Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ván Cờ Người

Mỗi quốc gia đều có những trò chơi thể thao đặc trưng của riêng mình. Có thể nói, ở nước Anh là quần vợt, ở Mỹ là bóng chày, ở Nhật Bản là kiếm thuật. Còn ở Trung Quốc thì sao? ở Trung Quốc đó chính là trò mạt chược. HỒ THÍCH *** Trong Ván cờ người nổi lên cuộc sống của ba nhân vật: Hồ Bằng, Trình Văn Hòa và Dương Oánh Oánh. Hồ Bằng là một người chơi bài rất giỏi nhưng chưa bao giờ anh ta chơi lớn. Văn Hòa làm việc tại ngân hàng, vì mải mê chơi mạt chược mà bỏ vợ là Dương Oánh Oánh ở nhà buồn chán. Dương Oánh Oánh đã mời Hồ Bằng đến nhà chơi mạt chược để giải sầu. Kể từ đó, cuộc sống gia đình cũng như con đường công danh của các nhân vật này có sự biến động. Trình Văn Hòa phải vào tù vì tội tham ô, nhận hối lộ dẫn đến sự chấn động ở chốn quan trường. Kết cục của Văn Hòa cũng lý giải rằng, cuộc sống là một vòng tròn luôn luôn biển đổi, mỗi người đều có vận mệnh riêng. Và sự tính toán, xoay sở của Hồ Bằng cũng không thể thoát ra khỏi cái vòng tròn ấy.   1. “Ván cờ người” là tác phẩm xứng đáng có trên tủ sách của nhà bạn. Nó không phải là một bông hoa nở lúc bình minh nhưng lại có một sức sống mãnh liệt. “Bốn người ngồi cùng một bàn chơi”, trong cuộc chơi đỏ đen được mất này, người chơi trước sau cũng phải dừng lại. Nhưng cũng có những người quá ham chơi không biết bao giờ mới hạ màn. - Trương Kháng Kháng (Tác giả nổi tiếng P.Chủ tịch Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc) 2. Chốn quan trường đầy sóng gió; sự lừa gạt, dối trá ở chốn thương trường; sự bằng mặt nhưng không bằng lòng trong chốn tình trường đã được “Ván cờ người” đề cập đến một cách rõ ràng. Qua đó, chúng ta hiểu được thâm ý sâu xa về mối liên hệ giữa con người với việc chơi bài cũng như quan hệ nhân sinh giữa người với người. - A Thành (Tác giả nổi tiếng) 3. Trong“Ván cờ người”, tác giả đã xây dựng nên một cốt truyện khôi hài, dí dỏm, khắc họa nhân vật rõ nét. Con đường công danh thăng trầm, tình cảm của con người trên bàn mạt chược được phóng đại. Tác phẩm đã vẽ nên một xã hội thu nhỏ với nhiều loại người trở thành một bộ “đánh bạc” đặc sắc. - Vương Cán (Chủ biên Trung Hoa văn học tuyển san - Nhà phê bình văn học TQ) 4. Mạt chược là một trò chơi không phân biệt nam, nữ, già, trẻ. Người chơi thường là những người giàu sang hay quan chức và cũng có không ít nhà lãnh đạo cấp cao. Thông qua trò mạt chược, Vương Thụ Hưng đã xây dựng nên một câu chuyện đầy cơ trí, mưu mô và thủ đoạn. Không những thế, trong “Ván cờ người” còn có những tình cảm bùng cháy mãnh liệt. - Thạch Chung Sơn (Tác giả nổi tiếng) 5. “Ván cờ người” có thể chưa cung cấp đầy đủ cho chúng ta những kiến thức về cách chơi mạt chược nhưng đã miêu tả tỉ mỉ các cuộc tái ngộ của những cao thủ chơi trò này. Điều đó mang lại cho người đọc nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Qua đó, tái hiện một cách khá chân thực về đời sống sinh hoạt của nhân dân và hiện thực xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. - Dương