữa. Ở chân mỗi cây cột vuông rộng tầm 90 phân này đều có những đứa trẻ tương tự, cứ ngồi ì như đang tìm kiếm sự chở che của mẹ. Chúng đổ về nhà ga có lẽ vì đây là nơi duy nhất chúng được vào, vì nhớ những nơi đông người qua lại, vì có nước uống, và vì may ra được ai đấy bố thí cho. Vừa vào tháng Chín, khu chợ trời dưới gầm đường sắt Sannomiya bắt đầu hoạt động, mở hàng là món nước đường cháy hòa tan đựng trong thùng sắt, một cốc múc đầy giá 50 sen. Chẳng mấy chốc mọc lên nào khoai hấp, bánh dango làm bằng bột khoai, cơm nắm, bánh giầy daifuku, cơm rang, chè zenzai, bánh manju, mì udon, cơm tempura, cơm cà ri... rồi thì bánh ngọt, gạo, lúa mì, đường, tempura, thịt bò, sữa, đồ hộp, cá, rượu shochu, whisky, lê, cam, ủng cao su, săm xe đạp, diêm, thuốc lá, bốt tẽ ngón, tã bỉm, chăn quân đội, giày quân đội, quân phục, bốt cổ lỡ... Mấy ông chồng rao bán cả hộp nhôm đựng cơm trộn lúa mạch buổi sáng vợ chuẩn bị cho, “10 yên đây, 10 yên đây,” tay kia ngoắc lủng lẳng đôi giày cổ ngắn đã sờn, “20 yên, 20 yên mua không?” Bị hấp dẫn bởi mùi thức ăn, Seita bất giác đưa chân vào chợ. Cậu bán lớp áo lót dài, đai obi, cổ áo rời, dây cột eo* của người mẹ quá cố cho sạp quần áo cũ bày hàng trên tấm chiếu bằng cỏ bấc đèn, nhờ đó mà xoay xở được khẩu phần nửa tháng. Các phụ kiện của một bộ kimono. Toàn bộ đồ đem bán đều ngấm nước trong hầm trú ẩn nên đã phai màu. Bộ đồng phục dệt bằng tơ nhân tạo, rồi giày ghệt của Seita cũng lần lượt tiếp bước, cậu chần chừ có nên bán cả quần không. Chẳng biết tự lúc nào Seita đã quen qua đêm ở nhà ga. Một thiếu niên ăn mặc chỉn chu đi cùng gia đình có vẻ vừa trở về từ nơi sơ tán, khăn trùm đầu được gấp gọn gàng vắt trên túi vải, ba lô đeo lưng lủng lẳng cặp lồng, ấm đun nước, mũ sắt. Xem chừng họ đã chuẩn bị lương thực khẩn cấp để ăn trên tàu, nhưng giờ đến nơi rồi nên yên tâm quẳng cho Seita chiếc bánh dango làm bằng cám gạo đã nhão nhoét, như thể vứt bớt hành lý đi. Seita còn nhận được mẩu bánh mì ăn dở, rồi bọc đậu tương rang của một anh lính phục viên thương người, hoặc của bà lão động lòng trắc ẩn vì có đứa cháu trạc tuổi. Họ rón rén đặt xuống ở đằng xa như đem đồ dâng Phật, dù gì cậu cũng rất biết ơn. Thỉnh thoảng, Seita bị nhân viên nhà ga đuổi đi, nhưng hiến binh canh gác ở cửa soát vé lại đánh họ để bảo vệ cậu. Ít nhất trong ga muốn bao nhiêu nước có bấy nhiêu, nên cậu cứ mọc rễ ở đây. Nửa tháng sau thì không đứng lên được nữa. Seita bị tiêu chảy, liên tục ra ra vào vào khu vệ sinh của nhà ga. Mỗi lần đứng dậy lại loạng choạng, tì cả người vào cánh cửa đã long mất tay cầm để gắng gượng đu mình lên, khi đi thì một tay phải bám vào tường. Cứ thế, cậu như quả bóng xì hơi, cuối cùng chỉ đành ngồi dựa vào cột, không nhấc nổi người lên nữa. Nhưng cơn tiêu chảy vẫn dồn dập tấn công, chẳng mấy chốc quanh mông đã vàng khè. Seita cuống quýt, xấu hổ muốn độn thổ mà không sao động đậy được, đành gắng lấy tay vun chút cát bụi trên sàn phủ lên, hòng giấu đi thứ màu đó. Nhưng tay cậu không với được xa, người ta nhìn có khi lại tưởng đứa trẻ lang thang đói đến mất trí nghịch cả nước phân mình thải ra. Không còn thấy đói hay khát, Seita nặng nề gục đầu xuống ngực. “Ôi bẩn quá!” “Chết rồi à?” “Quân Mỹ sắp đến mà nhà ga lại có cái của này, xấu hổ quá!” Chỉ đôi tai cậu là còn hoạt động và nghe được vô vàn thanh âm. Đến tối, bỗng nhiên lặng ngắt như tờ. Không còn tiếng guốc vang vọng trong nhà ga, tiếng tàu chạy lanh canh trên đầu, không còn tiếng giày đột nhiên biến thành bước chạy, tiếng trẻ gọi mẹ, tiếng đàn ông nói chuyện lào khào gần đó, hay tiếng nhân viên nhà ga ném thùng một cách thô bạo. Hôm nay là ngày bao nhiêu rồi? Ngày bao nhiêu nhỉ, mình ở đây bao lâu rồi? Khi tỉnh lại, Seita thấy sàn bê tông ở ngay trước mắt, nhưng không nhận ra mình đã đổ nằm xuống mà vẫn giữ nguyên tư thế co ro lúc ngồi. Cậu đăm đăm nhìn lớp bụi mờ cuốn lên khỏi sàn theo hơi thở yếu ớt của mình. Không biết là ngày bao nhiêu rồi nhỉ? Seita bám dính lấy băn khoăn ấy mãi, rồi ra đi. Đó là ngày 21 tháng Chín năm 1945, sau hôm chính phủ thông qua “Đại cương Chính sách bảo vệ trẻ mồ côi do chiến tranh”. Đến đêm nhân viên nhà ga dè dặt lục soát quần áo đầy chấy rận của Seita và tìm thấy một hộp kẹo giắt trong đai quấn bụng. Anh ta cố mở nắp, nhưng có lẽ hộp bị gỉ nên không mở