Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lẵng Quả Thông - K. G. Paustovsky

Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Mátxcơva. Dòng họ ông gốc kazak1 miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev.   Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Mátxcơva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đậu lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát.   Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề “gia sư”.   Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác.   Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí “Những Ngọn Lửa”, là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học Tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Mátxcơva và ở hẳn thành phố này từ đấy.   Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Mátxcơva.   Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình – “Những Kẻ Lãng Mạn”. Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye.   Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Mátxcơva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: “Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền Xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau”.   Sau thời gian ở Mátxcơva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin… Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư.   Năm 1923, Paustovsky trở về Mátxcơva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời.   Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn “Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau”.   Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn “Kara-Bugaz” và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong “Bông Hồng Vàng”.   Sau khi “Kara-Bugaz” ra đời, Paustovsky xin ra ngoài biên chế, tức là thôi không làm cho nhà nước và ăn lương nhà nước nữa, để chuyên viết văn, “cái công việc duy nhất, choán hết mọi việc khác, có lúc thực cay cực, nhưng là cái bao giờ tôi cũng yêu mến”. Ở chế độ Xã hội Chủ nghĩa, việc xin ra ngoài biên chế để sống tự do được coi như một việc làm không bình thường, một hành động rồ dại, hoặc một hành động dũng cảm, tuỳ theo cách nhìn của mỗi người.   Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước Xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krưm tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm…   Trong Đại chiến Thế giới lần thứ Hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận phía Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký “Những Năm Xa Xôi”, “Tuổi Trẻ Không Yên”, “Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết”.   Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ.   Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống.2   Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. *** Tập truyện ngắn Lẵng Quả Thông này gồm có: Âm nhạc verdi Chiếc nhẫn bằng thép Người đầu bếp già Chuyến xe đêm Bình minh mưa Bụi quý Hạt cát Tuyết Lẵng quả thông Cầu vồng trắng Cây tường vi *** Có một cái gì đó thật là đẹp đẽ trong sự giao tiếp của những con người dũng cảm trong phút hiểm nguy, trong cơn hoạn nạn. Trên boong tàu bọc thép của chiếc tuần dương hạm, đoàn kịch từ Matxcơva tới trình diễn vở Traviata ở ngoài trời. Những bác lái đò râu bạc tụ lại ở bến thuyền lát gỗ trên những chiếc xuồng cũ kỹ rao lên, giọng khàn khàn thúc giục:   - Ai muốn lên tàu đây? Ai muốn nghe nhạc nào? Chúng tôi sẽ đứng sát mạn tàu cho tới khi diễn xong nhé! Không chòng chành gì hết – xin cam đoan! Thế này mà chòng chành à, bà con! Những chiếc xuồng va vào nhau lủng củng gật gù hối hả chào bờ biển – sóng nhẹ đung đưa chúng. Những con ngựa thồ già yếu thường có cái lối gật đầu lia lịa như vậy.   