Thiếu Hành (Tác giả nổi tiếng - Phó Chủ tịch Liên văn tỉnh Phúc Kiến)   Vương Thụ Hưng quê ở tỉnh Giang Tô, là nhà văn, hội viên Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có thể loại truyện dài và tiểu thuyết. Cốt truyện trong các tác phẩm của ông rất phong phú, cách kể chuyện khôi hài, dí dỏm, khắc họa nhân vật rõ nét. Hiện tại, ông đang sống ở Bắc Kinh và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Xuất bản xã. *** PHẦN MỘT: ĐÔNG Hồ Bằng phấn khởi tiếp lời Mạnh Xuyên Thanh, anh nói quan hệ giữa người với người ở Trung Quốc giống như chơi mạt chược, quá nhiều pha người nhìn người, người trông người, vợ chồng với nhau cũng không ngoại lệ. Mạnh Xuyên Thanh phá lên cười, hỏi Hồ Bằng: “Có phải anh bị vợ quản quá chặt?”. Hồ Bằng bảo không phải, mà là đáng thương cho một số người suốt ngày bị vợ nhìn ngó, những người này không còn được tự do, nên đi giày vò người khác, vậy là có quan bất nhân. I. XÚC XẮC 1 Trong cơ quan, mọi người ít nhìn nhau bằng con mắt xung khắc, mâu thuẫn, nhưng không ai ngờ có nhiều người phản đối ông Mâu, Chánh văn phòng như vậy. Là cấp dưới của ông Mâu, Hồ Bằng cũng không còn nói mập mờ như trước, anh thẳng thắn cảnh cáo ông sẽ gặp rắc rối với cấp trên: đừng làm mất lòng họ, họ đều là bạn mạt chược với nhau. Ông chỉ một mình, họ cả bọn. Công tác thì không nghiêm túc, chơi mạt chược lại rất khí thế. Ông Mâu lòng không phục, miệng cũng muốn nói vài câu, nhưng cố nhịn, chỉ lắc đầu. Cán bộ như ông Mâu chỉ dựa vào thực lực để leo lên, có thế mạnh tự điều trị vết thương, tự nâng cao năng lực. Đã được một bài học, ông cất cái máy kiểm tra thẻ ra vào để ở phòng thường trực, không đuổi đám đang vui vẻ chơi mạt chược trong phòng lưu trữ, đám người rỗi việc bình luận chuyện bài bạc, cũng không dám lén nói xấu họ đi muộn về sớm, bỏ bê công việc. Không những vậy, ông còn đón ý những người chơi mạt chược, cố gắng để họ biết thật ra ông cũng thích mạt chược, chẳng qua cách thích không giống nhau mà thôi. Nhưng trước cấp dưới Hồ Bằng, ông Mâu vẫn làm ra vẻ cứng rắn, quyết không thỏa hiệp. “Tôi đâu vì trượt có mỗi một lần bình bầu dân chủ mà phải từ bỏ nguyên tắc, nhập hội với họ. Tôi chỉ ngồi bàn về đạo lý, bàn về mạt chược mà không đánh mạt chược”. Bình thường ông Mâu chỉ đọc những sách linh tinh, có hiểu biết về mạt chược. Ông ra sức cổ vũ cho văn hoá mạt chược, để mọi người hiểu mạt chược là tập đại thành của nhiều trò chơi thời cổ đại, có đôi có cặp, là sản phẩm kết hợp giữa xúc xắc, bài ngà Tuyên Hòa và bài giấy mã điêu, là văn hóa truyền thống, không phải là thứ rác rưởi, cặn bã. Sự thay đổi biểu hiện từ nhận thức tư tưởng đến hành động này của ông khiến ông trở nên thân cận với một số người, họ đều nói ông Mâu đã thay đổi. Có người còn tỏ ra nịnh bợ và tán dương ông, bảo hiểu biết về mạt chược của ông thật uyên thâm, có thể về Đài truyền hình trung ương để mở diễn đàn mạt chược, chắc chắn sẽ có rất nhiều người xem. Nên nhớ, ở Trung Quốc có biết bao