Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Viên Tướng Của Đạo Quân Chết - Ismail Kadare

Viên Tướng Của Đạo Quân Chết là câu chuyện về cuộc tìm kiếm hài cốt binh sĩ ở Anbani của một viên tướng sau 20 năm chiến tranh kết thúc - một cuộc hành trình của tâm trạng và nhận thức của một kẻ mang niềm kiêu hãnh, một nước lớn đi khai hóa văn minh cho một nước bé. Nhưng vượt lên tất cả những điều ấy là hình ảnh một đất nước Anbani hiểm trở, hùng vĩ với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời , với những con người ngoan cường dũng cảm, biết vượt qua những đau thương của chiến tranh để tự khẳng định mình...." Mê và cay đắng, viên tướng của đạo quân chết là khúc bi thương cho những người trẻ tuổi của tất cả những quốc gia đã bị đưa ra nước ngoài để chết cho cuộc chiến". *** Ismail Kadare là một nhà văn còn trẻ (ông sinh năm 1936) nhưng đã có một vị trí hàng đầu trong văn học Albania hiện đại. Ông nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu tay «Mùa xuân tương lai» sáng tác năm ông mới mười tám tuổi rồi năm 1957, ông đoạt giải thưởng văn học quốc gia với trường ca «Những niềm mơ ước». Một trường ca khác của ông - «Công chúa Argjiro» - được độc giả Albania rất ưa thích. Ông còn có một tập truyện ngắn «Đám cưới». Tuy nhiên tên tuổi ông chỉ thực sự được biết đến ở nước ngoài với cuốn tiểu thuyết «Viên tướng của đạo quân chết». Nội dung cuốn sách này thật ra rất đơn giản. Hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, một viên tướng (tác giả cố ý không nói rõ họ tên, tuổi tác, quốc tịch của hắn; người đọc chỉ «ngẫu nhiên» biết hắn cao một thước tám mươi hai và đoán chừng hắn là người Ý) cùng với một linh mục, hàm đại tá, làm thông ngôn, sang Albania để tìm kiếm thi hài các binh sĩ của đạo quân phát xít nước hắn đã tử trận ở Albania. Theo những bản danh sách và bản đồ được lập sẵn một cách công phu, tỉ mỉ, hắn và ông linh mục, có một cán bộ chuyên môn Albania và một kíp công nhân đi cùng, đã lặn lội khắp đất nước Albania, đào bới, thu nhặt những nắm xương tàn của đạo quân phát xít hai mươi năm trước đây đã bại trận. Cuộc tìm kiếm kéo dài hai năm ròng rã; các bộ hài cốt tìm thấy được bỏ vào các túi nylon đặc biệt màu xanh, sọc trắng, viền đen và gửi về cho các gia đình đã bao năm nay chờ đợi chồng con họ. Cuối cùng, viên tướng hoàn thành công việc, tổ chức lễ cầu hồn, mở một tiệc chiêu đãi nhỏ rồi lên đường về nước. Câu chuyện chỉ có vậy, bình thường và có thể nói là khô khan nữa, đến cái mức tưởng đâu như không có gì để viết được thành một cuốn tiểu thuyết. Nhưng Ismail Kadare đã biết chọn một góc nhìn độc đáo. Ông không kể lại câu chuyện theo chủ quan của ông, một người Albania, mà là thông qua con mắt của viên tướng, quân nhân một nước trước đây đã tiến hành một cuộc xâm lăng tàn bạo và đẫm máu trên đất nước Albania và giờ đây nhận nhiệm vụ đi sang Albania với rất nhiều định kiến. Ismail Kadare chỉ để cho nhân vật chính của ông nhìn thấy và kể lại những gì phù hợp với tính cách của hắn. Có thể nói đất nước Albania được miêu tả ở đây không phải là đất nước Albania của bản thân tác giả mà là một đất nước xa lạ nhìn qua con mắt của viên tướng: toàn núi non ghê rợn, với bùn lầy, mưa tuyết, gió lạnh… Ngay câu mở đầu cuốn sách đã xác định rõ cách nhìn ấy: «Mưa pha tuyết rơi trên đất khách…»; đó cũng là câu bắt đầu chương chót và cuốn sách chấm dứt với câu: «gió vẫn thổi không ngừng». Trong hai năm trời lang thang đây đó để khai quật mồ mả, viên tướng chỉ nhìn thấy có bùn lầy mùa thu và mưa tuyết mùa đông. Qua câu chuyện kể lại theo một trình tự thời gian chặt chẽ, Ismail Kadare đã không để cho viên tướng được thấy cảnh mùa xuân, cũng như không để cho ông ta có được một nụ cười. Câu chuyện bắt đầu với mưa, tuyết và kết thúc với gió thổi. Như vậy, câu chuyện không phải đơn thuần chỉ kể lại sự việc mà thực ra chính là quá trình diễn biến trong tâm tư viên tướng từ khi đặt chân lên Albania cho đến lúc ra sân bay trở về nước. Chính vì thế mà, nếu như độc giả không biết gì về tên tuổi, dung mạo, bề ngoài của viên tướng - trừ chiều cao một thước tám mươi hai, - thì trái lại, qua đoạn này, đoạn khác, đây một nét, kia một chi tiết, người ta biết rất rõ tâm trạng của hắn từng lúc một. Hắn lên đường sang Albania với quan niệm đây là một sứ mệnh cao cả, thiêng liêng; hắn rất thích thú câu nói của một mụ quý tộc nước hắn ca tụng hắn trước ngày khởi hành: «Như một con chim oai hùng và đơn độc, ngài sẽ bay lượn trên những ngọn núi lặng lẽ và bi thảm ấy để lôi kéo con em khốn khổ của chúng ta ra khỏi nanh vuốt chúng». Hắn luôn luôn muốn người Albania hiểu là hắn cầm đầu cái phái đoàn hai người, hắn là nhân vật quan trọng nhất. Hắn ngầm chê bọn tướng lĩnh ngu dốt xưa kia đã đưa quân đội nước hắn «những con em của chúng ta, oai hùng và dũng cảm», đến chỗ thất bại và bị tiêu diệt, còn hắn, hắn đến Albania để đưa các tử sĩ đó ra khỏi quên lãng. Hắn tự cho mình là đại diện của một cường quốc văn minh đi đến một nước dã man, lạc hậu, nhỏ xíu chỉ bằng một cái chấm trên bản đồ. Hắn đặc biệt chú ý tìm kiếm di hài viên đại tá Z, con trai độc nhất của mụ quý tộc giàu có, quyền thế nọ, «con cưng» của Bộ Chiến tranh, «có bản lĩnh của một thiên tài quân sự» đã «mất tích» ở Albania. Gia đình viên đại tá đã xây sẵn một ngôi mộ nguy nga bằng cẩm thạch, có dựng tượng, trồng hoa hồng để chờ đón hài cốt của «người anh hùng» đó và đặt hết hy vọng vào viên tướng… Trong một lúc rượu say chuếnh choáng, tâm sự với người bạn đồng hành, viên tướng đã thổ lộ ý muốn của hắn là «sẽ hiên ngang đi giữa những người Albania, nhìn họ một cách căm hờn và khinh bỉ»; hắn đã «hình dung trước buổi lễ bàn giao hài cốt, long trọng và nghiêm trang,» và sẽ «cho diễu các quan tài binh sĩ nước hắn giữa đám dân chúng Albania để cho họ thấy là cái chết của chúng ta còn đẹp hơn cả cuộc sống của họ»… Nhưng rồi sự việc đã diễn ra khác hẳn, như hắn về sau đã đau khổ thú nhận: «Thái độ kiêu hãnh của chúng ta biến mất trước tiên, rồi tất cả những công việc này chẳng còn gì là long trọng nữa và cuối cùng những ảo tưởng của tôi cũng tan biến và bây giờ chúng ta đi dạo trong sự hờ hững chung của mọi người, dưới những con mắt bí hiểm và giễu cợt, như những thằng hề thảm hại của chiến tranh, còn đáng thương hơn cả những kẻ đã chiến đấu và chiến bại trên đất nước này». Thật vậy, hai năm trời trèo đèo, lội suối, xuôi ngược trên khắp các nẻo đường đất nước Albania, viên tướng đã đi từ phát hiện này đến phát hiện khác, từ thất vọng này đến thất vọng khác, những định kiến của hắn sụp đổ dần. Cái bi kịch của hắn là ở chỗ chính hắn đã từng sống những ngày đầu của chiến tranh vào mùa xuân 1939, khi quân phát xít đổ bộ lên Albania: đài phát thanh nước hắn báo tin «chiến thắng» dồn dập, dân chúng Albania đem hoa ra đón tiếp những đạo quân «sẽ dẫn văn minh và hạnh phúc đến cho họ». Rồi báo chí đăng bài, tranh ảnh, ca ngợi mùa xuân rực rỡ, bầu trời, mặt biển Albania chan hòa ánh nắng, các cô gái Albania duyên dáng, những y phục và những điệu