được. “Cái gì đây?” “Kệ nó, kệ nó, vứt đi cho xong. Thằng này nữa, đến lúc rồi, mắt mở trừng trừng thế là sắp đi tong.” Một người khác lên tiếng. Người đó đang nhòm khuôn mặt rũ xuống của một đứa trẻ lang thang nhỏ tuổi hơn ở ngay cạnh xác Seita. Seita vẫn nằm nguyên tại chỗ, chờ người của ủy ban Hành chính Quận đến dọn, chẳng được ai đắp cho dù chỉ một tấm chiếu manh. Dường như không biết làm sao, tay nhân viên lắc hộp kẹo khiến nó kêu lọc xọc. Trước nhà ga có chỗ bị thiêu rụi, anh ta lấy đà liệng hộp ra khoảng tối cỏ mọc um tùm chỉ sau một mùa hè ấy. Hộp kẹo rơi xuống, bật nắp, chất bột màu trắng đổ ra, ba mẩu xương nhỏ lăn lóc, khuấy động những con đom đóm đang trú ngụ trong cỏ. Hai ba chục con đom đóm lập lòe tán loạn bay lên, một lát sau lại trở về yên tĩnh. Những mẩu xương trắng nọ là của Setsuko em gái Seita, mất ngày 22 tháng Tám dưới hầm trú ẩn ở Manchitani thành phố Nishinomiya. Người ta bảo là tại viêm ruột cấp tính, nhưng thật ra cô bé bốn tuổi đã bất động từ lâu và ra đi trong trạng thái li bì. Cô chết vì kiệt sức do suy dinh dưỡng, giống anh mình. Mùng 5 tháng Sáu, 350 chiếc máy bay B29 ném bom xuống Kobe, khiến năm thị trấn Fukiai, Ikuta, Nada, Suma và Đông Kobe bị thiêu rụi hoàn toàn. Seita mới học lớp Chín đã bị tổng động viên đi lao động ở nhà máy thép Kobe. Hôm đó là ngày tiết kiệm điện. Cậu đang ngồi chờ trong nhà ở thị trấn Mikage gần bờ biển thì nghe báo động, liền hấp tấp vùi lò than Seto* xuống cái hố đã đào sẵn ngoài vườn, giữa những luống cà chua, cà tím, dưa chuột, rau mầm. Lại gom toàn bộ gạo, trứng, đậu tương, cá ngừ bào khô, bơ, cá trích khô, mơ muối, đường saccharin, trứng muối vào đấy rồi phủ đất lên trên. Lò gốm cổ lâu đời ở Nhật Bản, đã có hơn một nghìn năm lịch sử. Mẹ đang ốm, Seita phải thay mẹ cõng em. Bố là đại úy hải quân, nhưng đã bặt tin từ ngày theo tàu tuần dương ra trận. Cậu tháo ảnh chụp bố mặc quân phục mùa đông ra khỏi khung, nhét vào ngực áo. Sau hai trận không kích ngày 17 tháng Ba và 11 tháng Năm, Seita hiểu ra, đèo bòng phụ nữ trẻ con không thể dập tắt bom cháy*, mà căn hầm đào dưới sàn nhà cũng không an toàn nữa, cậu đành đưa mẹ đến trú trước ở hầm bê tông do ủy ban xã bố trí đằng sau trạm cứu hỏa. Còn gọi là bom Napan hoặc lựu đạn lửa. Đang mở tủ vơ vội quần áo ngày thường của bố vào ba lô, Seita nghe thấy tiếng kẻng leng keng ở vọng gác máy bay, bèn chạy ào ra cửa, và lập tức chìm trong tiếng bom rơi vang trời. Sau đợt đánh bom kinh hoàng đầu tiên, cậu có ảo giác là mọi thứ bất chợt tĩnh lặng, nhưng rồi tiếng gầm gào nặng nề của những chiếc B29 lại ầm ĩ không thôi. Seita ngước mắt nhìn lên. Trước giờ cậu mới chỉ thấy vệt mây mập mờ phết ra từ mấy cái chấm nhỏ xíu bay về hướng Đông*. Hay như năm ngày trước trong trận ném bom ở Osaka, từ hầm trú ẩn của nhà máy, cậu nhìn đội máy bay mà tưởng đâu đàn cá đang luồn lách giữa những đám mây trên bầu trời vịnh Osaka. Vệt mây trắng sau đuôi máy bay. Khí thải từ máy bay rất nóng, khi gặp không khí lạnh và ẩm trên cao, hơi nước từ khí thải sẽ ngưng tụ lại thành từng vệt mây trên bầu trời. Có thể gọi là mây nhân tạo. Còn hôm nay, cậu thậm chí nhìn rõ đường kẻ đậm vẽ ra từ thân dưới máy bay. Nó đang bay từ biển về núi ở độ cao chỉ hơn tầm với, rồi đột nhiên chao cánh biến mất ở phía Tây. Lại một tiếng bom rơi. Bầu không khí trở nên ngột ngạt, Seita đứng chôn chân tại chỗ, người như bị ai trói chặt. Bỗng cậu nghe tiếng lạch cạch. Một quả bom cháy màu xanh đường kính 5 phân, dài 60 phân từ mái nhà lăn xuống, nảy đom đom như một con sâu đo, phun đầy dầu ra đất. Seita vội chạy vào nhà, nhưng từ trong nhà, một luồng khói đen cũng đang chầm chậm lan rộng, cậu lại lao ra cửa. Cả dãy nhà vắng tanh, yên ắng như chẳng có chuyện gì. Căn nhà đối diện đã dựng sẵn chổi dập lửa và thang cạnh tường. Dù thế nào cũng phải đến hầm tránh bom của mẹ đã, Seita tự nhủ. Trên lưng cậu, em gái bật khóc nức nở. Cậu vừa dợm bước thì một cột khói đen phun lên từ cửa sổ tầng hai căn nhà trong góc đường. Cứ như được sắp đặt sẵn, bom cháy âm ỉ ở gác xép trước đó cũng đồng loạt bùng lên thành lửa, đốt cây cối trong vườn nổ lép bép. Lửa chạy dọc mái hiên, thiêu cửa chớp đến long ra, rơi đánh thình. Seita thấy trước mắt tối sầm. Không khí lập tức nóng rực. Cậu bật chạy như bị ai xô mạnh. Kế hoạch ban đầu