Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sống Nhờ

Nhân vật chính trong tự truyện Sống nhờ (1942) là Dần gọi thế bởi cậu sinh vào giờ Dần. Dần sống ở nông thôn, một làng quê tỉnh Hải Dương; mồ côi cha từ lúc chưa sinh, lên sáu tuổi mẹ đi lấy chồng. từ ấy, Dần sống với bà nội và với các cô chú bên nội: rồi lại chuyển sang bên ngoại, với ông bà và các cậu, dì. Một thế giới họ hàng gồm cả hai bên nội ngoại thật là đông đúc, nhưng Dẫn vẫn rất thiếu tình thương. Chỉ vài ba tình cảm hiếm hoi của một người cô, một người mợ và hai phía ông – bà không thể làm ấm lên được bao nhiêu bầu không khí lạnh lẽo bao lấy một đứa trẻ mồ côi. Giữa những mắng mỏ, hắt hủi, đánh đạp. Dần chỉ còn tìm được nguồn an ủi và chỗ dựa là bà nội – người cho đến tuổi già còm cõi, gần đất xa trời vẫn còn góp nhặt từng đồng cho Dần đi học, và cố đỡ vực cho một đại gia đình trong suy sụp vì những đứa con phá tán cơ nghiệp bởi cờ bạc và rượu chè. “Sống nhờ” trong thế giới người thân, bị đun đẩy qua lại giữa hai bên nội ngoại, Dần từ nhỏ đã quen cảnh sống vất vưởng, lang thang. Lớn lên một chút, Dẫn cũng được đi học, cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ, trước là ở trong làng, sau được gửi lên tỉnh. Nhưng thói quen lêu lổng và nỗi nhớ nhà khiến Dần chẳng thể nào chí thú trong việc kiếm chữ. Sao nhãng việc học, Dần tìm đến những đam mê của một tuổi trẻ cô đơn, buồn tẻ. Và, đến lúc mấp mé tuổi lớn, trong cảnh sa sút của gia đình và bao người thân lần lượt ra đi, Dần mới chợt giật mình thấy phải nuôi dần cái chí tự lập để thoát ra khỏi thân phận “sống nhờ”. Trên mạch hồi ức của đứa trẻ từ tuổi lên sáu xa mẹ đến tuổi mười lăm chuẩn bị bước vào đời, luôn luôn in bóng hình ảnh người mẹ trong quyến luyến và cách xa. Trên mạch hồi ức của đứa trẻ từ tuổi lên sáu xa mẹ đến tuổi mười lăm chuẩn bị bước vào đời, luôn luôn in bóng hình ảnh người mẹ trong quyến luyến và cách xa. Đọc Sống nhờ để hiểu một tuổi thơ xót xa buồn khổ trong xã hội cũ. Xót xa không phải chỉ do tình cảnh mồ côi cha và mẹ đi lấy chồng. Mà vì cả một bối cảnh xã hội, do sự mưu sinh vất vả và sự mờ mịt của tương lai mà rất vắng thiếu tình yêu. Và để thấy, việc thay đổi trạng huống bơ vơ, buồn khổ, để cho mọi tuổi thơ được sống đầm ấm, êm vui dẫu có Cách mạng tháng Tám vĩ đại, vẫn không dễ chút nào. Đọc Sống nhờ, để thương cảm và chia sẻ với biết bao tuổi thơ bất hạnh; và để mong mỏi cho mỗi tuổi thơ như thế có được một chỗ dựa, một ý chí vươn lên tự lập mà thoát ra khỏi cảnh “sống nhờ”, dưới bất cứ hình thức nào. Cuốn sách là kết đọng mười năm tuổi thơ của một người giàu nhận xét, giàu xúc cảm – nhà văn Mạnh Phú Tư. Phải đọc vào truyện, phải soi vào mỗi trang chữ mới sống hết được các cảnh đời, mới cảm nhận được hết cái dư vị chua xót nhưng cũng đầy chất thơ trong một hồi tưởng và hình