Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Evergreen Love: Từ Điển Tranh Về Thực Vật

Evergreen Love – Từ điển tranh về thực vật được chắp bút bởi Hiro Arikawai, nữ nhà văn nổi tiếng Nhật Bản. Phát hành năm 2009, tác phẩm đã nhanh chóng trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất năm và nhận được nhiều giải thưởng, đề cử văn học. Đặc biệt, Evergreen Love đã được mua bản quyền chuyển thể thành phim điện ảnh vào năm 2016. Ngay trong tuần đầu tiên ra mắt, bộ phim đã đứng nhất phòng vé với doanh thu 3.2 triệu USD. Cuốn tiểu thuyết là câu chuyện về cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa Sayaka và Itsuki. Sayaka làm việc trong một công ty tư vấn nhà đất, tuy nhiên cô lại thường xuyên bị quở trách vì năng lực của bản thân, không những sống một cuộc đời nhàm chán, thảm hại, Sayaka lại không hề khéo léo trong tình yêu nên vẫn còn cô đơn. Một đêm nọ, trên đường trở về nhà, Sayaka bắt gặp Itsuki, một người lạ mặt bất tỉnh ngay trước cửa nhà. Cô đưa anh vào nhà, khi tỉnh dậy, Itsuki bất ngờ xin Sayaka cho anh sống nhờ trong vòng nửa năm. Lạ thay, Sayaka gật đầu đồng ys. Và thế là họ bắt đầu sống chung và dần dần nảy sinh tình cảm với nhau lúc nào chẳng hay. Itsuki như một phép màu được gửi đến cứu rỗi cuộc đời tẻ nhạt của Sayaka. Trong thời gian sống chung, Itsuki luôn nấu ăn cho cô - một người con gái vụng về không hề biết gì về nữ công gia chánh, anh dạy cô cách sử dụng các loại thảo mộc và cỏ dại để nấu nướng. Thế nhưng Itsuki lại giữ trong mình quá nhiều bí ẩn như cách anh xuất hiện trong cuộc đời Sayaka và đột ngột biến mất khỏi cuộc đời cô sau bữa tiệc sinh nhật… Lạc vào thế giới của Evergreen Love, bạn sẽ dễ dàng chìm đắm trong sự ngọt ngào, lãng mạn bởi những “phản ứng hóa học” giữa hai nhân vật chính, sự kì diệu về thế giới của những loài cỏ dại, thảo mộc quanh ta đi cùng với cảm giác tò mò về những bí mật giấu kín của Itsuki… Evergreen Love hứa hẹn sẽ là một tác phẩm lãng mạn tươi mới giúp bạn xóa tan cảm giác oi bức trong hè này. *** Hiro Arikawa   Sinh năm 1972, đến từ Kochi, Nhật Bản. Bà chủ yếu sáng tác thể loại light novel hướng tới đối tượng học sinh trung học. Năm 2003, bà đạt giải thưởng nhà văn mới trong giải thưởng văn học thường niên lần thứ 10 Dengeki Novel Prize với tác phẩm Shio no Machi và được xuất bản sách trong năm 2004. Cuốn tiểu thuyết ăn khách Evergreen Love - Từ điển tranh về thực vật (Shokubutsu Zukan) của bà đã được chuyển thể thành phim điện ảnh vào tháng 6 năm 2016. *** Ngày cô phải ra ngoài cùng trưởng phòng là một ngày giữa mùa hè, cái nắng oi ả chiếu xuống mặt đường nhựa, phả lên từng đợt hơi nóng. Đôi chân của mỗi người đều tự động lựa chọn đi vào vùng bóng của hàng cây hai bên đường. Thế rồi đột nhiên có một bóng trắng nho nhỏ lướt qua khóe mắt cô. Ở bãi đỗ xe bên cạnh một tòa nhà gần đấy có một loại dây leo đang cuốn lên hàng rào chắn. Và bóng trắng nho nhỏ chính là những bông hoa trắng nhỏ xinh của loài dây leo đó. Những bông hoa nhỏ xinh với những cánh hoa trắng xòe rộng tạo hình quả chuông như hoa bách hợp, chính giữa bông hoa lại được điểm thêm bằng màu đỏ đậm. “Ô kìa.” Trưởng phòng cũng nhận ra bóng trắng đó mà ngừng lại. “Thật đẹp quá đi. Chủ ở đây trồng nó sao?” “Không phải đâu trưởng phòng.” Kouno Sayaka lại giội một gáo nước lạnh vào mớ cảm xúc đang dâng trào trong sếp. “Nó là cỏ dại đấy ạ.” “Cỏ dại!!” Trưởng phòng tròn mắt ngạc nhiên. “Thế nhưng nó trông đẹp thế cơ mà.” “Cỏ dại không phải là tên của một loại cỏ cây mà là chỉ chung cho tất cả các loại cỏ. Thiên hoàng Chiêu Hòa đã nói như vậy. Ít nhất thì nó không phải là loại cây cỏ được trồng trong vườn.” Sayaka vô thức nói thêm: “Nó là cây rắm thúi, trong tiếng Nhật gọi là Hekuso kazura.” “Hekuso… thú…?” “Vâng. Nếu vò nát những chiếc lá mọc trên thân dây leo kia thì nó sẽ tỏa ra mùi khó chịu giống như cái tên ấy. Mặc dù dựa theo những bông hoa dễ thương hay những đặc điểm khác thì nó còn được gọi với những tên khác như Saotome kazura nghĩa là cô gái đội nón đang làm ruộng hay Yaitobana vì hoa giống với hình mồi ngải dùng trong chữa bệnh hay xông huyệt, thế nhưng, Hekuso kazura vẫn là cái tên được dùng nhiều nhất.” Nói một tràng dài, Sayaka đột nhiên nhận ra trưởng phòng của mình còn đang ngây người. “Trưởng phòng làm sao thế?” “Không…” Trưởng phòng cười nói: “Chỉ là thấy bất ngờ khi cô còn trẻ vậy mà lại biết được nhiều điều như thế thôi. Đúng rồi, nó là rắm thúi chứ gì…” Thế rồi trưởng phòng lại nói tiếp: “Cái tên này cũng đủ để bị kết tội quấy rối tình dục đấy nhé.” “Không, tôi không có…” Sayaka vội lầm bầm tôi không cố ý hay gì đó. Bản thân cô cũng đã hơn hai mươi mấy rồi, thế nên cô không nghĩ mình cũng được coi là một cô gái trẻ trung gì nữa. Sau khi nói xong, trưởng phòng lại lần nữa ngắm nhìn bông hoa rắm thúi… không, hãy gọi nó là thiếu nữ xinh đẹp đi. “Rõ là bông hoa đẹp thế này cơ mà. Cái tên này làm hỏng hết cả một loài hoa rồi.” Đứng bên cạnh nghe trưởng phòng ca thán, Sayaka lại đang thầm xỉ vả bản thân mình. Ngu ngốc, mày thật ngu ngốc quá đi! Cho dù người ta có thân thiết và không để ý đến đâu đi chăng nữa thì người ta cũng là một người đàn ông đấy! Sao lại có một cô gái mở miệng ra là rắm thúi chứ! Thúi, thúi thúi! Nghe xong trưởng phòng cũng phải chạy xa rồi đấy! Có phải mày không biết các tên khác của nó đâu cơ chứ. Tại sao! Tại sao! Tại sao lại không nói là Yaitobana cơ chứ! Thế nhưng, chuyện mày nhanh nhảu nói ra cái tên