là sơ tán ở bờ đê sông Ishiya nên cậu chạy dọc theo đường tàu Hanshin trên cao về phía Đông, nhưng nơi này sớm đã nhung nhúc dân đi lánh nạn. Kẻ kéo xe bò. Ông nọ cõng bọc chăn đệm, bà kia the thé gọi người. Sốt ruột, cậu chạy ra biển, lúc này tàn lửa vẫn bay tán loạn, bom rơi ầm ầm xung quanh. Thùng rượu cỡ 5400 lít được tận dụng làm bể chữa cháy bị vỡ, nước tràn ra lênh láng. Có người đang loay hoay chuyển bệnh nhân bằng cáng. Vừa qua một khoảnh đất hầu như không có ai, thì lại đến một quãng ồn ào bát nháo như tổng vệ sinh nhà cửa (kiểu kĩ càng tới mức lật tung cả chiếu trải sàn lên ấy). Seita rời khỏi đường quốc lộ cũ, chạy mải miết trên con ngõ hẹp, đi qua khu phố vắng hoe, có lẽ dân chúng đã sơ tán cả rồi. Cậu trông thấy hầm rượu Nadagogo đen thui quen thuộc. Mùa hè mà ra đây sẽ ngửi thấy mùi biển phảng phất. Mỗi bể chứa rượu cách nhau tầm mét rưỡi, qua đó người ta có thể thấy bờ cát lấp lánh dưới nắng hè, mặt biển xanh ngắt trải rộng đến tận chân trời. Bây giờ không phải lúc nghĩ ngợi vẩn vơ. Bờ biển chẳng có hầm, nhưng mọi người đều nghĩ muốn tránh lửa thì cần nước, cho nên trên bờ cát chỉ rộng 50 mét mà tập trung bao nhiêu người, chẳng ai bảo ai cùng nép mình trong thuyền đánh cá hay dưới bóng tời kéo lưới. Mời các bạn đón đọc Mộ Đom Đóm của tác giả Nosaka Akiyuki.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thuyết Phục - Jane Austen
Tên ebook: Thuyết Phục (full prc, pdf, epub) Tựa gốc: Persuasion Tác giả: Jane Austen Thể loại: 100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới, Tiểu thuyết, Tình cảm, Văn học phương Tây Dịch giả: Diệp Minh Tâm Số trang: 314 Kích thước: 13,5x20,5 cm Trọng lượng: 400 g Giá bìa: 53.000đ Năm xuất bản: Quý I/ năm 2010 Nhà xuất bản: Hội nhà văn Chụp ảnh: Minh Trang Đánh máy: Oanh khuat, Thùy Trang, Chút, Iris, giangcoi163, Phượng Xồ, Palour Hong An, Nguyen Van Ha, Đậu Linh, Huyền Trang, Linh Nguyen, Sophia, Kim Anh, Mai Ly, May&Nui. Soát lỗi văn bản: apple-socola QLDA & Chế bản ebook: giangcoi163 Nguồn: vhproject.hnsv.com Ebook: daotieuvu.blogspot.com Ebook Thuyết Phục - Jane Austen Giới thiệu: Thuyết Phục là một câu chuyện tình đầy lãng mạn giữa cơ Anne và anh Wentworth, họ yêu nhau từ khi anh còn nghèo, không có gia sản, chưa có sự nghiệp. Vì nghe theo lời Thuyết Phục của Phu nhân Russell, người đóng vai trò mẹ đỡ đầu của Cô, cho rằng Wentworth không xứng đáng, Anne cắt đứt quan hệ tình cảm với Wentworth.   Tám năm sau, Wentworth trở về trong tư cách một đại tá với chiến công hiển hách và một gia sản to lớn nhờ tiền thưởng trong cuộc chiến. Trong khi ấy, người thừa kế tài sản và vị tước vị của Ngài Nam tòng tước Walter là anh Elliot người đang có ý định cưới Anne. Liệu Anne có bị thuyết phục bởi viễn cảnh làm Phu nhân một tòng nam tước và cũng là bà chủ một gia sản to lớn hay Cô sẽ Thuyết phục anh Wentworth kiềm chế nỗi ghen tỵ và mặc cảm đối với anh Eliot và nối lại cuộc tình? Trong khi viết quyển Persuasion (tên tiếng Việt Thuyết Phục), JaneAusten đang ngã bệnh. Đây là tiểu thuyết cuối cùng hoàn chỉnh của JaneAusten, được phát hành năm 1818. Trong khi Pride and Prejudice (Kiêu hãnh và định kiến) thường được được xem là truyện nổi tiếng nhất của Jane Austen, một số người đọc cho biết họ thích nhất Persuasion trong số các tác phẩm của tác giả. Điều này cho thấy Persuasion có một chỗ đứng nhất định trong văn học.   Đôi nét về tác giả Jane Austen:   Jane Austen  (16/12/1775 - 18/7/1817) là một nhà văn nữ người Anh, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như Sense and Sensibility, Pride and Prejudice, Mansfield Park, Emma, Northanger Abbey, và Persuasion. Những bình phẩm về các vấn đề xã hội cùng văn phong tuyệt kỹ trong nghệ thuật dẫn chuyện và xây dựng những tình huống oái ăm đã đem tên tuổi của Austen vào trong số những nhà văn có nhiều ảnh hưởng nhất và được trọng vọng nhất trên văn đàn nước Anh. Những tác phẩm của bà lấy bối cảnh trong Thời kỳ Nhiếp chính (Regnecy Era) – từ năm1795 đến 1830, nổi bật với những đặc thù trong chính trị, văn hóa, và trang phục. Trong suốt cuộc đời mình, Janes Auten không bao giờ kết hôn. Nhưng những câu chuyện tình yêu lãng mạn phần nào được nhà văn khai thác từ chính cuộc tình của mình với Tom Lefroy. Mời các bạn đón đọc Thuyết Phục của tác giả  Jane Austen.  