Trên vũng biển trời lặng gió, sương chiều tỏa mờ. Những ngọn đèn tín hiệu đung đưa nhịp nhàng trên nước cạnh những mỏm đá bên bờ. Đêm mùa thu đến rất chậm. Mỗi bước đi nó lại dừng lại và mãi không sao dồn hết được những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà ra khỏi vũng biển sâu. Nhưng khi ánh sáng trên tuần dương hạm vừa lóe lên, bóng tối ồn ào đã ập xuống ngay. Nó chứa đầy âm thanh của mặt nước xáo động: tiếng sóng vỗ, tiếng nước róc rách, réo sôi. Người ta bắt đầu nghe thấy cái tất bật của hải cảng: tiếng mái chèo vội vã, tiếng máy nổ, tiếng gọi xa xa của những người lái tàu, tiếng còi rú giận dữ, tiếng sóng vỗ lớp lớp chạy trên mặt biển về khắp các ngả. Những âm thanh ấy từ bờ bến đổ về phía tuần dương hạm, nơi tiếng sáo phagốt bất ngờ vang lên trong dàn nhạc. Những chiếc canô cũng phóng ngay tới đó, bóng cờ hiệu đằng đuôi phấp phới trong nước. Tachiana Xônxeva được phân công đóng vai Viôleta. Cô đang hóa trang trong phòng của hạm trưởng, nơi các chiến sĩ thợ điện hải quân đỏ đã mắc những bóng đèn một trăm nến. Cô cài lên ngực bông hoa sơn trà và thoa phấn lên khuôn mặt gầy sút đi. Biểu diễn lúc này thật khó khăn – cô để lại ở Matxcơva một chú em bé bỏng bị ốm nặng. Chú đang nằm viện chờ một ca mổ. Xônxeva đang lo lắng nên không thấy gì cả: mặc thành phố xôn xao tiếng lá khô và gió thổi, mặc vô vàn đốm lửa như đàn ong vàng, vo ve lượn đi lượn lại trên vũng tàu, mặc cái không khí kỳ lạ tỏa khắp đường phố, mùi đá ẩm ướt và mùi cỏ đắng.   Cuộc phẫu thuật ấn định tiến hành sáng hôm nay, nhưng đến giờ phút này vẫn chưa có điện báo từ Matxcơva tới.   Xônxeva bước ra boong tàu hai bên chăng vải bạt. Những chiếc cần viôlôngxen gác trên tháp pháo màu gio. Âm nhạc Verđi rung lên trong sự yên tĩnh của con tàu bọc thép. Hàng trăm thủy thủ trẻ nín thở lắng nghe tiếng hát buồn thảm của Viôleta. Tiếng nhạc vang xa đến các bờ biển lân cận.   Những chiếc xuồng nhấp nhô bên mạn tàu. Người xem ngẩng đầu nhìn lên boong. Những bác lái thuyền cố gắng không làm mái chèo phát ra tiếng động và khi thuyền va vào nhau, họ chỉ lặng lẽ giơ nắm đấm lên, thay cho những trận đấu khẩu thường ngày.   Người trợ lý đạo diễn đứng đằng sau tháp súng như ở sau cánh gà có vẻ lo lắng. Trong túi anh ta có bức điện gửi cho Xônxeva. Anh cũng không biết nên bóc ra xem hay cứ để vậy đưa cho Xônxeva sau buổi diễn. Anh thì thầm trao đổi với người quản lý nhà hát.   Ông này giằng bức điện khỏi tay anh và bóc ra: - Không có gì đặc biệt, - ông ta vừa nhai nhai cái tẩu vừa nói, - cuộc phẫu thuật phải đình lại vì bệnh nhân mệt nặng. Giờ nghỉ anh có thể nói với cô ấy.   Người trợ lý đạo diễn nhăn nét mặt rồi gật đầu. Anh thợ lò Vaxia Tsukhốp mang cái biệt hiệu như mọi anh thợ đốt lò khác là “đồ quỷ sứ” được giao việc kéo chiếc màn làm bằng những cờ hiệu khâu lại. Vaxia nhỏ bé, chắc nịch, mặt đỏ gay vì gắng sức, không rời mắt nhìn người trợ lý đạo diễn. Cái anh chàng nhanh nhẩu nôn nóng này phải giơ tay ra hiệu cho Vaxia khi cần kéo màn.   Vaxia đã nghe hết câu chuyện ở bên tháp pháo. Nụ cười rạng rỡ từ từ tắt trên môi anh. Sang màn hai Xônxeva bước ra sân khấu rất luống cuống. Cô vừa đọc bức điện lúc giải lao. Cô thấy choáng váng chóng mặt. Khi Anfrết quỳ phục dưới chân cô, cô cúi xuống hôn vào thái dương non trẻ của anh. Một đường ven xanh mảnh nổi lên chỗ thái dương giống hệt như ở đứa em cô.   