dùng, theo tôi nghĩ, khó ai đạt được sự sắc nét và thiết tha đến thế. Sống nhờ, dẫu trong dạng tự truyện xen hồi ức, nhưng Mạnh Phú Tư vẫn rất biệt tài trong tạo dựng các cảnh đời và khắc họa các chân dung – từ những ông chú, bà cô, ông cậu, bà mợ và hai phía ông bà nội ngoại trong gia đình Dần, đến những ông thầy: thầy lang, thầy phù thủy, thầy đồ Nho đồ Tây, rồi các loại bạn bè từ bé đến lớn của Dần, trong đó có đến ba cô… người yêu, đều chưa vượt tuổi vị thành niên. Có thể nói, Mạnh Phú Tư đã giúp cho người đọc hiểu, không kém Ngô Tất Tố, Nam Cao về đời sống làng quê Việt Nam xưa, trong cả bề mặt và bề sâu các vấn đề xã hội, phong tục và tâm lý dường như nghìn năm không đổi của nó. Đọc Sống nhờ từ tuổi bé, rồi nhiều lần đọc lại Sống nhờ qua các lứa tuổi, niềm hứng thú trong tôi gần như không giảm. Có thể nói đó là một trong số ít cuốn sách tiêu biểu và sáng giá của văn học hiện thực Việt Nam trước 1945. Cuốn sách viết về tuổi thơ, nhưng là để cho tất cả mọi lứa tuổi, tất cả những ai đã qua tuổi thơ cùng đọc. Giáo sư Phong Lê ***   Mạnh Phú Tư (1913-1959), tên thật là Phạm Văn Thứ, cùng chi với chi của tuyển thủ bóng đá nam quốc gia Phạm Như Thuần, quê ở xã Thanh Lang, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông là một tác giả văn xuôi nổi tiếng trước năm 1945, trong đó tác phẩm tiêu biểu là tiểu thuyết "Làm lẽ" được giải thưởng của Tự lực văn đoàn năm 1939. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Thanh Hà. Ông tiếp tục viết văn, làm báo. Năm 1959, ông mất ở Hà Nội khi đang làm biên tập viên báo "Văn học". Tác phẩm chính: Làm lẽ (1939), Gây dựng (1941), Nhạt tình (1942), Sống nhờ (1942), Một thiếu niên (1942), Người vợ già (1942), ... *** Tôi sinh vào giờ Dần. Bà tôi lấy ngay cái giờ đó để đặt tên cho tôi. Người bảo như thế cho tiện về sau, khi nào muốn lấy số tử vi hoặc có ốm đau xem bói cũng dễ nhớ giờ. Vừa mới lọt lòng mẹ, tôi đã là đứa trẻ mồ côi. Mẹ tôi có thai tôi được ngoài năm tháng thì cha tôi chết. Mẹ tôi nuôi tôi tới năm lên sáu, bỏ tôi lại rồi đi lấy chồng. Năm đó mẹ tôi chừng hai mươi ba tuổi. Cha tôi và mẹ tôi khi mới lấy nhau hãy còn như hai đứa trẻ: Chồng mười bẩy, vợ mười lăm. Những cặp vợ chồng trẻ như thế, hiện nay ở vùng tôi cũng hãy còn có rất nhiều. Thường thường gia đình nào cũng vậy, chỉ mong cưới được nàng dâu về để cho trong nhà được thêm đông đúc và có người giúp đỡ các công việc. Bà tôi cũng có cái ý nghĩ đó, nên đều lấy vợ sớm cho các con. Vả lại, nuôi con mà chưa gây dựng cho trai có vợ, gái có chồng thì vẫn chưa là đủ; bởi thế, khi thấy người đã bắt đầu già yếu, bà tôi chỉ nghĩ tới sự kiếm đủ vợ cho các con. Ngày mẹ tôi sa vào cảnh góa bụa, là ngày bà tôi bắt đầu hắt hủi mẹ tôi. Hình như bà tôi đã hiểu rằng một người đàn bà góa chồng vào cái tuổi mười bẩy, mười tám thì khó lòng ở vậy