thông dụng nhất đấy cũng đâu phải lỗi của mày đâu. Itsuki! Tất cả là tại anh đấy! Sayaka thầm rủa xả anh chàng đã nhồi nhét tên của đủ các loại cây cỏ vào trong đầu cô. Hãy đặt tên cho chàng trai đã rời xa bạn bằng tên của một loài hoa. Và hoa mỗi năm đều sẽ nở. Đại văn hào Kawabata Yasunari đã từng viết như vậy. Ấy thế nhưng trong lòng Sayaka lại cho rằng nó chẳng có gì là lãng mạn hay tình tứ cả. Nếu dùng một từ để nói về câu văn ấy thì đó chính là “ủy mị”. Thêm vào đó, phụ nữ tuyệt đối sẽ không nghĩ nhiều đến thế. Và vốn dĩ cô cũng không nghĩ mình sẽ khắc sâu ký ức về người đàn ông đã chia tay đến mức ấy đâu. Nếu coi trí nhớ của con người là bộ nhớ của một chiếc máy tính thì tình yêu của phụ nữ được lưu lại dưới dạng lưu đè, còn tình yêu của đàn ông lại được lưu lại dưới các file khác nhau. Phụ nữ dù có day dứt, dù có khổ sở đến đâu đi chăng nữa thì khi tình yêu mới xuất hiện, những ký ức về người yêu cũ của họ cũng sẽ phai mờ. Chỉ vì một câu nói ủy mị của ngài mà ba mươi năm sau khi ngài mất, một cô gái vô tội lại đang phải xấu hổ ở đây đây này. Thế nhưng, Sayaka lại thở dài. Cũng không thể nói là cô và người đàn ông đó đã chia tay được. Bởi… Anh ta cứ thế biến mất mà chẳng nói một lời. Mà dù sao giữa cô với anh ta cũng có hứa hẹn gì đâu cơ chứ. “Kouno này, mình đi thôi.” Nghe trưởng phòng cất tiếng gọi, Sayaka vội vàng “vâng” một tiếng rồi đi theo. ✥ Chữ “thụ” trong từ “đại thụ”, đọc là Itsuki. Đó là điều duy nhất về thông tin cá nhân của người đàn ông đó mà Sayaka có thể hỏi được. Lần đầu tiên hai người gặp nhau chính là một đêm cuối đông lạnh giá trước kỳ nghỉ của cô. Tối hôm đó, sau cuộc nhậu, Sayaka vừa vặn bắt kịp chuyến tàu cuối cùng. Trên đường về, cô còn trông thấy cả ánh trăng trong vắt hiếm thấy. Hiện tại, Sayaka đang sống trong một chung cư cũ, phòng của cô có một phòng khách và một phòng bếp, mặc dù khu nhà đã lâu đời nhưng vẫn rất rộng rãi, thoải mái đủ cho cô sống một mình. Chủ nhà trọ hay thích tán chuyện nhưng cũng chưa đến mức ầm ĩ. Vả lại căn nhà đó lại khá gần nhà ga và trước nhà ga lại có một dãy phố mua sắm nhỏ nên có thể nói là trọ ở đấy vô cùng tiện lợi. Sau bữa nhậu, Sayaka đã hơi chếnh choáng say. Cô vừa đi bộ từ nhà ga về vừa ngâm nga một giai điệu yêu thích trong cổ họng. Cô cũng chẳng còn nhớ rõ lời bài hát nữa nên chỉ có thể ngâm nga vài nốt như vậy mà thôi. Thế rồi đến khi gần tới khu nhà trọ, đột nhiên Sayaka nhận ra một thứ. Đó là một chiếc túi rác màu đen to đùng chắn ngay giữa lối đi bộ vốn chỉ vừa một người đi này. Không, chỗ này có phải là bãi rác đâu cơ chứ. Cái túi to như thế kia thì chắc là của công ty, văn phòng nào đó rồi. Chẳng lẽ là người ta lén vứt ra đây? Vừa nghĩ như vậy, Sayaka vừa chậm rãi tiến lại gần. “Oaaaaa!” Một tiếng hét thất thanh vang lên, phá vỡ sự tĩnh lặng của khu phố về đêm, tiếng hét ấy cũng không hợp với một cô gái trẻ chút nào. Hét lên một tiếng, Sayaka vội vàng lùi về sau. Bên trong cái túi ấy… vậy mà lại có một con người. Đó là một người đàn ông tầm tuổi cô đang cuộn tròn trong đó, cùng với một cái ba lô sau lưng. Anh ta ch… chết rồi sao? Nếu là có một xác chết ngay trước nhà trọ thế này thì cô phải báo cảnh sát thôi. Trong con say, Sayaka lấy hết dũng khí duỗi cánh tay về phía trước, dùng ngón tay trỏ của mình khẽ chạm vào má người đàn ông. Còn ấm. Dường như cảm giác được có người đang chạm vào mình, người đàn ông nhẹ nhàng mở mắt ra. Ôi Chúa ơi, anh ta đẹp trai quá đi. “Cái đó…” Sau một hồi bối rối, Sayaka cũng quyết định lên tiếng. “Có chuyện gì với anh vậy?” Người đàn ông chớp đôi mắt còn ngái ngủ đáp: “Tôi bị lả đi.” “Vậy sao anh ở chỗ này?” “Bởi nếu tôi mà ngất ngay ngoài đường thì sẽ bị chết cóng mất.” “Tại sao ở ngoài đường thì sẽ bị chết cóng chứ?” “Nếu nằm thẳng xuống nền nhựa đường, bê tông hay mặt đất thì cơ thể sẽ bị mất nhiệt. Nằm thẳng xuống đất buổi tối không thích hợp để duy trì thân nhiệt cho con người, thế nên ta cần có thứ gì đó ngăn cách ở giữa.” “Thế tại sao anh lại bị lả đi?” “Tôi đói quá. Không thể đi thêm một bước nào nữa.” “Tiền của anh đâu?” “Tôi bây giờ không còn một xu dính túi.” “Hả… đáng thương quá.” Người đàn ông ấy không khiến Sayaka cảm thay phải cảnh giác, thậm chí cô còn ngồi xổm xuống trước mặt anh ta. Ngay lập tức, người đàn ông ấy đặt tay trên đầu gối cô và: “Tiểu thư, liệu cô có thể thu nhận tôi được không?” Nhìn cứ như là một chú chó đang duỗi chân trước chủ vậy. Vừa nhìn bàn tay đặt trên đầu gối mình, Sayaka vừa nghĩ như vậy. Và bất giác, cô lại thốt lên: “Thu nhận… sao lại giống thu nhận mấy con cún ngoài đường vậy chứ?” Nói rồi, Sayaka còn cười khanh khách. Thấy vậy, người đàn ông lại nói tiếp: “Tôi sẽ không cắn người và rất ngoan đấy.” “Đủ rồi đấy.” Giờ nghĩ lại thì chắc hẳn lúc đó cô đã say đến không biết gì rồi. Đế bố mẹ ở quê nghe được chuyện cô đưa một người đàn ông xa lạ về phòng thì họ giết cô mất. Thế nhưng, trông anh ta thực sự là đã đói lả đi rồi, khi về được đến phòng của cô ở tầng một thì anh ta cũng chẳng còn tí hơi sức nào nữa cả. “Anh không sao chứ? Đừng có ngã ra đấy!” Bản thân Sayaka cũng phải đỡ ở một bên rồi nhanh chóng đưa anh ta vào phòng khách của mình. Trước hết phải cho anh ta ăn thứ gì đó mới được. Mặc dù nghĩ vậy, nhưng Sayaka lại là kiểu người không hay nấu ăn ở nhà. Giờ trong nhà cô cũng chỉ có mấy hộp mì ăn liền cô mua trữ sẵn từ trước. Nấu một cốc mì trong ba phút, Sayaka mang ra ngoài cho người đàn ông, ngay lập tức, anh ta