múa đầy màu sắc. Binh lính nước hắn và cả bản thân hắn nữa - lúc đó hắn đang ở châu Phi - đều náo nức mơ ước được điều sang cái nơi thanh bình, tươi đẹp ấy, dưới bóng những cây ô liu cổ thụ… Và giờ đây, chính hắn lại tới đó để thu nhặt tàn tích của chính những đạo quân ấy và đồng thời cũng là thu nhặt những bằng chứng tuyệt đối về sự thất bại thảm hại của chúng. Có những đơn vị đã bị tiêu diệt hoàn toàn, xương người lẫn lộn với xương lừa ngựa, có những tên, kể cả sĩ quan, đã đào ngũ, đi ở cho nông dân Albania để mưu cầu cái sống thừa trong ô nhục, rồi cuối cùng chết vì tay những đơn vị trừng phạt của chính quân đội phát xít. Viên đại tá Z, «người anh hùng» của hắn, thực ra chỉ là một tên sát nhân hung ác, chỉ huy «Tiểu đoàn xanh» khét tiếng tàn bạo, đã cưỡng dâm một cô bé Albania 14 tuổi khiến cô bé tủi nhục nhảy xuống giếng tự tử; y đã bị giết chết không biết chôn ở đâu. Cho đến một tối nọ, công việc sắp hoàn thành, viên tướng cao hứng tự động đến dự một bữa tiệc cưới của một gia đình nông dân Albania, một bà cụ đã ném cái túi đựng hài cốt tên đại tá Z xuống trước mặt hắn, «như nhổ vào mặt hắn», với những lời nguyền rủa thậm tệ vì bà cụ chính là mẹ cô bé Albania nọ, chồng bà cụ đã bị «Tiểu đoàn xanh» treo cổ, chính bà cụ đã giết tên đại tá Z khi tên này - không biết cô gái đã tự tử - hôm sau lại mò đến nhà cô ta. «Và trong sự im lặng chung, viên tướng từ từ cúi xuống, run rẩy nắm lấy cái túi bê bết bùn,… hất lên vai, khom khom đi ra, như mang trên vai tất cả nỗi sỉ nhục và sức nặng của trái đất.» Bên cạnh những mẩu chuyện biết được về từng trường hợp binh sĩ nước hắn, viên tướng cũng được biết nhiều chuyện về người Albania, về truyền thống và phong tục tập quán Albania, về cuộc chiến đấu của nhân dân Albania… Sự hy sinh của Nik Martini, một người dân miền núi, đã để lại trong lòng hắn một ấn tượng sâu sắc: Nik Martini đã một mình vác súng đi xuống bờ biển, một mình đương đầu với cả đạo quân đổ bộ, đông như kiến cỏ. Tất nhiên, như viên tướng xác nhận, anh đã chiếm được một vị trí chiến đấu lợi hại, chỉ có trọng pháo mới đánh bật được anh ra khỏi đó, nhưng dù sao thì Nik Martini, cũng như biết bao người Albania khác, từng nhóm năm ba người một, hoặc đơn độc một mình, từ khắp nơi đổ đến bờ biển để cản đường quân xâm lược rồi hy sinh, không để lại dấu vết, trừ những bài hát của nhân dân sáng tác để ca ngợi và tưởng nhớ họ, - dù sao đi nữa, viên tướng cũng cảm thấy kinh ngạc, xấu hổ: Ních Martini, cũng như các chiến sĩ Albania khác, là những hình ảnh hoàn toàn khác hẳn binh sĩ nước hắn, khác hẳn tên đại tá Z. Một bên là những con người chân chính, biết mình chiến đấu cho cái gì và bất chấp những cuộc giao phong chênh lệch, đã dũng cảm lao vào quân thù, làm trọn nhiệm vụ con người của họ; một bên là sức mạnh mù quáng, ngu ngốc, hung ác và xét cho cùng, hèn nhát. Rút cuộc, chuyến đi hai năm trời của viên tướng là một nỗi ê chề, nhục nhã kéo dài, một cơn ác mộng, lắm lúc khiến hắn gần như sa vào tình trạng thác loạn tinh thần. Cuối cùng, đêm hôm trước ngày hắn lên đường trở về hước, hắn đã nghĩ đến cách đánh tráo hài cốt, lấy một bộ xương cũng cao một thước tám mươi hai để thế vào di hài viên đại tá Z mà, trong một lúc hoang mang thảng thốt, hắn đã hất xuống suối. Đang lúc say rượu, hắn loạng choạng đến cửa buồng ông linh mục đã khóa chặt, lom khom nói qua lỗ khóa để bày tỏ ý đồ gian lận của hắn. Bất đồ, hắn nhầm buồng, cửa buồng sịch mở, một bà to béo hiện ra, sỉ vả hắn tàn tệ đã nhòm vào buồng bà ta giữa lúc đêm hôm khuya khoắt. Cái cảnh vừa kệch cỡm, vừa thảm hại ấy, đánh dấu sự rã rời, suy sụp hoàn toàn trong con người hắn: còn đâu «con chim oai hùng, đơn độc bay lượn…», còn đâu sứ mệnh thiêng liêng, cao cả? Rõ ràng qua diễn biến tâm tư của viên tướng, có tính chất một biểu tượng, Ismail Kadare đã giễu cợt và lên án quân đội phát xít và nói chung, tất cả các đạo quân xâm lược. Nhưng vượt lên trên cả nhân vật trung tâm ấy, choán hết cả cuốn sách chính là hình ảnh đất nước và nhân dân Albania. Mặc dù câu chuyện được kể lại qua con mắt viên tướng nước ngoài, người ta vẫn thấy Ismail Kadare yêu tha thiết đất nước ông với những núi non hiểm trở, hùng vĩ, với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời, với những con người ngoan cường dũng cảm, từ bao đời nay vẫn trọng danh dự và nhân phẩm và hiện đang xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. Ông ca ngợi cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân nước ông và nói chung, của tất cả các dân tộc đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự do của mình. Qua cái chết của bác thợ đấu già Gjoleka - bị nhiễm trùng vì chiếc khuy gỉ trên quân phục một tên lính phát xít chết đã 20 năm nay - ông còn ngụ ý rằng chiến tranh chưa thật sự kết thúc hay nói cho đúng hơn, hòa bình chưa phải đã vững chắc: như những con vi trùng, tuy bị vùi sâu dưới đất cùng với xác tên lính hàng mấy chục năm trời, khi gặp khí trời, ánh sáng, lại phục hồi tất cả cái tính độc hại ác liệt của nó, chiến tranh vẫn còn ngấm ngầm âm ỉ, chờ lúc chúng ta lơ là để nổ ra, tàn phá. Tất cả những ý đó, Ismail Kadare đã thể hiện với một nghệ thuật già dặn, vững vàng. Những hình ảnh tương phản, những so sánh về hai mẫu người, hai hệ tư tưởng, hai thế giới khác nhau, ông để người đọc tự rút ra, tự suy nghĩ lấy. Ông chỉ trình bày những sự việc rất thực và chọn lọc, theo lối nhìn và cảm nghĩ của viên tướng nước ngoài, và kể lại câu chuyện một cách rất tự nhiên, thoải mái, gọn gàng, giản dị, khiến người đọc có cảm giác như ông rất «khách quan», hầu như thản nhiên với nhân vật của ông, với những sự việc ông kể, và do đó, từ một đề tài rất bình thường, đơn giản, nếu không phải khô khan, ông đã viết nên một cuốn sách thật hấp dẫn, có sức mạnh thuyết phục và tác động sâu sắc, xứng đáng là một tác phẩm ưu tú của Albania, một tác phẩm chúng ta có thể học tập được nhiều chẳng những về nội dung mà cả về nghệ thuật thể hiện. NGUYỄN VĨNH Mời các bạn đón đọc Viên Tướng Của Đạo Quân Chết của tác giả Ismail Kadare.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Anh Hùng Thời Đại - M. Lermontov