được. Lòng hắt hủi đã khiến bà tôi coi mẹ tôi như một người ngoài và chỉ còn nghĩ tới tôi, giọt máu đầu tiên và cũng là giọt máu cuối cùng của người con giai mà bà tôi thường khen là khấm khớ. Cả đến các chú, các thím tôi cũng tỏ vẻ ghét bỏ mẹ tôi. Bà tôi dành riêng cho hai mẹ con tôi một gian buồng bên cạnh buồng bà tôi. Mẹ tôi vẫn phải ăn chung và làm chung với các chú tôi. Trong khi mẹ tôi phải đi cuốc hoặc đi cấy ngoài đồng, ở nhà, một mình tôi tha thẩn góc sân, xó vườn để nghịch đất, đào giun. Chiều chiều, cứ khi nào gà đã lên chuồng, các công việc đã thu dọn xong cả, mẹ tôi lại dẫn tôi ra cầu ao rửa mặt và chân tay cho tôi. Mẹ tôi rủ rỉ hỏi tôi: - ở nhà, con có ăn no không? - Con ăn ba bát, chan với canh. Mẹ tôi bế tôi từ cầu ao về nhà để khỏi lấm chân. Mẹ tôi lại mắng yêu tôi: - Sao u dặn con ở nhà không được nghịch đất mà hôm nào chân tay cũng bẩn thỉu thế? Chẳng bao giờ tôi trả lời câu hỏi đó. Tôi chỉ đưa tay ôm chặt lấy cổ mẹ tôi. Đêm tới, mẹ tôi đưa tôi đi ngủ. Bao giờ mẹ tôi cũng duỗi thẳng một tay, đặt đầu tôi lên và một tay nhè nhẹ vỗ trên mông đít tôi. Tôi nằm nghiêng về một bên, đặt một tay lên ngực mẹ tôi. Có hôm tôi ngủ được ngay. Có hôm tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Những hôm đó, tôi thấy bà tôi dịu dàng gióng một, nói với sang giường mẹ tôi: - Gái hóa cũng vạn người người ta ở vậy nuôi con đấy. Có gan một tý là được. Cái hạng người mà chưa chôn xong chồng đã tấp tểnh đi lấy chồng, chẳng trời nào chứng cho đâu. Tiếng nói của bà tôi cứ nhỏ nhỏ dần rồi bà tôi ngáy đều đều. Rồi chợt, bà tôi lại tỉnh giấc, chẳng hiểu là mẹ tôi còn thức không, nhưng cứ tiếp lời: - Những lúc đi đây đi đó, phải có ý có tứ mà giữ gìn. ăn uống cái gì của ai cho phải cẩn thận. Nhỡ mà nó bỏ thuốc thì rồi lại mẹ một nơi con một nẻo sớm... Không biết mẹ tôi có nghe những nhời đó chăng, nhưng hôm nay bà tôi nói những câu tương tự như thế tôi lại thấy mẹ tôi luôn luôn thở dài. Cái hơi thở làm nóng cả cổ và mặt tôi. Tôi không hiểu gì, tôi chỉ thấy trong người hơi sờ sợ. Những lúc đó, tôi nằm im thin thít, không dám cử động và nín cả thở. Cứ sau một hơi thở dài của mẹ tôi một lúc tôi lại ôm ghì lấy mẹ tôi. Có một buổi tối về mùa đông, hai mẹ con nằm trên chiếc giường rải rơm, và đắp trên người hai chiếc chiếu cói. Tôi vẫn nằm kê đầu lên tay mẹ tôi. Trời lạnh quá thành khó ngủ. Mẹ tôi thỉnh thoảng đùa cù tôi trên cạnh sườn. Tôi bật cười, giãy giụa. Hai chiếc chiếu cọ nhau sột soạt. Bà tôi cất tiếng hỏi: - Cái gì thế? Tôi sợ quá nín hẳn cười. Yên lặng. Bà tôi lại gắt: - Cái gì mà rả rích thế? Mẹ tôi vừa giở mình vừa đáp lại: - Có gì đâu. - Có tiếng ai cười đùa mà lại bảo có gì đâu. Nghe bà tôi nói vậy, tôi quay đầu nhìn ra. Một cái bóng đen lờ mờ từ phía bên kia thong thả tiến lại gần phía giường mẹ tôi. Thỉnh thoảng cái bóng đó lại