Xônxeva nuốt ực không khí rồi khóc. Nước mắt trào ra, nhưng cô vẫn hát. Giọng cô run run. Cô nhìn thấy những đốm sáng mờ ướt át và không nhận ra đó là ánh đèn sân khấu, ánh sao dưới nước, hay gương mặt xanh xao của các chiến sĩ hải quân. Lúc đó Vaxia Tsukhốp hạ màn, bất chấp tiếng kêu giận dữ ở phía sau tháp pháo. Anh đã không nghe lời. Mặt anh đanh lại. Đáp lại tiếng thì thào phẫn nộ của người trợ lý đạo diễn, anh trả lời hằn học và cộc lốc: - Anh sẽ phải tiếp chuyện vị chỉ huy con tàu đấy, tôi sẽ báo cáo mọi việc với đồng chí ấy. Boong tàu vang lên tiếng vỗ tay. Những khán giả chất phác cho vở kịch dừng lại là hoàn toàn hợp lý, sau cái cảnh căng thẳng đầy đau khổ như lúc Viôleta đầm đìa nước mắt. Không ai biết là vở kịch bị “đồ quỷ sứ” cắt ngang lúc mới bắt đầu.   Tsukhốp lại gần vị chỉ huy con tàu ngồi ở hàng đầu và báo cáo với ông về sự việc xảy ra. Chỉ huy trưởng đứng dậy. Đó là một người tóc bạc, ít nói. Trong đời mình, ông đã nhiều lần nhìn thấy cái chết trong những trận chiến cách mạng, nhiều phong ba và sự hy sinh của bao đồng đội. Ông đã từng biết sự tàn khốc trong chiến đấu, sự nghiêm ngặt của mệnh lệnh. Ông cô đơn. Tất cả những gì ông có trước cách mạng đều đã tan biến trong màn sương ảm đạm - cả xóm thợ mỏ Đô-nhét, cái trường làng bẩn thỉu, cả những con người của thời ấy mà chỉ để lại cái ấn tượng của một đám đông hoang mang mệt mỏi. Cách mạng đã xóa bỏ quá khứ bằng bàn tay cứng rắn, gieo vào ý thức sự giản dị và rõ ràng. Ông trung thành với cách mạng như một người lính, một thợ mỏ và một người có trí tuệ trong sáng và chính xác. Vị chỉ huy đứng dậy đi lên sân khấu. Boong tàu vẫn vang dậy tiếng gót giày và vỗ tay của các thủy thủ. Ở hậu trường, người phụ trách nhà hát, mặt tái đi vì tức giận, đón chỉ huy trưởng.   - Xin đồng chí yên tâm, - ông ta nói vội vã, - chúng tôi sẽ thu xếp ổn thỏa ngay bây giờ. Chuyện vớ vẩn, sự yếu đuối thường tình của phụ nữ đó thôi. Cô ấy sẽ hát.   - Cô ấy sẽ không hát nữa, - chỉ huy trưởng khoan thai nói. – Các đồng chí cho ngừng buổi diễn lại! Người phụ trách nhà hát nhún vai, cười khẩy: - Không thể được. Nhà hát chúng tôi làm việc theo kiểu tiên tiến, không thể vì tâm trạng diễn viên mà đình vở diễn được. Hơn nữa, có gì cần phải nói? Cô ấy đã trấn tĩnh và hoàn toàn có thể diễn tiếp.   Vị chỉ huy quay sang Xônxeva. Cô không nhìn ông, gật đầu.   - Đồng chí thấy là cô ấy đồng ý đấy, - người phụ trách nhà hát nói và vứt mẩu thuốc xuống boong tàu.   Câu chuyện này bắt đầu làm ông khó chịu. Vừa khó xử, vừa xấu hổ. Vị chỉ huy thoáng nhìn mẩu thuốc, và Vaxia Tsukhốp tức khắc gạt khẽ nó xuống biển.   - Các đồng chí đang ở trên hạm đội của hải quân đỏ. - Chỉ huy trưởng nói, bên má có vết sẹo của ông khẽ giật giật. – Xin lỗi đồng chí, nhưng ở đây tôi là người thừa hành quyền lực nên tôi cho phép mình can thiệp vào việc quản lý của đồng chí. Về công việc theo kiểu tiên tiến đồng chí quan niệm hoàn toàn sai lầm. Sự đồng ý của diễn viên không có ý nghĩa. Tôi ra lệnh hoãn buổi diễn này lại. Thế thôi. Không bàn cãi gì nữa.   Vị chỉ huy giơ tay và Vaxia Tsukhốp kéo màn. Khán giả im bặt.   - Các chiến sĩ hải quân đỏ! - Vị chỉ huy điềm đạm nói, - nữ diễn viên Xônxeva có chuyện không may trong gia đình, khó mà diễn tiếp được…   Tiếng xì xào truyền lan trong hàng thủy thủ. Mọi người đứng cả dậy. Vị chỉ huy không kịp nói vở kịch hoãn lại đến một ngày tốt đẹp hơn. Điều đó thì không cần lời giải thích của chỉ huy các chiến sĩ cũng hiểu.   - Cho ca nô lại gần tàu! - Chỉ huy khẽ ra lệnh.   - Rõ, cho ca nô lại gần tàu! Ca nô lại gần tàu! - Mệnh lệnh được truyền dần cho đến khi tắt ở boong dưới. Mấy phút sau vị chỉ huy cùng Xônxeva xuống thang tàu. Anh thượng sĩ cao lớn vạm vỡ trân trọng đặt lên cạnh chỗ Xônxeva ngồi một bó hoa, mặt đỏ lựng và khẽ hô lên:   - Hết tốc lực, tiến!   