Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng

“Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng” là một tác phẩm văn học tiêu biểu của nhà văn nổi tiếng F. Scott Fitzgerald. Đây là cuốn sách mà tác giả gửi gắm cả cuộc đời của mình vào. Chắc hẳn chúng ta đều đã biết đến nhân vật trứ danh Gatsby, một nhân vật ám ảnh nhiều thế hệ bạn đọc trong tác phẩm kinh điển “Gatsby Vĩ Đại”. Bộ tiểu thuyết này được viết dưới ngòi bút của Fitzgerald. Cùng với Hemingway, Fitzgerald được xem là nhà văn tiêu biểu nhất của nước Mỹ nửa đầu thế kỷ XX. Ngoài “Gastby Vĩ Đại”, “Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng” là tác phẩm vững vàng nhất của nhà văn vào khoảng thời gian ông đã trưởng thành trong sự nghiệp văn học của mình. Cuốn sách nói nhiều đến vấn đề sự nghiệp và kế sinh nhai. Monroe Stahr không giống bất cứ nhân vật nào khác của Fitzgerald, đã bị lôi cuốn vào một nền kỹ nghệ mới mà chính tác giả là người đi đầu sáng lập. Cuốn sách được nhà văn viết vào lúc cuộc sống gặp nhiều khó khăn nhất, vào lúc ông tự tử không chết. Bởi vậy, cuốn sách mang một tư tưởng sâu sắc, một ý nghĩa mà nhiều người cần phải suy ngẫm mới hiểu được. *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết gia, nhà viết truyện ngắn F. Scott Fitzgerald thường tự nhận mình là người con của “thời đại nhạc Jazz”. Cùng với người vợ xinh đẹp Zelda Sayre, ông sống một cuộc đời sôi động, tràn đầy tiệc tùng và luôn tiêu tiền như nước. Tuy vậy, trong một truyện ngắn, ông mở đầu: “Thế giới người giàu hoàn toàn khác biệt với bạn và tôi”. Và thế giới được coi là “khác biệt” với mình đó còn được ông miêu tả trong rất nhiều những tác phẩm như Đẹp và đáng nguyền rủa, Gasby vĩ đại. Cuộc sống chìm trong rượu và những đại tiệc xa xỉ của vợ chồng Fitzgerald đã thu hút sự hiếu kỳ của công chúng thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các sáng tác của ông khá đắt khách. Trong lá thư gửi cho một người bạn, nhà văn viết: “Một truyện ngắn có thể viết ngay đầu miệng chai nhưng với một cuốn tiểu thuyết, anh phải giữ cho đầu óc mình thật tỉnh táo và minh mẫn để có thể kiểm soát được tất cả các nhân vật như Ernest Hemingway đã làm được trong Giã từ vũ khí”. Tác phẩm: This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920) Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920) The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa/Đợi Của, 1922) Vegatable (Rau cỏ, 1923) The Great Gasby (Đại gia Gatsby, 1925) Tender is the Night (Đêm dịu dàng/Cuộc Tình Bỏ Đi, 1934) Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng/Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng/Ông Hoàng Hollywood, 1941) The Crack-Up (Sụp đổ, 1945) Gatxbi Vĩ Đại Và Truyện Ngắn - Francis Scott Fitzgerald *** LỜI NGƯỜI DỊCH Fitzgerald là ai? Ông là người đã nhìn thấy rõ những nỗi vui buồn tế nhị nhất của con người, và đã biết dùng ngôn từ để mô tả những nỗi buồn vui đó một cách khéo léo, rõ ràng, tỉ mỉ nhất. Những hàng chữ ông đã viết ra, những cuốn truyện ông để lại cho nhân loại là “trầm tích” để con ngươi mãi mãi về sau này biết rằng những ngươi sống trước mình hàng chục năm, trăm năm, ngàn năm, triệu năm đã có những tình cảm như thế đấy. Cũng như Homer, Nguyễn Du, Shakespeare, Fitzgerald sẽ sống mãi với thời gian và không gian. Nhờ những đứa con đó mà nhân loại có thể tìm lại dấu vết của mình. Tìm lại dấu vết để có một sức sống liên tục, để suy tư về số kiếp và định mệnh của mình đồng thời toan tính một dự phóng cho tương lai. Nhà tài phiệt cuối cùng là cuốn truyện Fitzgerald đã gửi gấm cả cuộc đời mình trong đó. Ông đã viết nó vào lúc nghèo đói nhất, vào lúc ông tự tử không chết. Những tư tưởng sâu sắc nhất, những tình cảm cuối cùng ông đã đặt trong cuốn truyện này để gửi lại cho hậu thế. Chúng ta đã đọc Đoạn trường tân thanh và đã khóc cho Nguyễn Du. Chúng ta hãy đọc thêm Nhà tài phiệt cuối cùng để khóc thêm cho Fitzgerald khốn khổ một giọt nước mắt. Như thế là công bằng, bởi vì những người đó đã chảy rất nhiều mồ hôi, nước mắt mới viết lên được các tác phẩm để lại cho chúng ta ngày nay. Trước khi vào chuyện xin quý độc giả lướt qua vài nét chính về cuộc đời của Fitzgerald. Scott Fitzgerald: cơn sốt của đời sống “Mẹ ơi, sau này con có tất cả mọi cái mà bây giờ con chưa có hay không?” Cậu Fitzgerald đã hỏi mẹ câu đó lúc cậu bốn tuổi, sau này cậu đã có tất cả và Fitzgerald cũng đã trả lại cho xã hội tất cả. Ông chính là tác già những cuốn “Gatsby Huy hoàng” “Đêm trường êm dịu” và trở thành nhà văn lớn của Mỹ quốc. Cuối cùng, ông đã vĩnh biệt cuộc sống trong cảnh thanh bần và quên lãng của thế nhân. Phải chăng cuộc đời thi nhân giống như ngôi sao lạ, ánh sáng huy hoàng của mình phát ra lại thiêu đốt chính cuộc đời của mình? Francis Scott Key Fitzgerald chào đời ngày 24-9-1896 tại thành phố Saint Paul thuộc tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Ông là con trai duy nhất trong gia đình. Trưức khi sinh ông, cha mẹ ông đã có hai con gái, nhưng cả hai đều chết vì bệnh đậu