nhiêu người chơi mạt chược. Cậu Cư trong đám lái xe được ông Mâu để tâm chỉ bảo, đã kiếm được tiền trên bàn mạt chược một cách dễ dàng. Tối hôm ấy cậu Cư thua đến đồng tiền cuối cùng, trong lúc nôn nóng đã văng tục, hỏi những người cùng chơi ai đã phát minh ra mạt chược? Không ai biết. Cư lên giọng khinh miệt: “Là do Trần Ngư Môn, người Dũng Thượng, thời Hàm Phong, nhà Thanh, phát minh”. Tiếp theo, cậu ta như tiêm nhiễm tiên khí của Trần Ngư Môn, bắt được quân bài đẹp, rất đắc ý, nói: “Dũng Thượng ở đâu, có ai biết không?” - Không ai biết. Cậu đẩy quân bài ù ra giữa bàn: “Dũng Thượng là Ninh Ba bây giờ. Đánh mạt chược mà không biết tổ tông mạt chược, thật kém tài”. Người ngồi quanh bàn cùng chơi ai cũng tức. Cậu ta ù không lớn, thế mà lúc tính sổ mặt ai cũng tái xanh tái xám. Từ đấy về sau Cư chơi bài hễ nhắc đến Trần Ngư Môn lại ù mấy ván lớn, lần nào thử cũng đúng như vậy. Trong hội chơi có người học cậu ta nhưng không linh nghiệm. Ông Mâu chỉ nói một câu làm mọi người nhận ra: “Mỗi người một khác, không ai giống ai”. Câu nói rất có lý. Tô Sách của phòng tài vụ nói, mỗi lần cô ta bắt bài đều lẩm bẩm: “Mã điêu”, vậy là bắt được bài đẹp. Ông Mâu cười thầm: “Mã điêu, mã điêu là bài mã điêu, hình thù của nó dài dài. Đấy là “thái bổ” của cô”. Mọi người cười ồ, vậy là đặt cho Tô Sách biệt hiệu “thái bổ”, cô ta không hiểu ra sao, nhờ ông Mâu giải thích “thái bổ” là gì? Ông Mâu trả lời không rõ ràng: “Thái bổ là lấy dài bù ngắn, gia đình hài hòa”. Lâu dần, mọi người không còn hứng thú với những điển cố mạt chược mà ông Mâu cứ nói đi nói lại, là bởi ông nói lý thuyết, một khi nói sang thực tế thì coi như không ổn. Mọi người không muốn biết những điều thường thức về mạt chược mà ông Mâu nói ra, ăn trứng không cần biết trứng của con gà nào, đánh mạt chược làm thế nào để ù mới là quan trọng. Lại có người chế giễu ông Mâu không biết đánh mạt chược, không phải cùng hội, chỉ khoe khoang, khoác lác mình hiểu biết hơn người. Mọi người lại nghĩ đến Hồ Bằng, một người không đánh mạt chược nhưng tinh thông mạt chược. Lâu lắm anh ta không đến phòng lưu trữ tổng hợp. Nói một cách chính xác, từ ngày ông Mâu quản lý phòng lưu trữ Hồ Bằng không đến đấy nữa. Mọi người rất thích nói chuyện mạt chược với Hồ Bằng, có người nói anh ta là “vua mạt chược”. Tại sao lại bảo Hồ Bằng là “vua mạt chược”? Anh ta đánh được nhiều tiền không? Không. Hồ Bằng tinh thông mạt chược đến độ mê mẩn, ngẩn ngơ. Chỉ cần có người thuật lại ván bài cho Hồ Bằng nghe, anh nghe đến vòng hai là biết ngay từng nước đi của mỗi người, biết ai nắm trong tay quân nào mà không chịu ra, đang cần quân nào, định thắng thế nào. Lúc đầu mọi người cho rằng anh nói mò, về sau đúng là phải phục. Cái hôm đám cưới Tô Sách, sau cuộc vui cỗ bàn, mọi người kéo nhau đi hát hoặc chơi mạt chược. Những người đi hát nhanh chóng kết thành bè, vui vẻ kéo nhau đi; nhưng người đánh mạt chược vẫn đứng lố nhố ở cửa khách sạn. Đầu tiên những người chơi bài xếp thành hai bàn, sau đấy tìm địa