Cuộc Đời của Pi - Yann Martel
Tên ebook: Cuộc đời của Pi (full prc, pdf, epub) Tên gốc: Life of Pi Tác giả: Yann Martel Thể loại:  100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới,  Lãng mạn, Tiểu thuyết, Tình cảm, Văn học phương Tây Dịch giả: Trịnh Lữ Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển: 500 grams Kích thước: 14.5 x 20.5 cm Số trang: 446 Ngày xuất bản: 10/2012 Nguồn: vnthuquan.net Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Cuộc Đời của Pi - Yann Martel Giới thiệu:  Cuộc Đời của Pi được nhà văn Yann Martel viết vào năm 1996 và được tặng giải thưởng Man Booker 2002. Ông sinh ra ở Tây Ba Nha nhưng hiện đang sống tại Motreal, Canada. "Cuốn sách là một câu chuyện hiện thực sống động về sự sống sót giữa biển khơi. Một mặt là chuyện thám hiểm, một minh chứng về việc hoàn cảnh cùng quẫn làm thay đổi con người như thế nào. Mặt khác là sự suy ngẫm sâu xa về vai trò của tôn giáo trong đời sống, về bản chất của động vật, thiên nhiên và con người. Ngôn ngữ của ông sống động và ấn tượng. Trí tưởng tượng rộng lớn, khả năng thuyết phục gần như không giới hạn. Yann Martel sẽ trở thành một trong những nhà văn Canada vĩ đại nhất" (The Hamilton Spectator).   -Yann Martel- “Điều kì diệu đầu tiên khắc vào lòng ta sâu sắc nhất; những điều kì diệu đến sau chỉ vừa khít vào cái ấn tượng của buổi ban đầu.” “Tại sao người ta di cư? Cái gì khiến họ nhổ rễ và rời bỏ tất cả những gì quen thuộc để đến một nơi xa tận bên kia chân trời? Tại sao phải trèo qua dãy thái sơn của các thủ tục giấy tờ khiến ta cảm thấy mình như một kẻ ăn mày? Tại sao phải dấn bước vào khu rừng ngoại lai nơi tất cả mọi thứ đều lạ lẫm, khó khăn và chưa từng thấy?” ◾Po giới thiệu Nếu không may bị tai nạn đắm tàu và bạn là người duy nhất sống sót trên thuyền cứu nạn cùng với một con hổ, bạn sẽ làm gì để tồn tại qua hàng trăm ngày lênh đênh trên biển? Yann Martel đã bắt đầu câu chuyện của mình như thế… Câu chuyện kể về cậu bé Pi – Piscine Molitor Patel – bị đắm tàu với con hổ Begal tên là Richard Parker trưởng thành. Đói lả, mệt mỏi, sợ hãi và cả tuyệt vọng, Pi đã tìm mọi cách để thoát ra khỏi bờ vực tăm tối đó - “Mọi việc ở đời có bao giờ diễn ra như ta vẫn tưởng, nhưng biết làm sao. Cuộc đời đem cho ta cái gì thì ta phải nhận cái đó và chỉ còn cách làm cho chúng tốt đẹp nhất mà thôi” Hãy nghe cậu bé nói: “Trong những giờ phút đó tôi đã cố tự nâng đỡ lấy mình. Tôi sẽ chạm vào vành khăn Hồi giáo tự quấn lấy bằng những mảnh quần áo còn sót lại và nói to “Này là chiếc mũ của Thượng đế!” Tôi sẽ vỗ tay vào chiếc quần của mình và nói to “Này là quần áo của Thượng đế!” Tôi sẽ chỉ sang Richard Parker và nói to “Này là con mèo của Thượng đế!” Tôi sẽ chỉ vào chiếc xuồng và nói to “Này là chiếc bè cứu nạn của Thượng đế!” Tôi sẽ xòe hai bàn tay thật rộng ra biển và nói to “Này là những dải đất mênh mông của Thượng đế!” Tôi sẽ chỉ lên trời và nói to “Này là lỗ nhĩ của Thượng đế!”  … Nhưng cái mũ của Thượng đế lúc nào cũng chực tuột ra. Áo quần của Thượng đế cứ rách nát dần. Con mèo của Thượng đế luôn là mối hiểm họa. Chiếc bè cứu nạn của Thượng đế là nhà tù. Dải đất mênh mông của Thượng đế đang giết dần giết mòn chính tôi. Và lỗ nhỉ của Thượng đế dường như không hề lắng nghe tôi. Và vì thế, Pi vẫn tiếp tục sống bằng cách bắt cá, bẫy rùa, hứng nước mưa, ngắm nhìn đại dương, cầu nguyện, tập tành huấn luyện con hổ Richard Parker bằng chiếc còi… và tự chế ngự nỗi sợ hãi của chính mình… Photobucket  “Có nhiều người trong số chúng ta chịu bỏ cuộc chỉ với một tiếng thở dài. Những người khác chiến đấu chút đỉnh, rồi mất hy vọng. Nhưng một số khác nữa, trong đó có tôi, thì không bao giờ bỏ cuộc. Chúng tôi chiến đấu và chiến đấu và chiến đấu. Chính tôi chiến đấu bất kể giá nào, bất kể những thất bại phải chịu, bất kể sự bất khả chiến thắng. Chúng tôi chiến đấu đến tận cùng. Đó không phải là vấn đề can đảm. Nó là một cái gì đó thuộc về bản chất, một tình trạng không có khả năng đầu hàng. Có thể cũng chỉ là sự ngu ngốc của lòng ham sống mà thôi”. Thế nhưng, sau khi dạt vào bờ biển Mexico sau 227 ngày cùng nhau trôi dạt trên ngọn sống, con hổ Richard Parker đã dửng dưng bỏ Pi kiệt sức ở mép nước để chạy vào rừng. Pi không trách móc chú hổ, chú đã lựa chọn cho mình con đường riêng để tồn tại. Chú