khuất hẳn sau một cây cột rồi lại hiện ra. Tôi không hiểu là cái gì và nhớ tới những chuyện ma quỷ tôi sợ đến run cả chân tay. Mẹ tôi tưởng tôi rét quá kéo chiếc chiếu phủ kín cho tôi. Cái bóng ấy lại gần hẳn cạnh giường hai mẹ con tôi. Tôi kêu rú lên. Mẹ tôi hỏi: - Sao thế con? Lúc đó bà tôi mới lên tiếng: - Có ai thế? Mẹ tôi hơi sẵng tiếng: - Thằng Dần đấy chứ ạ! Bà tôi sờ soạng khắp cả giường: - Ai đây? Gái hóa: phụ nữ có chồng chết. - Con đấy mà. Bà tôi sờ tới tôi. Tôi sợ quá không dám cựa mình. - Ai đây? Mẹ tôi vội đáp hộ tôi: - Cháu đấy mà. Bà tôi lại quờ quạng khắp giường một lượt nữa rồi quay đi. Tôi lại nhìn thấy cái bóng ghê sợ lúc trước, ẩn hiện ngay giữa nhà và cứ xa xa dần mãi. Tôi không dám nhìn theo nữa. Khi tôi đã nghe thấy tiếng những nan ở giường bên kia sột soạt kêu, bà tôi lên tiếng nói: - ấy, có thân thì giữ... ở giường bên này, lúc đó tôi mới dám bắt đầu thở đều. Mẹ tôi sụt sịt khóc, nước mắt ướt đầm cái cánh tay tôi gối. Tôi không hiểu tại sao. Thấy mẹ khóc, tôi cũng đem lòng thương, tôi ôm chặt lấy cổ mẹ tôi. Và từ cái buổi tối ấy, tôi thấy sờ sợ bà tôi. Nhất là khi bà tôi đi đâu về hãy còn ở đàng xa mà thân hình chưa rõ, chỉ mới như một cái bóng cử động. Mẹ tôi đi lấy chồng giữa năm tôi lên sáu. Ngay từ khi mẹ tôi còn ở với bà nội tôi, cũng đã có người mối manh nói với bà ngoại tôi xin lấy mẹ tôi. Bà ngoại tôi phân vân mãi rồi sau hết nói lại riêng với mẹ tôi, cố tìm cách giấu hết mọi người bên họ nội. Sau đó người ta cứ hỏi tin tức mãi và cách ít lâu người mối lại ngỏ lời xin ăn hỏi. Bà ngoại tôi nhận nhời. Nhưng trước khi nhận lễ bà ngoại tôi cũng có nói lại công việc gả chồng cho mẹ tôi để bà nội tôi được biết. Cái hy vọng giữ được một người nàng dâu ở vậy nuôi đứa cháu giai bị tiêu tán. Không bao giờ bằng lúc này bà nội tôi đem lòng thù ghét bà ngoại tôi: - Tôi không thấy ai lại như bà. Con gái đầu lại gả chồng hai lần. Giá có lấy mười con gái mà gả chồng như bà thì rồi tha hồ mà nhà ngói cây mít. Mời các bạn đón đọc Sống Nhờ của tác giả Mạnh Phú Tư.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nụ Hôn Cùng Cướp Biển - Daisy Harrison
Thương lượng với hải tặc là một việc vô cùng nguy hiểm. Cha của Circe luôn dặn dò cô như thế. Vậy nên, khi bóng người bí ẩn với cặp mắt hai màu vàng và bạc xuất hiện trên ban công nơi cô đứng và dự định bắt cóc cô, điều đầu tiên cô thắc mắc là tại sao? Tại sao kẻ lạ mặt thần bí này có vẻ còn biết rõ về cô hơn cả chính bản thân cô chỉ với một cái nhìn? Tại sao cha lại thương cảm cho những tên cướp biển? Và tại sao từ biển khơi rộng lớn kia lại dường như luôn có một sức cuốn hút mạnh mẽ kỳ quặc nào đó không ngừng lôi kéo cô về phía nó? Hai năm sẽ nhanh chóng trôi qua trước khi cô kịp tìm thấy câu trả lời, lúc này, Circe chắc chắn tên hải tặc kia đã lãng quên cả cô lẫn lời hứa hắn