mùa. Sau này Fitzgerald kể lại: “Trước khi sinh tôi ba tháng thì hai chị tôi qua đời. Tôi có cảm tượng cuộc đời văn sĩ của tôi bắt đầu từ đó. Tôi không biết tại sao nhưng nhất định là như vậy”. Càng lớn lên cậu Fitzgerald càng tỏ ra là một học sinh xuất sắc, thông minh, ngoan ngoãn. Cận có rất đông bạn bè và được mời đi hết dạ hội này đến dạ hội khác. Các cô bạn gái thích ngồi nghe cậu kể chuyện hàng ngày không chán. Những kỷ niệm đó, Fitzgerald không bao giờ quên, và ông dã dùng để xây dựng nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của ông sau này. Năm 17 tuổi, Fitzgerald theo học ở đại học Princeton và bắt đầu viết bài cho những đặc san của nhà trường. Ông say mê viết suốt đêm và nhiều khi đến sáng lại liệng tất cả vào sọt rác. Trong lớp, Fitzgerald thường mơ mộng và nhiều khi cậu chỉ nghe loáng thoáng được câu sau này vị giáo sư văn chương hay nhắc lại nhiều lần: “Mọi việc đều tùy theo quan điểm của mỗi người. Thưa quý vị, vấn đề nào cũng có phương diện chủ quan của nó”. Túc cầu và binh nghiệp Càng ngày những bài của cậu viết trong đặc san của nhà trường càng được nhiều người chú ý, và chẳng bao lâu cậu trở thành một cây viết chính trong ban biên tập. Tuy nhiên ngoài công việc làm báo, còn một môn khác mà cậu cũng say mê không kém, đó là môn túc cầu. Không có buổi chiều nào Fitzgerald vắng mặt trên sân cỏ. Nhưng điểm đặc biệt nhất là chàng có cái nhìn thật quyền rũ, và một cách cư xử với bạn bè rất lịch thiệp, cởi mở. Sau khi tốt nghiệp ở đại học Princeton, Fitzgerald gia nhập quân đội với cấp bậc Chuẩn úy. Năm 1918, đơn vị của ông đóng ở tiểu bang Alabama, và tại đây lần đầu tiên Fitzgerald đã gặp Zelda, một thiếu nữ mà chàng cảm thấy tình yêu chân thành của mình và của nàng cùng hòa chung một nhịp với nhau. Hai ngươi có gương mặt giống nhau và nhiều người lầm tưởng họ là hai anh em ruột. Nhưng sự giống nhau giữa hai khuôn mặt chưa bằng sự giống nhau giữa hai tâm hồn của chàng và nàng. Chẳng bao lâu mối tình của cặp Fitzgerald - Zelda đã được cả thành phố biết, và mọi người đều ước mong cho họ mãi mãi được hưởng hạnh phúc. Những ngày lang thang ở Nữu ƯớcChiến tranh Âu châu kết liễu, Fitzgerald được giải ngũ, chàng liền lên đường đi Nữu Ước để tìm cư hội lập nghiệp. Trước đó chàng đã bàn chuyện hôn nhân với Zelda, nhưng nàng trả lơi: chỉ cưới nhau khi nào chàng kiếm được công ăn việc làm. Tới Nữu Ước, chàng ôm khư khư những bản thảo đi khắp nhật báo này đến nhật báo khác mà vẫn không kiếm được công việc gì. Cuối cùng chàng đành phải nhận làm công việc viết các tấm bảng quảng cáo trong một hãng quảng cáo với số lương 90 dollars một tháng. Chàng phải sống chui rúc trong một căn nhà ổ chuột hôi hám ghê gớm. Thơ, truyện ngắn, kịch của chàng đem đến các báo và nhà xuất bản, chẳng có chỗ nào thèm đăng hay in. Fitzgerald đã nhận được tất cả 225 lá thư của các nhật báo và nhà xuất bản trả lời từ chối không đăng hoặc in các tác phẩm của chàng. Chàng dán tất cả những lá thư đó lên vách và nằm suy nghĩ tìm hiểu lý do của sự thất bại. Cuối càng một an ủi nhỏ đã đến với Fitzgerald: chàng bán được một truyện ngắn cho tờ “Smart Set” với số tiến ba mươi dollars. Chàng liền khởi viết cuốn chuyện dài “This Side of Paradise”. Sau một năm trời cặm cụi sáng tác suốt ngày đêm, cuốn sách được hoàn thành và chàng tràn đầy hy vọng, hăng hái gởi tác phẩm đến nhà xuất bản Scribners. Một tháng sau đó, chàng nhận đirạc điện tín của nhà xuất bản báo tin bằng lòng in cuốn truyện nói trên. Ngày đó chàng sung sướng đến ngây ngất. Zelda đem đến cho chàng một chai rượu mừng chiến thắng và nàng nhận lời làm lễ cưới với chàng. Ngày 26 tháng 3 cuốn “This Side of Paradise” bắt đầu xuất hiện trong các tiệm sách. Ngày 3 tháng 4, lễ cưới giữa Fitzgerald và Zelda diễn ra tại nhà thờ Saint Patrick ở Nữu Ước. Từ trong nhà thờ bước ra, chàng thấy tương lai mở rộng trước mặt và say sưa trong men chiến thắng. Chàng đã được cả tình lẫn tiền: Zelda đi bên cạnh và cuốn “This Side of Paradise” đã được in lại lần thứ hai. Báo chí nói đến một Thiên tài bí mật xuãt hiện. Các nhà phê bình ví chàng với Byron và Kipling (là hai đại văn hào Anh quốc). Báo chí còn thần thánh hóa mối tình của chàng với Zelda, và cái tên Fitzgerald được mọi người nhắc nhở để tượng trưng cho tiền tài, danh vọng, tình yêu và tuổi trẻ. Sẵn tiền chàng thường cùng với bạn bè giắt đầy đô la trong túi đi nhậu nhẹt say sưa tối ngày sáng đêm. Có khi họ vào rạp hát và cười lớn trong khi cả rạp đang yên lặng, hay ngồi trên mui xe tắc xi đi dạo phố và nhiều hành động lố bịch khác nữa, nhưng dư luận đã dễ dàng tha thứ cho chàng. Ở nhà thì lúc nào cũng đầy những bạn bè, nào nhà văn, nhà thơ, kịch gia, tài tử, nhà báo... Ngày vui chẳng được bao lâuVới lối sống phung phí tiền bạc như thế, chẳng bao lâu Fitzgerald không còn được một đồng xu dính túi, Tháng 3-1922 cuốn “The Beautiful and Damned” xuất hiện với sự hoan nghênh của dư luận, nhưng tiền bản quyển chàng đã lấy trước và tiêu sạch cả. Chẳng những thế chàng còn nợ thêm nhà xuất