Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kết Hôn Với Winterborne

Một ông trùm tàn nhẫn Tham vọng man rợ đã mang lại cho Rhys Winterborne có xuất thân bình dân trở nên giàu có và thành công. Trong kinh doanh và hơn thế nữa, Rhys đạt được chính xác những gì anh mong muốn. Và ngay từ khi gặp được Quý cô Helen Ravenel, một Tiểu thư quý tộc nhút nhát, anh đã quyết tâm chiếm hữu nàng. Nếu anh phải lấy đức hạnh của nàng để đảm bảo nàng phải kết hôn với anh, thì càng tốt. . . Một vẻ đẹp cần được che chở Helen đã có rất ít tiếp xúc với thế giới lấp lánh, hoài nghi của xã hội London. Tuy nhiên, sự quyến rũ kiên quyết của Rhys đã đánh thức một niềm đam mê mãnh liệt lẫn nhau giữa hai người. Lớn lên trong sự nuôi dạy dịu dàng Helen mang một niềm tin cứng đầu rằng chỉ có nàng mới có thể thuần phục được người chồng ngỗ ngược của mình. Khi kẻ thù của Rhys âm mưu chống lại họ, Helen phải tin tưởng anh khi thổ lộ bí mật đen tối nhất của nàng. Những rủi ro là không thể tưởng tượng được. . . phần thưởng, một đời hạnh phúc không gì sánh được. Và tất cả bắt đầu với… Kết hôn với Winterborne *** "Ngài Winterboner, một người phụ nữ đang ở đây để gặp ngài.” Rhys nhìn lên từ đống thư trên bàn với vẻ cau có. Thư ký riêng của anh, bà Fernsby, đứng trước ngưỡng cửa văn phòng riêng của anh, đôi mắt sắc bén sau cặp kính tròn. Bà là một người phụ nữ gọn gàng, đứng tuổi và hơi bụ bẫm. “Bà biết tôi không tiếp khách vào giờ này mà.” Đó là nghi thức buổi sáng của anh để dành nửa giờ đầu tiên trong ngày để đọc thư trong sự im lặng không bị gián đoạn. “Vâng, thưa ngài, nhưng người khách là một Quý cô, và cô ấy – “ “Tôi không quan tâm nếu cô ta có là Nữ hoàng máu lạnh,” anh cắt ngang. “Bảo cô ta đi đi.” Đôi môi của bà Fernsby mím lại thành một dấu gạch ngang không tán thành. Bà rời đi ngay lập tức, gót giày chạm sàn lộp cộp của tiếng súng. Rhys quay sự chú ý của mình vào bức thư trước mặt. Mất bình tĩnh là điều xa xỉ, anh hiếm khi cho phép bản thân, nhưng trong tuần qua, anh đã bị xâm chiếm bởi một sự u ám buồn bã đè nặng lên mọi suy nghĩ và nhịp tim, và khiến anh muốn đả kích bất cứ ai trong tầm tay. Tất cả chỉ vì một người phụ nữ mà anh biết rõ hơn là anh muốn. Tiểu thư Helen Ravenel. . . một người cô gái có giáo dục, hồn nhiên, nhút nhát, quý phái. Tất cả mọi thứ mà anh không có. Cuộc đính hôn của họ đã kéo dài chỉ hai tuần trước khi Rhys tìm cách hủy hoại nó. Lần cuối cùng nhìn thấy Helen, anh đã thiếu kiên nhẫn và hung hăng, cuối cùng đã hôn nàng theo cách mà anh muốn rất lâu. Nàng cứng ngắc trong vòng tay anh, từ chối anh. Sự khinh bỉ của nàng không thể rõ ràng hơn. Cảnh tượng đã kết thúc trong nước mắt của nàng, sự giận dữ của anh. Ngày hôm sau, Kathleen, Quý bà Trenear, người đã kết hôn với anh trai quá cố của Helen, đã đến thông báo với anh rằng Helen rất đau khổ, nàng nằm liệt giường vì chứng đau nửa đầu. “Cô ấy không bao giờ muốn gặp lại anh nữa,” Quý bà Kathleen đã thẳng thừng thông báo cho anh. Rhys không thể đổ lỗi cho Helen vì đã huỷ bỏ lễ đính hôn. Rõ ràng họ là một sự không phù hợp. Nó chống lại các sắp đặt của Chúa rằng anh nên lấy con gái của một gia đình người Anh có tước vị về làm vợ. Mặc dù có tài sản lớn, Rhys lại không có cách cư xử hoặc sự giáo dục của một quý ông. Anh cũng không có vẻ ngoài của một quý ông, với nước da ngăm đen, mái tóc đen, và cơ bắp của một người quen với lao động nặng nhọc. Đến năm ba mươi tuổi, anh đã xây dựng trung tâm thương mại Winterborne’s, từ cửa hàng nhỏ của cha mình trên phố High, thành cửa hàng bách hóa lớn nhất thế giới. Anh sở hữu các nhà máy, nhà kho, đất nông nghiệp, chuồng ngựa, cửa hiệu giặt ủi, và các tòa nhà dân cư. Anh ở trong hội đồng quản trị của các công ty vận chuyển và đường sắt. Nhưng bất kể anh đạt được gì, anh sẽ không bao giờ vượt qua được những hạn chế của việc sinh ra là con trai một chủ hiệu tạp hóa xứ Wales. Suy nghĩ của anh bị gián đoạn bởi một tiếng gõ cửa khác. Ngẫu nhiên, anh liếc nhìn lên khi bà Fernsby trở lại văn phòng của mình. "Bà muốn gì?" anh căn vặn. Người thư ký nâng gọng kính khi bà trả lời một cách kiên quyết. “Trừ khi ngài muốn tống cổ Quý cô ấy bằng vũ lực, cô ấy vẫn khăng khăng ở lại cho đến khi ngài nói chuyện với cô ấy.” Sự khó chịu của Rhys đã biến thành bối rối. Không có người phụ nữ nào đáng kính quen biết anh, hay nói cách khác, lại dám tiếp cận anh một cách táo bạo như vậy. "Tên của cô ta là gì?" “Cô ấy không nói.” Anh lắc đầu không tin. Làm thế nào mà người khách này lại đi qua được các văn phòng bên ngoài? Anh đã trả tiền thuê một đội quân nhỏ để ngăn anh phải đối phó với sự gián đoạn kiểu này. Một ý tưởng ngớ ngẩn đã nảy ra với anh, và mặc dù anh đã bác bỏ nó ngay lập tức, mạch đập của anh tăng lên nhanh chóng. "Cô ấy trông như thế nào?" anh lẩm bẩm hỏi. “Cô ấy mặc bộ đồ tang, với tấm màn che trên mặt. Dáng người mảnh khảnh, và giọng nói nhẹ nhàng.” Sau một hồi