đã nhận cốc mì với vẻ biết ơn vô cùng. “Giờ bất cứ thứ gì với tôi đều là món ăn ngon cả.” Anh ta nói một câu thật khó chịu, nhưng xét đến việc anh ta vừa đói đến lả người thì Sayaka lại tạm thời bỏ qua cho lần này. “Anh có đi tắm không?” “A, tuyệt quá. Người tôi đang lạnh cóng rồi.” “Vậy anh cứ ăn trước đi. Tôi đi tắm trước đã.” Giờ nghĩ lại thì hành động lúc đó của cô… cũng chẳng có tí cảnh giác nào cả. Để một người đàn ông xa lạ vào phòng, lại còn để đồ đạc, tài sản ở ngoài như thế mà yên tâm đi tắm nữa chứ. Lúc đi tắm, Sayaka còn nghĩ được là đã uống khá nhiều thì hay là chỉ tắm vòi hoa sen thôi, không cần ngâm mình nữa, nhưng chuyện mà một cô gái trẻ nên nghĩ lúc ấy cũng không phải là chuyện này. May mà “chú cún” mà cô nhặt về đúng là “không cắn người và rất ngoan”, thế nên cuối cùng cũng không có chuyện gì xảy ra. Đợi khi Sayaka ngâm mình xong đi ra ngoài thì chú cún lớn đã quỳ trên sàn, cúi đầu thật sâu với cô. “Cảm ơn vì bữa ăn.” Đúng là anh ta đã quá đói, đến mức anh ta còn uống hết cả nước súp mì nữa. “Xin lỗi vì chỉ có mỗi mì cốc cho anh. Nước nóng thì tôi xả sẵn ra rồi đấy.” “Tôi xin phép mượn một lát.” “Anh có đồ ngủ không?” “Tôi có đồ lót. Còn đi ngủ thì tôi vẫn mặc nguyên mấy bộ thế này” “Vậy sao. Thế thì…” Nửa năm trước Sayaka mới chia tay người yêu. Cô lôi từ trong tủ ra một túi quần áo của người yêu cũ mà lúc trước cô đã nhét xuống tận đáy tủ. Mặc dù lúc đó cô đã phân nó ra thành rác tái chế, thế nhưng cô lại quên mất ngày vứt rác tái chế và cứ thế nhét nó trong tủ cho tới tận bây giờ. (Dù sao thì một tháng cũng chỉ có hai ngày để vứt loại rác này thôi mà.) “Nếu anh không ngại quần áo cũ thì cứ lấy mà dùng. Trong này có nhiều áo phông, áo nỉ lắm, cũng toàn là áo free size cả.” “Cái đó…” Trông Sayaka cũng chẳng có vấn đề gì cả, thế nhưng chú cún ngoan của cô thì lại khá ngại ngùng. “Tôi dùng chúng không sao chứ?” “Không sao đâu. Đây là quần áo của bạn trai cũ đã chia tay cả nửa năm nay rồi. Tôi cũng giặt sạch, gấp gọn chúng rồi mà. Chỉ là để nó bên ngoài hơi vướng nên tôi mới nhét vào trong tủ thôi. Sau đó thì tôi lại quên mất ngày vứt rác tái chế thành ra cứ để cái bọc này ở đây nửa năm rồi. Nó cũng chỉ là bọc quần áo bình thường thôi. Anh không cần phải để ý đâu, chú cún của tôi ạ. Anh mà dùng chúng giúp tôi thì tốt quá ấy chứ?” “Vậy tôi xin cảm ơn cô.” Vừa nói, người đàn ông vừa mở bọc quần áo và lấy một bộ đồ thun ra làm quần áo ngủ, rồi lại lấy đồ lót và bàn chải, khăn mặt trong ba lô của mình ra và đứng dậy đi về phía nhà tắm. “Dầu gội, sữa tắm anh cứ dùng thoải mái, cả khăn tắm nữa. Nhưng nếu anh muốn dùng máy giặt thì để ngày mai nhé. Giờ cũng khá muộn rồi.” “Vâng, cảm ơn cô.” Anh ta đã nói cảm ơn đến ba lần rồi. Và tối hôm đó, trước khi người đàn ông đó tắm xong, Sayaka đã đi về phòng và ngã nhào lên giường. Sáng hôm sau, khi cô thức dậy thì đã thấy mình nằm trong chăn ấm đệm êm rồi. Sao cô không nhớ gì về chuyện mình đã chui vào trong chăn nhỉ. “A, chào buổi sáng. Cô dậy rồi sao?” Nhìn thấy người đàn ông đứng trong bếp, Sayaka bỗng thấy bối rối. Thấy Sayaka như vậy, người đàn ông vội vàng rụt vai lại nói: “Bình tĩnh, cô đừng hét lên nhé. Hôm qua cô đã đồng ý cho tôi ở đây rồi đấy nhé. Nếu cô không nhớ thì tôi sẽ giải thích lại.” Tôi bị lả đi. Liệu cô có thể thu nhận tôi được không? Tôi không cắn người và sẽ ngoan. Lúc này, ký ức tối hôm trước lần lượt ùa về và Sayaka lại phá lên cười. Thấy cô như vậy, người đàn ông cũng thở phào một hơi. “May quá. Tôi còn tưởng sẽ bị đưa lên đồn cảnh sát vì tội đột nhập nhà dân chứ.” “Được rồi, thế anh đang làm gì thế cún con?” “Trước hết cô cứ rửa mặt đi đã. Tôi tỉnh dậy trước nên có mượn nhà tắm của cô một lúc rồi.” Lúc này, Sayaka lại ngửi thấy mùi canh miso thơm nức mũi. “Cơm sáng… trong nhà tôi có thứ gì có thể nấu được cơm sáng sao?” “Mà bất ngờ thật đây, tủ lạnh của cô trống trơn chẳng khác nào tủ lạnh của một người đàn ông độc thân cả. May mà gia vị thì vẫn có. Tôi có mượn chút hành tây và trứng sắp hỏng của cô để nấu ăn.” “Hành!? Tôi có thứ đó ở trong nhà sao?” Trứng thì cô còn nhớ. Khoảng mười ngày trước đột nhiên cô muốn ăn món cơm trứng sống nên đã đi cửa hàng tiện lợi mua một giỏ sáu quả về. Thế nhưng, hành tây thì lần gần đây nhất khi cô mua hành cũng phải từ một tháng trước rồi. “Vần còn một củ héo quắt như thể bị chủ nhà bỏ quên nằm trong một góc. Nó cũng mọc mầm rồi, nhưng vẫn còn dùng được một chút. Nhân tiện, món cá muối Tsukudani của cô để tận trong cùng ấy, thời gian lâu nó chảy nước ra nên tôi vứt nó đi rồi.” “Ngại quá…” Xấu hổ bước xuống giường, Sayaka chợt nhận thấy một chiếc túi ngủ được trải trong phòng khách bên cạnh. “Cái gì thế này? Anh bảo là lả đi mà còn có cả túi ngủ thế này á?” “Thì tôi đói quá, chẳng còn tí sức nào để lôi nó ra khỏi ba lô cả. Tối hôm qua mặc dù chỉ có một cốc mì nhưng ít nhất tôi cũng được cô cho ăn nên mới có sức để kéo chăn đệm giúp cô đấy.” Hóa ra cô được nằm chăn ấm đệm êm ngủ ngay ngắn trên giường hôm qua là nhờ chú cún ngoan này sao? “Cảm ơn, cảm ơn anh…” Sao càng lúc cô càng cảm thấy xấu hổ thế này? Chờ khi Sayaka đánh răng rửa mặt xong thì trên chiếc bàn thấp ở phòng khách đã bày bữa sáng nóng hổi rồi. “Tôi có mượn dùng nồi niêu, bát đũa của cô một chút.” “A vâng, anh cứ dùng tự nhiên.” Vừa nói, Sayaka vừa ngồi xuống chỗ mà người đàn ông kia chỉ. Còn anh ta đang ngồi ở ghế gần bếp nhất. Nhìn thấy cảnh này, Sayaka lại có cảm giác giống như một bầu không khí gia đình vậy. Mời các bạn đón đọc Evergreen Love: Từ Điển Tranh Về Thực Vật của tác giả Hiro Arikawa & Như Nữ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Tình Của Brecht