hổ vừa là kẻ đã đe dọa mạng sống của Pi nhưng cũng đã làm cho Pi có động lực phải sống, phải tồn tại. Nếu không có chú, Pi đã chết vì cô đơn, vì tuyệt vọng. “Richard Parker, xong rồi. Chúng ta sống rồi. Mày có tin không? Tao không thể nói hết lòng tao biết ơn mày. Không có mày thì tao đã hỏng rồi. Tao muốn nói một cách chính thức rằng tao cảm ơn mày, Richard Parker ạ. Cảm ơn mày vì đã cứu mạng tao. Và bây giờ thì mày hãy đi đến nơi mày phải đến. Mày đã biết cái tự do trong khuôn khổ của một vườn thú gần hết cả cuộc đời; giờ đây, mày sẽ biết cái khuôn khổ tự do của một khu rừng. Tao chúc mày may mắn. Hãy đề phòng Con Người. Nó không phải là bạn mày. Nhưng tao hy vọng mày sẽ nhớ đến tao như một người bạn. Tao sẽ không bao giờ quên mày, đó là điều chắc chắn. Mày sẽ luôn ở bên tao, trong trái tim tao.” Cuộc đời của Pi khiến cho những viên ngọc vô hình tôi cóp nhặt được ở văn chương và cuộc đời va chạm nhau, khẳng định và chối bỏ nhau, tối đi và sáng lên bên cạnh nhau, xốn xang và trầm lắng  Dịch giả Trịnh Lữ Mời các bạn đón đọc Cuộc đời của Pi của tác giả Yann Martel.
Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời - Haruki Murakami
Tên ebook: Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời (full prc, pdf, epub) Tác giả: Haruki Murakami Thể loại: Tiểu thuyết, Tình cảm, Văn học Nhật bản Dịch giả: Cao Việt Dũng Nhà xuất bản: Hội nhà văn và công ty Nhã Nam Đánh máy: Wanderer, akhin, Becon53 Thực hiện ebook: Becon53 Nguồn: e-thuvien.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời Giới Thiệu:   Đó là câu chuyện đau đớn, khuấy động một cách ám ảnh. Một cuốn sách đẹp, gần như là mịn màng về những tầng sâu không thể dò đến của chúng ta. Ngay từ nhỏ, cậu bé Hajime đã nhận thức sự bối rối và mặc cảm thân phận "con một", chẳng giống những đứa bạn cùng trang lứa. Và sau này, người bạn gái thân nhất của Hajime, Shimamoto-san cũng thuộc diện "con một" hiếm hoi. Đến người con gái mà Hajime lao vào với niềm đam mê khoái lạc không thể kiểm soát được, cũng là "con một"... Khuấy động ngay từ đầu câu chuyện là một chàng trai quá nhạy cảm với xung quanh như thế. Năm 37 tuổi, Hajime đã có một cơ ngơi đáng để anh mỉm cười hài lòng, một công việc vừa kiếm ra tiền, vừa thỏa mãn sở thích cá nhân, một người vợ xinh đẹp mà anh hết lòng yêu mến, hai đứa con thơ lúc nào cũng quấn quít chân bố. Cũng như nhiều đàn ông khác ở lứa tuổi này, Hajime cũng có tình nhân, nhưng chỉ là thoáng qua mà không đọng lại chút dư vị nào. Và Hajime đã yêu, yêu một người chỉ duy nhất có cái tên và tình bạn thời quá khứ hơn 20 năm. Khó mà lý giải điều gì đã khiến một người đàn ông đầy chuẩn mực với gia đình và công việc như Hajime đã lần lượt cởi trói những gì đang bó buộc mình. Phải chăng đó là sự mong manh giữa một người phụ nữ quá mơ hồ đến cùng những lời hẹn "có lẽ", "có thể", "một khoảng thời gian nữa"? Phải chăng anh yêu cô như muốn tìm lại quá khứ của chính mình? Phải chăng anh đang muốn kiếm tìm lời lý giải về ranh giới giữa thực và hư? Rốt cuộc thì bao sốt ruột chờ trông mong mỏi của Hajime cũng được đền bù thoả đáng khi họ cùng trốn gia đình để đến với nhau, bất chấp chuyện gì xảy ra. Rốt cuộc thì cả hai lần đầu tiên được yêu nhau như người đàn ông yêu một người đàn bà. Rốt cuộc thì cả hai đã tìm ra sự hòa hợp hoàn hảo của cơ thể... Nhưng ngay cả ở chốn tưởng như đã là tận cùng đó, họ vẫn không thể đến được với nhau.   Không phải Hajime mà tất cả những người phụ nữ trong cuốn sách này đều bọc mình trong lớp màn bí ẩn. Đằng sau tình yêu trong veo của cô gái Izumi là một mối hận khiến cô trở thành vô cảm. Đằng sau cô vợ Yukiko ngọt ngào và xinh đẹp là một lần tự tử hụt cùng những nỗi đau dẳng dai bên mình. Còn đằng sau Shimamoto-san là một thứ gì mà không ai có thể chạm tới được... Có những gì?” có lẽ là câu hỏi mà cuốn sách nhỏ của Haruki Murakami đặt ra. Có những gì ở phía Nam biên giới, khi đó không chỉ là nước Mêxicô; có những gì ở phía Tây mặt trời, khi đó không chỉ là một chứng bệnh của những người nông dân Xibêri sống trong cảnh ngày đêm không phân cách; và có những gì trong những diễn tiến cuộc đời mỗi con người? Không chỉ cuộc đời ít chi tiết của Shimamoto-san mới gây băn khoăn, mà ngay cả ba giai đoạn được miêu tả hết sức rõ ràng của cuộc đời Hajime cũng không hoàn toàn làm thỏa mãn những người quen với những văn chương được tác giả chú tâm giải thích kỹ càng. Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời không yêu cầu người đọc diễn giải. Rất nhiều chi tiết trong đó thuộc về “tiểu sử ngoài đời” của Murakami, nhưng câu chuyện đơn giản được kể trên nền nhạc của Nat King Cole và Duke Ellington, với hương vị lạ lùng của những ly cocktail Daiquiri và Robin’s Nest có một khả năng đặc biệt: nó không cho phép mọi cách giải thích dễ dãi. Những câu hỏi liên tiếp hiện ra trong tâm trí Hajime, về ý nghĩa cuộc đời cũng như của từng trải nghiệm dù nhỏ đến đâu, sẽ dần truyền sang người đọc, và đến khi kết thúc, rất có thể sự hoang mang về ranh giới giữa thực và hư, chân thành và giả tạo, quy tắc và ngoại lệ sẽ là điều duy nhất mà người đọc “gặt hái” được. Điều này cũng không thật sự lạ, vì, đã trở thành quy luật, những câu trả lời thì qua đi, còn câu hỏi thì ở lại. Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời là cuốn tiểu thuyết chứa đựng nhiều nhất con người thật của Haruki Murakami, và là câu chuyện đơn giản nhất mà Murakami từng kể. Tuy vậy, đơn giản không có nghĩa là dễ hiểu, và một lối kể chuyện giản dị không loại bỏ những nỗ lực kín đáo trong việc thoát ra khỏi những lối đi văn chương đã cũ mòn.   "Sự kết nối" dễ thấy giữa Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời và những tác phẩm khác của Murakami có lẽ là năng lực đặc biệt của nhà văn Nhật Bản đối với cách tạo ra và xử lý cái bí ẩn. Không có mật độ dày đặc như trong  Biên niên ký chim vặn dây cót hay Kafka bên bờ biển, cái bí ẩn ở đây giống như những đoạn nhạc jazz biến tấu ngẫu hứng trên nền của những bản nhạc cũ, và chính là cái để lại dư vị lâu nhất cho người đọc.   Nhận xét:   "Cuốn tiểu thuyết cảm động và sâu sắc nhất của ông" – The Boston Globe "Mê hoặc... Đó là một câu chuyện đau đớn, khuấy động, xuất sắc một cách ám ảnh"  – The Baltimore Sun "Một cuốn sách đẹp, gần như là mịn màng về những tầng sâu không thể dò đến được của chúng ta"  – The Philadelphia Inquirer "Được viết bằng một ngôn ngữ thật trôi chảy, chuyển từ một thứ biệt ngữ tỉnh lẻ hoang vắng... thành một ngôn ngữ đầy chất thơ ca, một cách đáng kinh ngạc" – San Francisco Examiner & Chronicle "Ám ảnh và tự nhiên... Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời êm ái đưa người đọc từ những mối bận tâm thường nhật đến chứng tâm thần tiềm ẩn, như thể thách thức n iềm tin của mỗi chúng ta vào thế giới vật chất... chứa đựng những đoạn văn thuộc loại hay nhất của Murakami" – The New York Observer “Haruki Murakami áp dụng chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Nhật Bản đầy tài hoa của mình – tối giản, mềm mại, và lạ lùng một cách trong suốt – vào một câu chuyện đẹp về tình yêu tuổi thơ đã mất.” – New York Haruki Murakami sinh năm 1949 tại Kyoto. Ông lấy vợ là bạn học ở đại học, và hai người mở một câu lạc bộ nhạc jazz tại Tokyo mang tên Peter Cat. Thành công lớn của tiểu thuyết Rừng Na-uy (1987) đã khiến ông trở thành nhà văn danh tiếng của Nhật Bản. Ông ra nước ngoài sống và trở về vào năm 1995. Một số sách đã xuất bản của ông: Sau động đất, Nhảy nhảy nhảy, Xứ sở kỳ diệu vô tình và Nơi tận cùng của thế giới, Cuộc săn cừu hoang, Biên niên ký chim văn dây cót, Ngầm dưới đất Cuốn sách phi giả tưởng đầu tiên của ông), Người tình Sputnik, và Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời. Sách của ông đã được dịch ra mười sáu thứ tiếng và xuất bản khắp thế giới. Ông cũng là người đã dịch ra tiếng Nhật nhiều tác phẩm của F. Scott Fitzgerald, Truman Capote, John Irving và Raymond Carver.   Về tác giả: Nhà văn Haruki Murakami Haruki Murakami, nhà văn Nhật Bản lừng danh, là tác giả nhiều tiểu thuyết thuộc hàng bán chạy nhất thế giới đồng thời nhận được sự đánh giá cao của giới phê bình nghiêm túc, “hàn lâm”. Nhiều tác phẩm của ông đã dịch ra tiếng Việt và được người đọc Việt Nam ưa thích, như: - Rừng Na Uy, - 1Q84 -  Biên niên ký Chim vặn dây cót, - Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời, - Kafka bên bờ biển, - Người tình Sputnik, - Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, - Cuộc săn cừu hoang, - Nhảy nhảy nhảy… Mời các bạn đón đọc Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời của tác giả Haruki Murakami.  