Tháng 5 năm 1840, cuốn sách Một anh hùng thời đại xuất hiện trên các giá sách tại thành Pêterbua. Tác giả là một chàng trai mới hai mươi lăm tuổi: M. Lermôntôp (Mikhail Iurievich Lermontov - 1814 - 1841), vốn là một nhà thơ đã có tiếng, nhưng lại quay sang viết tiểu thuyết. Cả tên tác phẩm lẫn tác giả đều gây nên sự tò mò đến mức nôn nóng. Ai cũng muốn đọc qua cuốn sách xem cái nhân vật mà nhà thơ gọi là vị anh hùng của thời đại đó là ai, là một người như thế nào?.. Ðã là anh hùng thì ắt sẽ có nhiều người bắt chước, nhiều người noi gương... Nhưng đọc xong rất nhiều đọc giả đã la lối lên rằng: "... một thằng vô lại như thế mà Lermôntôp, một nhà thơ - nhà văn tiếng tăm, còn là một sĩ quan trong quân đội Nga Hoàng nữa, lại dám tôn vinh hắn lên là Một anh hùng thời đại chúng ta ư?!. Một sự phỉ báng hỗn xược! Đó là tiếng nói của các vị đã nhận ra những đường nét, những tính cách và hành vi nào đó của nhân vật có gì giống mình trong bức chân dung ấy. Petsôrin - nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết – là một thanh niên thông minh và nhậy cảm, vốn sống trong nhung lụa, nhưng lại là một kẻ tàn tật về tinh thần: sống buông thả, không niềm tin, không hy vọng và hoài bão, tự hủy hoại đời mình và phá hoại không biết bao nhiêu cuộc sống tươi trẻ khác. Vậy mà nhà văn Lermôntôp lại dám vẽ chân dung hắn như một vị anh hùng. Thật mỉa mai thay! Đáp lại, nhà văn nói: "Bây giờ cần có những bài thuốc đắng, những sự thật cay nghiệt! Đó quả là một chân dung nhưng không phải chân dung của một người cụ thể, mà là bức chân dung phức hợp vẽ nên mọi thói hư tật xấu của cả một thế hệ đang sống của xã hội ta"! Hà Nội 1999 *** LỜI DẪN Trong bất kỳ cuốn sách nào lời nói đầu là cái đầu tiên đồng thời cũng là cái cuối cùng, nó nhằm giải thích mục đích của tác phẩm hoặc để biện minh và trả lời giới phê bình. Nhưng thông thường thì độc giả không biết tới mục đích luân lý cũng như những lời công kích của báo chí, bởi vì họ không đọc lời nói đầu. Tiếc thay, nhưng đó là sự thật, nhất là ở nước ta. Công chúng nước ta còn rất mới mẻ và chất phác đến nỗi không hiểu được những chuyện ngụ ngôn, nếu họ không tìm thấy ở phần cuối những lời răn. Họ không đoán ra được những chuyện đùa tếu, không cảm nhận được chuyện châm biếm, chỉ tại họ kém giáo dục. Họ chưa biết được rằng trong một xã hội có nền nếp và trong một cuốn sách đúng đắn không thể có những lời chửi bới lộ liễu; rằng kiến thức hiện đại đã chế ra một thứ vũ khí sắc bén hơn nhiều, gần như là vô hình, và cũng nguy hiểm chết người không kém, một thứ vũ khí vuốt ve mơn trớn nhưng lại đánh những đòn chắc chắn và không thể chống đỡ. Công chúng của chúng ta giống như một anh chàng tỉnh lẻ, khi nghe lỏm được cuộc hội đàm giữa hai nhà ngoại giao của hai triều đình thù địch, đã tin chắc rằng mỗi người trong hai vị kia đang lừa dối chính phủ mình để mưu cầu tình bằng hữu tốt đẹp nhất với nhau. Mới gần đây, cuốn sách này cũng đã từng nếm trải sự cả tin khốn khổ của một số độc giả và thậm chí của một số báo chí, chỉ tin vào nghĩa đen của câu chữ. Một số thì bất bình ghê gớm, mà bất bình thực sự, vì người ta đã đem đến cho họ, để làm gương, một con người đồi bại như Một anh hùng thời đại chúng ta; những kẻ khác thì lại nhận xét một cách rất tinh rằng tác giả đã vẽ lại chân dung của chính mình và những người quen thuộc của mình... Một lối pha trò thảm hại và cũ rích! Nhưng rõ ràng nước Nga đã được tạo lập nên như thế, trong đó cái gì cũng đổi mới trừ những điều phi lý nhảm nhí đại loại như vậy. Một câu chuyện hoang đường nhất trong số những chuyện hoang đường ở chúng ta, cũng khó tránh khỏi lời quở trách là có ý đồ xúc phạm cá nhân! Một anh hùng thời đại[1*]chúng ta, thưa các ngài kính mến của tôi, quả là một bức chân dung, nhưng không phải của một người: đó là bức chân dung phức hợp những thói hư tật xấu của một thế hệ chúng ta đang ở độ phát triển nhất của chúng. Một lần nữa các ngài lại sẽ bảo tôi rằng làm gì có người xấu đến thế, nhưng tôi xin thưa với các ngài rằng nếu các ngài đã tin vào khả năng tồn tại của tất cả những thằng khốn nạn trong các tác phẩm bi kịch và lãng mạn, thì tại sao các ngài lại không tin ở tính hiện thực của Pêtsôrin? Nếu các ngài đã nhấm nháp những điều hư cấu còn quái gở và khủng khiếp hơn nhiều thì tại sao cái cá tính này, thậm chí là một hư cấu, lại không làm cho các ngài thương cảm? Không phải vì nó trung thực quá đấy chứ, chẳng lẽ các ngài mong muốn thế sao?.. Các ngài sẽ nói rằng điều đó không có lợi cho nền đạo đức?.. Xin lỗi. Bấy lâu người ta nuôi sống người bằng bánh kẹo, nên dạ dày họ đâm hư: bây giờ thì phải có những bài thuốc đắng, những sự thật cay nghiệt. Tuy nói vậy, nhưng đừng tưởng rằng, sau chuyện này có lúc tác giả cuốn sách cũng đã từng có một ước vọng đầy kiêu hãnh là biến mình thành người uốn nắn các thói hư tật xấu của con người. Cầu Chúa tránh cho hắn không mắc phải cái điều vô lễ ấy! Hắn chỉ muốn mô tả một con người đương đại như hắn hiểu, và thật là không may cho hắn, và cả cho các ngài nữa, hắn mô tả đúng như một con người hắn thường gặp luôn. Dẫu sao thì căn bệnh cũng đã được tìm ra, điều trị nó thế nào – điều đó họa may có trời biết nổi! M. LERMÔNTÔP Mời các bạn đón đọc Một Anh Hùng Thời Đại của tác giả M. Lermontov.
Kim Bình Mai (có tranh)
THÔNG TIN EBOOK • Nguồn text: vnthuquan.net • Soát chính tả, thêm chú thích, gắn tranh: Bình An *** VỀ TÊN SÁCH “Kim Bình Mai” được ghép lại từ tên của 3 nhân vật nữ chính: Kim Liên (sen vàng), Bình Nhi (cô Bình/Lọ), Xuân Mai (hoa mai mùa xuân). Bản thân cụm từ “Kim Bình Mai” cũng có nghĩa là “Nhành mai trong lọ vàng”, do đó, bản tiếng Anh của David Tod Roy đã dịch nhan đề là “The plum in the golden vase”. Mặt khác, theo David Tod Roy, nhan đề này cũng là một sự chơi chữ với cụm từ đồng âm có nghĩa là “Khoái cảm thâm nhập âm đạo”. CÁC HỆ VĂN BẢN Theo các nhà nghiên cứu, các văn bản Kim Bình Mai đang được lưu truyền có thể quy thành 3 hệ: • Hệ bản A: bản sớm nhất và gần với tác phẩm gốc nhất. Bản tiếng Anh của David Tod Roy được dịch từ hệ này. Theo dịch giả, ông đã dịch mọi thứ có trong hệ văn bản này. Cũng theo ông, bản dịch đầy đủ đầu tiên từ hệ A sang ngôn ngữ châu Âu là bản tiếng Pháp của André Lévy năm 1985. Các bản dịch trước đó đều từ hệ B hoặc C. • Hệ bản B và C: văn bản đã được sửa chữa, rút gọn; có thể có thêm lời bình. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng được dịch từ hệ này. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỆ A VÀ B,C Cũng như nhiều bạn đọc, ban đầu tôi lầm tưởng bản B-C là bản A cắt bỏ vài chi tiết nhạy cảm, nhưng khi so sánh bản tiếng Anh của David Tod Roy và bản tiếng Việt của Nguyễn Quốc Hùng, tôi thấy nội dung khác nhau rất xa. – Bản lược (B-C) không phải là cắt bỏ vài cảnh, mà là đã được viết lại theo kiểu tóm lược bản A; có những cảnh trong bản A dài vài trang thì trong bản lược chỉ tóm lại vài dòng. – Bản A có rất nhiều thơ và lời hát; bản lược gần như bỏ hết, chỉ giữ lại vài bài. – Trong bản lược, có những chỗ người viết bịa ra những tình tiết mới không có trong bản A. Điển hình như các chương 2, 3, 4 trong bản lược được viết mới hoàn toàn. – Các chi tiết mô tả tính dục ở bản A đều được cắt bỏ hoàn toàn ở bản lược. Do sự khác biệt quá xa này nên không thể căn cứ vào bản lược để đánh giá giá trị văn chương của bản A. *** Trong phiên bản ebook này, tôi căn cứ vào bản dịch tiếng Anh của David Tod Roy (1993) để bổ sung thêm các chú thích so sánh sự khác nhau về chi tiết giữa bản lược và bản A, tuy nhiên cũng không thể truyền tải được không khí và mức độ táo bạo của bản gốc. Hy vọng một ngày gần đây, Việt Nam sẽ có bản dịch đầy đủ của Kim Bình Mai. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ. (Chú thích hệ * là của nhà xuất bản, chú thích hệ số [1], [2]... là của người làm ebook.) Người làm ebook 09/2022 *** DỊCH GIẢ Nhà Hán học Nguyễn Quốc Hùng sinh năm 1938 trong một gia đình danh giáo, có thân phụ từng giữ chức Đốc học tỉnh Hải Dương. Năm 1969, khi chỉ mới 31 tuổi, ông đã công bố cùng một lúc bản dịch hai bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là Hồng Lâu Mộng và Kim Bình Mai. Sau đó, ông tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm biên khảo và dịch thuật quý giá khác như Trung Quốc toàn sử, Lịch sử Văn hóa Trung Hoa, Lịch sử tiểu thuyết Trung Hoa, Hán Việt tân từ điển… Năm 2003, Nguyễn Quốc Hùng qua đời tại Canada, để lại một số tác phẩm vẫn chưa kịp xuất bản. Bản Việt dịch Kim Bình Mai của Nguyễn Quốc Hùng ra đời ở Sài Gòn từ tháng 8 năm 1969, do Chiêu Dương xuất bản xã phát hành, được in thành 12 tập, mỗi tháng in từ 1 đến 2 tập. Đến đầu năm 1970, sách đã được in trọn bộ với tổng cộng hơn 2.700 trang. *** LỜI GIỚI THIỆU Bạn đọc đang tiếp xúc với bộ tiểu thuyết trường thiên, một pho “kì thư” rất đặc sắc của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Đó thực sự là lịch sử cuộc đời đầy tội ác và sinh hoạt gia đình nhơ bẩn của Tây Môn Khánh, một kẻ hãnh tiến xuất thân từ một chủ hiệu sinh dược, nhưng do những mánh khóe bóc lột và hành vi ác bá, kéo bè kéo cánh, thông lưng với quan lại một bước nhảy tót lên địa vị một thổ hào thân sĩ giàu tiền của, đầy quyền thế. Từ cái bàn đạp đó, ngoi lên vin vào quan hệ nghĩa phụ nghĩa tử với Thái Kinh, một viên đại thần hiển hách ở triều đình lúc bấy giờ, Tây Môn Khánh đã trở thành Đề hình Thiên hộ ở bản huyện, tham lam tàn ác, bẻ cong phép nước, ăn tiền hối lộ, hại người lương thiện, và sống cuộc đời dâm ô cực kỳ bỉ ổi. Kim Bình Mai quả đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội đương thời qua những trang sách tràn đầy hơi thở hiện thực. Qua mối quan hệ chằng chịt của nhân vật chính Tây Môn Khánh với mọi lớp người trong xã hội, tác giả đã khắc họa chân dung sinh động cùng trạng thái tinh thần muôn vẻ của hàng loạt nhân vật, từ những viên hoạn quan làm mưa làm gió trong cung đình ngay bên nách hoàng đế, đến những tên lưu manh du thủ du thực, những tay dao búa chuyên nghiệp, những tên côn đồ bịp bợm lừa đảo đầy rẫy ngoài phố chợ. Qua những hành vi đê tiện và những mánh khóe tội lỗi của chúng, tác giả đã vẽ lên khá tỉ mỉ mà khái quát một bức tranh xã hội đen tối tàn khốc, trên thực tế đó cũng chính là xã hội mà tác giả đang sống, xã hội phong kiến Trung Quốc thời Minh từ sau Chính Đức đến giữa Vạn Lịch. Nhân vật chính Tây Môn Khánh trước hết là một con quỷ dâm dục hiện hình, một mình y đã có một thê và năm thiếp nhưng còn sẵn sàng cưỡng dâm từ con gái nhà lành đến đàn bà góa bụa, giết chồng đoạt vợ, kể cả vợ bạn, em dâu y cũng không tha. Dâm dục đi đôi với tàn bạo là nét bản chất xuyên suốt cuộc đời y cho đến kết thúc bằng cái chết vì bệnh dâm dục. Bên cạnh Tây Môn Khánh là Phan Kim Liên được xây dựng như một nhân vật điển hình của hạng phụ nữ tà dâm, xảo quyệt. Thông dâm với Tây Môn Khánh, thị đã nhẫn tâm và quỷ quyệt đầu độc chồng là Võ Đại, rồi khi chồng đã ngấm thuốc chết hẳn “hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, cắn cả vào môi chảy máu, tai mũi và cả mắt đều ứa máu ròng ròng” thì thị cùng Vương bà “kéo xác Võ Đại ra sau nhà, lau sạch vết máu, đội mũ đi giày cho tử tế, lấy khăn phủ lên mặt cho Võ Đại rồi cả hai cùng ngồi khóc”. Thị lập bàn thờ chồng với bài vị “Vong phu Võ Đại lang chi linh”, nhưng sẵn sàng hú hí với Tây Môn Khánh ngay trước bàn thờ ấy. Xoay quanh các nhân vật chính đó, thôi thì đủ hạng vô lại cặn bã của xã hội: Ứng Bá Tước và Tạ Hi Đại bợ đỡ nịnh hót, Trương Thắng và Lưu Nhị du thủ du thực, thằng quýt con sen Lai Vượng, Thu Cúc, con hát Lưu Quế Thư, kép hề Vương Kinh, cho đến thái giám, môn quan, tăng lữ, ni cô, đạo sĩ, bà mối... tất cả đám người kí sinh trong xã hội đô thị. Trên phương diện xây dựng hình tượng nhân vật cụ thể, tác phẩm đã sáng tạo khá thành công một loạt tính cách điển hình có xương có thịt. Trên tiến trình văn học của dân tộc Trung Hoa, Kim Bình Mai có một vị trí quan trọng. Thời Minh, nhất là từ Gia Tĩnh (1522-l566), xã hội tương đối ổn định, kinh tế có chiều phát triển, xu thế đô thị hóa tăng dần, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thể loại văn học mới: trường thiên tiểu thuyết. Song hành với điều kiện xã hội đó là sự tiến bộ của kỹ thuật in khắc. Đến thời Vạn Lịch (1573-1620) đã xuất hiện một cục diện phồn vinh của thể loại này với hàng loạt tác phẩm ngày nay còn được biết. Tiểu thuyết Trung Quốc thời này có thể chia làm bốn loại: Thứ nhất, chiếm số lượng áp đảo là tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa, đại thể phỏng theo Tam quốc chí diễn nghĩa, kể chuyện lịch sử bằng ngôn ngữ thông thường dễ hiểu. Có thể nói, suốt từ Xuân Thu Chiến Quốc đến Minh sơ, tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa thời này đã phủ kín cả chiều dài lịch sử Trung Quốc. Trong đó tiêu biểu nhất là Bắc Tống chí truyện của Hùng Đại Mộc. Nhìn chung loại tiểu thuyết lịch sử diễn nghĩa này miêu tả tính cách nhân vật còn tương đối ít, kết cấu không chặt, tình tiết nhiều lúc thiếu gắn bó, còn câu nệ quá nhiều vào sự thật lịch sử, nghệ thuật còn sơ lược, thường còn nằm trên ranh giới giữa lịch sử với văn học. Thứ hai, là tiểu thuyết phong thần, tiêu biểu nhất là Phong thần diễn nghĩa. Loại này phần nhiều kể lại những chuyện li kỳ hoang đường, thiếu ý nghĩa xã hội sâu sắc. Thứ ba là tiểu thuyết “công án”, nổi tiếng nhất là Hải Cương Phong tiên sinh cư quan công án truyện của Lí Xuân Phương, 71 hồi, mỗi hồi kể một chuyện với nhân vật xuyên suốt là người thẩm án Hải Thụy. Về thể tài có thể xem là tổng tập tiểu thuyết bút kí, tựa như tập truyện vụ án. Thứ tư là tiểu thuyết “thế tình” (tình đời). Loại này lúc đó còn hiếm, ngày nay được biết chỉ có Kim Bình Mai và Ngọc Kiều Lí, nhưng Ngọc Kiều Lí thì đã thất truyền. (Thẩm Đức Phù trong Dã hoạch biên nói ông từng xem Ngọc Kiều Lí). Loại này ngày nay thường được gọi là tiểu thuyết xã hội. Trước Hồng lâu mộng hơn một trăm năm, Kim Bình Mai được coi là tác phẩm mở đường cho tiểu thuyết xã hội Trung Quốc. Từ năm 1940, đề tựa cho Bình ngoại chi ngôn của Diêu Linh Tê, Giang Đông Tễ Nguyệt gọi là “tiểu thuyết của tiểu thuyết”, còn Ngụy Bệnh Hiệp thì so sánh với tác phẩm của Dickens ở Anh, Sêkhov ở Nga, đồng thời cho rằng Thủy hử kể nhiều võ hiệp, Hồng lâu chuyên nói tình yêu, Nho lâm ngoại sử miêu tả tình thái xã hội – nhưng hạn chế trong đám hủ nho, ý nghĩa xã hội đều không rộng lớn bằng Kim Bình Mai. Trong bài Bàn về Hồng lâu mộng, Hà Kì Phương có nhắc đến mối quan hệ giữa Hồng lâu mộng với Kim Bình Mai: Hồng lâu mộng quả là cái bóng soi ngược hình của Kim Bình Mai. Dĩ nhiên Hồng lâu mộng sinh sau nhưng vượt trội nhiều mặt, đặc biệt là ngôn ngữ văn học đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết cổ điển, rõ ràng Kim Bình Mai không sánh được. Ngay cả sau khi Kim Bình Mai bị liệt vào hạng “sách cấm” thì giới văn học vẫn xếp nó vào một trong “tứ đại kì thư” (bốn cuốn sách lớn kì thú) của tiểu thuyết trường thiên Minh