bản một số tiền lớn nữa, và phải tiếp tục viết để trừ nợ dần. Chàng làm việc đến 12 tiếng một ngày và uống rượu liên miên, nhiều khi người ta thấy chàng say nằm ngủ ngay ở bãi cỏ trong công viên. Tình trạng ăn ngả thất thường và làm việc quá độ đó khiến ông mắc phải bệnh phổi, bệnh đau dạ dày và chứng mất ngả. Năm 1924 Fitzgerald và Zelda sang Âu châu. Ông thuê một biệt thự xinh xắn ở Côte D’Azur và tiếp tục viết tác phẩm “Gatsby huy hoàng”. Năm 1925 tác phẩm hoàn thành và xuất hiện một cách thành công rực rỡ đối với dư luận, nhưng về phương diện tài chánh không làm cho ông thỏa mãn. Sách bán được 25.000 cuốn, chỉ vừa đủ để trừ nợ những số tiền ông đã nhận trước của nhà xuất bản. Năm 1927 ông trở về Hollywood viết truyện phim nhưng sau đó ông lại bỏ sang Âu châu và sống lang thang ở Thụy Sĩ, một xứ mà ông nhận xét là “nhiều cái đã hoàn thành nhưng ít cái được bắt đầu”. Trong thời này Zelda bắt đầu bị đau thần kinh. Năm 1929 ông phải đưa vợ về Mỹ để lo chạy chữa. Zelda tiều tụy đến nỗi không còn đủ sức lượm một trái banh ten-nít. Fitzgerald không bao giữ thốt một lời than vãn và tận lụy săn sóc vợ. Đầu hàng định mệnhBệnh tình của Zelda càng ngày càng trở nên nặng và chẳng bao lâu trở thành điên thực sự. Fitzgerald, sống trong cảnh khốn cùng, ông viết truyện ngắn kiếm ăn lần hồi. Sức lực mỗi ngày một thêm kiệt quệ. Nhiều đêm trường ông thức trắng đêm để viết. Cũng có khi thức đến sáng mà không viết được chữ nào! Năm 1934 ông hoàn thành cuốn “Đêm trường êm dịu” nhưng số bán không được nhiều như ông mong mõi. Càng ngày ông càng uống rượu nhiều và bị ám ảnh bởi nợ nần, bệnh tật, ông viết một tiểu luận nhan đề là “Sự rạn vỡ” phán tách tình trạng của ông. Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 40 của ông, tờ New York Post có viết một bài mô tả ông như là một người khốn khổ đáng thương nhất trên đời. Ông đọc xong bài báo quá thất vọng ông toan tự tử bằng morphine nhưng được cứu thoát. Hãng MGM lại mời ông viết truyện phim, ông đi Hollywood và gặp nữ ký giả Sheilah Graham. Hai người trở nên bạn thân, ông tâm sự: “Nhà văn mà không viết được nữa thì phải trở thành điên dại”. Ngày 20-4-1940 sau khi cùng với Graham đi coi hát về, ông đang ngồi ở ghế nói chuyện về cuốn tiểu thuyết mới tên là “The last Tycoon” mà ông đã hoàn thành được một nửa. Bỗng nhiên như có một sức mạnh vô hình lôi kéo, đầu ông bật ngửa về phía sau và im lặng không nói nữa. Graham vội vàng lay gọi, nhưng Fitzgerald đã tắt thở. Ngoài trời, một vì sao sáng cũng vừa đổi ngôi trong lúc thiên tài rời bỏ cuộc sống. Tháng Ba năm 1948 nhằm ngày 11, nhà thương điên ở Highland phát hỏa. Zelda cùng chín bệnh nhân khác ở tầng chót bị chết cháy. Người ta an táng Bà cạnh mộ Fitzgerald ở Rockville. Đó chính là nơi an sống ngàn thu của hai tâm hồn giai nhân và thi sĩ vậy. Saigon ngày 30 tháng 3 năm 1974 Tuyết Sinh Mời các bạn đón đọc Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng của tác giả F. Scott Fitzgerald & Tuyết Sinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Trong Chiến Hào - Lev Tolstoy
Trận chiến tranh Crimea diễn ra trong hai năm, từ 1854 đến 1856, nơi được nhà văn Tolstoï đến tận nơi, sống, nhìn cảm... và viết thành tác phẩm Sebastopol, là một trận chiến gây ra bởi chính sách hiếu chiến của Nga hoàng Nicholas I. Vị quân chủ Nga La Tư này là vị vua độc tài nhất trong tất cả những vị vua độc tài của lịch sử quân chủ Nga. Nga hoàng Nicholas I luôn luôn tìm cách bành trướng thế lực và biên giới nước Nga về phía biển Balkans và Bosporus. Để chống lại sự bành trướng này của Đế quốc Nga, hai nước Anh Pháp phải đồng minh với nhau và dùng quân lực ngăn cản.  Về phía Anh và Pháp, mặc dầu họ mở chiến tranh với Nga để bảo vệ những quyền lợi riêng của đất nước họ, nhưng họ vẫn gọi cuộc chiến tranh này với danh hiện cao đẹp là "cuộc chiến tranh của văn minh chống lại man dã". Như vậy một bên là quân Nga, một bên là Liên quân Anh-Pháp, bắn giết nhau ở biển Crimea. Rồi quân Nga bị vây trong thành phố hải cảng Sebastopol. Cả hai phe đều vi phạm những lỗi lầm quan trọng về chiến thuật, chiến lược. Con số tổn thất của hai phe đều lên cao. Ngưới ta ước lượng rằng sau hai năm chiến đấu trong Sebastopol bị bao vây và tấn công, quân đội Nga thiệt hại khoảng hơn 100.000 binh sĩ thương vong trong khi Liên quân Anh-Pháp mất tới 500.000 binh sĩ. Hậu quả quan trọng nhất của trận chiến tranh Crimea, là quân đội Nga bị tiêu tan huyền thoại bách chiến bách thắng, đánh đâu được đấy, đồng thời trận chiến này cũng trình bày với thế giới tình trạng lạc hậu của nền kinh tế và hành chảnh của Đế quốc Nga. Trận chiến này gây thiệt hại lớn cho chế độ quân chủ Nga La Tư. Nó làm cho những người Nga bảo thủ nhất, bảo hoàng nhất, cũng phải nghĩ rằng xã hội Nga nằm dưới chế độ quân chủ độc tài tuyệt đối của Nga Hoàng Nicholas I là một xã hội bị bóp nghẹt, chết cứng, không có tương lai và việc cần thiết phải làm ngay là việc cải tạo xã hội ấy. Phong trào đòi cải tạo xã hội nổi lên mạnh ở trong lãnh thổ Nga sau