Ca nô đẩy lùi về phía sau thác nước đầy ánh lửa và bọt trắng, phóng về bến tàu. Vị chỉ huy ngồi trên ca nô nói:   - Tôi đã liên lạc với tư lệnh hạm đội. Cô được dành một chỗ trong chuyến tàu tốc hành đi Matxcơva. Chưa muộn đâu. Còn bốn mươi phút nữa.   Xônxeva cúi đầu. Cô lần lần những bông hoa mà không nói lên lời.   - Thưa đồng chí chỉ huy, - anh thượng sĩ cao lớn nói khẽ nhưng đủ cho Xônxeva nghe thấy, - báo chí viết là ở Matxcơva có một giáo sư mổ tim dễ như mổ gà ấy. Giá mà được ông ta…   - Im đi, Kuzmenkô! - Vị chỉ huy nói. Khoảng một giờ sau tàu tốc hành nhả khói ầm ầm lao ra khỏi đoạn đường hầm cuối cùng. Ánh lửa thành phố và bến tàu lùi lại sau những mỏm đá dựng đứng     * * *   Xônxeva ngồi trong phòng toa xe, không bỏ áo rét và khăn quàng. Cô loáng thoáng nhớ lại ánh đèn nhà ga, tuyết trên các nóc toa chở hàng, Maxcơva chìm trong bóng đêm cực đới, chiếc xe tắcxi cọc cạch, ánh sáng trắng đục trong hành lang bệnh viện.   Cô cũng nhớ loáng thoáng khuôn mặt của cậu em mỉm cười với cô trên giường bệnh.   - Mọi sự đã hoàn tất trót lọt. - Vị giáo sư có bộ râu nhọn dữ tướng nói với Xônxeva. – Trót lọt hiếm có đấy.   Xônxeva khẽ hôn lên thái dương non trẻ ươn ướt của em, nơi có một đường ven xanh mảnh nổi lên lờ mờ.   Và mấy giờ sau lại là đêm, nhà ga, người khuân vác mặt rỗ khó nhọc mới lấy hộ được chiếc vé, tiếng cầu sắt rầm rầm, tuyết, hoàng hôn u ám trên thảo nguyên ngoại thành Kharcôp và cuối cùng là màn sương lam trên vũng biển sâu, mặt trời cao và không khí dịu dàng của mùa thu ven biển.   Xônxeva nhảy lại gần cửa sổ - kia, tuần dương hạm vẫn đậu đó, chưa rời bến! Xônxeva luống cuống dứt dây chằng cửa sổ. Cô muốn thò đầu ra ngoài, vươn tay tới con tàu, vẫy nó rối rít bằng chiếc khăn tay trắng. Nhưng cửa sổ không mở ra và Xônxeva nhớ ra rằng đang là mùa đông và mặt trời chiếu sáng ở đây, trên các vĩ độ miền cực nam tuyệt đẹp này, là kỷ niệm cuối cùng của mùa hè. “Mong sao đoàn chưa đi nơi khác, chỉ mong đến kịp với họ”. – Xônxeva nghĩ thầm. Cô gặp lại các bạn bè trong thành phố bên bờ biển.   Một ngày sau trên chiến hạm lại trình diễn vở kịch bị bỏ dở. Khi “đồ quỷ sứ” kéo màn và Xônxeva bước ra sấn khấu, các chiến sĩ hải quân đứng cả dậy và tiếng vang của những tràng pháo tay chưa từng thấy trên vùng biển dội đến vùng bờ lân cận. Những bông hoa đồng nội giản dị rơi tới tấp xuống chân Xônxeva và hòa lẫn với đám nhung lụa trang phục cổ thành Vơnidơ. Vị chỉ huy đứng ở hàng đầu và thân ái mỉm cười. Xônxeva cúi đầu. Cô cảm thấy mi mắt nặng trĩu những giọt lệ như lần trước, nhưng đây là những giọt lệ ân tình hữu ái. Cô dằn lòng, ngẩng đầu lên mỉm cười. Ngay lúc đó dàn nhạc nổi lên và âm nhạc da diết của Verđi át cả tiếng sóng vỗ. Xônxeva rút bông sơn trà cài trên ngực ném xuống sàn. Thay vào đó cô cài bông hoa màu tím nhạt bám đầy bụi và khô héo. Đó là bông hoa vùng đất ngoại thành mà Vaxia Tsukhốp đã ném lên tặng cô. Cô hát tuyệt vời - giọng hát lanh lảnh ai oán trên vùng biển. Những ông già đánh cá ngồi trên bờ sát mạn nước, lắng nghe và kinh ngạc trước sức mạnh của tuổi trẻ con người. Chỉ huy trưởng lắng nghe và thầm nghĩ là không có gì làm cho tài năng nảy nở bằng tình bạn và sự quan tâm bình dị của đồng đội. Tưởng chừng Viôleta đang hát trên quê hương Vơnidơ. Ánh sao tỏa mờ trên những mỏm đá ven bờ. Ánh đèn xuyên tới tận đáy vịnh - nước trong đến như vậy. Không khí rung rinh vì những luồng khí nóng vô hình. Chân trời trên biển cả tuy đã về đêm, vẫn