do dự, bà nói thêm với một giọng khô khan, “Đặc biệt nhấn mạnh về “phòng vẽ””. Chợt nhận ra, Rhys cảm thấy ngực mình thắt lại xung quanh một cơn khát khao sâu thẳm. ”Chúa ơi,” anh lẩm bẩm. Có vẻ như không có khả năng Helen sẽ đến với anh. Nhưng bằng cách nào đó anh biết là cô đã ở đây, anh biết điều đó đến tận xương tuỷ của anh. Không nói thêm lời nào nữa, anh đứng dậy và đi qua bà Fernsby với những sải chân dài. "Ngài Winterborne,” bà thư ký kêu lên, đi theo anh. “Ngài đang mặc áo sơ mi. Áo khoác của ngài – “ Rhys hiếm khi nghe lời bà khi anh rời khỏi cái góc của anh trong văn phòng và bước vào một căn phòng giải trí với những chiếc ghế bọc da. Anh dừng lại đột ngột khi nhìn thấy vị khách, hơi thở của anh trở nên gấp gáp. Mặc dù tấm màn tang che giấu khuôn mặt Helen, nhưng anh nhận ra tư thế hoàn hảo và dáng người mảnh dẻ của nàng. Anh buộc mình phải thu hẹp khoảng cách giữa họ. Không thể nói một lời, anh đứng trước mặt nàng, gần như nghẹn ngào vì phẫn nộ, và hít vào mùi hương ngọt ngào của nàng với sự tham lam bất lực. Anh ngay lập tức bị kích thích bởi sự hiện diện của nàng, da thịt anh nóng lên, nhịp tim đập nhanh và dữ dội. Từ một trong những căn phòng gắn liền với phòng giải trí, tiếng gõ nhẹ của máy đánh chữ lấp vào sự im lặng. Thật là điên rồ khi Helen đến đây mà không có người đi kèm. Danh tiếng của nàng sẽ bị phá hủy. Nàng phải rời khỏi phòng giải trí và được gửi về nhà trước khi bất cứ ai nhận ra nàng là ai. Nhưng trước tiên Rhys phải tìm ra nàng muốn gì. Mặc dù nàng được che chở và ngây thơ, nhưng nàng không phải là một kẻ ngốc. Nàng sẽ không phạm phải một rủi ro lớn như vậy mà không có lý do chính đáng. Anh liếc nhìn bà Fernsby. “Khách của tôi sẽ sớm rời đi. Trong khi đó, hãy chắc chắn rằng chúng tôi không bị làm phiền.” "Vâng thưa ngài." Ánh mắt anh quay lại với Helen. “Đến đây,” anh nói cộc cằn và dẫn đường đến văn phòng của anh. Nàng đi cùng anh mà không nói lời nào, váy nàng xào xạc khi chúng cọ vào hai bên hành lang. Trang phục của nàng đã lỗi thời và hơi tồi tàn, vẻ ngoài dường như rơi vào thời điểm khó khăn. Có phải đó là lý do nàng ở đây? Có phải gia đình Ravenel rất cần tiền đến mức tuyệt vọng đến nỗi nàng đã thay đổi suy nghĩ về việc hạ thấp bản thân để trở thành vợ của anh? Chúa ơi, Rhys nghĩ với dự đoán nghiệt ngã, anh sẽ thích nàng phải cầu xin anh tiếp nhận lại nàng. Dĩ nhiên, anh sẽ không, nhưng anh sẽ cho nàng nếm trải sự đau khổ mà anh đã phải chịu đựng trong tuần qua. Bất cứ ai đã từng dám qua mặt anh sẽ đảm bảo với nàng rằng sẽ không có sự tha thứ hay thương xót nào sau đó. Họ bước vào văn phòng của anh, một nơi rộng rãi và yên tĩnh với cửa sổ kính hai lớp rộng và thảm dày, mềm mại. Ở trung tâm của căn phòng, một bàn làm việc gỗ óc chó đã được chất đống với các chồng thư từ và tài liệu. Sau khi đóng cửa, Rhys đi đến bàn của mình, nhặt một chiếc đồng hồ cát và nâng nó lên trong một cử chỉ có chủ ý. Cát sẽ chảy xuống khoang dưới trong chính xác mười lăm phút. Anh cảm thấy cần phải đưa ra quan điểm rằng hiện giờ họ đang ở trong thế giới của anh, nơi thời gian là quan trọng, và anh đang kiểm soát. Anh quay sang Helen với một cái nhíu mày nhạo báng. “Tuần trước tôi đã được nói rằng em – “ Nhưng giọng nói của anh tắt ngấm khi Helen đẩy tấm mạng che lên và nhìn chằm chằm vào anh với sự kiên nhẫn, dịu dàng đã tàn phá anh ngay từ lần đầu tiên. Đôi mắt nàng là một màu xanh bạc của những đám mây trôi qua ánh trăng. Những lọn tóc thẳng, mượt mà, mái tóc vàng óng ả, đã được tết lại gọn gàng vào một búi tóc, nhưng một lọn sáng lấp lánh đã trượt khỏi những chiếc lược gài và lủng lẳng trước tai trái của nàng. Chết tiệt nàng, chết tiệt nàng vì quá xinh đẹp. “Hãy tha thứ cho em,” Helen nói, ánh mắt cô nhìn thẳng vào anh. “Đây là cơ hội đầu tiên em có thể tìm đến với anh.” “Em không nên ở đây.” “Có những điều em cần phải thảo luận với anh.” Nàng liếc nhìn một cái ghế rụt rè. “Làm ơn, nếu anh không thấy phiền . . .” “Aye, mời ngồi.” Nhưng Rhys không có động thái giúp nàng. Vì Helen sẽ không bao giờ coi anh là một quý ông, anh sẽ bị nguyền rủa nếu anh hành động như một quý ông. Anh nửa ngồi, nửa dựa vào bàn, khoanh tay trước ngực. “Em không có nhiều thời gian,” anh nói một cách kiên quyết, hất đầu về phía chiếc đồng hồ cát. “Em nên sử dụng nó tốt hơn.” Helen ngồi trên ghế, sắp xếp lại váy và tháo găng tay ra bằng những ngón tay khéo léo ở đầu ngón tay.   Mời các bạn đón đọc Marrying Winterborne của tác giả Lisa Kleypas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Gái và Hoa Cẩm Chướng - Archibald Joseph Cronin