Tình Yêu Thời Thổ Tả - Gabriel García Márquez
Tên Ebook: T ình Yêu Thời Thổ Tả (full prc, pdf, epub) Tác Giả: Gabriel García Márquez Nguyên tác: El amor en los tiempos del cólera Thể Loại: Tiểu thuyết, Tình cảm, Lãng mạn, Văn học phương Tây Dịch Giả: Nguyễn Trung Đức Nhà xuất bản: Văn Học Năm xuất bản: 2008 Số trang: 535 Khổ sách: 13 x 19 cm Giá bìa: 64.000 VND Đánh máy: Tuấn Hải, Quan Trường, Hải Anh, Hồng Nhung, Khánh Dư, Duyên, Phương Thúy, Mỹ Linh, Bảo Trân, Văn Định, Hồng Nhung, Ngọc Nở, Trịnh Cường Soát lỗi: Thu Hằng, Thu, Đức Đặng Nguồn: sgtt.vn Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Tình Yêu Thời Thổ Tả - Gabriel García Márquez Giới thiệu:   Tình yêu thời thổ tả là câu chuyện tình say đắm giữa một người đàn ông tên Phlorênhtinô Arixa - con một bà bán hàng vặt, với một người phụ nữ tên Phecmina Đaxa - con một nhà buôn hãnh tiến, giàu có mới phất nhờ ăn cắp và gian lận. Khi mới lớn lên, họ yêu nhau nồng nàn nhưng không lấy được nhau vì họ quá trẻ, không có kinh nghiệm sống cũng như nghị lực lớn để chiến thắng quan niệm môn đăng hộ đối trong hôn nhân. Hơn năm mươi năm, họ sống xa mặt nhưng không cách lòng với bao sóng gió cuộc đời. Phecmina Đaxa nhẫn nhục sống làm vợ - một thứ đồ trang sức và một nàng hầu - của bác sĩ Ucbino Đê la Cadê, một thân hào đầy thế lực của giới thượng lưu. Phlorênhtinô Arixa vì thất tình nên một mặt lao vào làm giàu bằng mọi thủ đoạn, cả tốt lẫn tàn nhẫn, để trở thành chủ hãng tàu thủy như điều ông ta mong ước và mặt khác, để thỏa mãn nhục dục, ông ta lao vào “chơi gái” đủ mọi hạng: gái chưa chồng, gái muộn chồng, gái chê chồng và chồng chê, gái nạ dòng và cả gái tơ, nhưng không lúc nào không mơ tới Phecmina Đaxa và chỉ chờ ngày Đê la Cadê chết để nối lại quan hệ với nàng. Dịp ấy đã đến khi cả ông lẫn bà đã ngoài bảy mươi tuổi. Bằng sự từng trải của mình, bằng địa vị xã hội đã đạt được, cả hai nối lại tình yêu và trở lại yêu nhau đắm đuối như lúc trước. Nhưng vì đã quá già nên hai người đã không đủ sức thắng nổi những định kiến, thành kiến của xã hội hủ lậu từng bóp chết mối tình đầu của họ. Và thế là họ trốn lên tàu thủy và chỉ hai người sống với nhau trên chiếc tàu treo lá cờ vàng - dấu hiệu có người bị bệnh thổ tả - chạy ngược rồi chạy xuôi trên dòng sông Măcgơđalêna - dòng sông của Đêmôcrit.   Có thể nói, Tình yêu thời thổ tả là một bản cáo trạng đanh thép đối với một xã hội hủ lậu dựa trên sự đánh giá con người không bằng phẩm giá người mà bằng số của cải anh ta có được. Nó đã bóp chết bao mối tình trong sáng và tươi đẹp. Muốn có tình yêu và hạnh phúc tình yêu, con người nhất thiết phải được giải phóng khỏi xã hội đó. Nhưng tác giả đã không dừng lại ở chỉ một thông điệp này, ông còn đi xa hơn nữa khi nói rằng: Tình yêu thời thổ tả là sự suy nghĩ về tình yêu của con người ở mọi lứa tuổi. Con người không chỉ yêu nhau khi đang độ thanh xuân, khi đang ở tuổi tráng niên mà còn yêu nhau khi đã tóc bạc răng long và chính ở tuổi này, họ yêu nhau chân thực hơn và vì thế cũng da diết hơn, si mê hơn.   Với Tình yêu thời thổ tả , tình yêu đích thực là chiếc chìa khóa vàng giúp con người mở cửa tâm hồn mình, để hòa vào nhau, đến với nhau trong cuộc đấu tranh chống lại nỗi cô đơn muôn thuở. Đồng thời, với nụ cười hóm hỉnh, dường như tác giả Marquez muốn cảnh tỉnh những ai đang đùa cợt với ái tình, đang lợi dụng tình yêu để thỏa mãn nhục dục của mình. Những người đó hãy nhận thức về nỗi cô đơn vì sớm muộn gì thì nó cũng nuốt chửng họ sau khi nhục dục đã được thỏa mãn...   Tình yêu thời thổ tả chính là thứ tình yêu thủy chung, tình yêu trong sáng nhất. Chứng kiến mối tình của Phlorênhtinô Arixa và Phecmina Đaxa, độc giả mới hiểu được rằng: Trong tình yêu chỉ tồn tại duy nhất thứ gọi là tình yêu, còn tất cả những điều thuộc về xã hội, với những quy tắc, lý thuyết, dư luận…. và ngay cả thời gian cũng đều trở nên vô nghĩa. Tình yêu bất tử là một tình yêu, mãi mãi vẫn là tình yêu. Cuộc sống chóng tàn, hữu hạn nhưng tình yêu là một ngọn nến cháy mãi, vô cùng. Câu chuyện Tình yêu thời thổ tả vẫn còn mãi trong cuộc đời này chỉ đến khi nào tình yêu kết thúc, nhưng có thể chắc chắn một điều là, tình yêu không bao giờ có điểm dừng lại, cũng giống như tình yêu của hai nhân vật chính trong câu chuyện của Marquez...   