sáng lên hàng chục hải lý như đang lúc hoàng hôn. Sau buổi diễn các chiến sĩ hải quân vây xung quanh Xônxeva, nhưng họ nhanh chóng kính cẩn giãn ra. Bước lại gần Xônxeva, là một người thủy thủ cao lớn tay áo có những vòng viền vàng rộng - vị tư lệnh hạm đội. - Tôi muốn thay mặt toàn hạm đội cảm ơn đồng chí. – ông nói - Đồng chí đã đem lại niềm vui cao quý cho chúng tôi. Thế còn cậu em, đã khỏi rồi chứ? Xônxeva muốn nói rằng: không phải cô, mà chính những chiến sĩ trẻ sạm nắng này – khi thì đùa cợt, khi thì nghiêm trang, nhưng bao giờ cũng bình tĩnh và đầy thiện ý – đã cho cô được huởng một niềm hạnh phúc thực sự. Cô nghĩ rằng, với những khán giả như thế, thì cả Môda lẫn Betôven cũng phải ghen tỵ, nhưng cô không nói gì, chỉ ráng sức siết chặt tay vị tư lệnh. Gió mát thổi vào từ biển, nơi những ngọn hải đăng xa nhấp nháy trong bóng tối, trong tiếng rì rầm của làn sóng bạc đầu.   1935 MỘNG QUỲNH dịch Mời các bạn đón đọc Lẵng Quả Thông của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuyết - Maxence Fermine
Ở nước Nhật thanh nhã thế kỷ XIX. Chàng trai trẻ Vuko đã lựa chọn con đường của riêng mình: anh sẽ thành nhà thơ. Đi ngược lại mong muốn của người cha. Người họa sĩ già mù lòa Soseki, từng là samurat chiến đấu vì Thiên hoàng, dạy anh nghệ thuật thơ haiku. Bao trùm lên hai người đàn ông là hình ảnh đầy ám ảnh của người phụ nữ mất tích trong màn tuyết. Một ngôn ngữ trong sáng, súc tích và không giả tạo miêu tả tình yêu cuộc sống và cuộc kiếm tìm sự tuyệt đối. "Câu Chuyện tựa như ánh sáng và thanh tao như một bài haiku. Một câu chuyện tình yêu bất diệt" - Nhật báo La Repubbka   Maxence Fermine sinh ngày 17 tháng Ba năm 1968 tại Albertville và trải qua một phần những năm tháng tuổi thơ ở Grenoble. Tiếp đó anh đến sống ở Paris trong vòng mười ba năm. Sau khi học xong chuyên ngành văn học, anh lên đường đến châu Phi và làm việc trong một phòng nghiên cứu ở Tunisia. Nghề đầu tiên của anh là kỹ thuật viên kiến trúc đã cho phép anh có nhiều cơ hội chu du khắp nơi, nhất là đến châu Phi và giúp anh phát triển thiên hướng của mình về nghệ thuật và mỹ học. Hiện anh đang sống ở Haute-Savoie, miền Đông Bắc nước Pháp cùng vợ và cô con gái Léa tám tuổi. Anh bắt đầu sự nghiệp viết lách đã lâu nhưng đến năm 1999 mới cho xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay: Tuyết. Cuốn tiểu thuyết ngay lập tức thu hút được sự chú ý của công chúng và được coi là “một điều ngạc nhiên thú vị”. Được thành công đầu tay khuyến khích, Fermine đã chuyển hẳn sang nghiệp văn. Cũng trong năm 1999, anh ra mắt bạn đọc cuốn Cây vĩ cầm đen. Năm 2000, anh viết Người nuôi ong, cuốn sách mang lại cho anh cùng lúc hai giải thưởng Del Duca và Murat. Với sức làm việc phi thường và niềm đam mê văn học cháy bỏng, năm 2002, anh hoàn thành cuốn Thuốc phiện và năm 2003 là các cuốn Billard Blues, Khúc jazz trống, Người chơi bài poker. Năm 2004, anh nhận giải thưởng châu Âu với tác phẩm Amazone. Cuốn sách gần đây nhất của Fermine mang tựa đề Nấm mồ sao. Các tác phẩm của Maxence Fermine được dịch ra rất nhiều thứ tiếng, đặc biệt được ưa chuộng tại Ý và Tây Ban Nha. Qua mỗi tác phẩm của anh, độc giả như thấy anh đã từng trải qua nhiều thời kỳ, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa. Nước Nhật cuối thế kỷ XIX trong Tuyết, Châu lục Đen trong Người nuôi ong và Điệu tăng-gô của người Massa, Trung Quốc trong Thuốc phiện, Ý trong Cây vĩ cầm đen, Chicago những năm 1930 trong Billard Blues và thời kỳ Đức chiếm đóng Pháp đầy rối ren trong Nấm mồ sao. Mời các bạn đón đọc Tuyết của tác giả Maxence Fermine​.