Thanh: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện, Tây du ký và Kim Bình Mai. Tất cả các giáo trình văn học sử ở các trường Đại học Trung Quốc đều giảng Kim Bình Mai và đều công nhận đó là con chim én báo mùa xuân của thể loại truyện dài do cá nhân sáng tác ở Trung Quốc. Lỗ Tấn nói trong Trung Quốc tiểu thuyết sử lược: “Tiểu thuyết (Kim Bình Mai) lấy chuyện Võ Tòng đánh cọp tìm anh trong Thủy hử truyệnlàm ngòi dẫn, mượn danh thời Tống để tả thực thời Minh, phản ánh hiện thực xã hội thời Minh”. Kim Bình Mai đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Bản dịch sớm nhất là bản Mãn văn khắc in năm Khang Hi 47 (1708), không ghi tên dịch giả, dịch theo bản “Trương Phúc Pha đệ nhất kì thư”. Ở phương Tây, sớm nhất là bản dịch hồi thứ nhất của Kim Bình Mai, thực hiện bởi A.P. Bazin: Histoire de Wou Song et de Kim Lien trong Chine moderne (Trung Quốc hiện đại) xuất bản năm 1853. (tiếng Pháp). Năm 1927 có bản tiếng Anh Chin Ping Mei, the adventurous of His Menching ở New York. Năm 1928 có bản tiếng Đức Djin Ping Me của Oto Kibat. Tiếng Hungari, tiếng Thụy Điển, tiếng Phần Lan đều đã có bản dịch. Ở Nhật Bản đã có nhiều bản dịch khác nhau. Bản dịch đầy đủ 100 hồi sớm nhất là của Cương Nam Nhân Kiều in thành 4 tập, hoàn thành đầu thế kỉ này. Năm 1951, có bản dịch của Tiểu Dã Nhẫn và Thiên Điền Cửu Nhất theo nguyên bản Kim Bình Mai từ thoại. Ở Việt Nam lâu nay lưu hành khá rộng rãi bản in của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1989 loại trọn bộ 4 tập, in 20.000 bản và loại trọn bộ 8 tập, cũng in 20.000 bản, nội dung hoàn toàn như nhau kể cả lời giới thiệu và ghi chú ở đầu sách: “In theo bản của nhà xuất bản Chiêu Dương – 1969, có đối chiếu bản gốc và tham khảo các bản khác”, song không cho biết tên dịch giả và bản gốc cũng như các bản tham khảo khác là bản nào. Căn cứ vào nội dung truyện và tiêu đề ngắn gọn của từng hồi trong bản dịch, chúng tôi đoán rằng dịch giả đã dùng một nguyên bản thuộc hệ văn bản thứ ba mà chúng tôi sẽ phân tích ở dưới trong phần khảo về văn bản, mà theo nhận định chung của giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc thì hệ văn bản thứ hai mang tên Kim Bình Mai từ thoại mới là văn bản tiêu biểu. Thử so sánh tiêu đề hồi đầu và hồi cuối của hai loại văn bản đó (tạm dịch):   Hệ văn bản 3 Hệ văn bản 2 Hồi 1 Bạn bè kết nghĩa vui thú ăn chơi Đồi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ; Phan Kim Liên chê chồng, bán trăng hoa. Hồi 100 Dòng Tây Môn tuyệt tự Hàn Ái Thư đến hồ tìm bố mẹ; Phổ Tĩnh sư tiến bạt quần oan. Có thể thấy hai loại văn bản này khác nhau khá xa. *** Dưới đây, đặc biệt giới thiệu hai vấn đề mà giới nghiên cứu Kim Bình Mai ở Trung Quốc cũng như trên thế giới hết sức quan tâm, hai vấn đề đã gây tranh cãi hàng trăm năm, cùng với những kết quả nghiên cứu mới nhất trong hai thập kỉ qua (sau “cải cách mở cửa”). Một là vấn đề “văn bản Kim Bình Mai”. Bộ tiểu thuyết này đã từng mang nhiều tên gọi khác nhau, số tên gọi không kém gì Thủy hử hay Hồng lâu mộng. Mà sự khác nhau trong tên gọi thường kèm theo sự xê dịch về nội dung. Theo trình tự thời gian có thể sơ lược giới thiệu như sau: Ở thời kỳ chép tay, thì tên gọi rất đơn giản, chỉ gọi là, được ghép từ tên ba nhân vật quan trọng: Phan Kim Liên, Lý Bình Nhi, Bàng Xuân Mai – mỗi tên lấy một chữ đại diện. Sau khi đưa khắc in, có người gọi là Kim Bình Mai truyện thì tên sách đề là Tân khắc Kim Bình Mai từ thoại.Đó là tên gọi ở thời kỳ đầu mới khắc in. Về sau, những người xuất bản thường chụp lên đầu tên sách một số mũ nào đó, thế là thành các tên như Túc bản Kim Bình Mai từ thoại (bản đầy đủ), Hội đồ cổ bản Kim Bình Mai từ thoại (bản cổ có tranh vẽ) v.v... Cuối đời Minh, do chỗ Kim Bình Mai từ thoại có tăng thêm, tỉa bớt hoặc sửa chữa khá nhiều, hoặc có vẽ tranh, bình luận, hình thành một hệ văn bản mới nên tên sách cũng thay đổi theo, gọi là Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai (bản khắc mới có tranh thêu và lời bình) hoặc Tân thuyên tú tượng phê bình nguyên bản Kim Bình Mai (thêm chữ “nguyên bản”). Người ta quen gọi loại này là “bản Sùng Trinh”*. Tú khắc cổ bản bát tài tử từ thoại cũng thuộc loại này. Dưới thời Khang Hi nhà Thanh, Trương Trúc Pha, tức Trương Đạo Thâm, người Bành Thành, rất tán thưởng sách này, mệnh danh nó là Thiên hạ “đệ nhất kì thư”. Lấy Tân khắc tú tượng phê bình Kim Bình Mai làm bản nền, họ Trương đã tiến hành phê bình một cách toàn diện và có hệ thống, đến mức thành một hệ văn bản mới, lưu truyền khá rộng rãi, ảnh hưởng tương đối sâu sắc, đầu quyển thường ghi là Cao Hạc đường phê bình Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai và ở trang bìa giả, thôi thì đủ: nào là Đệ nhất kì thư, nào là Đệ nhất kì thư Kim Bình Mai, Đệ nhất kì thư tú tượng Kim Bình Mai, Tú tượng Kim Bình Mai đệ nhất kì thư.Tứ đại kì thư đệ tứ chủng, Tăng đồ tượng túc bản Kim Bình Mai, Tăng đồ tượng Cao Hạc thảo đường kì thư toàn tập, nào là Hội đồ đệ nhất kì thư, Hiệu chính gia phê Đa thê giám toàn tập, Tân thuyên hội đồ Đệ nhất kì thư Chung tình truyện v.v... Thời Gia Khánh (Thanh), trên cơ sở bản nền Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương, đã ra đời một bản rút gọn gọi là Tân khắc Kim Bình Mai kì thư. Thời Dân Quốc, có người gia giảm cắt gọt “Kim Bình Mai có lời bình của họ Trương”, xào xáo lại, bôi râu vẽ mặt thêm, cho ra đời cái gọi là “Kim Bình Mai chân chính”, đặt tên là Hội đồ chân bản Kim Bình Mai. Từ đó về sau lại có thêm những là Cổ bản Kim Bình Mai, Tiêu điểm cô bản cổ bản Kim Bình Mai, Cảnh thế kì thư Kim Bình Mai v.v và v.v... Chúng là hàng rởm vỗ ngực tự xưng là “chân” (thật), “cô” (hiếm), cổ (xưa), nhưng là thứ hàng rởm đã thành công trong công cuộc mập mờ đánh lận con đen, và đã từng lưu hành rộng rãi một thời. Cho đến nay tính ra Kim Bình Mai lưu truyền có đến mấy chục bản khác nhau, có thể quy nạp thành ba hệ văn bản: 1 – Hệ văn bản “từ thoại”: Hệ này, Tôn Khải Đệ gọi là Kim Bình Mai từ thoại, học giả Nhật Bản gọi là “bản từ thoại”, học giả Mỹ gọi là “hệ bản A”. Bản sớm nhất của hệ này là bản khắc năm Vạn Lịch 45, cũng là bản sớm nhất trong các truyền bản Kim Bình Mai đã biết. Hệ này nay còn lại tương đối hoàn chỉnh chỉ có ba bộ: một hiện ở Đài Loan (trước lưu giữ ở Thư viện Bắc Kinh), hai bộ ở Nhật Bản. Đặc điểm tương đối nổi bật của hệ văn bản này là ở hai chữ “từ thoại”. Từ thoại vốn là một hình thức nghệ thuật “thuyết xướng” (kết hợp hát với nói lời bạch, xen kẽ văn xuôi với văn vần), hình thức này có từ thời Tống, thịnh hành thời Nguyên – Minh. Kim Bình Mai từ thoạituy mang tên như vậy song không thể coi là “từ thoại” chính cống nữa mà nó rõ ràng là một pho trường thiên tiểu thuyết mang màu sắc “từ thoại” mà thôi. 2 – Hệ văn bản “tú tượng phê cải” (có tranh thêu và có sửa chữa). Hệ văn bản này gồm hai loại nhỏ: loại “bản Sùng Trinh” và loại “bản Trương Bình”. Hệ văn bản này có hai đặc điểm mà các hệ văn bản khác không có: 1 / lời phê lời bình; 2 / tranh thêu. So với hệ văn bản “từ thoại” nói trên, hệ này chặt chẽ, trong sáng, hợp lí thông đạt hơn, văn bản “từ thoại” vì đưa vào quá nhiều thơ ca từ phú không liên quan gì mấy với phát triển của tình tiết nên làm yếu chất tiểu thuyết. a. Loại văn bản Sùng Trinh: bản khắc sớm nhất được coi là khắc dưới thời Sùng Trinh nhà Minh. Hiện còn tám bộ lưu giữ ở tám nơi khác nhau: Thư viện Nước Thư viện Thủ đô (Bắc Kinh) Trung Quốc Thư viện Thượng Hải Thư viện Đại học Bắc Kinh Thư viện Thiên Tân Thư viện Trung ương Đài Loan Nội các văn khố Nhật Bản Trường Đại học Tôkiô Trường Đại học Thiên Lý b. Loại văn bản Trương Bình (khởi đầu từ Trương Trúc Pha như đã nói ở trên). 