điểm, tìm một nơi rộng rãi để có thể ồn ào một chút. Chị Hứa phòng nhân sự đề nghị đến nhà chị, không có nơi nào tốt hơn ở đấy, chồng chị là Tổng Giám đốc một doanh nghiệp, ở một căn biệt thự có lối đi riêng biệt. Hai bàn mạt chược được xếp đặt trong phòng khách tầng một và tầng hai nhà chị Hứa. Rất nhiều người, có người không kịp ngồi vào bàn, thừa ra. Hồ Bằng và Đổng, hai người này tỏ ra không mặn mà. Hồ Bằng bảo anh không đánh mạt chược bao giờ, Đổng cũng bảo không giỏi, thua một hào chóp mũi cũng đổ mồ hôi. Cả bọn đâu có khách khí, khiêm nhường với hai người, lập tức họ vào cuộc. Hồ Bằng và Đổng xem họ đánh được hai ván rồi đi sang phòng khách kế bên xem ti vi. Đổng nhìn Hồ Bằng, hình như cũng đang không muốn xem phim truyền hình nhạt nhẽo, nhưng anh ta lại tỏ vẻ xem rất chăm chú. Hồ Bằng uể oải ngả người ra tựa sofa, thỉnh thoảng lại giải thích với Đổng về cuộc chiến mạt chược ngoài kia. Hồ Bằng giải thích làm ảnh hưởng Đổng đang xem ti vi, anh ta hơi bực mình, đứng dậy ra ngoài xem có đúng như Hồ Bằng nói hay không, nếu không đúng sẽ bảo anh ta im miệng. Đổng đi vòng quanh bàn mạt chược, đúng như lời Hồ Bằng, ông Lý, Giám đốc sở đang thắng, trước mặt ông ta giấy bạc một trăm chồng cao. Quay lại, Đổng nói: “Bằng, tai cậu thính quá đấy, ngoài kia ai được ai thua cậu đều biết”. Hồ Bằng nói: “Đấy là tớ nghe bài, giống như người mù đánh cờ”. Đổng không tin, cho rằng Hồ Bằng uống quá chén nên ba hoa vậy thôi. Truyền hình xem cũng bằng thừa, dù sao thì cũng không còn gì vui, Đổng rủ Hồ Bằng ra ngoài kia xem họ chơi mạt chược, để xem anh ta có thể nói mò nữa không. Hồ Bằng nói: “Tớ sẽ bảo trước với cậu ai thắng, hoặc ai xuất xung, nói không đúng coi như tớ thua, họ kết thúc ván bài mà tớ chưa nói cũng coi như thua”. Đổng nói, được, ra giá cược đi nào, mỗi ván năm chục đồng nhé. Hồ Bằng lắc đầu, xưa nay tớ không chơi cược tiền, ai thua phải uống một cốc vại nước. Đổng nhìn bình nước khoáng để ở góc tường, còn già nửa bình, dù sao thì không uống một mình, anh ta vỗ ngực: “Chúng ta cược, dù sao thì uống nước tớ không sợ cậu, chưa biết ai thắng ai”. Vừa nói xong, Đổng nghe ngoài kia báo ù, anh ta ra thăm dò, kết quả là anh ta phải uống liên tục và phải chạy vào nhà vệ sinh. Những người đánh bài thấy anh ta cứ chạy đi chạy lại thật kì lạ: tay Đổng này bình thường vốn là con người đứng đắn, trong chiếu rượu cũng không uống nhiều, tại sao hôm nay lại lạ thường như vậy? Chẳng mấy chốc, Đổng không uống nổi nữa, nếu còn tiếp tục đánh cuộc với Hồ Bằng thì bụng vỡ ra mất. Anh ra bàn mạt chược tố khổ: “Tôi thua thê thảm, uống hết nửa bình nước khoáng”. Những người chơi bài muốn biết anh đánh cuộc gì, nghe anh ta nói đánh cuộc ai được thua trên chiếu bạc, không ai có thể hình dung nổi. Có người vừa ù, bảo Đổng gọi Hồ Bằng ra, hỏi anh ta xem ai ù. Hồ Bằng nói ngay: “Ra tam tố, song hưởng, xuất lưỡng gia xung”. Ai cũng thấy kì lạ, hai người cùng ù? Người ù nhìn những người cùng chơi, nghĩ bụng chắc chắn Hồ Bằng sai rồi. Một lúc