Một tác phẩm không thuộc hàng best-seller tại Việt Nam, báo chí hầu như không nhắc đến, độc giả đã quên tên, thậm chí chưa từng nghe. Nhưng những điều ấy chẳng khiến “Người tình của Brecht” mất đi giá trị vốn có. Đơn giản, bởi đó là một câu chuyện thành thực, xúc động và u buồn được Jacques-Pierre Amette kể lại bằng văn phong tinh tế. Người tình của Brecht là cô đào Maria Eich, người được nhân viên mật vụ Đức Hans Trow giao nhiệm vụ theo sát nhà soạn kịch Brecht. Sau những khóc cười của nghề diễn, sau niềm ngưỡng vọng và cả sự vô cảm dành cho Brecht, sau tình yêu không thành với Hans Trow, Mria Eich trở về sống và dạy học ở một vùng quê yên tĩnh, đôi khi nhớ lại quá khứ như một hư ảnh xa xôi, ngày ngày cảm nhận sự thanh thản của cuộc sống mới. Cái tên và cốt truyện dễ khiến ta lầm tưởng. Một kịch tác gia lớn, một cô đào xinh đẹp, những nghi kỵ chính trị, nhân viên tình báo núp dưới danh nghĩa người tình. Như vậy đã đủ để người đọc chờ đợi một câu chuyện sexy và gay cấn. Nhưng Jacques-Pierre Amette không khai thác câu chuyện theo hướng ấy. Xuyên suốt tác phẩm là quang cảnh điêu tàn, không khí ngột ngạt của Đông Đức thời hậu chiến, là thân phận của con người giữa vòng kiêm tỏa của quyền lực mù quáng, sự lầm lạc giữa tình yêu với cảm giác choáng ngợp, và cuối cùng là niềm thanh thản sau những biến động đã qua. Một trong những đặc điểm của lối viết hiện đại đó là chối từ sự lên gân của cảm xúc, sự bùng nổ (đôi khi không thật cần thiết) của ngôn từ, sự cường điệu khi xây dựng hình ảnh. Điều đó khiến người đọc bấy lâu quen được ru vỗ trong những tác phẩm du dương cảm thấy hụt hẫng. Nhưng đó cũng chính là lối viết mà cuộc sống hiện đại kiếm tìm, lối viết chân thực, trong sáng, tinh tế, ít biểu cảm, đôi lúc gần đạt tới độ “vô sắc”(1). “Người tình của Brecht” là tác phẩm tiêu biểu cho lối viết ấy. Đọc những trang văn của J.- Amette, ta nhận ra, đây chính là những gì đã được tác giả chưng cất từ cuộc sống, một cuộc sống đầy rẫy những biến động, dễ khiến người ta liên tưởng đến nhiều điều ly kỳ, nhưng thực chất trong thẳm sâu của nó vẫn là dòng chảy giản đơn, vẫn là những câu chuyện muôn đời: con người giữa vòng xoáy của lịch sử, khát vọng hạnh phúc và cuộc truy tầm tuyệt vọng, cảm giác thanh thản sau những biến động đã qua. J.-Amette, khôn ngoan và thành công, khi chọn lối viết này, để câu chuyện hiện lên như những gì nó vốn thế, nên thế, và bức tranh thiên nhiên, tâm trạng giữ nguyên được chất thơ và sắc màu tự nhiên nhất. *** Sinh ngày 18 tháng 5 năm 1943 ở Sain-Pierre-sur-Dives, vùng Calvados, Jacques-Pierre Amette tự hào với gốc rễ Normandice của mình trong rất nhiều tiểu thuyết, như cuốn Tuổi trẻ trong một thành phố Normandie. Là một độc giả mê thích Bermanos, Dostoievski, Stendhal và cả Proust, ông đã làm nghề dạy văn trước khi trở thành cây viết phê bình văn học cho tờ Ouest-France năm 1965, rồi chuyển sang làm cho tờ Point. Tiểu thuyết đầu tay Kỳ nghỉ của Amette ra đời khi ông mới 22 tuổi. Từ đó đến nay Amette đã viết khoảng 30 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, kịch, tập thơ; đồng thời thường xuyên viết cho radio và tivi. Ông yêu nước Đức và say mê Bertolt Brecht, tác giả của vở Opéra bốn xu, Mẹ Dũng cảm… Jacques-Pierre Amette hiện đã lại bù đầu với những tình tiết lắt léo đầy chất Brecht trong cuốn Tỉnh lị, một tiểu thuyết nữa của ông. *** Tại Ðông-Berlin thời hậu chiến, đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Bertolt Brecht, nhà viết kịch lưu vong trở về, với một nữ diễn viên trẻ, nhân viên mật vụ Ðức. Brecht đã trở về, hoành tráng, với đoàn kịch của ông. Nhưng lại bị nghi ngờ, cả ý tưởng, lẫn con người, đến hành động. Để nắm chắc, giám sát ông ta không rời nửa bước, viên mật vụ Hans Trow đã dùng đến thân thể của Maria Eich, một cô đào trẻ, bí ẩn và giỏi diễn. Vậy là nàng đã trở thành người tình của Brecht. Bức chân dung lôi cuốn về hai con người bị kìm hãm trong bối cảnh nghẹt thở của chiến tranh lạnh.     “Khi tiểu thuyết đùa với lịch sử, khi hư cấu trộn lẫn với hiện thực, để có thể làm những gì mình muốn. Ðó là trường hợp của Người tình của Brecht, cuốn sách mô tả cuộc sống trong cái nước Ðức quỳ gối, bị tàn phá, hư hại… Chẳng quan trọng gì việc câu chuyện có thực hay bịa, bởi nó đã được viết ra. Và viết một cách tuyệt diệu, không ép-phê, không thêm thắt không day dứt, cũng chẳng thống thiết. Chỉ với đúng các từ và các từ đúng, theo kiểu của Brecht. Vậy là cái thế giới lịch sử, nghệ thuật đã sống dạy dưới ngòi bút chạm khắc của Jacques-Pierre Amette. Một kỹ nghệ tiểu thuyết, được đền bù bằng giải Goncourt.”   Céline Damon, Amazon.fr     “Ban giám khảo giải Goncourt đã vội vã công bố giải trước hai tuần vì họ không muốn mạo hiểm trong dịp kỷ niệm 100 năm một trong những giải thưởng Văn học lâu đời và danh giá nhất thế giới này, bởi cuốn Người tình của Brecht rất dễ bị các giải đối thủ khác lựa chọn.”   The Guardian     “Tác phẩm chín muồi của một tác giả danh tiếng đã viết cả thảy khoảng một trăm tiểu thuyết, truyện và kịch; Người tình của Brecht của Jacques-Pierre Amette thật sự tuyệt vời như mong muốn của Edmond de Goncourt, “một tập tưởng tượng bằng văn xuôi”.”   Radio France   Mời các bạn đón đọc Người Tình Của Brecht của tác giả Jacques Pierre Amette.