John Carter và Công chúa Hoả tinh - Edgar Rice Burroughs
John Carter là một cựu binh trong cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ. Một ngày tình cờ anh bị hút vào Hỏa tinh, và nó đã khởi đầu cho cuộc phiêu lưu ly kỳ của anh trong suốt hơn hai mươi năm dài. Trải qua bao nhiêu phen vào sinh ra tử và vô số cuộc chiến, bằng lòng quả cảm, thủy chung và những đức tính rất “người” của một cư dân Trái đất, John Carter không những đã xây dựng cho mình một gia đình hạnh phúc mà còn góp phần lớn vào công cuộc đem lại hòa bình, thịnh vượng và tình yêu thương cho hành tinh vốn khô cằn và đang hấp hối này. Những thủ pháp miêu tả và cách xây dựng nội dung, tình tiết, cao trào của Burroughs đúng là của một bậc thầy, khiến độc giả không bao giờ chán và thậm chí không muốn dừng mạch đọc, dù đang theo dõi một cuộc đấu nghẹt thở hay đang lắng lòng với cảnh tự tình của hai con người yêu nhau. Ngoài ra, một trong những điểm đặc sắc của bộ truyện là tư tưởng mang tính tiên phong của Burroughs. Ngay từ đầu thế kỷ XX, ông đã có một tầm nhìn sâu sắc về môi trường, trong đó một Hỏa tinh đã từng trù phú trở nên khô khan cằn cỗi và các chủng tộc buộc phải lấy chiến tranh làm một phương tiện để trung hòa giữa dân số và nguồn tài nguyên thực phẩm hiếm hoi. Bên cạnh đó, những ý tưởng mang đầy tính sáng tạo của ông về các công nghệ trên Hỏa tinh thật sự là những yếu tố hấp dẫn và thú vị, đặc biệt của một tác giả sống trước năm 1950. Bộ Barsoom xuất bản tại Việt Nam gồm có:   - John Carter Và Công Chúa Hỏa Tinh      - John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh - John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh Tác giả: Edgar Rice Burroughs (01/09/1875 - 19/03/1950) là một tác giả người Mỹ, nổi tiếng với những tác phẩm về người rừng Tarzan và những cuộc thám hiểm của anh hùng John Carter trên Hỏa tinh. Ông từng theo học tại Philips Academy Andover và Học viện quân sự Michigan. Từ 1897 đến 1911, Burroughs đã không thành công trong nhiều lĩnh vực kinh doanh tại Chicago và Idaho. Năm 1911, Burroughs ổn định gia đình tại Chicago và bắt đầu sáng tác. Sáng tác đầu tay của ông Under the Moons of Mars đã gây tiếng vang lớn. Thành công này đã thôi thúc ông tập trung vào con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Năm 1912, tập truyện đầu tiên trong bộ truyện 25 quyển về Tarzan đã ra đời: Truyện Tarzan (Tarzan of the Apes) đã được dịch ra hơn 56 ngôn ngữ và đã trở thành đề tài hấp dẫn cho điện ảnh, các chương trình phát thanh. Ngoài Tarzan, Burroughs còn là tác giả của hơn 68 đầu sách. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Burroughs là phóng viên thường trú cho “The Los Angeles Times” và là phóng viên thường trú cao tuổi nhất (66 tuổi) có mặt tại Nam Thái Bình Dương. Mời các bạn đón đọc John Carter và Công chúa Hoả tinh của tác giả Edgar Rice Burroughs
Bài Giảng Cuối Cùng - Randy Pausch & Jeffrey Zaslow
Là con người thì ai cũng muốn sống, sống thật vui, thật hạnh phúc bên người thân và bạn bè. Nhưng Nếu ngày mai phải ra đi, ta muốn để lại gì? Giáo sư Pausch là một con người, và tại thời điểm ông chuẩn bị cho bài giảng cuối cùng của mình, ông chỉ còn sống được vài tháng. Ông có một sự nghiệp thành công, là một nhà khoa học đạt đến học vị giáo sư. Ông có một gia đình nhỏ cho riêng mình, với vợ và ba con… Những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời mình, giáo sư giảng bài, vì ông là một thầy giáo. Đặt mình vào vị trí của giáo sư Pausch, có thể ai cũng tiếc nuối nhưng bản thân tôi thì không. Ông đã có một tuổi thơ êm đềm, một gia đình lớn đầm ấm, một gia đình nhỏ hạnh phúc và sự nghiệp thành công. Tất cả những giấc mơ của ông từ thuở bé đều đã trở thành hiện thực. Ông đã đem đến hy vọng cho nhiều người, đã nâng đỡ cho giấc mơ của nhiều sinh viên, đã