lập và đóng dấu ngày đó, với một nụ hôn bị đánh cắp. Nhưng thật không may, vẫn còn một điều mà Circe bé nhỏ của chúng ta cần phải học, đó là: Một hải tặc sẽ không bao giờ quên bất cứ thứ gì. Cùng tham gia với Circe vào hành trình đi tìm sự thật và cuộc phiêu lưu khám phá một thế giới mới lạ mà cô chưa từng nghĩ nó có tồn tại. Liệu Circe có thể tìm được câu trả lời cô hằng mong mỏi? Hay một thứ gì đó đen tối và chết chóc sẽ ngán đường cô rồi khẳng định cô sẽ không bao giờ thực hiện được mục đích của mình bởi vận mệnh cô vốn là như thế? Mời các bạn đón đọc  Nụ Hôn Cùng Cướp Biển của tác giả  Daisy Harrison.
Dưới Cái Nhìn Của Anh Hề - Heinrich Boll
Có lẽ trong mọi thời đại, sự tự do của mỗi cá nhân luôn luôn xung đột với những nền tảng đạo đức tự phong của xã hội, và hơn thế nữa, nếu cái xã hội mà cá nhân đó tồn tại còn bị kìm kẹp ngoài những “giáo quy” của đời sống, nó còn bị những giáo điều của tôn giáo kìm kẹp. Những giáo quy và giáo điều đó khiến cho sự tự do theo cách mà một cá tính nào đó muốn luôn luôn giống như chiếc diều không thể bay thoát khỏi sợi dây của mình để rồi cứ phải đứng một chỗ, nương theo chiều gió, nếu không còn gió nữa thì rơi rụng vào chính nỗi cô đơn và sự khắc khoải của chính mình, và rồi tự diệt. Sự xung đột đó là điều khiến cho những tác phẩm viết về chủ đề này luôn luôn có giá trị mang đến sự chạm mạnh vào tâm hồn của những người đọc, mà sự cô đơn và ước muốn trốn thoát khỏi đời sống vô cùng mạnh mẽ và buồn bã. Tiểu thuyết The Clown (Opinions of a clown – Dưới cái nhìn của một anh hề) của nhà văn Đức Heinrich Boll đã chạm mạnh vào tâm hồn tôi bởi một câu chuyện như thế. Câu chuyện về một người nghệ sĩ chuyên diễn hề trên sân khấu, nhưng thật ra ai chẳng là anh hề, chẳng là một kịch sĩ trong vở kịch lớn u buồn là cuộc đời này. Một anh hề 27 tuổi sinh ra ở Bonn, phải đi diễn ở khắp nơi trên đất nước trong thời Hitler đến sau thời kì Hậu Chiến ở Đức. Cùng với người mình yêu – một người theo đạo Cơ Đốc Giáo luôn luôn bị ám ảnh bởi tội lỗi mình mang khi chung sống như vợ chồng với anh khi chưa cưới. Và khi một tai nạn nghề nghiệp xảy ra, a bị xã hội chán ghét và cười mỉa mai lên sự nghiệp của anh bởi một bài báo dìm anh đến tận cùng, anh quay về Bonn trong thương tật cả thể xác và tâm hồn. Ở đó, tại quê nhà của mình, trong căn phòng của mình chỉ trong vài tiếng đồng hồ là một sự hồi tưởng đầy hằn học, mỉa mai về quá khứ với gia đình, bạn bè, những mối quan hệ xã hội, đan xen đó là sự kết nối một cách tuyệt vọng với thế giới bên ngoài hòng mong cứu giúp anh thoát khỏi cảnh thương tật và cùng quẫn đang ám thị đầu óc anh với sự trống rỗng đến đau lòng.  