Như Một Cuốn Tiểu Thuyết
Như một cuốn tiểu thuyết hẳn nhiên không phải là tiểu thuyết, mà lại được viết như tiểu thuyết, được đọc như tiểu thuyết... Đó là những quan sát, ghi chép về những thắc mắc, nghi ngờ, truy vấn, bàn bạc, tranh cãi, thậm chí giận hờn, trách móc giữa ba nhóm nhân vật (đôi khi có tên, thường thì không có tên): người lớn (cha mẹ, thầy giáo, người thân), trẻ em (con cái, học trò) và sách (danh từ chung, số nhiều, đại diện cho văn chương)! Nhiều tình tiết ly kỳ, đầy kịch tính, phô bày những nghịch lý hiển nhiên mà đôi khi giáo dục học phải thốt nên lời bất lực: phải đọc - trẻ mở trang sách ra và... ngủ! Cấm đọc - trẻ trốn vào chăn và... nuốt gọn quyển sách! Khi chưa biết đọc, đứa trẻ là độc giả trung thành mỗi đêm với những chuyện kể từ trang sách. Đến khi đọc thông viết thạo, chàng trai cô gái ấy đếm từng trang sách như một cực hình! Ai đã biến sách thành bức tường đá và dìm niềm vui đọc sách vào vực xoáy thẳm sâu? Cha mẹ, thầy cô, khoa sư phạm, hay truyền hình và đủ thứ món giải trí khác thời nay? Đầy những phát hiện thú vị, hấp dẫn, nhiều ẩn dụ, so sánh bất ngờ, độc đáo, cuốn “tiểu thuyết bốn chương, 67 hồi” này là một giáo trình tâm lý học dẫn dắt chúng ta cùng đi khám phá và tìm ra bí quyết nuôi dưỡng niềm say mê, sự hứng thú với văn chương trong suốt cuộc đời.   DUYÊN TRƯỜNG *** Daniel Pennac tên thật là Daniel Pennacchioni, sinh năm 1944 tại Casablanca (Ma Rốc). Thuở nhỏ, ông đã theo chân bố mẹ đi khắp nơi trên thế giới: châu Âu, châu Á, châu Phi... Sau khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Nice (Pháp), ông chỉ dạy học và thời gian còn lại ông dành cho công việc viết văn. Nhờ những trải nghiệm sống phong phú có được qua những chuyến phiêu lưu thuở nhỏ đã góp phần không nhỏ tạo nên sự đa dạng về thể loại trong sáng tác của nhà nhà văn: tiểu luận, tiểu thuyết trinh thám, sách cho thiếu nhi, truyện tranh, tự truyện... Daniel Pennac đặc biệt ghi dấu ấn trong nền văn học Pháp với những câu chuyện viết cho thiếu nhi. Giọng văn hài hước mà không kém phần sâu lắng, tình bạn giữa con người và loài vật, những khám phá vô cùng thú vị về thế giới “bốn chân” đã đem lại cho từng trang viết của ông sức hấp dẫn khó cưỡng đối với độc giả mọi lứa tuổi.   Ông là tác giả của nhiều cuốn sách được các em thiếu nhi yêu thích như: “Comme un roman” (Như một cuốn tiểu thuyết), “Au bonheur des orges”, “La Petite Marcande de prose”… “L'œil du loup” (Mắt sói) là tác phẩm nổi tiếng nhất của Daniel Pennac, được Bộ Giáo dục Pháp chỉ định là tác phẩm tham khảo chính thức trong nhà trường, được đưa vào giảng dạy trong hệ thống trường phổ thông của Pháp và được coi là một tác phẩm kinh điển của văn học thiếu nhi Pháp.    Ngoài ra, “Cabot-Caboche” (Cún bụi đời) là một trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi thành công nhất của Daniel Pennac. Cuốn sách là minh chứng hùng hồn cho những gì được gọi là tinh tế trong cảm nhận và giản dị trong văn phong của tác giả.   Năm 2007, Giải Renaudot, một trong những giải thưởng văn học cao quý nhất của Pháp đã được trao cho Daniel Pennac với tác phẩm Chagrin d'Ecole.   Một vài tác phẩm:   - Cabot-Caboche (1982)   - L'œil du loup (1984)   - Au bonheur des ogres (1985)   - La Fée Carabine (1987)   - La Petite Marchande de prose (1989)   - Comme un roman (1992)   - Merci (2004)   - Chagrin d'école (2007) *** Động từ đọc không thể chấp nhận thể sai khiến. Một số động từ khác như “yêu” “mơ ước”… cũng vậy.   Tất nhiên, thử dùng thì cũng được. “Yêu em đi!” “Mơ ước đi!” “Ðọc đi!” “Ðọc đi! đọc đi mà, chúa ơi, đọc đi nào!”.   - Vào phòng và đọc đi!   Kết quả thế nào?   Chẳng thế nào cả.   Cậu bé ngủ gục trên trang sách. Đột nhiên, khung cửa sổ trước mặt như mở ra một vùng trời mơ ước, nơi cậu bé thỏa sức bay bổng. Để trốn khỏi những trang sách. Nó ngủ nhưng mà rất tỉnh: quyển sách vẫn mở rộng trước mặt. Chỉ cần nhẹ mở cánh cửa phòng là đã thấy cậu bé ngoan ngoãn ngồi đọc sách. Ngay cả nếu như ta rón chân thật nhẹ nhàng thì nó cũng nhanh chóng tỉnh giấc.   - Thế nào, có hay không?   Cậu bé sẽ chẳng nói không, chẳng dại gì mà phạm một tội lớn. Sách là cái gì đó thiêng liêng, làm sao mà có thể không thích đọc sách cho được? Không, thằng nhóc sẽ nói rằng những đoạn miêu tả dài quá.   Quá yên tâm, chúng ta trở lại trước màn hình tivi. Có thể ý kiến của cậu bé còn tạo ra một cuộc tranh luận thú vị giữa người lớn chúng ta…   - Nó thấy các đoạn miêu tả quá dài. Tất nhiên rồi, chúng ta đang ở thế kỷ của truyền thông, của hình ảnh trong khi các nhà tiểu thuyết của thế kỷ 19 lại phải dùng ngòi bút để miêu tả mọi thứ…   - Nhưng không phải vì thế mà cho phép nó bỏ qua một nửa số trang!   …   Thôi, đừng tranh luận làm gì cho mệt óc, thằng bé lại lăn ra ngủ rồi.   ... Mời các bạn đón đọc Như Một Cuốn Tiểu Thuyếtcủa tác giả Daniel Pennac.