sống và mạo hiểm với cách trị liệu khắc nghiệt nhất để rồi khi cơ hội không còn thì vẫn có thể đứng thẳng người đợi chờ ngày kết thúc… Bài giảng của giáo sư Pausch nhẹ nhàng như chính cách ông bước lên bục giảng. Chiếc áo thun màu rêu, quần tây màu kem và nụ cười trên môi. Thật khó để tin rằng trong cơ thể người đàn ông đó có cả chục khối u ác tính. “Bài giảng cuối cùng” có 61 phân đoạn ghi lại 53 “bài giảng” – 53 câu chuyện về một cuộc đời mà trong đó, Randy Pausch là nhân vật chính, cũng là người dẫn chuyện. Những bài giảng, đúng theo ý nghĩa của nó, chuyển tải đến người nghe những thông điệp, những bài học mà đôi khi đơn giản đến mức ta đã bỏ qua trong cuộc đời mình. Câu chuyện của những ước mơ  Khi ta còn nhỏ, ta có những ước mơ thật vĩ đại như trở thành siêu nhân, anh hùng hay làm thay đổi cả thế giới… Khi ta lớn hơn một chút, những ước mơ cũng bớt vĩ đại đi một chút, như trở thành một bác sĩ, một cảnh sát hay một doanh nhân… Và đến khi ta trưởng thành, ước mơ của ta bây giờ là có một nghề nghiệp ổn định và một gia đình êm ấm. Điều đó có nghĩa là không phải ai cũng có thể giữ cho mình những ước mơ từ thời thơ ấu và thực hiện nó. Tuy nhiên, “Bài giảng cuối cùng” – bài giảng của một vị giáo sư chỉ còn sống được vài tháng lại dạy cho ta một điều khác, rằng ông đã Thật Sự Đạt Được Những Ước Mơ Tuổi Thơ. “Nếu bạn dám mơ ước điều gì, bạn sẽ có thể thực hiện điều đó.” – Walt Disney Phần lớn số trang của cuốn sách là để nói về những trải nghiệm của giáo sư Randy Pausch trong hành trình ông thực hiện ước mơ của mình. Bài giảng bắt đầu bằng một danh sách những ước mơ ngay từ khi giáo sư còn là một cậu bé. - Ở trạng thái không trọng lượng. - Chơi bóng bầu dục ở hạng quốc gia. - Viết một bài cho Bách khoa Toàn thư Thế giới. - Làm thuyền trưởng Kirk. - Thắng giải những con thú bông. - Làm một Disney Imagineer. Những ước mơ này, có cái đã trở thành sự thật, có cái còn dang dở nhưng không ước mơ nào mà giáo sư chưa thử thực hiện. Cậu bé Randy nằm dài ra bàn dang rộng cánh tay rồi tưởng tượng mình đang bay trong không trung đã trở thành giáo sư Pausch và cùng những sinh viên của mình trải nghiệm 25s không trọng lượng ở NASA… Cậu bé Randy không thể chơi bóng bầu dục ở hạng quốc gia nhưng qua bóng bầu dục đã học được những bài học đắt giá về nỗ lực và lòng tự trọng… Cậu bé Randy hâm mộ bộ Bách khoa Toàn thư Thế giới đã trở thành giáo sư Pausch được mời để viết về lĩnh vực ông giỏi nhất, thực tế ảo… Cậu bé Randy đã không thể trở thành thuyền trưởng Kirk nhưng giáo sư Pausch đã gặp được thuyền trưởng Kirk và đưa thuyền trưởng vào thế giới của ông… Những ước mơ nối tiếp nhau trong một cuộc đời, dẫn dắt một con người trưởng thành, rồi bài học lớn nhất được rút ra lại chính là “Tôi đã đạt được nhiều thứ hơn qua việc theo đuổi ước mơ này, mà không đạt được nó, so với việc theo đuổi và đạt được nhiều ước mơ khác.”Cái quan trọng không phải là làm thế nào để thực hiện được ước mơ của bạn. Nó là việc làm thế nào để dẫn dắt cuộc đời bạn. Nếu bạn dẫn dắt cuộc đời của bạn một cách đúng đắn, cái nghiệp sẽ tự thành. Các ước mơ sẽ đến với bạn. Kết thúc cũng là một cách để bắt đầu   “Không cần phải sống mới có thể yêu thương.”   Ngay ở phần đầu của cuốn sách, khi viết về khoảng thời gian chuẩn bị cho bài giảng, giáo sư Pausch đã nói như vậy. Và câu nói khiến tôi giật mình. Không sống thì làm sao yêu thương được? Thật ra, câu nói đó đúng hay sai cũng đâu quan trọng vì trên thế giới này có rất nhiều cách để thể hiện tình yêu thương của mình. Một cái ôm. Một nụ hôn. Một vài lời quan tâm. Hay một kỷ niệm, một di vật để lại. Với “Bài giảng cuối cùng” – di sản người cha để lại cho các con, các con của Pausch sẽ biết cha các em yêu các em đến chừng nào. Có thể chuẩn bị cho cái chết của mình là một may mắn chăng? Và người