"Cô gái và hoa cẩm chướng" là một câu chuyện tình yêu, các sự kiện diễn ra xoay quanh ba nhân vật Catơrin, Năngxi, Mêđơn. Catơrin là một cô gái có cặp mắt đẹp, buồn và rất yêu hoa cẩm chướng. Xuất thân từ một gia đình thị dân nghèo ở Luân Đôn, vào đời từ năm 17 tuổi với chân thư ký tầm thường của một hãng buôn. Cô đã phấn đấu trở thành một chủ hãng kinh doanh đồ nghệ thuật và trang trí mỹ thuật, có đại diện các nước Mỹ và Pháp. Cô đã từ bỏ hôn nhân để theo đuổi sự nghiệp và nuôi mẹ với đứa cháu gái mồ côi khi mới hơn hai mươi tuổi. Năngxi được đi học trường sân khấu và trở thành diễn viên. Năngxi gặp và đính hôn với Mêđơn, một người Mỹ hơn cô hàng chục tuổi và mời anh về London. Cũng tại đây Mêđơn đã làm quen với Catơrin. Sau một thời gian tiếp xúc, trải qua nhiều sự kiện, hai người đã phát hiện một điều làm họ hoảng sợ: Họ yêu nhau, vì tính tình, vì sự đồng cảm...Cả hai rất đau khổ về mối tình này...Trước đêm công diễn lần đầu vở kịch mới ở New York, Năngxi ngẫu nhiên phát hiện được tình cảm giữa hai người họ. Cô đau đớn vô cùng, nhưng tối hôm ấy cô đã diễn xuất sắc vai của mình và trở nên nổi tiếng... *** Buổi trưa ẩm ướt tháng Mười Một đó là ngày bức hoa. của Holbein thu hút giới mộ điệu tới Vernon, nơi có một cuộc đấu giá không tiền khoáng hậu về giá trị cũng như về mức độ quan trọng của nó. Bức họa được gửi đến không hẹn trước từ Tu Viện Wroxon bởi gia đình Kneller, là bức hoa. nổi danh mang tên Qúy Cô với hoa cẩm chướng, một tuyệt tác với sự pha trộn giữa nét thanh tú và phi thường trong cách thể hiện, bức họa là một chân dung nhỏ của Cô de Quercy, con gái của ngài đại sứ trong triều vua Henry Thứ Tám - được ra mắt năm 1532, không bao lâu sau sự tái xuất hiện của Holbein ở London từ Basel – phong cách độc đáo nhất và thời gian huy hoàng nhất của vị bậc thầy này. Phòng hành lang đấu giá dài bị chật cứng người đúng bốn giờ rưỡi khi bức họa được kêu giá. Cuộc đấu giá bắt đầu với giá khiêm nhượng là hai ngàn guineas (guinea = đồng vàng Anh = 21 shillings, 1 shilling [hào] = 12 pence [xu]), tăng nhanh thành năm ngàn, ngưng một hồi lại tăng lên bảy ngàn, rồi ngưng và tăng với nhịp điệu thay đổi để loại trừ các kẻ cạnh tranh, rốt cuộc chỉ còn hai vị sừng sỏ, và giá cuối cùng lên tới chín ngàn bốn trăm guineas. Giá này đến đây ngừng lại. "Chín ngàn bốn trăm guineas." Người điều khiển đấu giá, ẩn trong lốt y phục diều hâu đỏ may cắt khéo léo, tóc được chải ngôi cẩn thận, chiếc kim đính hạt trai viền nổi bật trên nền cà vạt đen, làm tôn thêm dáng vẻ của ông trong lúc mắt không rời khuôn mặt điềm tĩnh ngoảnh đi ngoảnh lại của Bernard Rubin. Rubin dường như ghét trả cao hơn mặc dù cuộc đấu giá đang gây bất lợi cho ông. Cuối cùng, ánh mắt sùm sụp khó nhận thấy dưới cái nón rộng vành chợt sáng lên với một nét ngoan cố, và ngay tức khắc giọng người điều khiển vang lên: "Chín ngàn năm trăm guineas." Ngay lập tức, một cử chỉ ra dấu gần như không thể cảm nhận phát ra từ phía đối diện của căn phòng. "Chín ngàn sáu trăm," giọng người điều khiển lễ phép vang lên. "Chín ngàn bảy trăm," Rubin tăng giá một cách giận dữ nhưng lần nữa lại có kẻ đấu giá khác ra hiệu, có vẻ thách thức với ông. "Chín ngàn tám trăm," người điều khiển tuyên bố và dướn người về phía Rubin. Nhưng lần này Rubin chịu thua, giới hạn của ông chỉ có nhiêu đó, vẻ kiên cường không còn nữa từ lúc tiến hành đấu giá. Nếu có một thứ khiến già Bernard Rubin đứng đầu trong kỹ nghệ đồ cổ, đó chính là tài dừng lại đúng lúc. "Chín ngàn tám trăm guineas," người điều khiển lặp lại, đảo mắt khắp căn phòng chật cứng. Một sự im lặng. "Lần chót, chín ngàn tám trăm guineas." Một tràng im lặng nữa, kỳ lạ, và cuối cùng được chấm dứt bằng một tiếng búa gõ mạnh." Bán với giá chín ngàn tám trăm guineas... cho Cô Lorimer." Katharine Lorimer đứng dậy nhẹ nhàng từ chiếc bàn dài nơi nàng ngồi, tiến tới cánh cửa đôi phía cuối căn phòng rộng lớn. Nhiều vị đấu thầu lịch sự lùi lại khi nàng bước ngang, thì thầm lời chúc tụng, ngoài một nụ cười nhẹ nàng dường như không chú ý tới họ lắm. Có lẽ nàng nhận thấy khó trả lời lúc đó vì sự kiện táo bạo mới xảy ra, nàng cảm thấy nhịp đập rộn lên vì sự căng thẳng vô tận của vài giây cuối. Nàng đã đặt trọn trái tim vào bức hoạ, và một sự đặt giá nữa từ Rubin có lẽ sẽ đánh bại nàng. Từ bậc thang đi xuống, già Bernard hội nhập với nàng, bước đi lộp cộp nặng nề bên cạnh nàng trong sự im lặng khó hiểu. Chiếc xe hơi của ông ta, màu đen và bạc kiểu Continental, thiệt là bự và đắt tiền mà ông ta không bỏ lỡ cơ hội nào khoe với mọi người giá mua nó, đang đậu cạnh lề đường bên ngoài. Tới ngưỡng cửa, Katharine và Rubin ngừng lại, ngạc nhiên vì tiếng động và mật độ giao thông, vì sự chói lòa và sự càu nhàu chói tai của London, làm cho phòng đấu giá dường như xa vời và có vẻ không thực. "Cô đi cùng đường với tôi?" Rubin hỏi, một cử chỉ như muốn đưa nàng về. ... Mời các bạn đón đọc Cô Gái và Hoa Cẩm Chướng của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Thời Thơ Ấu - Macxim Gorki