sau có người cười: “Đúng vậy, tôi cũng ù, tam tố độc điêu”. Hồ Bằng nói: “Tôi không nói khoác, không ai đẩy được tàu hỏa. Tôi ngồi trong kia nghe mọi người đánh bài, biết các người ở đây đánh quân nào. Không tin, tôi nói lại cho mọi người nghe”. Hồ Bằng nói lại ai đã đánh quân nào, anh còn nói với mọi người quân bài ấy cầm trên tay bao lâu, buộc phải đánh là bởi phải nghe bài, nghe vạn tự bài thanh nhất sắc. “Trời đất ơi! Giỏi như vậy mà sao không thấy anh đánh?”. Có người hỏi Hồ Bằng. Mời các bạn đón đọc Ván Cờ Người của tác giả Vương Thụ Hưng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nạn Nhân Buổi Giao Thời - Pearl S. Buck
Pearl Buck, nữ nhà văn Mỹ, được tặng giải thưởng Nobel Văn học vì các tác phẩm mô tả cuộc sống đa diện mang tính sử thi của người dân Trung Quốc trong những biến động dữ dội đầu thế kỉ XX và vì những kiệt tác tự truyện. Bà là nhà hoạt động xã hội tích cực, được coi là một chiếc cầu nối văn hóa Đông-Tây. Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ. Mời các bạn đón đọc Nạn Nhân Buổi Giao Thời của tác giả Pearl S. Buck.
Đôi Môi Của Nước - Alberto Ruy Sanchez
Theo những đường nét thư pháp của Azizal-Ghazali, bậc thầy thư pháp của thành Modagor (nay là Essaouira, Maroc) và là tác giả của một khái luận tình yêu nay đã thất lạc có nhan đề Vòng xoáy của những cơn mơ, một người đàn ông đã hiến dâng cả đời mình cho nỗi khát khao yêu đương, làm hồi sinh thế giới huyền bí của những người Mộng du – những người được tình yêu biến đổi và chỉ có họ mới có thể mang lại hạnh phúc và khoái lạc trọn vẹn cho nhau. Chín chương sách được tạo điểm nhấn bởi chín giấc mơ trong khái luận của Aziz tạo nên một bài thơ vịnh về cơ thể người đàn bà, mang đậm chất thi ca và khiến ta chuếnh choáng. Tiếp theo Tên của khí trời, Đôi môi của nước là tiểu thuyết thứ hai trong bộ tiểu thuyết đề cập tới bốn nguyên tố cơ bản tạo nên thực tại theo quan niệm của người xưa (không khí, lửa, đất và nước). Trong khi Tên của khí trời dấn sâu vào dục vọng sâu kín của người phụ nữ, Đôi môi của nước là cuộc khám phá đầy khắc khoải về những giấc mơ tình ái của đàn ông. Cuốn sách tuyệt đẹp này, kết hợp văn xuôi đầy chất thơ với tuyến tự sự lôi cuốn, là ‘một bức thư tình dài viết bởi một người đàn ông đã đánh mất một người đàn bà và lên đường tìm kiếm nàng trên khắp thế gian’ (Lời của chính Ruy Sanchez), trong niềm mong mỏi nhận được hồi âm của người tình vắng mặt mà lại đồng thời hiện diện ở khắp nơi đó. *** Màn đêm em đang giữ trong bàn tay mình, màn đêm em đang vén ra để vuốt ve tôi trùm lên tôi như tấm áo choàng có những nếp gấp nơi tôi có thể ngụp lặn. Tôi chầm chậm tiến về phía em. Trong màn đêm, tia sáng mắt em dẫn bước tôi đi. Tôi thấy gương mặt em trong cơn mơ. Tôi thấy nụ cười em. Em nói với tôi điều gì đó mà tôi cũng chẳng hiểu. Em cười. Rồi em dùng đôi bàn tay chạm vào người tôi để giải thích. Em vẽ tên em trên bụng tôi, giống như hình xăm, với những chữ cái do em nghĩ ra, mà thực chất là những cái vuốt ve. Tôi