ra đi thì bao giờ cũng nhẹ lòng hơn người ở lại. Những day dứt của Randy Pausch về nỗi đau mà người thân của mình phải gánh chịu sẽ chấm dứt vào thời điểm cuối cùng. Nhưng có thật thế không? Pausch là một người chồng không thể chăm sóc cho người vợ yêu quý trong những ngày tháng khó khăn sắp tới… Pausch là một người cha không thể chứng kiến những đứa con của mình lớn lên và chăm sóc chúng… Thật ra thì, Randy Pausch vẫn đau đấy chứ, chỉ có điều rồi sẽ đến lúc ông không biết là mình đau lòng mà thôi. Chết là kết thúc và chấm dứt, không có thiên đường, không có địa ngục. Nhưng đó cũng là cơ hội để một người nào đó sẽ thay thế ta trên cõi đời này. Một cách khác để bắt đầu chặng đường mới. Nếu một ngày mở mắt ra và phát hiện người thân của mình không còn nữa, bạn sẽ làm gì? Giữ cho mình một niềm tin bằng những gì còn lại, đó là minh chứng của tình yêu thương. “Bài giảng cuối cùng” là bài giảng khép lại một sự nghiệp, khép lại một cuộc đời và được chia sẻ bằng cảm xúc và những câu chuyện. Những bài học đơn giản mà giáo sư Randy Pausch dạy chúng ta là cách đối mặt với hiện thực. “Chúng ta không đổi được những quân bài đã chia, chỉ có thể đổi cách chơi những quân bài đó.” Đem điều đó vào cuộc sống, ta sẽ có những bài học để thành công và thành người.   Mời các bạn đón đọc Bài Giảng Cuối Cùng của hai tác giả Randy Pausch & Jeffrey Zaslow.
Đôi Mắt Elisha
NGƯỜI HÙNG MỘT MILIMET RƯỠI! Thế giới của Tobie đang bị đe dọa! Một cái hố gặm nhấm đến tâm Đại Thụ khiến Đại Thụ bị thương tổn và có nguy cơ tử vong. Rêu và địa y xâm lấn các nhánh cành Đại Thụ. Léo Blue tàn bạo cai quản xứ Ngọn Cây và bắt Elisha làm tù binh. Dân chúng kinh sợ. Người Trụi bị săn lùn không thương ti Nhưng, Tobie đã đấu tranh trong suốt thời gian trốn chạy, và cậu không hề đơn độc. Vào thời điểm khắc nghiệt nhất mùa đông, cuộc nổi dậy nổ ra. Liệu Tobie có giải thoát thành công người thân và cứu được thế giới mong manh của cậu? Liệu cậu có gặp lại Elisha? Giữa một thế giới tí hon đáng nhớ, tập hai và cũng là tập cuối của một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng về các cuộc phiêu lưu, về tình bạn và tình yêu. "Một bước tiến tuyệt vời vào nền văn học tưởng tượng." - Le Monde "Đầy hấp dẫn, tập hai của cuốn tiểu thuyết này mang đậm nét một bản tuyên ngôn bảo vệ môi trường, lên án chế độ độc tài, tràn đầy tính cách mạng và tha thiết tình yêu thương. Timothée de Fombelle đã tạo ra một thế giới xoay quanh một cái cây, tưởng tượng ra cuộc sống của người dân ở đó từ những chi tiết nhỏ nhất. Và kết quả đạt được thật đáng ngưỡng mộ." www.ricochet-jeunes.org (Cổng văn học trẻ châu Âu) "Đôi mắt Elisha thể hiện rõ nét sự tôn kính sâu sắc dành cho sự thật, sự bạo dạn và lòng can đảm với nền tảng là mơ ước bảo vệ thiên nhiên, cội nguồn của sự sống. Các tranh minh họa đen trắng của François Place thật tinh tế và khơi dậy trí tưởng tượng của độc giả." www.amazon.fr "Ở Đôi mắt Elisha, bạn đọc được chứng kiến những hành động, những bi kịch và cả những tình huống hài hước, được khám phá những bí mật thú vị và những nhân vật có mối gắn bó không ngờ. Như trong tập đầu, tập hai cũng ca ngợi lòng dũng cảm, lẽ công bằng và tinh thần đấu tranh. Một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời dành cho tất cả những ai đồng thời yêu thích hành động và suy ngẫm." Tạp chí Je bouquine (Đọc sách) của báo Okapi "Ở tập hai này, với ngòi bút chính xác và đặc biệt là phong cách viết nhẹ nhàng, đơn giản, Timothée de Fombelle đã sáng tạo thành công hơn nữa một thế giới riêng cho tác phẩm của mình: một thế giới không theo khuôn mẫu sẵn có nào hết. Không giống của Tolkien cũng không giống của J.K. Rowling. Chỉ là thế giới của riêng Tobie!" www.livres.ados.fr Mời các bạn đón đọc Tobie Lolness Đôi Mắt Elisha của tác giả Timothée de Fombelle.