Macxim Gorki (1868 -1936) là nhà văn lớn của nước Nga, mở đầu trào lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông còn là nhà hoạt động văn hoá- xã hội nổi tiếng thế giới. Hy vọng THỜI THƠ ẤU sẽ làm hài lòng bạn đọc không chỉ các bạn nhìn thấy chính mình trong đó, quan trong hơn chính là bút pháp nghệ thuật điêu luyện của tác giả cuốn hút người đọc đến từng con chữ cuối cùng của tác phẩm. *** Nhận định "Đọc Thời thơ ấu các em sẽ thấy rằng tôi hoàn toàn là một con người nhỏ bé như các em, chỉ khác ở chỗ: ngay từ bé tôi đã duy trì được lòng ham muốn học tập và không sợ bất cứ thứ lao động nào.” (M.Gocki) "Chưa bao giờ chúng tôi đọc trong văn học Nga một tác phẩm nào hay hơn cuốn THỜI THƠ ẤU của anh...Chưa bao giờ anh khéo sử dụng nghệ thuật của mình một cách thành thạo như thế” (R.Rolăng - nhà văn Pháp) *** Gần cửa sổ, trong một gian phòng chật hẹp tranh tối tranh sáng, bố tôi mặc quần áo trắng toát nằm trên sàn. Thân hình bố tôi dài lạ thường, ngón chân xòe ra nom rất kỳ quái; hai bàn tay dịu dàng đặt yên trên ngực, nhưng ngón tay thì co quắp. Hai đồng xu đen tròn bằng đồng che kín cặp mắt tươi vui của bố tôi: khuôn mặt vẫn hiền từ nay tối sầm lại. Hai hàm răng nhe ra làm tôi sợ hãi. Mẹ tôi mặc chiếc váy đỏ, chiếc áo hở ngực, quỳ bên cạnh và lấy chiếc lược đen, mà tôi vẫn thích dùng để cứa vỏ dưa hấu, chải mái tóc dài và mềm mại của bố tôi từ phía trán ra sau gáy. Mẹ tôi nói liên tục, giọng trầm trầm khàn khàn. Cặp mắt xám của mẹ tôi sưng húp và như tan ra thành những giọt nước mắt lớn chảy ròng ròng. Bà tôi giữ lấy tay tôi. Bà tôi người béo tròn có cái đầu lớn, cặp mắt rất to và chiếc mũi xôm xốp nom rất buồn cười; bà tôi mặc toàn đồ đen trông mềm dịu đến hay. Bà tôi cũng khóc, tiếng khóc nức nở lạ lùng, trầm bổng hình như hòa theo những lời than vãn của mẹ tôi. Toàn thân run run, bà tôi kéo tôi và đẩy lại gần chỗ bố tôi. Nhưng tôi cưỡng lại và nấp sau lưng bà; tôi vừa sợ hãi vừa lúng túng. Chưa bao giờ tôi trông thấy người lớn khóc và tôi không sao hiểu được những lời bà tôi nhắc đi nhắc lại: -Cháu từ biệt bố cháu đi, không bao giờ cháu được thấy bố cháu nữa đâu, tội nghiệp, bố cháu chết sớm quá, chưa phải lúc... Tôi bị ốm nặng, vừa mới dậy. Trong lúc tôi ốm -tôi còn nhớ rất rõ -bố tôi nô đùa với tôi rất vui vẻ, sau đó bỗng nhiên bố tôi biến đâu mất, và bà ngoại tôi, con người kỳ lạ ấy, đã thay thế bố tôi. -Bà đi từ đâu đến thế? -Tôi hỏi bà tôi. Bà đáp: -Từ phía trên, từ Nijni đến. Bà không đi bộ, mà đi tàu thủy đến! Người ta không thể đi bộ trên mặt nước được, ông mãnh ạ! Câu trả lời đó thật là buồn cười và khó hiểu. ở trên nhà này chỉ có mấy người Ba-tư rậm râu và tóc nhuộm; còn ở dưới hầm nhà thì có một ông lão da vàng người Kanmưc làm nghề bán da cừu. Từ trên có thể cưỡi tay vịn cầu thang trượt xuống, hoặc nếu có ngã thì lộn nhào ở cầu thang, -điều đó tôi biết rất rõ. Nhưng sao lại có chuyện đi trên mặt nước kia chứ? Tất cả câu chuyện của bà tôi đều vô lý, đều lầm lẫn một cách ngộ nghĩnh. -Thế tại sao cháu lại là ông mãnh? -Tại cháu hay làm ồn lắm, -bà tôi vừa nói vừa cười. Tiếng bà tôi nói rất dịu dàng, vui vẻ và trầm bổng. Ngay từ ngày đầu tiên tôi đã thân với bà tôi, và ngay lúc này tôi cũng muốn bà tôi mau mau đưa tôi rời khỏi căn phòng này. Tiếng khóc than và kêu gào của mẹ tôi làm tôi nôn nao và gây cho tôi một cảm giác lo âu mới. Lần đầu tiên tôi trông thấy mẹ tôi như thế. Mẹ tôi vốn rất nghiêm nghị, ít nói, người sạch sẽ, gọn gàng và to lớn như một con ngựa, mẹ tôi có thân hình rắn chắc và đôi cánh tay rất khỏe. Thế mà bây giờ không hiểu sao khắp người mẹ tôi đều sưng phồng lên nom đến khó coi, đầu tóc rối bù, áo quần tơi tả. Mớ tóc thường vẫn vấn gọn trên đầu như một cái mũ lớn vàng óng thì nay xổ xuống một bên vai trần, xõa xuống mặt, còn nửa kia tết thành bím thì cứ lúc la lúc lắc chạm vào khuôn mặt ngủ say của bố tôi. Tôi đứng trong phòng đã lâu, nhưng mẹ tôi không hề nhìn tôi; và vẫn vừa chải đầu cho bố tôi vừa rên rỉ nức nở. Mấy người mujich mặc toàn đồ đen và một tên cảnh sát ló đầu vào cửa phòng. Tên cảnh sát quát tháo, giọng giận dữ: -Thu dọn nhanh lên! Chiếc khăn san màu đen che cửa sổ phồng lên như một cánh buồm. Tôi bỗng nhớ tới một hôm bố tôi dẫn tôi đi bơi thuyền buồm. Chợt một tiếng sấm nổ vang. Bố tôi cười, kẹp chặt tôi vào hai đầu gối và kêu: -Không sao cả, đừng sợ, Luc ạ! Đột nhiên mẹ tôi nặng nề đứng lên, rồi lại khuỵu xuống, ngã vật ra; tóc xõa tung ra cả sàn. Khuôn mặt trắng trẻo, mờ lệ tái xanh đi và cũng nhe răng ra như bố tôi, mẹ tôi nói, giọng khiếp sợ: -Đóng cửa lại... Dẫn thằng Alêcxây ra ngay! Bà tôi đẩy tôi ra rồi nhảy bổ ra cửa, mồm kêu to: -Bà con thân mến, đừng sợ, cứ để mặc chúng tôi, bà con hãy đi đi, Lạy Chúa tôi! Không phải dịch tả đâu, cháu nó sắp ở cữ đấy. Xin bà con hãy làm phúc làm đức cho! Tôi nấp sau một góc tối, sau cái hòm và nhìn mẹ tôi lăn lộn trên sàn rên siết và nghiến răng ken két. Bà tôi lê vòng quanh, cất giọng dịu dàng và vui vẻ nói: -Nhân danh Cha và Con! Variusa con hãy cố chịu khó một tí!... Lạy Đức Mẹ Rất Thánh che chở chúng con... Tôi sợ quá. Mẹ tôi và bà tôi bò lê trên sàn