đi lại phía em, với lòng kiên trì vô hạn - lòng kiên trì của hành trình vượt đại dương -, đi từ bến bờ thân tôi tới bờ bến thân em, và nụ cười nơi môi em là cơn gió lành cho thuyền tôi vượt sóng. Màn đêm trong lòng bàn tay em cùng cất lời ca với sóng biển dạt dào. Em phủ lên lưng tôi những vệt sóng lừng ào tới êm dịu rồi lại lùi xa cùng lúc quàng lên bãi cát sỏi. Em đi vào đôi tai tôi và vẽ lên đó những hình ốc, và tôi mang trong mình những cơn bão của em, những cơn lốc của em, những vực thẳm của em. Những âm thanh của em vang xuống tận cổ họng tôi. Em cũng ùa vào đôi mắt tôi, bằng cái nhìn đổi màu của nước, bằng bộ ngực em áp trên bộ ngực tôi khiến làn da tôi nơi đó run lên xúc động. Hông em cứ khoét mãi trên bãi cát sỏi nơi tận cùng bụng tôi thành rãnh sâu trong những cơn sóng cuồng nộ nhất. Em bao quanh những bãi biển của tôi, em vỗ sóng ập ào lên chúng và em nuốt chửng lấy chúng. Đám bọt biển của em và của tôi, làn môi của em và của tôi cùng hòa quyện. Làn da nước của em cất lời ca, giọng ca ấy cuốn tôi theo dòng nước. Trong bóng tối đôi bàn tay em, tôi tới thăm tất cả những cơn mơ của em. Hãy để tôi kể em nghe những giấc mơ của tôi bằng đôi tay mình. Từ chín năm nay, câu chuyện này khiến lưỡi tôi cháy bỏng. Tôi đã giữ kín nó hơn cả điều bí mật. Sáng nay, cơn mưa bất chợt xối xả đập mạnh vào cửa kính căn phòng tôi đang ngủ. Cứ như là dòng nước bị đôi bàn tay phù thủy của gió hung bạo quật vào những ô cửa kính vô cảm, biến chúng thành những tấm da trống, trên đó người ta đang gióng lên từng hồi để báo cho tôi biết có vị khách không đợi mà đến. Song những tiếng đập do dự của chúng đánh thức tôi dậy không thô bạo, bị lẫn với những hình ảnh cuối cùng trong cơn mơ của tôi. Tôi nghe thấy xa xa, qua tấm màn mưa, giọng nói êm dịu của Maêmoưna, rung rung sâu lắng, đang gọi tên tôi. Thế là tôi nhận ra tiếng nhạc trong như thủy tinh không phải do cơn mưa tạo ra mà do những móng tay nàng đang gõ háo hức vào cửa sổ phòng tôi. Đã bao năm nay tôi không gặp Maêmoưna: tôi sống xa nàng, ở một lục địa khác. Dẫu vậy, trong cơn mơ này, cơn mơ có vẻ thực hơn tất thảy những cơn mơ khác tôi từng trải qua, giọng nàng đang ve vuốt tên tôi. Nàng bảo tôi kể cho nàng nghe chuyện gì đã xảy đến với tôi ở Ma rốc, kể nàng hay xem tôi đã suýt cập bến bờ nào, lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. “Viết thư kể cho em chuyện đó nhé, nàng nói với tôi; khi nào anh viết thư thì chúng ta có thể sẽ gặp lại nhau,” cứ như thể khi viết ra câu chuyện này, tôi sẽ tạo nên những chiếc khóa vạn năng có sức quyến rũ kỳ lạ hay niệm những câu thần chú có quyền năng thay đổi cả cuộc đời tôi. Thế rồi nàng bỏ đi, đưa tôi trở lại với trống vắng - hẳn chính là cái trạng thái trống vắng mà giờ đây tôi đang cố lấp đầy bằng ngôn từ, bằng khao khát, bằng những hình ảnh tạo nên cái cốt của một câu chuyện, bằng những giấc mơ tôi đang dệt lên bề mặt ngày. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Môi Của Nước của tác giả Alberto Ruy Sanchez.