3 – Hệ văn bản rút gọn: Các văn bản này, nhất là những văn bản mang danh “chân bản”, “cổ bản” phần nhiều là “đồ rởm”, xưa nay không được giới học thuật coi trọng. Sở dĩ như vậy trước hết là do những kẻ làm sách giả đã tùy tiện thêm bớt rất nhiều, đã thế lại dám rêu rao là “chân”, là “cổ”. Loại văn bản này ra đời muộn, đến nay chỉ khoảng bảy tám chục năm, từng có thời gian lưu truyền rộng rãi, cho đến nay vẫn chưa phải đã hết ảnh hưởng. *** Hai là vấn đề “tác giả Kim Bình Mai”. Tác giả Kim Bình Mai là ai? Vấn đề này đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu. Bản Kim Bình Mai từ thoại khắc in ở thời Vạn Lịch nhà Minh ghi là Tiếu Tiếu Sinh sinh tác. Tiếu Tiếu Sinh rõ ràng là một bút danh có nghĩa là “chàng cười”, “chàng hay đùa” (“Tiếu” là cười, còn “sinh” là tiếng tự xưng hoặc tiếng gọi người trẻ tuổi). Bài Tựa đầu sách Tiếu Tiếu Sinh từ thoại kí tên Hân Hân Tử, đặt trước tên tác giả một địa danh là Lan Lăng. Lan Lăng là một ấp của nước Sở thời Chiến Quốc, thời Hán đặt thành huyện, thời Tấn kiêm cả quận, thời Tùy bỏ cả quận lẫn huyện, thuộc địa phận huyện Dịch tỉnh Sơn Đông ngày nay. Thời Đường lại đặt huyện, thời Nguyên bỏ. Ngoài ra, thời Tấn có lần gửi huyện Lan Lăng ở huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, và đặt thành quận Nam Lan Lăng, đến thời Tùy cũng bỏ. Nhiều người nghĩ rằng Hân Hân Tử, (nghĩa rộng là “ông vui vui”) cũng chỉ là một biến dạng của Tiếu Tiếu Sinh mà thôi. Ngoài Kim Bình Mai ra, tác phẩm của Tiếu Tiếu Sinh chỉ thấy có một bài từ Ngư du xuân thủy bảo tồn được trong tập tranh đời Minh là Hoa doanh cẩm trận (nghĩa là “trại hoa trận gấm”). Từng có người đoán là Triệu Nam Trinh (1551-1627) hoặc Tiết Ứng Kỳ (khoảng 1550-?) nhưng đều không đưa ra được chứng cứ trực tiếp. Giáo sư Chu Tinh sau mấy chục năm chuyên nghiên cứu ở khoa Trung văn trường Đại học sư phạm Thiên Tân, trong cuốn Kim Bình Mai khảo chứng của mình xuất bản tháng 10-1980 cho rằng tác giả Kim Bình Mai là Vương Thế Trinh (1526-1590) đỗ Tiến sĩ dưới triều Gia Tĩnh, làm quan đến Hình bộ Thượng thư, tác giả của Gia Tĩnh dĩ lai thủ phụ truyện, Yêm Châu sơn nhân tứ bộ cảo, Độc thư hậu, Vương thị thư uyển, Hoa uyển... Thật ra từ cuối thời Minh đã có người cho rằng được Vương Thế Trinh viết ra để trả thù cho bố. Ngụy Tử Vân trong Kim Bình Mai đích vấn thế dữ diễn biến (Nxb Đài Loan thời báo, 1981) cho rằng ngôn ngữ Sơn Đông ở trong truyện thật ra là thứ ngôn ngữ lưu hành ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời chỉ rõ từ Đông Tấn về sau Giang Nam cũng có Lan Lăng, từ đó phủ đinh lập luận nói rằng tác giả phải là người Sơn Đông. Căn cứ vào tập quán sinh hoạt của nhà Tây Môn Khánh miêu tả trong truyện, Ngụy Tử Vân cho rằng Tiếu Tiếu Sinh phải là một người Giang Nam đã sống lâu trên đất Bắc. Năm 1981, giáo sư Từ Sóc Phương trường Đại học Hàng Châu đăng bài nói rằng tác giả Kim Bình Mai là Lí Khai Tiên (1501-1568). Đầu năm 1984, Kim Bình Mai tân chứng của Trương Viễn Phần được Tề Lỗ thư xã xuất bản, trong đó tác giả khẳng định rằng Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh chính là Giả Tam Cận, nhà văn huyện Dịch thời Minh. Thật ra ý kiến này đã được Trương Viễn Phần đề cập trong một bài đăng tạp chí Bão độc năm 1981. Phúc Đán học báo tháng 7-1984 đăng bài của Lý Thời Nhân “Thuyết Giả Tam Cận viết Kim Bình Mai không thể đứng được” kèm theo phụ đề “Chúng ta nên chú ý thái độ và phương pháp khảo chứng”, đồng thời công bố liền hai bài “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo” và “Kim Bình Mai tác giả Đồ Long khảo tục” của Hoàng Lâm. Đi theo hướng tìm kiếm của Ngụy Tử Vân, Hoàng Lâm đã phát hiện được Đồ Long, một người nguyên quán ở huyện Ngân tỉnh Chiết Giang từng làm quan ở Bắc Kinh, từng ký tên là Tiếu Tiếu tiên sinh ở hai cuốn sách đời Minh là Sơn trung nhất tịch thoại (Một buổi chuyện trò trong núi) và Biến địa kim (Vàng khắp nơi). Đồ Long (1542-1605) tự là Trường Khanh, lại có một tự nữa là Vĩ Chân, hiệu là Xích Thủy, đỗ Tiến sĩ dưới thời Vạn Lịch, từng làm tri huyện Thanh Phố, tri huyện Dĩnh Thượng, và Chủ sự bộ Lễ. Khảo trong Kim Bình Mai từ thoại hồi thứ 48 có việc Hoàng Mỹ ở phủ Khai Phong gửi thư cho Tuần án sử Sơn Đông là Tăng Hiếu Tự, gọi Tăng mỗ đang giữ chức Tuần án Ngự sử Đô sát viện bằng chức danh “Đại trụ sử”, chức danh này trước chưa từng nghe nói, người đọc cũng thường không để ý. Tra trong Cổ kim quan chế diên cách do Đồ Long soạn thì dưới phần khảo chứng của mục Đô sát viện có tìm thấy câu “Tại Chu vi Trụ hạ sử, Lão Đam thường vi chi” (Thời Chu là Trụ hạ Sử, Lão Đam từng làm chức ấy) v.v., chứng tỏ cách xưng hô hiếm hoi ấy trong truyện quả có khả năng chính là do Đồ Long viết. Ngụy Tử Vân khảo sát kinh lịch của Đồ Long thấy rằng rất có khả năng Đồ Long viết sách ấy để phúng dụ hoàng đế lúc bấy giờ. Có hai lí do: một là Đồ Long từ năm Vạn Lịch 12 bị cách chức về sau không ngóc đầu lên được nữa, khốn nghèo cho đến chết, hoàn toàn là vì trong khi làm tri huyện Thanh Phố một lần dâng thư mừng sinh nhật Hoàng trưởng tử, đã phạm phải điều cấm kỵ của Hoàng đế, hẳn vì thế mà có lòng oán hận; hai là Đồ Long từ sau khi bị cách chức, thường được người bạn là Lưu Thủ Hữu ở Ma Thành tiếp tế, đến sau khi chết năm Vạn Lịch 33, người đời lại truyền rằng con Thủ Hữu là Lưu Thừa Hỉ có đủ trọn bộ sách này. Đối chiếu những điều nói trên, dường như Đồ Long viết Kim Bình Mai là điều có thể tin được. Năm 1985, Kim Bình Mai nguyên mạo thám sách (Tìm kiếm diện mạo ban đầu của Kim Bình Mai) của Ngụy Tử Vân được Học sinh thư cục Đài Loan xuất bản, ông Đồng Văn đề tựa có nhắc lại bài viết Kim Bình Mai dữ Vương Thế Trinh của Ngô Hàm cũng từng đề cập tới một “Đồ Xích Thủy nổi tiếng về tạp kịch và văn chương”, mà Xích Thủy chính là hiệu của Đồ Long. Ông Đồng Văn lấy đó để khẳng định thêm khả năng thừa nhận Đồ Long là tác giả Kim Bình Mai. Dĩ nhiên đối với một “câu đố” đặt ra đã bốn thế kỉ nay và trong thời gian đó đã lần lượt ra đời hơn chục đáp án khác nhau để rồi lần lượt bị bác bỏ thì chưa thể khẳng định ngay Đồ Long là đáp án chính xác. Tuy nhiên, chí ít thì đáp án này cũng đã đứng được ngót mười lăm năm nay. Những ai quan tâm đến văn học Trung Quốc nói chung và nói riêng hẳn là hứng thú theo dõi. Phan Văn Các 1-1999 Mời các bạn đón đọc Kim Bình Mai (có tranh) của tác giả Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh & Nguyễn Quốc Hùng (dịch).