trận Sebastopol. Nga hoàng Nicholas I tuy độc tài và tàn bạo nhưng cũng phải chiều theo phong trào này. Cải cách lớn nhất của xã hội Nga sau trận Sebastopol là quyết định giải phóng nông nô Nga vào năm 1861. Tolstoï vừa đúng hai mươi lăm tuổi khi ông tới thành phố pháo đài Sebastopol bị bao vây vào tháng Mười năm 1854. Khi ấy, tuy còn trẻ nhưng Tolstoï đã là một sĩ quan nhiều kinh nghiệm chiến trường, bởi vì trước đó ông từng phục vụ trong một đơn vị pháo binh ở miền Cossack và từng lập được nhiều quân công, được thưởng nhiều huy chương. (Về sau Tolstoï lấy những kỷ niệm trong thời gian ông chiến đấu ở miền Cossack để viết thành truyện dài The Cossacks). Đầu năm 1851 Tolstoï tình nguyện gia nhập quân đội Nga đang chiến đấu với quân Thổ Nhĩ Kỳ ở mặt trận Wallachia. Rồi khi quân đội Nga phải rút lui từ những thành phố dọc theo sông Danube về nước và pháo đài Sebastopol bị địch quân bao vây, cần tiếp viện, Tolstoï lại tình nguyện đến Sebastopol. Khi đã nhận rõ sự phi lý của chiến tranh, Tolstoï bắt đầu ca ngợi sự hiền hòa của tinh thần Thiên Chúa giáo, tinh thần này ngự trị tâm hồn ông suốt từ đó cho tới phút ông nhắm mắt lìa đời. Điều đáng nói nhất về Truyện Ký Sebastopol là cách nhận xét, diễn tả chiến tranh trong truyện này của Tolstoï đã ảnh hưởng, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đến những nhà văn viết về chiến tranh hay nhất thế giới sau này như Stephen Crane và Ernest Hemingway. Và chính Tolstoï cũng bị ảnh hưởng của Stendhal, ông tự nhận rằng Stendhal đã dạy cho ông biết chiến tranh là gì và làm ông hiểu được chiến tranh. Có lần, Tolstoï nói với một người bạn văn: "Hãy đọc kỹ đoạn Stendhal tả trận Waterloo trong La Chartreuse de Parme. Trước Stendhal, làm gì có ai tả chiến tranh như thế? Tôi muốn nói là tả chiến tranh theo đúng sự thực. Bạn hãy nhớ lại cảnh anh chàng Fabrice cưỡi ngựa chạy trên chiến trường mà hoàn toàn ‘không hiểu gì cả’..." Trong những năm cuối cùng của đời ông, ông viết bản Tôi Thú Tội và quyết định từ bỏ tất cả những lạc thú ở đời, viết chúc thư chia gia sản cho người nghèo và bỏ nhà đi nằm chết lạnh lẽo trong một nhà ga vắng vẻ, tiêu điều. Nhưng giữa thời gian nhà văn sống trong thành phố Sebastopol bị bao vây và viết tập Tôi Thú Tội, còn có khoảng thời gian văn tài của ông lên tột độ khi ông viết Anna Karenina và Chiến Tranh và Hòa Bình. Tuy sống và viết, không lúc nào ông quên hoài bão thành lập một tôn giáo mới, thực tế, đem hạnh phúc đến cho con người ở ngay kiếp này đến với ông ở Sebastopol, vì tinh thần hiền hòa, yêu thương nhân loại, phản đối chiến tranh vẫn chan hòa trong hai tác phẩm lớn trên đây của ông. Mời các bạn đón đọc Tình Trong Chiến Hào của tác giả Lev Tolstoy.
Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống - Jean Teulé
Jean Teulé, một con người có nhiều tính cách và tài năng. Ông là người giới thiệu nhiều chương trình khác nhau trên truyền hình. Nhưng trên hết, ông vẫn thích viết. Thoạt đầu, ông cho xuất bản những cuốn tiểu thuyết như “Rainbow pour Rimbaud” (1991), tác phẩm này sau đó được dựng thành phim ngay. “L’oell de Pâques” (1992), “Ballade pour un père oublié” (1995), và “Bord cadre” (1999). Tiếp đến là cuốn “Darling” (1998), tác phẩm này cũng được dựng thành phim và được trình chiếu tại rạp vào tháng 11 năm 1997. Sau đó đến “Les Lois de la gravité” (2003), “Ô Verlain!” (1994), “Je, François Villon” (2006). Cuốn “Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống” xuất hiện năm 2007. Năm sau, 2008 ông lại trầm mình vào văn học và dâng hiến cho bạn đọc một cuốn tiểu thuyết dài và được bạn đọc chào đón rất nồng nhiệt “Chuyện tình của Bá tước Montespan”, một thiên tình sử thấm đẫm nước mắt nhưng không kém phần châm biếm mai mỉa một xã hội thượng lưu, quý tộc thối nát, đê tiện. Quan sát sâu rộng, ngòi bút sắc bén, Jean Teulé luôn luôn lao vào tận hang cùng ngõ hẻm những ngóc ngách của tâm hồn con người, để chắt chiu, nâng niu từng dòng cảm xúc, để truyền tới bạn đọc những tâm tư, nỗi niềm sâu kín luôn ẩn chứa đằng sau những tòa biệt thư xa hoa, những khuôn mặt đẹp, những bộ quần áo óng ả… *** Chúng ta hãy cùng nhau hình dung ra một cửa hàng, một doanh nghiệp gia đình đã thịnh vượng từ mười đời nay chuyên bán các loại dụng cụ tự sát. Họ ăn nên làm ra từ nỗi buồn và thất vọng của những người khác. Cho đến tận ngày họ gặp phải một kẻ thù cạnh tranh sinh tồn: đó là niềm vui được sống. Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống, tựa hồ như một lời quảng cáo “Bạn đã sống dở trong cuộc sống ư? Vậy với chúng tôi, bạn sẽ chết thành công!” Nhưng trong tác phẩm của mình Jean Teulé đã rất thành công. Chết và đặc biệt là tự sát, những câu nói và hành động này dường như là cấm kỵ trong xã hội chúng ta và không ai dám nhắc đến. Trong tác phẩm, điểm phán xét thường đặt ra rất sơ sài một cách cố ý… và nó ngay lập tức đã khiến chúng ta phá lên cười, đúng là chẳng có gì mang màu xanh hòa bình êm ả trong cửa hàng này cả, ngược lại là khác, nhưng chúng ta chỉ có thể bật cười trước những con số đánh dấu thứ tự các dụng cụ để có thể tự hủy hoại cuộc sống của mình, từ chiếc dây thừng bện bằng tay cho thật chắc đến món cốc-tai pha độc dược, rồi đến quả táo chứa chất cyanure hay trọn bộ kimono với thanh bảo kiếm dành cho một buổi hara-kiri truyền thống của Nhật Bản! Tất cả những phương tiện này được doanh nghiệp Tuvache gợi ý và cố vấn kiểu chết thật phù hợp cho mỗi khách hàng của mình. Họ thường thủ thỉ hỏi khách hàng có chuyện gì muộn phiền để đưa ra dụng cụ thích hợp… Một quy định vàng của cửa hàng: không bao giờ được chào “tạm biệt” với khách hàng mà phải nói “vĩnh biệt”. Trong gia đình doanh nghiệp điển hình này có năm dạng nhân vật: cha mẹ, những nhà chuyên môn, kỹ thuật viên, thương gia. Đứa con đầu lòng, trầm cảm kinh niên nhưng cực kỳ “sáng tạo” trong vị trí được đảm nhiệm, đứa con gái, hình mẫu lý tưởng của tuổi vị thành niên có tâm hồn xáo trộn dễ xúc động, và cậu con út cuối cùng, một viên cát thực sự trong ngành thương mại ủ dột này: Cậu bé nhìn đâu cũng toàn thấy màu hồng, đó là một đứa trẻ lạc quan muôn thuở, chính nó sẽ không ngừng đưa hạt cát lạc quan của mình vào trong công việc bán buôn của cha mẹ để dần dần giúp họ khuynh gia bạn sản trong ngành này. Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống là một tiếng cười sảng khoái thực sự, giúp chúng ta quên đi những lo toan, những bấn loạn mỗi khi gặp trắc trở trong cuộc sống hàng ngày. Mời các bạn đón đọc Cửa Hàng Dành Cho Những Kẻ Ngán Sống của tác giả Jean Teulé.
Những ngôi sao Eghe Tập 2 - Gardonyi Geza
Trong hơn ba trăm năm (từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 17) chống lại những đạo quân viễn chinh và ách đô hộ của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, nhân dân Hung đã bền bỉ chiến đấu và lập nên nhiều chiến công oanh liệt, trong đó có cuộc kháng chiến của quân dân thành Eghe năm 1552.   Eghe là cửa ngõ của vùng Thượng địa Đông bắc, đứng trấn giữ cho cả một vùng đất nước khá rộng lớn. Khi vòng vây của hai đạo quân Thổ khổng lồ, đầy nhuệ khí đã khép lại, trong thành chỉ có độ hai ngàn người già, trẻ, trai, gái. Quân Thổ không tính đến một sức kháng cự đáng kể. Viên pasa Ali, thống soái một đạo quân Thổ, cho thành này chỉ là một “cái chuồng cừu xộc xệch” và quân trong thành chỉ là một “bầy gia súc”. Nhưng cuộc chiến đấu chẳng bao lâu đã chỉ cho hắn thấy rõ ràng những người bảo vệ thành Eghe đại diện cho một sức mạnh mà đạo quân Thổ không tài nào đè bẹp nổi. Những chiến sĩ phần lớn là con em vùng Thượng địa Đông bắc đang bị chiếm đóng đe dọa và những nông dân các làng lân cận chạy vào thành tị nạn, đã nghiến chặt răng đánh lui tất cả mọi đợt công kích của quân Thổ. Sau năm tuần rưỡi sống mái với quân thù, thành Eghe đã tự giải phóng mình khỏi cuộc vây hãm khốc liệt và cứu miền đất nước phía sau khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Quân Thổ bị thiệt hại nặng nề dưới chân thành Eghe và phải bỏ dở kế hoạch hành quân xâm lược của chúng.   Cuộc chiến đấu của Eghe từ đó đã trở thành đề tài của nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật. Ngay sau khi quân Thổ tháo chạy, Tinôđi Sebétchên, thi sĩ kiêm ca công nổi tiếng nhất của Hung trong thế kỷ 16, đã đến tận nơi sưu tầm tài liệu và sáng tác Truyện thơ về cuộc chiến đấu của thành Eghe. Nhưng tác phẩm thành công nhất về đề tài này là Những ngôi sao Eghe của Gardonyu Geza.   Gardonyu Geza (1863-1922) xuất thân từ một gia đình thợ rèn, là một nhà văn có tên tuổi ở Hung. Trước khi bước vào nghề viết văn, ông đã dạy học nhiều năm ở nông thôn. Thời kỳ này, ông có tinh thần chống lại nền thống trị của triều đình Hápxbua (Áo) và đã viết tác phẩm Ngọn đèn (1894) là một tác phẩm tốt. Trong cuốn tiểu thuyết này, ông đã vẽ nên một bức tranh đáng kinh ngạc về cuộc sống nghèo nàn và bị ngược đãi của lớp giáo học ở nông thôn, đã tấn công trào lưu tôn giáo hóa xã hội và tấn công vào ách thống trị của nền đế chế Áo – Hung phản dân tộc, phản tiến bộ; gợi lại những kỷ niệm vẻ vang về cuộc chiến đấu giành tự do của nhân dân Hung thời kỳ 1848. Nhưng dần dần về sau, con đường văn học của ông khuất khúc và đầy mâu thuẫn. Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông, Những ngôi sao Eghe là tác phẩm tươi sáng và giàu sức sống nhất. Ở Hung không có một tiểu thuyết lịch sử nào khác lại được cả bạn đọc, người lớn lẫn trẻ em, yêu thích đến thế. Cuốn truyện được xuất bản lần đầu tiên năm 1901, và từ đó đến năm 1963 đã được tái bản hơn 21 lần, chỉ riêng từ 1945 đến 1963 đã được các nhà xuất bản khác nhau tái bản hơn 16 lần với số lượng hơn nửa triệu cuốn (trong một nước 11 triệu dân). Đó là chưa kể đến những bản dịch ở nước ngoài.   Trong quá trình sáng tác, Gardonyu Geza đã sưu tầm nghiên cứu rất nhiều nguồn tài liệu, kể cả gia phả của các nhân vật chính trong truyện. Mùa xuân năm 1899, trước khi bắt tay vào viết, ông đã lên đường đi Côngxtăngtinốp để nghiên cứu tận nơi những phong tục, tập quán ở nước Th đã vào tận ngục Bảy Tháp, tham dự những ngày hội tôn giáo, bơi thuyền trên vịnh Bốtxpôrat, tham quan các viện bảo tàng v.v… Nhờ tác phong làm việc cẩn thận đó, tác giả đã để lại cho chúng ta nhiều trang sách chính xác và sinh động về những cuộc hành quân đầy nghi vệ của đội quân Thổ, về cuộc vây hãm thành Eghe, về nhiều cảnh sinh hoạt của xã hội thời xưa.   Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là chú bé Bônemixo Gergey, đại biểu của tầng lớp nông dân nghèo, giàu lòng yêu nước và đa mưu túc trí, đã từ một chú bé chân đất làm lên đến chức đại úy, chủ tướng một thành trì. Qua bước trưởng thành của nhân vật chính, tác giả còn vẽ nên trước mắt người đọc cả một bức tranh xã hội rộng lớn từ thôn xóm đến cung đình. Ngay từ những trang đầu tiên, tác giả đã cho ta thấy tình hình chính trị rối như mớ bòng bong của nước Hung thời đó: “… và chúa công của bạn đang là Xopôlo Gianốt, hoặc quân Thổ, hoặc Pheđinan đệ nhất.”   Hồi đó giai cấp phong kiến ở Hung phân hóa nặng nề. Bọn quý tộc lãnh chúa và quý tộc giáo hội có những lãnh địa rộng lớn, có quân đội riêng, có thành quách trong tay, thực tế là đã trở thành những ông chúa cát cứ. Nhà vua ở Buđa không đủ sức để thâu tóm quyền bính, tổ chức đất nước thành một quốc gia vững mạnh. Nhân dân bị đè nén nặng nề dưới hai tầng tròng phong kiến và giáo hội, đời sống rất khổ cực. Họ oán ghét bọn quý tộc chẳng kém gì bọn ngoại xâm. Tất cả những nhân tố đó đã dẫn tới cuộc chiến tranh nông dân do Đôjo Giơrgiơ lãnh đạo năm 1514 và chiến bại thảm hại ở Môhát năm 1526. Sau Môhát không còn ai tổ chức được cuộc kháng chiến chống quân Thổ trong phạm vi toàn quốc. Giai cấp thống trị vốn đã không thống nhất, giờ đây lại phân hóa thành hai phe đối địch. Một phe, gồm chủ yếu tầng lớp quý tộc trung và tiểu, bầu Xopôio Gianốt, công vương vùng Êrơđêi, lên làm vua; một phe khác, gồm phần lớn bọn đại quý tộc, lại tôn Pheđinan đệ nhất của triều đình Hápxbua (Áo) làm vua. Hai tên vua đó đem quân đánh lẫn nhau để tranh giành ngôi báu, mặc kệ quân Thổ ngấp nghé ở biên giới. Thậm chí Xopôio Gianốt, sau khi bị thua Pheđinan I và phải chạy sang Ba-lan, còn cầu cứu hoàng đế Thổ giúp hắn chiếm lại ngai vàng, và để đền ơn, hắn bỏ mặc vùng đất nước phía nam cho quân thổ tha hồ cướp bóc. Trước tình hình hai vua khuynh loát lẫn nhau như thế, bọn lãnh chúa hết theo phe vua này lại theo phe vua khác, tùy theo chỗ ở với vua nào có thể kiếm chác được nhiều hơn. Chúng ta sẽ thấy tình hình này được phản ánh một phần qua hai nhân vật Xexey và giáo sĩ Balin hoặc qua nhân vật Tơrơc Balin. Nhưng mặc dù tất cả những điều kiện bi thảm đó, nước Hung vẫn không dễ dàng lọt vào tay bọn ngoại xâm. Trước sự bất lực và phản bội của triều đình và giáo hội, nhân dân nhiều nơi đã vùng lên kháng chiến mạnh mẽ khi quân Thổ kéo đến. Những “kẻ nổi loạn” đó – như các sử gia của triều đình Thổ cũng phải thừa nhận – “trong tình thế tuyệt vọng cũngchiến đấu với súng hỏa mai và cung tên, với gậy gộc và đá”. Bên cạnh họ, tuy ít ỏi nhưng trong hàng ngũ tướng lĩnh vẫn có những người yêu nước chân thành, đặc biệt là những võ quan xuất thân từ những tầng lớp dưới. Những viên tướng này cùng những đội quân vốn là nông dân nghèo chạy nạn khỏi các vùng bị giặc Thổ tàn phá, chiếm đóng hoặc trốn khỏi cuộc sống khổ nhục ở các điền trang, đã lập nên cả một hệ thống biên thành dọc theo vùng giáp ranh với quân Thổ để báo tin và ứng cứu lẫn nhau. Họ đã đánh tan hết bao nhiêu đội quân Thổ kéo đi ăn cướp. Hơn nữa, những viên tướng này nhiều khi cùng với một đội quân nhỏ nhưng đồng lòng, trong một tòa thành đơn độc không có sự cứu viện của triều đình, đã có thể chặn đứng cả một đạo đại quân Thổ trong nhiều ngày, đôi khi còn giữ vững được đến cùng, bẻ gãy cả cuộc viễn chinh của địch. Những kỳ công đó nổi bật trên nền trời đen tối của xã hội Hung thời bấy giờ như những ngôi sao, trong đó Eghe là ngôi sao sáng nhất. Chúng ta thấy dường như tác giả đã dành doàn bộ tâm hồn mình cho việc mô tả lại toàn bộ cuộc chuẩn bị chiến đấu và hơn năm tuần quyết chiến ở Eghe. Có thể nói ít có cuốn tiểu thuyết lịch sử mô tả được tỉ mỉ, chính xác và sinh động như vậy. Gấp cuốn sách lại chúng ta vẫn như nghe vang trong tai lời thề quyết tử và tiếng đại bác vang rền, tiếng gương giáo chạm nhau, tiếng hô “Giết! Giết!”, và tự nhiên chúng ta liên tưởng đến khí phách anh hùng và lời thề “sát Thát” của quân dân đời Trần.   Chiến công của quân dân Eghe hồi đó đã vang lừng trong nước và cả ở nước ngoài. Sau ngày chiến thắng, biết bao chính khách ở châu Âu đã kéo đến Viên để chúc mừng Pheđinan I – kẻ không hề có chút công lao nào, thậm chí còn có tội với miền đất đai Hung mà hắn cai trị - và để ngắm nghía những lá quân kỳ cướp được của giặc Thổ mà quân dân Eghe đã gửi về triều. Nhưng chỉ với cuốn tiểu thuyết của Garđônhi, chiến tích Eghe mới thực sự trở thành một điển hình bất hủ, trước công luận, trước lịch sử, về tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm của nhân dân Hung hồi thế kỷ 16. Mời các bạn đón đọc Những ngôi sao Eghe Tập 2 của tác giả Gardonyi Geza.