Đời Callboy - Nguyễn Ngọc Thạch
Đời Callboy có những đoạn trần trụi khiến người ta hoài nghi về độ thật của nó và tự hỏi: “Xã hội thực sự là thế ư?”, nhưng nếu một lần tận mắt chứng kiến những gì đang xảy ra, mọi người sẽ hiểu rằng “Đời Callboy” của Nguyễn Ngọc Thạch đã đi đến được những góc khuất nhất của “nghề nghiệp” bị người đời coi khinh này. Callboy, những người thanh niên dùng thân xác đổi lấy đồng tiền, vẫn tồn tại trong thế giới bóng tối… Đồng tính – cũng không còn là một chủ đề mới của văn đàn, nhưng đa phần chỉ là những tác phẩm được chấp bút ghi lại theo lời kể của một nhân vật có thật. Tuy nhiên nếu một “người trong cuộc” tự viết về chính mình thì mọi việc sẽ khác hẳn. Hãy đọc “Đời Callboy” của Nguyễn Ngọc Thạch để hiểu hơn về thế giới những người đàn ông yêu nhau nhưng bị chi phối mãnh liệt bởi đồng tiền và tình dục. Và để hiểu hơn rằng, giới tính không phải là thứ quyết định nhân cách sống của bạn.  “Đôi khi tôi nghĩ, mình có duyên với “đĩ”. *** Người ta nói, “đừng nghe đĩ kể chuyện, đừng nghe nghiện trình bày”, nhưng tôi vẫn nghe và tôi ghi lại chúng với độ chân thật nhất mình có thể rồi giới thiệu đến mọi người, để các bạn đọc và tự đánh giá xem, câu chuyện của một thằng con trai làm callboy có thể làm bạn dừng lại và suy nghĩ về cuộc đời mà mình đang sống trong đó không.” (Lời tác giả) *** Tuổi thơ Nơi tôi sinh ra! Tôi sinh ra ở một làng quê nghèo của vùng duyên hải miền Trung. Tuổi thơ chỉ gói gọn trong hai chữ: “Nghèo” và “Khổ”. Nói nghe chua chát nhưng sự thật là vậy, không dễ dàng gì để người ta chấp nhận nó. Ở nơi đó, tôi đã lớn lên cùng với gió, cát, những cơn bão và cái nóng hỗn hào của quê hương. Tôi sinh ra ở một làng chài luôn mặn mùi biển, luôn tanh mùi cá sống. Tuổi thơ tôi ướp bằng tiếng sóng rì rào và những mảnh lưới giăng cá của những bà thím như mẹ tôi ngồi rạp bờ cát – Nơi họ vẫn ngày ngày ngồi đợi chồng, đợi con họ về. Cái nôi của tôi! Gia đình tôi làm nghề chài lưới nhỏ, mặc dù quanh năm cha luôn đầu tắt mặt tối với những chuyến ra khơi kéo dài hàng tuần lễ, có khi là cả hàng tháng trời nếu cha đồng ý theo thuyền lớn ra tận giữa khơi, nhưng cuộc sống vẫn rất bấp bênh, bữa no bữa đói. Mẹ tôi là một người phụ nữ mà trong vốn từ ít ỏi lúc này của mình, tôi chỉ có thể gọi theo kiểu là rất tuyệt vời. Bà yêu thương chồng con hết mực, sẵn sàng làm tất cả cho cha, cho chúng tôi. Bà chưa từng nề hà bất kỳ việc gì, lớn – nhỏ, nặng – nhẹ… chỉ miễn là anh em chúng tôi có đủ cái bỏ miệng mà no bụng. Nhưng rồi sau một cơn bạo bệnh, sức khỏe