ngay bên cạnh bố tôi, đụng cả vào người bố tôi và rên rỉ, gào thét, còn bố tôi vẫn nằm im không động đậy và dường như đang cười gằn. Cảnh lồng lộn trên sàn ấy Tức Alêcxây, cách gọi tắt thân mật. Tức Vacvara, cách gọi thân mật. kéo dài khá lâu. Mấy lần mẹ tôi gượng đứng dậy, nhưng lại ngã quỵ xuống. Bà tôi lăn ra khỏi phòng giống như một quả bóng lớn màu đen và mềm nhũn. Sau đó đột nhiên trong bóng tối có tiếng trẻ con khóc thét lên. -Sáng danh Chúa! -Bà tôi nói. -Con trai rồi! Và bà châm một ngọn nến. Sau đó chắc tôi ngủ thiếp đi ở góc nhà nên không nhớ gì nữa. ấn tượng thứ hai còn ghi lại trong trí nhớ tôi là một ngày mưa, tại một góc nghĩa địa hoang vắng. Tôi đứng ở một gò đất trơn, nhớp nháp và nhìn xuống cái huyệt trong đó người ta vừa hạ quan tài bố tôi xuống. Dưới đáy huyệt có nhiều nước và có cả ếch nhái nữa; hai con đã leo lên được chiếc nắp quan tài màu vàng. Đứng bên cạnh huyệt có tôi, bà tôi, tên cảnh sát quần áo ướt sũng và hai người mujich vẻ mặt bực tức, tay cầm xẻng. Những hạt mưa ấm và li ti như những hạt thủy tinh nhỏ rắc lên tất cả mọi người. Mời các bạn đón đọc Thời Thơ Ấu của tác giả Macxim Gorki.
Mối Tình Đầu của Turgenev
Mối Tình Đầu viết dưới dạng tự sự. đó là những mối tình dang dở, những người phụ nữ yêu chân thành và say đắm, luôn luôn vươn tới cái mới, cái thiện nhưng không bao giờ thực hiện được ước mơ vì bản tính của họ mâu thuẫn với thực tại xã hội. Đó là những số phận cay nghiệt ở nước Nga dưới chế độ nông nô và Sa hoàng. Đó là những người đàn ông yếu đuối, nhu nhược và ích kỷ... đại diện cho tầng lớp qúy tộc đang suy tàn. Trong sáng tác của Turgenev phụ nữ chiếm một vị trí đặc biệt. tác giả dành cho những nhân vật nữ quyền phán xét nam giới vì bản tính của nữ giới là mãnh liệt, không khoan nhượng, toàn vẹn, nhạy bén và mơ mộng. nhưng theo Turgenev, tình yêu không những là niềm hạnh phúc lón lao mà còn là tấn bi kịch của đời người. *** Ivan Sergeyevich Turgenev (9 tháng 11 năm 1818 - 3 tháng 9 năm 1883) là một nhà văn và nhà soạn kịch nổi tiếng của Nga thế kỉ 19. Tiểu thuyết Cha và con của ông được coi là một trong những tác phẩm lớn nhất thế kỉ 19. Ivan Turgenev sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Oryol thuộc Đế quốc Nga. Cha ông, Sergei Nikolaevich Turgenev, là một đại tá kỵ binh trong quân đội Nga Hoàng, ông mất năm Ivan 16 tuổi, mẹ của Turgenev là bà Varvara Petrovna Lutovinova, một phụ nữ có học, thông minh, chăm lo đến việc học hành của con cái nhưng đối xử tàn nhẫn, khắc nghiệt với nông nô. Hình ảnh bà mẹ khó tính ấy đã khắc sâu trong tâm khảm ông và được ông thể hiện trong nhiều tác phẩm sau này.   Tiểu thuyết 1857 - Rudin 1859 - Tổ quý tộc 1860 - Đêm trước 1862 - Cha và con 1867 - Khói 1877 - Đất hoang 1882 - Thơ văn xuôi Truyện ngắn 1850 - Dnevnik Lishnego Cheloveka 1851 - Provintsialka 1852 - Bút ký người đi săn 1855 - Yakov Pasynkov 1855 - Faust 1858 - Asya 1860 - Mối tình đầu 1870 - Cánh đồng hoang của vua Lear 1872 - Những dòng nước mùa xuân 1881 - Pesn' Torzhestvuyushey Lyubvi 1883 - Klara Milich *** Tiệc đã tan từ lâu. Đồng hồ gỏ mười hai giờ ba mươi phút.. Trong phòng chỉ còn lại vị chủ nhà, Sergei Nilolaevitch và Vladimir Petrovitch. Chủ nhà rung chuông, ra lệnh dọn đi phần còn lại của bửa cơm tối. "Và chúng ta đã đồng ý," ông nhìn quanh, ngồi thoải mái trong lòng chiếc ghế bành, châm một điếu xì gà." mỗi người sẽ nói về mối tình đầu của mình. Tới phiên anh, Sergei Nikolaevich." Sergei Nikolaevich, một người đàn ông thấp bé mập mạp với gương mặt bầu bỉnh, trắng trẻo, đầu tiên nhìn vị chủ nhà, sau đó hướng ánh mắt lên trần. "Tôi không có mối tình đầu," sau cùng ông nói; "Tôi bắt đầu bằng mối tình thứ hai." "Sao lại có thể như thế được?" "Rất đơn giản. Năm mười tám tuổi lần đầu tiên tôi tán tỉnh một cô gái trẻ và duyên dáng, nhưng tôi đeo đuổi nàng như thể không có chi là mới lạ; về sau này với các cô gái khác cũng thế. Nói cho chính xác, lần đầu và cũng là lần cuối, tôi yêu nhũ mẫu của mình khi tôi lên sáu; nhưng đó là chuyện ngày xưa. Tôi không tài nào nhớ được những chi tiết, và ngay cả khi tôi nhớ được, có ai thích nghe chăng? "Vậy về phần tôi thì sao?" ông chủ nhà bắt đầu nói. "Mối tình đầu của tôi cũng chẳng có gì hấp dẫn; tôi chưa từng yêu ai cho đến khi gặp Anna Nikolaeva, nhà tôi hiện nay, -- và tất cả mọi chuyện đều xảy ra hết sức êm đẹp; cha mẹ chúng tôi xếp đặt cuộc gặp gỡ, chúng tôi yêu nhau ngay, và cưới nhau liền sau đó. Chuyện của tôi có thể kể lại vỏn vẹn trong vài ba chữ. Thú thật với các bạn, khi nêu lên chủ đề là mối tình đầu, tôi đã đặt hy vọng nơi các bạn, tôi không nói là đã già, nhưng không còn trẻ trung gì nữa. Vladimir Petrovich, anh có thể làm cho không khí sôi động hơn không ?" "Mối tình đầu của tôi, chắn chắn không bình thường," Vladimir Petrovitch, một người trạc tứ tuần, tóc đen ngã sang màu muối tiêu, hơi ngập ngừng, trả lời. "Ah!" ông chủ nhà và Sergei Nikolaevitch cùng nói một lúc: "Càng tốt...Kể cho chúng tôi nghe đi." "Nếu các bạn muốn...nhưng không; tôi không kể đâu; tôi không biết cách kể chuyện; tôi sẽ làm cho nó khô khan và cộc lốc, hay thêm thắt quá đà. Nếu các bạn đồng ý, tôi sẽ viết tất cả những gì tôi còn nhớ và đọc cho các bạn nghe." Các ông bạn lúc đầu không bằng lòng, nhưng Vladimir Petrovitch nhất định làm theo ý mình. Hai tuần sau, họ gặp lại, và Vladimir Petrovitch giữ lời hứa. Bản thảo của ông chính là câu chuyện sau đây: -- ************* Tôi lên mười sáu. Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1833. Tôi sống tại Moscow với cha mẹ tôi. Họ sở hữu một ngồi nhà nghỉ mát ở gấn cổng Kalouga, đối diện vườn hoa Neskutchny.Tôi đang chuẩn bị vào đại học, nhưng không chăm học và không sốt sắng. Tôi hoàn toàn tự do tự tại, không ai để ý đến tôi. Tôi muốn làm gì tùy thích, nhất là sau khi chia tay với người thầy sau chót, người Pháp, ông này không bao giờ chấp nhận rằng ông đã rơi tỏm vào nước Nga "comme une bombe" (như một quả bom), và nằm bẹp dí trên giường ngày này sang ngày khác với vẻ mặt phẩn uất. Cha tôi tử tế, dễ dãi với tôi, còn mẹ tôi gần như chẳng ngó ngàng gì đến, mặc dù tôi là đứa con độc nhất ; nhiều việc khác chiếm trọn tâm trí của bà. Cha tôi, vẫn còn trẻ và rất đẹp trai, đã kết hôn với mẹ tôi chỉ vì tiền; mẹ tôi lớn hơn cha tôi đến mười tuổi. Mẹ tôi sống một cuộc đời buồn bả; lúc nào cũng bực dọc, ghen tuông và cáu kỉnh, nhưng chỉ khi vắng mặt cha tôi; mẹ tôi rất e sợ ông, và ông luôn luôn nghiêm khắc, lạnh lùng và xa cách... Tôi chưa bao giờ gặp ai trầm tỉnh, tự tin và uy quyền như ông. Tôi không bao giờ quên những tuần lễ đầu tiên sống ở quê. Thời tiết tuyệt diệu; chúng tôi rời thành phố vào ngày 9 tháng Năm, ngày lễ thánh Nicholas. Tôi thường lang thang trong vườn nhà mình, trong vườn hoa Neskutchny, và đi xa khỏi cổng thành; tôi hay mang theo vài quyển sách -- sách giáo khoa của Keidanov, thí dụ vậy -- nhưng hiếm khi đọc, và thường hay ngâm nga những vần thơ; tôi thuộc lòng nhiều bài ; với bầu máu nóng sôi sục, với trái tim đau thương ngọt ngào; lòng tôi tràn đầy niềm tin và hy vọng, tôi hơi sợ sệt một điều gì đó, và thích thú về mọi thứ; trí tưởng tượng của tôi mãnh liệt như lũ chim nhạn lượn lờ quanh tháp chuông lúc rạng đông; tôi mơ mộng, tôi buồn rầu, đôi khi khóc than; nhưng qua những giọt lệ và nỗi buồn gợi ra bởi một vần thơ du dương hay bởi vẽ đẹp của một buổi chiều tà, hượng vị ngọt ngào của tuổi trẻ và cuộc sống sôi động vẫn vươn cao như ngọn cỏ mùa xuân. Tôi có một con ngựa, tôi thường tự thắng lấy yên cương và một mình cởi ngựa rất lâu, phóng nước đại và tưởng tượng như mình là một hiệp sĩ trong trận đấu thương. Gió thổi mơn man tươi vui làm sao! hoặc ngẩng mặt lên, tôi đón lấy vẽ lộng lẫy và xanh mát của bầu trời vào linh hồn tôi rộng mở. Tôi nhớ lúc đó hình ảnh của người đàn bà, gương mặt của tình yêu, hiếm khi hình thành rõ nét trong đầu óc tôi; nhưng tôi có nghĩ đến và cảm thây chung chung ở một cõi mơ hồ kín đáo nào đó, một linh cảm ngượng ngùng về một điều gì đó, mới lạ, vô cùng ngọt ngào, yểu điệu... Mối linh cảm này, niềm hy vọng này, thấm đẫm vào tôi; tôi hít thở trong nó, nó chảy trong huyết quản, trong từng giọt máu...nó là định mênh sẽ sớm được hoàn thành. Địa điểm, nơi chúng tôi sẽ sống trong mùa hè, gồm một dinh thự bằng gỗ và hai căn nhà nhỏ; trong ngôi nhà phía trái là một cơ sở sản xuất giấy dán tường loại rẻ tiền...Đã hơn một lần tôi đi dạo về hướng đó, nhìn thấy khoảng một chục đứa bé gầy còm và luộm thuộm, quần áo dính đầy dầu mở, gương mặt mỏi mệt, thường xuyên nhảy lên những chiếc cần gổ để ép những ô vuông của cái máy in, và do đó, bằng sức nặng mong manh của chúng, tạo nên những mẫu mã khác nhau của giấy dán tường. Căn nhà bên tay mặt không có ai cư ngụ. Một ngày nọ -- ba tuần sau ngày 9 tháng Năm -- màn cửa sổ của ngôi nhá này cuốn lên, những gương mặt phụ nữ xuất hiện -- có một gia đình nào đó dọn tới. Tôi nhớ trong cùng ngày đó, vào bửa ăn tối, mẹ tôi hỏi thăm ông quản gia về người láng giềng mới, và khi mẹ tôi nghe nói tới danh hiệu Công chúa Zasyekin, mẹ tôi ra vẻ tôn kính, " Ah! một công chúa!" ...và thêm vào, " tôi nghĩ là, một công chúa nghèo, phải không?" "Họ đi xe thuê, " ông quản gia kính cẩn nói, đưa cho mẹ tôi một cái dĩa: " họ không có xe riêng, và bàn ghế tồi tàn." "Ah," mẹ trả lời, " vậy càng tốt." Cha tôi đưa ánh mắt băng giá nhìn qua; bà im bặt. Chắc chắn Công chúa Zasyekin không thể là một người giàu có; căn nhà bà dọn vào quá tiêu điều, nhỏ bé và mái dốc thoai thoải, không có ai, ngay cả những người tương đối khá giả trong thế gian này lại bằng lòng vào ở. Tuy thế vào lúc ấy, những gì được nói ra đã chóng bị quên lãng. Tước vị vương giả không tạo ra ấn tượng nào cho tôi.Tôi đang đọc Robbers của Schiller. ... Mời các bạn đón đọc Mối Tình Đầu của Turgenev của tác giả Ivan Turgenev.