Những Kẻ Văn Minh
Những kẻ văn minh đạt giải thưởng Goncourt vào năm 1905, nhưng công chúng cũng như độc giả có học thức không biết gì về tác giả Claude Farrere và cuốn tiểu thuyết. "Những kẻ văn minh", đó là thực dân, những người phải mang cái gánh nặng của người da trắng mà Kipling ca tụng: Văn minh, ít nhất là của họ. Vì khí hậu của Sài Gòn và Hà Nội, vì thuốc phiện, những nhân vật chính của cuốn sách phải đối mặt với một sự từ bỏ bi quan, thậm chí còn hoài nghi, những giá trị truyền thống: đạo đức, pháp luật. Cuốn tiểu thuyết này khi mới ra đời đã rất gây tranh cãi. Đây cũng là một giải Goncourt kì lạ vì tiểu thuyết này có hình ảnh của loại sách làm người ta hư hỏng, của loại tiểu thuyết hủy hoại sự trong trắng. *** Claude Farrère, bút danh của Frédéric - Charles Bargone (1876 - 1957), là một tiểu thuyết gia người Pháp với những tác phẩm có bối cảnh ngoài nước Pháp như Istanbul, Sài Gòn và Nagasaki.   Một trong những tác phẩm của ông là Những kẻ văn minh (Les civilisés) đã đoạt giải Goncourt năm 1905. Ngày 26 tháng 3 năm 1935, ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp.   Ban đầu giống như cha mình, một đại tá bộ binh từng hoạt động tại các thuộc địa của Pháp, ông gia nhập học viện hải quân năm 1894, thăng chức trung úy vào năm 1906 và đại úy năm 1918. Vào năm 1919, ông từ chức để tập trung vào nghiệp viết văn.   Các tác phẩm của ông phần lớn không được chú ý, kể cả với độc giả Pháp. Tuy nhiên ông vẫn là một trong những tác giả lớn của nền văn học Đông Dương tại Pháp cùng với các tên tuổi như Malraux, Duras, Dorgelès, Viollis..  *** Trong khoảnh sân trồng những cây phượng lớn rùm ròa tỏa bóng, quãng giữa ngôi nhà và cổng của chấn song, hai anh phu Bắc Kỳ đưa xe ra, một chiếc xe kéo rất lịch sự, sơn then và ánh bạc. Họ xếp hàng dọc giữa hai càng xe đứng đợi ông chủ, lặng phắc như hai bức tượng quấn lụa. Xe và người làm thành một cỗ nom đỏm dáng, đẹp như tranh vẽ là đằng khác giữa Sài Gòn, nơi chỉ dân thường mới còn đi xe kéo. Nhưng bác sĩ Raymond Mévil vốn tính khá độc đáo, vả chăng anh ta có một chiếc xe ngựa mui trần và nhiều ngựa chạy hay. Thế nên mọi người bỏ qua cho anh ta cái thói ngông đi xe kéo và vi phạm mốt thời thượng – một cách xa hoa.   Lúc ấy bốn giờ chiều, giờ tỉnh giấc ngủ trưa. Bác sĩ không tiếp khách muộn hơn giờ này – cách thức kín đáo, ở cái xứ mà đường phố vắng vẻ cho đến lúc mặt trời lặn. Hôm ấy Raymond Mévil đi ra sớm, không phải cho cuộc đi dạo thường lệ trước bữa ăn tối, mà cho một vài thăm viếng không hẳn trong nghề nghiệp mà vả chăng anh ta cũng làm khá thưa thớt, vì chiến thuật của anh ta là ít khi xuất hiện.   Một cô “người ở”[1] búi tóc trơn mở cửa, ném vài câu bông đùa với hai anh phu xe, bất thình lình đứng lặng phắc, vẻ gái nhà lành: ông chủ vừa xuất hiện. Anh ta bước xuống bậc thềm, bước chân trẻ nhưng đã chậm, đưa ngón tay vuốt bầu vú cô gái qua lần áo lụa đen, và bước lên xe. Chiếc xe nhỏ bắt đầu lao nhanh, đám phu xe chạy vun vút để gió mạnh thổi mát mặt người phương Tây. Ở các cửa sổ, qua những khe cánh cửa chớp, những ánh mắt phụ nữ ngắm nhìn các bộ chế phục phu xe trắng toát viền vải điều, ngắm nhìn vẻ duyên dáng của vị khách, nom còn quyến rũ hơn cả cái vẻ xa hoa bao bọc anh ta. Bác sĩ Mévil được phụ nữ yêu, trước hết vì anh ta yêu thích phụ nữ, và chỉ yêu thích họ, thứ đến vì anh ta đẹp, một vẻ đẹp khiến tất cả họ đều bối rối, một vẻ đẹp khêu gợi ẻo lả tới mức sỗ sàng. Anh ta trắng trẻo, tóc màu hung, với cặp mắt xanh biếc quá dài, và cái miệng bé đỏ mọng. Mặc dù đã ngoài ba mươi, anh có vẻ thanh niên, và dáng người béo tốt như người ta hình dung anh. Bộ râu mép dài màu sáng, nom anh như một người Gaulois suy tàn, mà các thế kỷ đã làm cho tinh tế và thuần thục.   Cái giống nhau chỉ là tình cờ, Mévil khoe mình là dân khá văn minh mà mọi thứ máu của mọi thứ nguồn gốc đều trộn lẫn vào nhau trong huyết quản.   Chiếc xe tay chạy lon ton giữa các bóng cây ven đường, né tránh mặt trời xiên khoai vẫn hừng hực. Người chủ dùng đầu ba toong chỉ đường cho phu xe. Để dừng lại, anh ta thúc gậy vào vai họ, bảo: “Thôi!”. Xe đi vào một khu vườn có biệt thự. Dọc hàng rào, nhiều chiếc xe đang đợi, với những người phu giữ ngựa An Nam thấp tè nắm chặt hàm thiếc ngựa.   - À, ừ, Mévil nghĩ, hôm nay là ngày con bé tiếp khách, thế mà mình không nhớ ra.   Anh ta ngần ngừ giây lát rồi nhún vai, tìm trong túi chiếc ví đựng danh thiếp soát lại trong ấy – có mấy tờ bạc Đông Dương. Tiếp đó, Raymond Mévil quẳng chiếc ba toong cho một anh bồi vừa chạy ra, và đi vào nhà.   Ngôi nhà cũ kỹ rộng thênh, có dáng trăm phần trăm thuộc địa.   Hai phòng đợi dẫn tới chiếc phòng khách được xếp dồn ở cái chái tốt nhất, kéo dài bằng cả một hàng hiên rủ những bức mành mành tranh tối tranh sáng. Mọi cái đều to lớn thênh thang, cao như nhà thờ; các bức vách ngăn không chạm được tới trần, hơi nóng quẩn dưới rầm. Phía bên dưới không khí mát mẻ, các đồ đạc đều bằng gỗ mun chạm xà cừ, phảng phất tỏa một mùi bản xứ.   Trong tiền sảnh, Raymond Mévil vấp phải một người nào đi ra, một nhân vật trịnh trọng mặt mày nhẵn nhụi, da màu vàng chanh, cử chỉ nặng nề - ông chủ nhà này, Ariette, trạng sư ở Tòa Án. Hai người bắt tay nhau rất thân mật; gương mặt buồn tẻ của ông trạng sư thậm chí còn vặn vẹo thành một nụ cười niềm nở chắc hẳn không thường dùng để chào đón tất cả mọi vị khách.   - Nhà tôi có nhà, ông nói, và rất cảm ơn ông có nhã ý đến thăm. Đã khá lâu rồi tôi không có hân hạnh gặp ông tại nhà này.   - Xin ông bạn thân mến tin rằng chỉ là do tính tôi lười biếng, và ngôi nhà của ông đối với tôi là thân thiết nhất ở Sài Gòn.   Viên trạng sư tỏ ý hân hoan, dường như có vẻ cất được mối lo lắng.   - Tạm biệt ông nhé, ông bác sĩ. Ông biết là Tòa án đang gọi tôi, như mọi khi.   - Vụ kiện thú vị chứ?   - Ly dị thôi, dĩ nhiên. Chúng ta sống một thời điểm hết sức tồi tệ.   Ông ta bỏ đi, cặp ôm trong tay, bước chân khô khốc như người máy, dáng vẻ khắc khổ và nghiêm nghị. Raymond Mévil quay nhìn sau lưng ông ta, nhăn mặt cười mỉm.   Trong phòng khách, tám hoặc mười người phụ nữ đang ba hoa trò chuyện, vẻ vừa diêm dúa vừa chểnh mảng trong những chiếc áo dài kiểu Sài Gòn nom như những áo choàng sang trọng. Từ ngưỡng cửa, Mévil nhìn nhanh tất cả khắp lượt, rồi ung dung bước vào giữa đám để chào trước hết bà chủ nhà, một bà tóc nâu duyên dáng mắt trinh khiết, bà ta chìa tay cho anh ta hôn.   - Xin chào vị Đại học Y. Ngọn gió lành nào đưa ông đến đây vậy?   - Hôm nay, - người thầy thuốc đáp, - đơn giản là Đại học Y tới tỏ lòng kính trọng dưới chân đoàn Luật sư.   Anh ta cúi mình trước từng bà khách, nói những lời tình tứ bạo phổi, rồi ngồi xuống. Anh là trung tâm mọi ánh mắt nhìn. Đám phụ nữ tỏ ra ưa thích anh, và cái danh tiếng Don Juan[2] của anh thế là được xác lập.   Anh không hề bối rối và gẫu chuyện. Anh không thiếu dí dỏm và biết cách chứng tỏ là người được phụ nữ ưa thích. Vốn bản tính phù phiếm, anh chú tâm để tỏ ra càng phù phiếm hơn nữa, và sử dụng cái thói phù phiếm ấy như một vũ khí trong các trò quyến rũ tình ái; người ta thông cảm với anh về thói lông bông hám gái và dễ dàng thổ lộ tâm tình với anh mà không hề đắn đo tự ái.   - À này, bà Ariette chợt nói, tôi đang định cho người sang mời ông đấy, ông thầy lang ạ.   - Bà ốm hả? ... Mời các bạn đón đọc Những Kẻ Văn Minh của tác giả Claude Farrère.