Như tôi đã nói ở trên, mỗi cá nhân giống trên đời đều giống như một vai hề khi mà bên trong nụ cười là những sự chất chứa không vui vẻ, không màu mè mà đầy u tối khi cuộc sống thoát ra khỏi cái đơn giản và dễ thở của tuổi thơ để đi vào trong đó sự đối diện đầy hài hước trong sự mỉa mai bất tận của cuộc sống. Nhân vật chính của Heinrich Boll là một người vô cùng bất hạnh, bất hạnh cả khi anh được sinh ra trong một gia đình triệu phú, nhưng có một người mẹ ích kỉ, bủn xỉn và giả dối, một người cha khô khan và kiểu cách, thông minh nhưng lạnh lẽo, một gia đình như vậy, đã để cho chị gái người mà anh vô cùng yêu quý nhưng có tính cách mạnh mẽ và đối lập người mẹ đi ra mặt trận để rồi hy sinh ở đó, một cậu em trai luôn giúp đỡ yêu thương anh, chọn nhà thơ là nơi để nương tựa. Còn anh, thi mãi không đỗ được hết trung học vì không chịu đồng ý với khuôn mẫu sai lầm của một câu chuyện cổ tích mà nhà trường dạy. Anh chọn đi con đường của mình, trở thành một nghệ sĩ hài, một diễn viên hề. Và trên hết, anh chọn Marie là người vợ của mình, một người vợ không chính thức nhưng là người mà anh yêu đến tận cùng trái tim mình, một người anh sẽ luôn luôn thủ tín với nguyên tắc 1 vợ một chồng của mình. Với một giọng văn đơn giản nhưg cay nghiệt và đầy mỉa mai, qua cái nhìn của anh hề, xã hội Đức đã hiện lên trong dáng vẻ của sự đạo đức giả đầy ghê tởm của chính trị, của chiến tranh, của tôn giáo. Anh không theo tôn giáo nào, ở anh chỉ có cái nhìn đầy thách thức đối với đời sống tôn giáo, cái nhìn của một người nhìn ra trong tôn giáo đó, những cá thể đại diện cho nó luôn luôn thể hiện sự ma mãnh đáng tởm, sự lừa đảo đầy gớm giếc. Anh luôn sẵn sàng cưới Marie thậm chí chấp nhận xin giấy của nhà thờ Cơ Đốc Giáo để khiến cho Marie không cảm thấy tội lỗi, thì a cũng không chịu nổi việc anh bắt buộc phải kí giấy hứa cho con mình sau này được làm phép thông công của đạo đó. Vậy mà sau đó, Marie lại đi theo một kẻ theo Cơ Đốc giáo, cô muốn chọn lại con đường cho mình nơi mà cô không phải chịu tội lỗi nữa. Một sự mỉa mai đến khôn cùng, một sự ngoại tình thông dâm được hợp thức hóa. Mỗi một nhân vật xuất hiện trong cuộc sống của Hans – anh hề là một bộ mặt không trang điểm, không hóa trang nhưng đó lại chính là những chiếc mặt nạ xấu xí và khôn khéo mà người ta dễ dàng mang cho mình để thỏa mãn những giáo lý của xã hội. Còn Hans, anh chỉ cảm thấy là chính mình khi anh hóa trang thành chú hề, với chiếc mũ đỏ, những vệt trắng đen tô trên mặt, một khuôn mặt của người nghệ sĩ méo mó trước trọng lực của đời sống mà Hans không thể chịu đựng nổi. Mà sự thất bại lớn nhất lại đến từ người mà anh yêu nhất. Ngay cả tình yêu đó, cái tình yêu mà Marie đã từng hứa hẹn đến trọn đời đó cũng không thể ở lại bên anh vì tội lỗi ngớ ngẩn nào đó được quy chụp đến từ tôn giáo. Xã hội là vậy, luôn luôn là những chiếc kìm vạn năng có khả năng cắt đứt mọi thứ tình cảm dù nó đưojc thề thốt trên sự chung thủy và cái chết. Câu chuyện của Heinrich Boll qua cái