Đêm Trước - Cha và Con - Ivan Turgenev
Hai tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nga Ivan Turgenev có chung đề tài về cuộc sống của thanh niên Nga trong giai đoạn khủng hoảng về tư tưởng xã hội. Tác phẩm Đêm trước viết về tình yêu giữa Elena - người thiếu nữ Nga và Inxarov - một chàng trai Bungari. Họ có chung lí tưởng và cá tính mạnh mẽ, mong muốn thay đổi tình trạng trì trệ, tối tăm của xã hội. Nhưng, Inxarov đã chết trước khi anh kịp làm một điều gì đó cụ thể cho đất nước Bungari của anh và số phận Elena vẫn còn bỏ ngỏ. Cũng tương tự như vậy Bazarov trong Cha và con là một thanh niên thông minh, nhiệt tình và phủ nhận mọi đức tin cũng như những hành động đạo đức nửa vời. Với cá tính mãnh liệt, anh sẵn sàng tranh cãi và thậm chí đấu súng với những người mà anh cho là trưởng giả và lạc hậu. Tuy nhiên, chàng thanh niên theo chủ nghĩa hư vô đó cũng sớm lìa khỏi cuộc sống vì lây bệnh khi anh khám chữa cho những người nông dân. *** Lời của tác giả   “Đêm trước […] bắt đầu một thời đại mới ở nước Nga và những nhân vật như Elena, Inxarov là những người tiên phong của những gì xảy ra sau đó”.  *** Nhận định của văn giới và báo chíHai tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nga Ivan Turgenev có chung đề tài về cuộc sống của thanh niên Nga trong giai đoạn khủng hoảng về tư tưởng xã hội. Tác phẩm Đêm trước viết về tình yêu giữa Elena - người thiếu nữ Nga và Inxarov - một chàng trai Bungari. Họ có chung lí tưởng và cá tính mạnh mẽ, mong muốn thay đổi tình trạng trì trệ, tối tăm của xã hội. Nhưng, Inxarov đã chết trước khi anh kịp làm một điều gì đó cụ thể cho đất nước Bungari của anh và số phận Elena vẫn còn bỏ ngỏ. Cũng tương tự như vậy Bazarov trong Cha và con là một thanh niên thông minh, nhiệt tình và phủ nhận mọi đức tin cũng như những hành động đạo đức nửa vời. Với cá tính mãnh liệt, anh sẵn sàng tranh cãi và thậm chí đấu súng với những người mà anh cho là trưởng giả và lạc hậu. Tuy nhiên, chàng thanh niên theo chủ nghĩa hư vô đó cũng sớm lìa khỏi cuộc sống vì lây bệnh khi anh khám chữa cho những người nông dân. Lời của tác giả   “Đêm trước […] bắt đầu một thời đại mới ở nước Nga và những nhân vật như Elena, Inxarov là những người tiên phong của những gì xảy ra sau đó”.  *** Nhận định của văn giới và báo chí   “… Trong ông có tình yêu từ ánh sáng, từ mặt trời và chất thơ nhân bản, sống động như là sự khước từ tất yếu tất cả những gì xấu xa, thô thiển và phi lý, điều đó đã đưa ông thành nhà thơ của những gì tốt đẹp nhất trong phẩm chất tự nhiên của con người” - Book Description “Kiệt tác của Turgenev về sự xa cách giữa các thế hệ, với các nhân vật thân thuộc, không thể nào quên, nhất là chàng Bazarov có trái tim vàng, khiến chúng ta suy tư mãi mãi…” - Audio file “Trong Cha và con, nhãn quan của Turgenev về cái phi lý, châm biếm và cả sự bi ai thống thiết thật sự sáng rõ.” - Daily Telegraph “Chàng bác sĩ Bazarov, kẻ nổi loạn trong cuốn tiểu thuyết, là sáng tạo lớn lao nhất của Turgenev.” - The Merriam - Webster Encyclopedia of Literature “Ông đã bị quở trách ghê gớm vì chàng Bazarov, chàng Bazarov băn khoăn, chàng Bazarov buồn chán ấy (biểu hiện của một trái tim vĩ đại), bất chấp cả cái chủ nghĩa hư vô của chàng ta của chàng ta.” - Fedor Dostoevsky “Kì diệu thay vật báu Cha và con ấy… Sự kết thúc của Bazarov này, các cụ già này, và cả Kuscina nữa chứm có quỷ mới biết làm sao có thể viết nổi được những điều đó? Thật thiên tài lắm thay!” *** Khi nhận xét về đặc điểm của nền văn hóa dân tộc Nga A.M. Gorki, người đặt nền móng cho nền văn học Xô Viết đã viết: "Mỗi nhà văn ở nước Nga đều thực sự là một cá tính nổi bật nhưng họ cùng được thống nhất lại bởi một ước vọng bền bỉ, đó là ước vọng muốn hiểu, muốn cảm nhận và muốn thấy trước tương lai của đất nước mình, số phận và vai trò của dân tộc mình trên hoàn cầu". Nhận xét này thật đúng với Turgenev, một nhà văn nổi bật trong các nhà nghệ sĩ ngôn từ về sự cảm nhận những cái mới, sự hưởng ứng nhanh chóng mọi tư tưởng cao quý, mọi nhiệt tình cao cả và trung thực.Ivan Xergeevich Turgenev sinh ngày 28 tháng Mười (9 tháng Mười một theo lịch Nga cũ) năm 1818 tại thành phố Oriol. Nhà văn sống những năm thơ ấu và thời thanh niên tại điền trang của thân mẫu, làng Xpaxxkoie, vùng trung tâm Nga. Tại đây ông đã cảm thụ sâu sắc và yêu quý thiên nhiên thân thuộc mà sau này được lưu truyền lại muôn thuở trong các tác phẩm của ông.