Nỗi Niềm
Chuyện xảy ra trong một tầng lớp mà ta quen gọi là tri thức. Bốn nữ nhân vật chính gồm một nhà văn, hai giáo sư giảng dạy ở một trường đại học nổi tiếng của nước Mỹ và một minh tinh màn bạc vang bóng một thời. Hẳn chúng ta đã quen nhìn tầng lớp của những con người này bằng con mắt ngưỡng mộ – họ là những con người khả kính, có trình độ uyên thâm, có học vấn sâu rộng và làm việc nghiêm túc với những quy tắc bất di bất dịch của giới…trí thức. Nhưng trong tác phẩm Nỗi Niềm, Paule Constant đã lội ngược dòng, bà đi sâu tìm hiểu vạch vòi đến tận chân tơ kẽ tóc, qua đó, thực chất đã được phơi bày. Thì ra trong tầng lớp cấp tiến này của xã hội cũng tồn tại muôn vàn những thứ cỏn con mà ta không dám gọi là tệ nạn, hay ganh ghét, hay đố kỵ, hay hiềm khích… vì sợ làm vấy bẩn những con người khả kính ấy. Chỉ giữa họ với nhau thôi, giữa bốn nhân vật chính trong truyện, ngoài việc cùng một tầng lớp « trí thức », họ còn là bạn vong liên, còn là những kẻ ngưỡng mộ nhau… Vậy mà chỉ trong có vài ngày chung sống dưới cùng một mái nhà, thì giữa họ đã nảy sinh bao mấu thuẫn, tư tưởng trái nghịch nhau. Lòng ghen ghét đố kỵ, chứng học đòi làm sang, chuyện đạo văn trong giới văn chương, rồi dè bửu lẫn nhau…đã phơi trần ra hết. Paule Constant đã rất thành công vạch trần bộ mặt thật ấy, và tác phẩm đã xứng đáng nhận giải thưởng Goncourt năm 1998. Và do Hiệu Constant đã giới thiệu và chuyển thể sang tiếng Việt, do Nhà XB Hội nhà văn cùng với sự giúp đỡ của Trung tâm văn hoá Việt – Pháp thuộc ĐSQ Pháp tại HN ấn hành đầu năm 2005. *** Với những bạn đọc quan tâm nhiều tới sách dịch, đặc biệt là văn học Pháp đương đại, hẳn đã rất quen thuộc với các tác phẩm như: Nỗi niềm của Paule Constant - tác phẩm được giải Goncourt năm 1998 (NXB Hội Nhà văn), Rừng thẳm của Julien Gracq, tác giả đã từ chối giải Goncourt năm 1951 (NXB Đà Nẵng), Tổng thống François Mitterrand là như thế của Jacques Attali (NXB Công an Nhân dân), Bi kịch của Tổng thống Jacques Chirac của Frank-Olivier Giesbert (NXB Công an Nhân dân), Những điều chưa biết về cố đệ nhất phu nhân Hoa kỳ Jackie Kennedy (NXB Công an Nhân dân), Bóng đen của vầng ánh dương của Christelle Maurin (NXB Công an nhân dân) - tác phẩm được giải thưởng Tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của Quai des Orfèvres 2006, Người đàn bà thứ bảy của F. Molay (NXB Đà Nẵng) tác phẩm được giải thưởng Tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của Quai des Orfèvres 2007, Người trả thù cho các hầm mộ (NXB Đà Nẵng) - Tác phẩm được giải thưởng Tiểu thuyết trinh thám hay nhất trong năm của Quai des Orfèvres 2008, Bạn tôi tình tôi của Marc Levy (NXB Đà Nẵng),… Vâng, những đầu sách được tôi nhắc tới đều do chị Hiệu dịch và giới thiệu với bạn đọc Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi muốn đề cập tới Lê Thị Hiệu với tư cách một tác giả sáng tác, sống và làm việc ở hải ngoại mà chất văn vẫn mang đậm nguồn văn hóa Việt chảy trong cơ thể, qua mỗi câu văn, lời kể. Trong các tác phẩm dịch, dịch giả không chỉ dùng ngôn ngữ của mình, còn phải dùng cách kể, kết cấu nghệ thuật của tác phẩm dịch. Nhưng ở tác phẩm viết, tác giả có thể “tung hoành trong vùng đất của mình”, thỏa sức sáng tạo, thể hiện, và bộc lộ mình. Ở trong tác phẩm đầu tay này cũng vậy, bằng bút lực cuốn hút, hấp dẫn, Lê Thị Hiệu cố gắng thể hiện mình qua lời kể và lời tâm tình tự sự. Tác phẩm “Côn trùng” chính là những trăn trở, suy tư, khát vọng yêu và được yêu. “Côn trùng” dùng lối viết độc đáo về nhân tình cuộc sống và những mảng đời thực ngoài xã hội. Truyện được giãi bày một cách xa xót và nuối tiếc, một cách dũng cảm và day dứt về một mối tình không bao giờ tàn lụi. Vẻ đẹp của mối tình không bao giờ được xã hội công nhận này vừa như ánh sáng lung linh soi rọi, vừa như loài côn trùng rỉ rả gặm nhấm; vừa làm hồi sinh cõi sống tinh thần, vừa làm héo úa vẻ đẹp của hạnh phúc. Tiểu thuyết này là câu chuyện tình yêu giữa “tôi” và N.V. “Tôi”, một người con gái sinh ra trong chiến tranh và lớn lên trong thời bình, nuôi dưỡng tình yêu thầm lặng, nhiều khi nồng cháy với một người con trai đã kinh qua trong lửa đạn, dạn dày nơi trận mạc  là một chỗ dựa, một nơi tìm về của “tôi”. Và bên cạnh đó, còn một tình yêu khác, không rõ ràng hiện hữu, nhưng thực sự tồn tại là tình yêu, nỗi khắc khoải của một người con xa xứ luôn hướng về đất mẹ, dù nhiều khi chỉ trong tâm thức. Tình yêu của hai con người thuộc hai thế hệ như một định mệnh. Lần gặp gỡ đầu chỉ thoảng qua khi N.V giúp đỡ H (đó là tên của nhân vật tôi) lắp lại xích cho chiếc xe đạp của cô. Cuộc gặp này bình thường như bao cuộc gặp gỡ khác của những con người hàng ngày đối diện nhau. Sau lần đó, phải ba năm sau hai người mới gặp lại. Họ dễ dàng nhận ra nhau giữa biển người, những cô sinh viên hâm mộ vây quanh N.V. Lần gặp này cũng đi qua như một kỷ niệm trong đời, để đến lần thứ ba, hai người gặp nhau thì H không còn là sinh viên năm thứ ba nữa mà đã là một cử nhân. Quan hệ của họ lúc này chỉ như những người bạn xa lâu ngày nay gặp lại. Nào ai có thể rõ trong lòng họ đang nghĩ tới những gì!? Tới lần gặp kế tiếp, cách lần gặp trước tới mấy năm liền, khi mà H cũng đã có gia đình. Hai người đến với nhau, qua nụ hôn thoảng chốc mà H thấy lâu như cả thế kỷ, để rồi khi ra đi, bay về phương trời Tây, “tôi” còn “để lại một trời tình cảm vương vấn”. Tình yêu trong lòng H, cái mối tình cảm đơn phương đeo đẳng bao nhiêu năm giờ bùng cháy thiêu đốt tâm can cô. Sau nhiều lần gặp gỡ đứt đoạn như vậy, hai con người đã tìm đến nhau, để rồi bao ý nghĩ, bao luân thường đạo lý cứ trôi trượt đi. Từ lúc đó trở đi, tình yêu