Ivan - Vladimir Bogomolov
Cuộc chiến tranh Vệ quốc nổ ra quá bất ngờ. Cậu bé trinh sát viên 12 tuổi Ivan luôn bị ám ảnh bởi cái chết của mẹ và em gái, giữa khung cảnh tàn khốc của cuộc chiến tranh, Ivan luôn mơ ước được trở về với tuổi thơ thanh bình như trước kia của em. Theo motif truyện vừa Ivan của Bogomolov, năm 1962, đạo diễn Andrei Tarcovxki đã dựng thành phim Tuổi thơ của Ivan và đoạt giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim quốc tế Venezia. Trong tập sách nhỏ này bên cạnh truyện vừa Ivan chúng tôi giới thiệu thêm một truyện ngắn khá đặc sắc của ông về đề tài chiến tranh - Mối tình đầu. *** Vladimir Bogomolov sinh ngày 3 tháng 7 năm 1926 trong một gia đình nông dân ở làng Kirilovka tỉnh Matxcơva. Khi Chiến tranh Vệ quốc bắt đầu, ông tình nguyện ra mặt trận khi mới tốt nghiệp lớp 7 trung học (năm 1941). Ông trải qua suốt chặng đường chiến tranh, từ lính trơn lên đến chức vụ trung đội trưởng, rồi đại đội trưởng trinh sát và giải ngũ năm 1952. Tác phẩm lớn nhất, nổi tiếng nhất của ông - tiểu thuyết trinh thám “Tháng tám năm bốn tư” (1973) kể về những chiến dịch phản gián có thật đã từng xảy ra trước cuộc phản công của quân đội Xô viết, được dựng thành phim năm 2000. Câu chuyện được kể bằng lời nhiều nhân vật khác nhau, chứa đựng rất nhiều đoạn tài liệu mật thời chiến, đã trở thành một tác phẩm kinh điển của văn học chiến tranh Nga. Nó được tái bản không dưới một trăm lần, và được dịch ra hơn 30 thứ tiếng. Các truyện ngắn nổi tiếng nhất của Bogomolov về đề tài chiến tranh là “Mối tình đầu” (1958), “Nghĩa trang gần Belostok” (1963) và “Nỗi đau trong tim” (1963) Ông mất ngày 30 tháng 12 năm 2003 và được chôn cất tại nghĩa trang Vagankovsky.    Mời các bạn đón đọc Ivan của tác giả Vladimir Bogomolov.
Người Đan Chữ Xếp Thuyền - Miura Shion
Đó là một góc nhỏ giữalòng Tokyo, bị bỏ quên giữa sự nhộn nhịp của một trong những đô thị sầm uất và hiện đại bậc nhất. Góc nhỏ ấy là thế giới của cậu chàng Majime vụng về nhút nhát, của cô gái Kaguya hay chàng Nijime đào hoa phóng túng… Một thế giới nhỏ với con số xác định những địa danh quen thuộc, những sự việc lặp đi lặp lại như một vòng bất biến, và những cuộc đời mà ngày qua ngày ta càng thêm thấu hiểu. Majime là một anh nhân viên phòng kinh doanh của một công ty sách nọ. Anh chàng lập dị cao lênh khênh, mái trên đầu lúc nào cũng rối tung về các hướng, kính cận màu xanh lá cây mà điệu bộ lúc nào cũng như đang phiêu diêu ở một chân trời khác. Giữa phòng kinh doanh, Majime là chàng người ngoài hành tinh dị biệt, và anh chàng vẫn sẽ tiếp tục đóng vai kẻ lập dị cho tới ngày anh gặp bác Araki - vị trưởng phòng biên tập từ điển vừa đến tuổi về hưu. Bác Araki đã nhìn thấy được từ những khuyết điểm của Majime ưu điểm thích hợp hoàn hảo cho công việc biên soạn từ điển. Chàng được thuyên chuyển về phòng biên tập từ điển, trở thành đồng nghiệp của bác Araki, của chàng Nijime, chị Suzuki và giáo sư Matsumoto đáng kính. Từ đây, cuộc đời chàng Majime đã bước sang một trang mới. Rất nhẹ và rất êm, như con thuyền giấy nhẹ trôi trên mặt hồ, như cánh hoa anh đào trôi lửng lơ trong một chiều xuân nhiều nắng ấm và gió thoảng, những nhân vật trong Người đan chữ xếp thuyền thay phiên nhau cất lên tiếng nói của mình, để giãi bày, để được lắng nghe, và cùng chia sẻ. Góc nhìn của mỗi mảnh ghép sự kiện ấy đều phản ánh rõ nét tính cách của người kể - nhân vật chính, cho thấy những vấn đề trăn trở riêng của họ, và cả niềm đam mê của họ dành cho công việc mà mình đang theo đuổi. Niềm đam mê ấy chính là ngọn hải đăng sáng rực rỡ, xâu chuỗi, dần dắt những phần ban đầu tưởng như rời rạc trong cuốn sách vào một hình dáng, một câu chuyện cụ thể. Nếu ví von cuộc đời mỗi nhân vật trong Người đan chữ xếp thuyền như một đoá hoa anh đào, thì ngày mà đoá hoa ấy vào độ mãn khai rực rỡ nhất, chính là ngày cuốn từ điển Đại hải trình - “đứa con chung” được chắt chiu từ bao năm tháng của họ được ra mắt. Khoảnh khắc ấy có thể ngắn ngủi - như chính độ khai nở rực rỡ nhất của một bông hoa anh đào, nhưng điều ấy nào đâu phải thứ gì bi kịch. Ngắm nhìn những cánh hoa rơi - mà như trôi lững lờ trong không gian không phải là một khung cảnh tuyệt diệu hay sao? Vẻ đẹp ấy tuy ngắn ngủi nhưng chói sáng, và luôn khiến người ta khao khát mong chờ. Mùa Xuân có những cánh hoa anh đào bay ấy chính là đích đến của chuyến hành trong Người đan chữ xếp thuyền. *** ▹ Bìa sách có phần kém sự chỉn chu so với nội dung cuốn truyện (nếu đã đọc quyển này rồi thì không thể ưa thêm cái bìa được nữa). Tớ lướt goodread thấy bìa sách bản dịch tiếng anh và Hàn vừa đẹp vừa có sự liên quan tới nội dung sách, hoặc bản bìa xanh đậm giản dị của Nhật mà giàu ý vị. Tựa tiếng nhật là “舟を編む” dịch tạm là “Đan một chiếc thuyền”; bên Hàn là “배를 엮다” – Đan thuyền; tựa tiếng Trung là “啟航吧!編舟計畫” tạm dịch nghĩa là Kế hoạch giương buồm; bản dịch tiếng Anh hơi lái một chút là “The Great Passage” – có thể hiểu là “Đại hải trình”; tựa tiếng Việt của chúng ta là “Người đan chữ xếp thuyền”, thú vị nhỉ? (Mấy từ trên là tớ nhờ nhiều bạn dịch hộ nhé, chứ không phải Muỗng biết nhiều thứ tiếng đâu =))) ▹ Muỗng có recommend? Có ???? Khi đọc được một phần nhỏ của ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’, Muỗng đã phải đi tìm lại cuốn từ điển tiếng việt duy nhất mà tớ có trong hai mươi mấy năm trời đèn sách, và bạn biết gì không? Cuốn từ điển be bé của NXB Từ điển Bách Khoa mà cô giáo bắt (có thể dùng từ ‘yêu cầu’ cho lịch sự nhưng thôi tớ trung thực :))) cả lớp mua từ hồi lớp hai nay đã bung gáy, nằm phủ đầy bụi dưới một góc ở giá sách của chị gái, nơi tớ không bao giờ mò tới. Nhớ lại thì khi mới mua từ điển, tớ đã xin mẹ dán nhãn màu những đầu mục chữ cái: a, b, c… để tiện cho việc tra cứu, lại dán thêm băng dính để bảo vệ hai mặt bìa. Hôm nào có tiết Tiếng Việt là sẽ sắp nó vào cặp, khi cô giá bảo các em hãy tra từ này, từ kia là lại lật giở từng trang, có khi cũng ngồi nghịch ngợm tra tra từ, hoặc khi nhàm chán mà đọc vài trang từ điển. Rồi sau đó ? Cuốn từ điển ấy dần chìm vào lãng quên, bởi đơn giản là khi công nghệ thông tin phát triển, người ta sẽ tra từ bằng cách google, hoặc hỏi người xung quanh cho tiện chứ ít khi giở cuốn từ điển giày cộp ra mà tra cứu. Có lẽ Muỗng còn có thể lãng quên cuốn từ điển màu vàng có hình trống đồng ấy thêm một khoảng thời gian dài nữa nếu không đọc ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’. Một câu chuyện kể về quá trình dài 13 năm để biên tập cuốn từ điển Daitokai của các thành viên phòng biên tập từ điển công ty sách Genbu. Vào những năm 90 với lý do kinh tế Nhật Bản suy thoái, công ty sách Genbu liên tục trì hoãn quá trình biên tập và xuất bản Daitokai, mọi việc còn khó khăn hơn khi nhân