Tình yêu thời thổ tả được xuất bản năm 1985 và được tạp chí New York Times đánh giá là một trong những thiên tình sử đẹp nhất mọi thời đại, là “tuyên ngôn cho sự bất diệt của trái tim”.   Ngoài ra, tác phẩm này cũng đã có mặt trong danh sách 100 tác phẩm văn học viết bằng tiếng Tây Ban Nha xuất sắc trong 25 năm qua, theo bình chọn của tạp chí Semana của Colombia năm 2007.   Tình yêu thời thổ tả được Gabriel Garcia Marquez viết ngay sau khi ông đoạt giải Nobel văn học năm 1982 với cuốn Trăm năm cô đơn. Nội dung của tiểu thuyết này dựa trên chính chuyện tình yêu của cha mẹ Marquez. Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim với nhan đề Love in the time of Cholera. TÁC GIẢ       Gabriel José García Márquez (6 tháng 3 năm 1928 - ) là một nhà văn người Colombia nổi tiếng. Ông còn là nhà báo và một người hoạt động chính trị.   Nổi tiếng với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả (El amor en los tiempos del cólera) , Mùa thu của vị trưởng lão (El otoño del patriarca), Tướng quân giữa mê hồn trận (El general en su laberinto) và hơn cả là Trăm năm cô đơn (Cien años de soledad), García Márquez là một đại diện tiêu biểu của nền văn học Mỹ Latinh. Tên tuổi của ông gắn liền với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. García Márquez được trao Giải Nobel Văn học năm 1982.   Gabriel José García Márquez sinh tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Colombia, trong một gia đình trung lưu 11 người con mà ông là con cả. Cha của Marquez là Gabriel Eligio Garcia, một nhân viên điện tín đào hoa có nhiều con ngoài giá thú cả trước và sau khi kết hôn. Mẹ của Marquez là bà Luisa Marquez. Gabriel García Márquez lớn lên, những năm tháng đầu tiên trong một đại gia đình, ông ngoại là Nicolas Marquez, một cựu đại tá theo phái tự do từng chiến đấu trong cuộc Chiến tranh Một ngàn ngày, bà ngoại là Tranquilina, cùng nhiều bác, dì...   Sau thời gian tuổi thơ, ông cùng cha mẹ chuyển đến Sucre, nơi cha của ông có một hiệu thuốc và hành nghề chữa bệnh bằng liệu pháp vi lượng đồng căn. Năm 1936, Marquez được bố mẹ gửi đến Barranquilla và Zipaquirá học phổ thông. Tới năm 1947, García Márquez tới Bogota, thủ đô của Colombia theo học tại Đại học Quốc gia Colombia và bắt đầu tham gia viết báo cho tờ El Espectador và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Năm 1948, ông tham cùng các sinh viên thủ tham gia biểu tình phản đối vụ ám sát Jorge Eliecer Gaitan, một chính khách tiến bộ, ứng cử viên tổng thống Colombia.   Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   - Ngài đại tá chờ thư - NXB Văn Học 1983.   - Ngài đại tá chờ thư (tập truyện), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 2001.   - Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hải Phòng - NXB Đồng Nai, 1987.   - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Thanh Niên, 1989.   - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2001.   - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học - NXB Hội Nhà Văn, 1990.   - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1999.   - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1995.   - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2004.   - Tình yêu thời thổ tả (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1995.   - Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986.   - Trăm năm cô đơn (iểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1993.   - Tin tức về một vụ bắt cóc (tiểu thuyết), Đoàn Đình Ca dịch, NXB Đà Nẵng, 1999.   - Những người hành hương kì lạ (tập truyện ngắn), Phan Quang Định dịch, NXB Thanh Niên, 2002.   - Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn học 2004.   - Truyện ngắn tuyển chọn, Nguyễn Trung Đức dịch và giới thiệu, NXB Văn học, 2008.   - Sống để kể lại (hồi kí), Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005.   - Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (tiểu thuyết), Nhóm First News dịch, NXB Tổng hợp TPHCM, 2005.   - Dấu máu em trên tuyết (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1997.   - Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong cuốn Thời cơ của Matraga, NXB Mũi Cà Mau, 1986.   Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Thời Thổ Tả của tác giả Gabriel García Márquez.