của họ không thể bị ngăn cản bởi không gian nửa vòng trái đất, thời gian dặc dài của năm tháng, thậm chí cả cái chết cũng không chia lìa được tình yêu của họ. Bởi N.V vẫn luôn tồn tại, trong mỗi hơi thở, trong mỗi bước đi, trong mỗi kỷ niệm đọng trong không gian thiên nhiên cây cỏ. Chắc hẳn, N.V trước khi nhắm mắt đã phóng ánh mắt ra xa, về phía phương trời Tây xa xôi – nơi có người phụ nữ anh yêu, và tự nhủ rằng nàng là một phần của cuộc đời ta, là thiên thần, là cả vũ trụ lúc rạng rỡ, lúc đam mê, ngay cả khi biết mình sắp lìa đời vì bệnh tật (Không biết rằng lúc đó, những hình ảnh ngay trước mắt là vợ anh, là con anh có in dấu được vào đáy mắt anh không?). Khi mất đi rồi, anh vẫn muốn H đừng khóc, hãy coi như anh đi có chút việc sang phía bên kia cuộc đời, và có thể gọi anh khi muốn, tâm sự với anh khi cần. N.V mất rồi, tình yêu của cô với anh vẫn không suy suyển. Những dấu hiệu của chứng trầm cảm, những bài nhật ký, những việc H làm để thoát ra, vươn tới cuộc đời thực chỉ càng chứng tỏ tình yêu của cô với N.V. Tình yêu của họ nồng cháy, thăng hoa trong mỗi cảm xúc, trong mỗi lúc được gần nhau, dù N.V đã có gia đình và vẫn luôn yêu quý trân trọng gia đình nhỏ bé đó. Và cả H nữa, H yêu N.V bằng cả tấm lòng, dù bao khó khăn cách trở trong cuộc đời, bao gồm cả trách nhiệm với gia đình, hay bất cứ vì một lý do gì khác, cô vẫn yêu N.V cháy lòng. Nhiều người sẽ nghĩ rằng, cuốn sách này không trọn vẹn vì kết cuộc 2 người yêu nhau không đến được với nhau, theo tôi, nếu đến được với nhau, liệu họ có hạnh phúc không hay tình yêu tôn thờ cao đẹp của H lại bị tan vỡ như “giấc mộng yêu đương” của cô sinh viên mắc nghiện mà N.V có lần kể cho H nghe. Cuối cùng, N.V và H không thể đến bên nhau nhưng lại càng không thể rời bỏ nhau. Đến tận khi, N.V vĩnh viễn ra đi, H mới nhận biết rằng mình yêu anh biết bao. Nước mắt cô rơi bao lần trên trang nhật ký, tâm tình cô trút vào bác sĩ tâm lý. Tất cả những điều đó có thể ích gì nữa khi N.V đã về với cuộc đời khác. Những việc làm lúc đó, chắc chỉ có thể cứu vãn mình H với cuộc sống thực đời thường mà thôi. Bằng lối văn phong mới mẻ của mình, tác giả đã cuốn hút người đọc ngay từ những dòng chữ đầu tiên, để rồi cứ bị lời văn cuốn đi mãi. Tất cả lời kể chuyện, tâm tình giãi bày trong đoạn văn dài, với những sự kiện, chi tiết, không chỉ liên quan đến N.V mà còn nhiều những sự lý thú trong cuộc sống trên khắp hành tinh này. Cách kể chuyện của Lê Thị Hiệu có thể đưa ta tới nhiều vùng đất, không chỉ là những miền đất quê hương như Hòa Bình, nơi có bà mẹ già sống neo đơn mà nhất định không chịu về quê hương bản quán, muốn ở lại vùng đất nơi in dấu những hình ảnh, kỷ niệm của con mình; Đó là vùng đất Huế với sự tự hào của Việt Nam trước thế giới - di sản phi vật thể: Nhã nhạc cung đình; Đó là bản làng Ve, nơi cứu chữa, chở che, nuôi dưỡng những con người vào sinh ra tử hiến mình cho lý tưởng cao đẹp. Còn nhiều vùng đất lạ trên khắp thế giới. Vùng đất với cuộc sống như trong một nghìn lẻ một đêm, những giá trị văn hóa Hồi giáo tồn tại, những sự kiện kỳ bí tại vùng đất này. Hay có thể đó là những vẻ đẹp của nước Pháp cổ kính… Lê Thị Hiệu có lối văn thật lạ lùng, nhưng cũng thật hấp dẫn. Cả câu chuyện chỉ là tâm sự dài, không bị ngắt quãng bởi bất cứ điều gì. Câu chuyện cứ đều đều diễn ra, các sự kiện đan xen, gối lên nhau nối tiếp, lúc rõ ràng, lúc mờ mờ ảo ảo vô thực. Thực ra, nếu không chịu làm quen với một lối viết văn mới lạ như vậy, bạn đọc thật khó tiếp cận và hiểu câu chuyện. Lối văn của chị sống động như một con cá đang bơi, bên trong là một khung xương vững chãi, nơi xương dăm, xương lồng ngực nối kết với xương cột sống - là tình yêu của H với N.V. Với kiểu văn như vậy, nếu ta không tập trung chọn lọc sẽ thấy thật lúng túng khi tiếp cận, thấy chúng thật lủng củng xa lạ. Nhưng khi gắn kết toàn bộ những chi tiết đó thì câu chuyện mới hoàn thiện, cuốn hút người đọc. Bạn đọc trẻ giờ đây, rất nhiều người dễ dàng chấp nhận và cho là hay những câu chuyện tình yêu nhàn nhạt, hoặc những tình yêu với xung đột mãnh liệt, hay thích tìm kiếm, chấp nhận những câu chuyện như cổ tích. Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận những tác phẩm như nó vốn có, là cuộc sống đời thường. Tình yêu trong tác phẩm là một tình yêu có thể hiện diện trong cuộc sống. Những nhân vật như H, N.V, B và H.H (con gái của H), C (chồng H), nhà văn TDA, nếu ai quen Lê Thị Hiệu sẽ dễ dàng luận ra những cái tên đó trong cuộc đời. Tuy nhiên, cách làm như vậy cũng không cần thiết, bởi văn chương chỉ phản ảnh một phần hiện thực qua lăng kính chủ quan của nhà văn mà thôi. H vẫn là H, và N.V vẫn là N.V với tình yêu nồng cháy, luôn bên nhau ngay khi một người chỉ còn là ký ức. T.V (nguồn: TCSH số 239 - 01 - 2009)   ***   Paule Constant sinh năm 1944 tại xứ Gan, Pyrénées-Anlantiques.   Bà tốt nghiệp trường Đại học Paris-Sorbonne với văn bằng Tiến sĩ.     Giải thưởng:   Năm 1988, bà đoạt giải Goncourt cho tác phẩm Confidence pour confidence (Nỗi niềm).   Năm 1989, bà đoạt giải thưởng lớn cho tiểu thuyết Académie française (Học viện Pháp).     Những tác phẩm chính:   Ouregano, 1980, NXB Gallimard   Propriété privée, 1981, NXB Gallimard   Balta, 1983, NXB Gallimard   Un monde à l'usage des demoiselles, 1987, NXB Gallimard   White Spirit, 1989, NXB Gallimard   Le Grand Ghâpal, 1991, NXB Gallimard - Prix Jackie Bouquin   La Fille du Gobernator, 1994, NXB Gallimard   Confidence pour confidence, 1998, NXB Gallimard   Sucre et secret, 2003, NXB Gallimard   La bête à chagrin: roman, 2007, NXB Gallimard   Mời các bạn đón đọc Nỗi Niềm của tác giả Paule Constant.