viên phòng biên tập từ điển người thì về hưu, người thì là nhân viên hợp đồng hoặc là cố vấn ngoài công ty, anh chàng nhân viên chính thức duy nhất là Nishioka lại lông bông quá thể. Bác Araki trước khi nghỉ hưu đã hứa với người thầy Matsumoto rằng sẽ tìm được  người có năng lực, yêu từ điển để thay bác biên tập cuốn từ điển Daitokai. Với gợi ý của Nishioka và sự kiểm chứng của Araki, Majime Mitsuya, chàng trai kỳ lạ ở phòng kinh doanh đã được điều về làm biên tập viên từ điển. Vốn là người có lối suy nghĩ chẳng giống ai, lại kiệm lời khiến Majime khó hòa nhập với mọi người, những ngôn từ và kinh nghiệm mà anh tích cóp được trong gần 30 năm cũng không đủ để sử dụng trong quá trình biên tập từ điển. Đã thế anh chàng còn vô cùng bối rối khi chót đem lòng yêu mến cô cháu gái xinh đẹp của bà chủ nhà trọ, những ngày tháng mới làm việc ở phòng biên tập từ điển khiến Majime nản lòng rồi nghi hoặc về chính bản thân mình. Nhưng nhờ sự ủng hộ của bà chủ nhà và các đồng nghiệp mà Majime đã vực dậy chuyên tâm học hỏi và biên tập từ điển, anh cũng bạo dạn mà bày tỏ với Kaguya qua thư: “Những gì không nói được bằng lời thì nên viết ra.” Majime đã nghĩ vậy đấy. Thế nhưng quá trình biên tập Daitokai bị trì hoãn do công ty sách muốn phòng biên tập từ điển phải cải đính các cuốn từ điển đã xuất bản trước đó, lại còn cắt giảm nguồn lực đã vốn eo hẹp của phòng. Ai cũng âu sầu nhưng không vì thế mà từ bỏ Daitokai, mỗi thành viên trong tổ biên tập từ thầy Matsumoto, bác Araki, cô Suzuki và Majime đều cố gắng hết sức để làm phần việc của mình, ngay cả anh chàng màu mè Nishioka mà bác Araki coi nhẹ cũng vậy, dù y vừa thán phục lẫn ghen tị với Majime. “Mình cũng muốn dùng thành ý của mình để đáp lại thành ý của đối phương.” Nishioka tự nhủ. Sau bao tháng ngày bị trì hoãn, Daitokai cuối cùng cũng đã được công ty đồng ý xuất bản, vì vậy mà họ cử Kisibe, một quý cô sành điệu của tạp chí cho nữ giới sang phòng biên tập từ điển. Ngỡ tưởng mình sẽ không tài nào hòa nhập được với công việc biên tập từ điển khô khan mà phức tạp, lại thêm ông chủ nhiệm Majime kỳ cục nhưng Kisibe lại dần làm quen được với công việc nhờ sự giúp đỡ của đồng nghiệp và một vị tiền bối. Lại qua nhiều tháng ngày thẩm định kỹ càng và công sức của bao con người, cuốn từ điển Đại Độ Hải – Daitokai cuối cùng cũng đã được xuất bản dưới niềm hạnh phúc, tự hào và cả nuối tiếc của những con người đã góp phần xây dựng nên cuốn từ điển này. Song không vì vậy mà quá trình biên tập từ điển đã kết thúc, con thuyền Daitokai sẽ còn được cải đính trong tương lai để thêm vững chắc mà vượt trên biển ngôn từ bao la… Daitokai – Đại Độ Hải là công sức, là một phần linh hồn của thầy Matsumoto, bác Araki, cô Suzuki, Majime, Nishioka, Kisibe, của các phòng ban khác trong công ty sách Genbu, của những vị cộng tác viên nhiều kinh nhiệm và những bạn sinh viên, của công ty sản xuất giấy Akebo… Chiếc thuyền Daitokai đã được những con người cần mẫn ấy tạo dựng nên từ cái khung, nét sơn rồi liên tục được cân nhắc, suy tính tỉ mỉ để đan đầy nó bằng ngôn từ như vậy đấy. Đọc ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’ mới thấy việc biên tập từ điển khó khăn mà quan trọng đến mức nào: Phải căn chỉnh sao cho lượng từ đúng chuẩn trên một trang giấy, phải xem xét tính phổ biến của từ ngữ, phải tìm cách giải nghĩa và cho ví dụ chuẩn và hợp lý, đến giai đoạn in ấn thì cũng phải lựa chọn loại giấy in phù hợp, vân vân… Từ điển được tạo ra là để mọi người tra cứu dễ dàng, tham khảo và lấy làm chuẩn mực nhất định. Thời trước các cụ khi đặt tên cho con cháu là hay giở sách vở, từ điển để chọn tên hay nghĩa đẹp mà gửi gắm mong ước của mình cho thế hệ sau. Giờ đây từ điển không còn có vị thế quan trọng như xưa nhưng Muỗng nghĩ trong khoảng 10 năm tới – khi mà Tiếng Việt đang được nghiên cứu và bổ xung thì sớm muộn người ta cũng nên làm một cuốn từ điển mới và hoàn thiện hơn. Tuy rằng Majime mới là nhân vật chính nhưng tớ thích Nishioka hơn, những đoạn biến chuyển tâm lý của anh này đọc rất vui và cảm động. Trong mắt người khác Nishioka luôn có vẻ phất phơ đỏm dáng, không bao giờ dành tâm huyết để làm một việc gì cả nhưng thực ra anh chàng rất tinh ý và cố gắng làm những việc cần thiết để giúp đỡ đồng nghiệp. Đọc mà mong một ngày mình cũng dần trưởng thành và biết sẻ chia như Nishioka ???? *** Cuộc đời của Araki Kouhei - nếu các bạn nghĩ rằng dùng từ “cuộc đời” là hơi cường điệu - vậy thì nên sửa lại thành: nếu nói sự nghiệp của Araki Kouhei chỉ để cống hiến cho việc biên tập từ điển, thật không phải nói quá. Araki từ thuở bé đã rất có hứng thú với ngôn từ. Tỉ dụ như từ “chó” chẳng hạn. Tuy thấy nó ở đó, nhưng lại không có*. Ha ha, buồn cười thật đấy. Giả mà bây giờ bác nói như vậy thì thể nào cũng bị các nữ nhân viên bảo, Nguyên văn là そこにいるのに, いぬ (Soko ni iru noni, inu). Câu này bác Araki chơi chữ: động từ iru gần đuôi phủ định -nu vào sẽ từ “có” thành “không có”. Nhưng từ “inu” trong tiếng Nhật cũng có nghĩa là “con chó”. Vậy câu này có thể hiểu theo 2 nghĩa: 1. “Ở đó có con chó.” Và 2. “Nó ở đó, mà lại không ở đó.” “Araki à, anh có ngưng ngay trò đùa của mấy ông già đó đi không”, nhưng nếu hồi còn nhỏ mà đã nghĩ ra được câu này, hẳn bác sẽ rất khoái chí. “Chó” không phải chỉ đơn thuần là từ chỉ một loài động vật. Trong một bộ phim mà bác được bố dẫn đi xem lúc bé, có một gã xã hội đen do bị phản bội nên lâm vào cảnh thập tử nhất sinh, khi hắn ta máu me đầy mình đã thét lên rằng, “Lũ chó chính phủ!” Lúc đó Araki đã ngộ ra rằng, mấy tên nội gián được tổ chức đối địch cài vào cũng bị gọi là “chó”. Ông trùm khi nhận được tin báo đàn em của mình đang hấp hối, liền đứng phắt dậy nói, “Tụi bây còn đứng trơ ra đó làm gì! Mang dao ra đây! Tao phải cho thằng đó chết không bằng chó!”. Lúc đó Araki lại ngộ ra rằng, từ “chó” cũng mang hàm ý tương đương với “chết một cách vô nghĩa”. Đối với con người, loài chó là một người bạn vừa khôn ngoan, lại vừa đáng yêu và đáng tin cậy. Ấy vậy mà, cùng một từ “chó” lại có thể dùng để chỉ tên nội gián vô lại hoặc sự vô nghĩa của một việc thì thật là khó hiểu. Loài chó vốn trung thành, đôi khi đến mức lệ thuộc. Đặc tính nổi bật của chúng là luôn cố gắng tận sức vì loài người mà không cần báo đáp. Có lẽ cũng vì thế nên từ “chó” mới bị gán cho những nghĩa tiêu cực như trên. Tuy Araki đã sớm nảy sinh hứng thú với những chuyện này, nhưng nhận thức của bác về từ điển đến muộn hơn một chút, đó là khi bác được người chú tặng cho quyển “Từ điển quốc ngữ Iwanami” làm quà mừng vào cấp II. Lần đầu tiên Araki được sở hữu một quyển từ điển của riêng mình, bác rất lấy làm thích thú và thường xuyên giở nó ra tra cứu. Mời các bạn đón đọc Người Đan Chữ Xếp Thuyền của tác giả Miura Shion.