nhìn của một anh hề, như thể chính là câu chuyện mà tôi cứ ấp ủ dựng lên cho chính mình, điều đó càng khiến cho sự đồng cảm của tôi đối với Hans càng vô cùng lớn. Ở Hans tôi thấy được sự cay nghiệt của số phận khi anh tìm cách đi nghịch lại con đường, những lối mòn có sẵn êm ái và dễ chịu nếu xét theo hệ quy chiếu với mẫu số chung là những cá nhân tính như cha mẹ Hans hay những mối quan hệ khác của anh. Trong cái sự đối ngược đó, đôi khi anh bất lực và tuyệt vọng đến mức đi xin từng đồng xu một của những người anh quen biết, anh chọn một lối sống tự do và không ràng buộc và phụ thuộc vào bất cứ cái gì, để rồi đến lúc chính anh lại vật vã với môt đồng mac còn lại duy nhất mà trong một khoảng khắc bất đồng anh vất nó qua cửa sổ, để rồi cứ mải miết tiếc nuối những điếu thuốc có thể mua được, chiếc bánh mì có thể mua được từ đồng Mác đó. Và khi không thể biểu diễn kiếm tiền được nữa, anh chấp nhận liệt kê một danh sách những người có thể gọi điện để hỏi vay tiền, để rồi từ họ, anh nhận được sự mỉa mai, sự chối bỏ tình cảm, sự thương hại tội nghiệp… để rồi anh nhận ra rằng, xung quanh anh chẳng còn ai, chẳng còn ai có thể giúp anh thậm chí cả người em trai của mình. Cái hình ảnh anh tự hóa trang cho mình, rồi cầm cây đàn guitar ra ga ngồi hát và đặt ngửa cái mũ bên cạnh như một kẻ hát rong là hình ảnh của sự tuyệt vọng đến tận cùng khi tất cả các mối quan hệ trong xã hội của anh dường như chỉ là con số 0 tròn trĩnh khi chẳng ai, không ai có thể hiểu được anh, hiểu được cái hoàn cảnh khinh khủng mà anh đang trải qua. Hans chính là hình ảnh phản chiếu của ta trong cuộc sống hiện đại, khi mà mỗi người chúng ta đều phải đấu tranh với chính bản ngã của mình để lựa chọn con đường đi trong cuộc đời, đó là đi theo sự lựa chọn của gia đình, hay thoát khỏi gia đình để làm theo cách mà chúng ta tin rằng chúng ta sẽ tự do. Và hơn nữa, đó là sự rành rẽ và nhận ra được những khuôn mặt mà ta gặp trong cuộc đời, đã phần chúng ta đều để ra bên ngoài mình khuôn mặt của một anh hề mà cất vào bên trong khuôn mặt thật của mình, liệu rồi chúng ta có nhận ra trong những mối quan hệ đó, khuôn mặt hề nào thực sự là khuôn mặt đáng để tin tưởng, là một người bạn thực sự, nhưng dù có thế thì sự xung đột của chính bản thân chúng ta với xã hội và những luân lý thường nhật của nó là điều ta không thể tránh được. Câu chuyện của Boll có một tầm rộng lớn về sự bao quát đối với những vấn đề của xã hội từ chính trị cho đến tôn giáo, nhưng ta luôn luôn nhìn thấy trong đó, ở Hans nhân diện của chính mình trong sự bối rối và khó khăn khi tự mình bước đi trong cuộc sống. Sự vấp ngã là tất yếu, nhưng sự vấp ngã đó có khiến ta phải chọn lại con đường tự do ta đã chọn hay không lại là câu chuyện tiếp của mỗi người. Mời các bạn đón đọc Dưới Cái Nhìn Của Anh Hề của tác giả Heinrich Boll.