Những ngôi sao Eghe Tập 1 - Gardonyi Geza
Trong hơn ba trăm năm (từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 17) chống lại những đạo quân viễn chinh và ách đô hộ của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, nhân dân Hung đã bền bỉ chiến đấu và lập nên nhiều chiến công oanh liệt, trong đó có cuộc kháng chiến của quân dân thành Eghe năm 1552.   Eghe là cửa ngõ của vùng Thượng địa Đông bắc, đứng trấn giữ cho cả một vùng đất nước khá rộng lớn. Khi vòng vây của hai đạo quân Thổ khổng lồ, đầy nhuệ khí đã khép lại, trong thành chỉ có độ hai ngàn người già, trẻ, trai, gái. Quân Thổ không tính đến một sức kháng cự đáng kể. Viên pasa Ali, thống soái một đạo quân Thổ, cho thành này chỉ là một “cái chuồng cừu xộc xệch” và quân trong thành chỉ là một “bầy gia súc”. Nhưng cuộc chiến đấu chẳng bao lâu đã chỉ cho hắn thấy rõ ràng những người bảo vệ thành Eghe đại diện cho một sức mạnh mà đạo quân Thổ không tài nào đè bẹp nổi. Những chiến sĩ phần lớn là con em vùng Thượng địa Đông bắc đang bị chiếm đóng đe dọa và những nông dân các làng lân cận chạy vào thành tị nạn, đã nghiến chặt răng đánh lui tất cả mọi đợt công kích của quân Thổ. Sau năm tuần rưỡi sống mái với quân thù, thành Eghe đã tự giải phóng mình khỏi cuộc vây hãm khốc liệt và cứu miền đất nước phía sau khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Quân Thổ bị thiệt hại nặng nề dưới chân thành Eghe và phải bỏ dở kế hoạch hành quân xâm lược của chúng.   Cuộc chiến đấu của Eghe từ đó đã trở thành đề tài của nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật. Ngay sau khi quân Thổ tháo chạy, Tinôđi Sebétchên, thi sĩ kiêm ca công nổi tiếng nhất của Hung trong thế kỷ 16, đã đến tận nơi sưu tầm tài liệu và sáng tác Truyện thơ về cuộc chiến đấu của thành Eghe. Nhưng tác phẩm thành công nhất về đề tài này là Những ngôi sao Eghe của Gardonyu Geza.   Gardonyu Geza (1863-1922) xuất thân từ một gia đình thợ rèn, là một nhà văn có tên tuổi ở Hung. Trước khi bước vào nghề viết văn, ông đã dạy học nhiều năm ở nông thôn. Thời kỳ này, ông có tinh thần chống lại nền thống trị của triều đình Hápxbua (Áo) và đã viết tác phẩm Ngọn đèn (1894) là một tác phẩm tốt. Trong cuốn tiểu thuyết này, ông đã vẽ nên một bức tranh đáng kinh ngạc về cuộc sống nghèo nàn và bị ngược đãi của lớp giáo học ở nông thôn, đã tấn công trào lưu tôn giáo hóa xã hội và tấn công vào ách thống trị của nền đế chế Áo – Hung phản dân tộc, phản tiến bộ; gợi lại những kỷ niệm vẻ vang về cuộc chiến đấu giành tự do của nhân dân Hung thời kỳ 1848. Nhưng dần dần về sau, con đường văn học của ông khuất khúc và đầy mâu thuẫn. Trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông, Những ngôi sao Eghe là tác phẩm tươi sáng và giàu sức sống nhất. Ở Hung không có một tiểu thuyết lịch sử nào khác lại được cả bạn đọc, người lớn lẫn trẻ em, yêu thích đến thế. Cuốn truyện được xuất bản lần đầu tiên năm 1901, và từ đó đến năm 1963 đã được tái bản hơn 21 lần, chỉ riêng từ 1945 đến 1963 đã được các nhà xuất bản khác nhau tái bản hơn 16 lần với số lượng hơn nửa triệu cuốn (trong một nước 11 triệu dân). Đó là chưa kể đến những bản dịch ở nước ngoài.   Trong quá trình sáng tác, Gardonyu Geza đã sưu tầm nghiên cứu rất nhiều nguồn tài liệu, kể cả gia phả của các nhân vật chính trong truyện. Mùa xuân năm 1899, trước khi bắt tay vào viết, ông đã lên đường đi Côngxtăngtinốp để nghiên cứu tận nơi những phong tục, tập quán ở nước Th đã vào tận ngục Bảy Tháp, tham dự những ngày hội tôn giáo, bơi thuyền trên vịnh Bốtxpôrat, tham quan các viện bảo tàng v.v… Nhờ tác phong làm việc cẩn thận đó, tác giả đã để lại cho chúng ta nhiều trang sách chính xác và sinh động về những cuộc hành quân đầy nghi vệ của đội quân Thổ, về cuộc vây hãm thành Eghe, về nhiều cảnh sinh hoạt của xã hội thời xưa.   Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là chú bé Bônemixo Gergey, đại biểu của tầng lớp nông dân nghèo, giàu lòng yêu nước và đa mưu túc trí, đã từ một chú bé chân đất làm lên đến chức đại úy, chủ tướng một thành trì. Qua bước trưởng thành của nhân vật chính, tác giả còn vẽ nên trước mắt người đọc cả một bức tranh xã hội rộng lớn từ thôn xóm đến cung đình. Ngay từ những trang đầu tiên, tác giả đã cho ta thấy tình hình chính trị rối như mớ bòng bong của nước Hung thời đó: “… và chúa công của bạn đang là Xopôlo Gianốt, hoặc quân Thổ, hoặc Pheđinan đệ nhất.”   