Đồng thời tại Xpaxxkoie cậu bé Turgenev thường phải chứng kiến cảnh những người nông nô bị trừng phạt nghiệt ngã theo lệnh của mẹ cậu. Tâm hồn nhạy cảm, xa lạ với đau khổ và bất công của Turgenev nguyện thề đấu tranh đến cùng chống lại chế độ nông nô và ông mãi mãi trung thành với lời nguyền. Tập ký Bút ký người đi săn (1847 - 1852) của ông bằng bút pháp thi vị là "bản cáo trạng buộc tội chế độ nông nô" (Gerxen). Chủ đề chính của Bút ký người đi săn là mối quan hệ tương hỗ giữa địa chủ và nông dân. Turgenev đã vạch trần thói ích kỷ, tàn nhẫn của địa chủ, đồng thời mở ra trước mắt bạn đọc hình ảnh người nông dân với trí thông minh, tấm lòng vị tha, hào hiệp, tài năng bẩm sinh và khả năng cảm thụ sâu xa. Năm 1827 gia đình Turgenev chuyển về Maxcơva, tại đây Turgenev theo học nhiều trường nội trú tư và đến năm 1833 ông thi đậu vào khoa ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Maxcơva. Ít lâu sau, vì gia đình về sống ở Peterburg nên Turgenev chuyển về học tại trường Đại học Tổng hợp Peterburg. Năm tháng sinh viên đã đánh dấu những thử nghiệm văn học đầu tiên của nhà văn trẻ Turgenev đồng thời ghi lại sự quen biết của ông với nhiều văn sĩ xuất chúng của thời kỳ đó.Năm 1838, sau khi tốt nghiệp trường đại học tổng hợp, Turgenev khởi hành một chuyến du lịch dài sang Thụy Sĩ, Đức và sau đó là Italia. Năm 1841 ông trở về Nga và theo ý muốn của thân mẫu, ông vào làm việc ở văn phòng Bộ Nội vụ. Đây cũng là thời kỳ ông thực sự bước vào sự nghiệp văn chương một cách nghiêm túc và có chiều sâu. Phạm vi sáng tác của Turgenev rất rộng. Ông làm thơ, viết kịch, truyện, tiểu thuyết về đời sống của mọi tầng lớp trong xã hội Nga. Trong những năm 40 - 50 của thế kỷ XX, nhà văn đi vào tìm tòi những nhân vật tích cực của thời đại trong tầng lớp trí thức quý tộc. Ở hàng loạt truyện và các tiểu thuyết Rudin, Một tổ quý tộc ông miêu tả mối xung đột tồn tại giữa những nhân cách anh tài xuất chúng với điều kiện xã hội lúc bấy giờ. Khi đó ở nước Nga xuất hiện "những con người thừa". Đó là những đại diện ưu tú nhất của tầng lớp quý tộc trẻ mang trong mình những tư tưởng tiên tiến. Nhưng lòng nhiệt tình cao cả của họ vấp phải sự cổ hủ, trì trệ đang ngự trị khắp đất nước.Song vào cuối những năm 50 - đầu những năm 60, trong xã hội Nga xuất hiện một lực lượng xã hội mới - đó là các nhà trí thức dân chủ bình dân. Dù rằng về mặt tư tưởng Turgenev ngày càng xa rời họ nhưng với tư cách một nhà văn ông không thể bỏ qua tính cách mới được hình thành từ phía dân chủ này. Vậy nên ra đời các tiểu thuyết Đêm trước, Cha và con . Đến những năm 70, khi trên vũ đài xã hội xuất hiện phái dân túy, Turgenev đã viết cuốn tiểu thuyết Đất hoang, trong đó ông làm sáng tỏ tư tưởng của những người dân túy.Từ giữa những năm 40, Turgenev chủ yếu sống ở nước ngoài và luôn tuyên truyền không mệt mỏi những tư tưởng của nền văn học Nga. Khi các nhà văn Nga như Mikhail Xantưcov-Sedrin, Gleb Uxpenxki, Alekxei Pixemxki đến Paris thăm ông, Turgenev thường tổ chức nhiều buổi nói chuyện văn học, đã giới thiệu Xantưcov-Sedrin với Zola và Flaubert. Năm 1877 Turgenev cũng không vắng mặt trong việc thành lập Hội bảo trợ các họa sĩ Nga. Hoạt động của ông trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học đã được đánh giá xứng đáng ở Pháp và Anh: năm 1878 ông được bầu là phó chủ tịch Hội nghị văn học quốc tế tại Paris, còn năm 1879 ông được Trường Đại học tổng hợp Oxford phong học vị tiến sĩ luật học. Và công lao của ông cũng được ghi nhận tại Nga: năm 1859 ông được bầu là hội viên chính thức của Hội yêu văn học Nga, đồng thời ông cũng là thành viên của Quỹ bảo trợ văn học. Những năm cuối cùng sống ở Nga Turgenev tích cực đẩy mạnh mọi hoạt động xã hội, văn hóa - giáo dục.Mùa hè năm 1881 là mùa hè cuối cùng của Turgenev ở làng Xpaxxkoie thân yêu. Mùa thu năm ấy ông ra nước ngoài, đến mùa xuân năm 1882 thì sức khỏe của ông giảm sút mau chóng. Ngày 22 tháng Tám (ngày 3 tháng Chín theo lịch Nga cũ) năm 1883 Turgenev mất tại Bougival (gần thủ đô Paris). Ông được đưa về mai táng tại nghĩa trang Volkov, Saint-Peterburg.Các tác phẩm của Turgenev đã trở thành di sản quý báu của nền văn học thế giới và tên tuổi của ông đã được mãi mãi ghi vào lịch sử tư tưởng của xã hội. Bằng những hình tượng nghệ thuật tuyệt đỉnh, Turgenev đã biết cách kể với toàn nhân loại sự thật về nước Nga, về thế hệ trẻ Nga anh hùng tràn đầy khí thế cách mạng, tinh thần hy sinh quên mình vì lợi ích nhân dân, về những tình cảm tuyệt vời như tình yêu, tình bạn, về sự tươi đẹp của thiên nhiên nước Nga. ... Mời các bạn đón đọc Đêm Trước - Cha và Con của tác giả Ivan Turgenev.