Đôi Bạn - Nhất Linh
Đôi bạn là một tác phẩm ghi dấu đỉnh cao đổi mới của văn học lãng mạn Việt Nam trước 1945. Lãng mạn hiểu theo từ gốc là làn sóng tràn đầy (lãng là sóng, mạn là lan tràn) và văn học lãng mạn từ phương Tây du nhập vào ta, kết hợp với nguồn cảm hứng bi quan yếm thế, coi nhân sinh là mộng ảo, vốn có trong văn học ta vào thời kỳ đất nước mất chủ quyền, đã tạo ra một dòng văn học sầu lụy bi ai với Giọt lệ thu (Tương phố), Linh phượng lệ ký (Đông Hồ), Bể thẳm (Đoàn Như Khuê) và Giấc mộng con (Tản Đà)… Đôi bạn ra đời đồng thời với phong trào “vui vẻ trẻ trung” và cải cách do Tự lực văn đoàn chủ trương đã dấy lên một thời kỳ lãng mạn mới, kể cả về hình thức lẫn nội dung, nên dù là một truyện tình trắc trở nhưng không phải là một bi kịch, dù là một cuộc tình đầy thử thách nhưng không phải là hoàn toàn bế tắc trong một không gian sức phản chấn của làn sóng mới tăng dần xô vào thành trì cũ, báo hiệu một thời điểm vỡ bờ không xa. Sự kiện gần báo hiệu sự đổi thay xuất hiện trước cuộc Đệ nhị Thế chiến không lâu, vào lúc Đông dương có không khí chính trị tương đối thoải mái hơn trước nhờ ở Pháp phong trào Mặt trận bình dân ra đời (Front populaire (1936-1938) với thủ tướng Leon Blum). Biến chuyển xa là cuộc Trung Nhật chiến tranh khởi từ 1937 (sự kiện Lư Cấu kiều) và Đệ nhị Thế chiến bùng nổ (1939) khiến Âu châu chiến hỏa và Pháp bị dồn vào thế yếu dẫn tới Đông dương trong cơn xáo trộn trước áp lực của quân Nhật. Đôi bạn được nhà xuất bản Đời nay in vào năm 1939, nhưng trước đó (1938) đã được đăng trên tờ Ngày nay. Mời các bạn đón đọc Đôi Bạn của tác giả Nhất Linh.
Trâm 3: Tình Lang Hờ - Châu Văn Văn
Mang trong lòng bao cảm xúc ngổn ngang, cùng Quỳ vương Lý Thư Bạch quay về Thục với quyết tâm phá giải vụ án oan của gia đình, được binh lính, quan binh phủ huyện hộ tống, nghênh đón suốt dọc lộ trình, Hoàng Tử Hà không thể nào ngờ, đường về Thục khó đi đến vậy! Chốn cũ người xưa. Những ký ức tưởng rằng chân thực nhất, đáng tin cậy nhất bỗng trở nên bất định. Cô đã cùng Lý Thư Bạch vượt mọi hiểm nguy, thoát khỏi tầng tầng lớp lớp cạm bẫy của kẻ giấu mặt. Nhưng tất cả đều không đáng sợ bằng giây phút đối diện hung thủ đã đẩy cả gia đình cô tới cái chết. Vào thời khắc giật bỏ tấm màn che phủ vụ án, Hoàng Tử Hà chợt ngộ ra những điều ý nghĩa trong cuộc đời mình. Mời các bạn đón đọc Trâm 3: Tình Lang Hờ của tác giả Châu Văn Văn.