Hồi đó giai cấp phong kiến ở Hung phân hóa nặng nề. Bọn quý tộc lãnh chúa và quý tộc giáo hội có những lãnh địa rộng lớn, có quân đội riêng, có thành quách trong tay, thực tế là đã trở thành những ông chúa cát cứ. Nhà vua ở Buđa không đủ sức để thâu tóm quyền bính, tổ chức đất nước thành một quốc gia vững mạnh. Nhân dân bị đè nén nặng nề dưới hai tầng tròng phong kiến và giáo hội, đời sống rất khổ cực. Họ oán ghét bọn quý tộc chẳng kém gì bọn ngoại xâm. Tất cả những nhân tố đó đã dẫn tới cuộc chiến tranh nông dân do Đôjo Giơrgiơ lãnh đạo năm 1514 và chiến bại thảm hại ở Môhát năm 1526. Sau Môhát không còn ai tổ chức được cuộc kháng chiến chống quân Thổ trong phạm vi toàn quốc. Giai cấp thống trị vốn đã không thống nhất, giờ đây lại phân hóa thành hai phe đối địch. Một phe, gồm chủ yếu tầng lớp quý tộc trung và tiểu, bầu Xopôio Gianốt, công vương vùng Êrơđêi, lên làm vua; một phe khác, gồm phần lớn bọn đại quý tộc, lại tôn Pheđinan đệ nhất của triều đình Hápxbua (Áo) làm vua. Hai tên vua đó đem quân đánh lẫn nhau để tranh giành ngôi báu, mặc kệ quân Thổ ngấp nghé ở biên giới. Thậm chí Xopôio Gianốt, sau khi bị thua Pheđinan I và phải chạy sang Ba-lan, còn cầu cứu hoàng đế Thổ giúp hắn chiếm lại ngai vàng, và để đền ơn, hắn bỏ mặc vùng đất nước phía nam cho quân thổ tha hồ cướp bóc. Trước tình hình hai vua khuynh loát lẫn nhau như thế, bọn lãnh chúa hết theo phe vua này lại theo phe vua khác, tùy theo chỗ ở với vua nào có thể kiếm chác được nhiều hơn. Chúng ta sẽ thấy tình hình này được phản ánh một phần qua hai nhân vật Xexey và giáo sĩ Balin hoặc qua nhân vật Tơrơc Balin. Nhưng mặc dù tất cả những điều kiện bi thảm đó, nước Hung vẫn không dễ dàng lọt vào tay bọn ngoại xâm. Trước sự bất lực và phản bội của triều đình và giáo hội, nhân dân nhiều nơi đã vùng lên kháng chiến mạnh mẽ khi quân Thổ kéo đến. Những “kẻ nổi loạn” đó – như các sử gia của triều đình Thổ cũng phải thừa nhận – “trong tình thế tuyệt vọng cũngchiến đấu với súng hỏa mai và cung tên, với gậy gộc và đá”. Bên cạnh họ, tuy ít ỏi nhưng trong hàng ngũ tướng lĩnh vẫn có những người yêu nước chân thành, đặc biệt là những võ quan xuất thân từ những tầng lớp dưới. Những viên tướng này cùng những đội quân vốn là nông dân nghèo chạy nạn khỏi các vùng bị giặc Thổ tàn phá, chiếm đóng hoặc trốn khỏi cuộc sống khổ nhục ở các điền trang, đã lập nên cả một hệ thống biên thành dọc theo vùng giáp ranh với quân Thổ để báo tin và ứng cứu lẫn nhau. Họ đã đánh tan hết bao nhiêu đội quân Thổ kéo đi ăn cướp. Hơn nữa, những viên tướng này nhiều khi cùng với một đội quân nhỏ nhưng đồng lòng, trong một tòa thành đơn độc không có sự cứu viện của triều đình, đã có thể chặn đứng cả một đạo đại quân Thổ trong nhiều ngày, đôi khi còn giữ vững được đến cùng, bẻ gãy cả cuộc viễn chinh của địch. Những kỳ công đó nổi bật trên nền trời đen tối của xã hội Hung thời bấy giờ như những ngôi sao, trong đó Eghe là ngôi sao sáng nhất. Chúng ta thấy dường như tác giả đã dành doàn bộ tâm hồn mình cho việc mô tả lại toàn bộ cuộc chuẩn bị chiến đấu và hơn năm tuần quyết chiến ở Eghe. Có thể nói ít có cuốn tiểu thuyết lịch sử mô tả được tỉ mỉ, chính xác và sinh động như vậy. Gấp cuốn sách lại chúng ta vẫn như nghe vang trong tai lời thề quyết tử và tiếng đại bác vang rền, tiếng gương giáo chạm nhau, tiếng hô “Giết! Giết!”, và tự nhiên chúng ta liên tưởng đến khí phách anh hùng và lời thề “sát Thát” của quân dân đời Trần.   Chiến công của quân dân Eghe hồi đó đã vang lừng trong nước và cả ở nước ngoài. Sau ngày chiến thắng, biết bao chính khách ở châu Âu đã kéo đến Viên để chúc mừng Pheđinan I – kẻ không hề có chút công lao nào, thậm chí còn có tội với miền đất đai Hung mà hắn cai trị - và để ngắm nghía những lá quân kỳ cướp được của giặc Thổ mà quân dân Eghe đã gửi về triều. Nhưng chỉ với cuốn tiểu thuyết của Garđônhi, chiến tích Eghe mới thực sự trở thành một điển hình bất hủ, trước công luận, trước lịch sử, về tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm của nhân dân Hung hồi thế kỷ 16. Mời các bạn đón đọc Những ngôi sao Eghe Tập 1 của tác giả Gardonyi Geza.