bà giảm sút và chỉ còn có thể làm những việc nhẹ trong nhà. Nhà tôi có bốn anh em. Anh hai hơn tôi bốn tuổi. Tôi bước chân vào lớp 10 – Cái ngưỡng mà cha, mẹ và anh hai luôn bảo tôi rằng, tôi phải bằng mọi cách đi qua cho bằng được. Sau tôi là hai đứa em nhỏ, một đứa học lớp 6 và một đứa chỉ mới sáu tuổi. Tuy gia đình không khá giả gì hay nói đúng hơn là nghèo đến thảm hại nhưng chúng tôi được cha giáo dục rất nghiêm khắc bằng tất cả khoảng thời gian hiếm hoi ông có mặt ở nhà sau những tháng ngày kiếm cơm cho anh em tôi. Với cha, có sáu chữ mà chúng tôi không bao giờ được quyền quên, “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”! Tuy nghèo, tôi vẫn có thể khẳng định rằng gia đình mình sống rất hạnh phúc bên nhau. Những ký ức quên – nhớ và không thể nào quên! ... Mời các bạn đón đọc Đời Callboy của tác giả Nguyễn Ngọc Thạch.
Đàn Bà Xấu Thì Không Có Quà - Y Ban
Một cô nàng tật nguyền nhưng được tạo hóa ban cho trí tuệ sáng lán. Nàng xấu đến nỗi khi một đồng nghiệp say rượu lột truồng ra, nhìn kỹ, tỉnh cả rượu, vái ba vái rồi bỏ đi. Xấu đến mức khi nàng nhìn người anh rể với ánh mắt khao khát, anh rể lại có cảm giác kinh tởm. Đàn bà xấu thì không có quà của nữ nhà văn Y Ban đã đem đến cho nhiều đọc giả một cách nhìn khác về những người phụ nữ “kém may mắn” – và về “Em”. Ai đó đã nói, làm phụ nữ có 2 cái khổ , một là “xấu” và hai là “nghèo”. Nấm- nhân vật chính của truyện là 1 cô gái không may bị dị tật. Nàng xấu đến nỗi khi một đồng nghiệp say rượu lột truồng ra, nhìn kỹ, tỉnh cả rượu, vái ba vái rồi bỏ đi. Xấu đến mức khi nàng nhìn người anh rể với ánh mắt khao khát, anh rể lại có cảm giác kinh tởm. Bù lại, nàng lại có một tâm hồn nhạy cảm đến tuyệt vời và một tài năng văn học. Một cô nàng tật nguyền nhưng được tạo hóa ban cho trí tuệ sáng láng. Cô luôn ôm bao khát vọng sẽ được một người đàn ông yêu thương, nhưng cô không ảo tưởng. Khi quen một người đàn ông qua mạng, chưa bao giờ nàng nghĩ rằng người đó sẽ yêu mình. Nàng chỉ mong được gặp anh một lần. Một cô gái thật đáng thương nhưng cũng rất đáng quý. Nấm chẳng bao giờ có quà, trong khi các cô gái bên cạnh được bao nhiêu người theo đuổi. Xen kẽ trong truyện là những tác phẩm đầy xúc động của Nấm và những nhìn nhận về cuộc sống rất khách quan và xác đáng của tác giả. Cuộc sống đang diễn ra với nhịp độ rất gấp gáp, mọi thứ trôi đi rất nhanh, cái đập vào mắt con người nhiều nhất vẫn là hình thức bên ngoài. Người ta không có thời gian ngồi tâm sự với nhau hàng giờ, không có thời gian để cho những vẻ đẹp nội tâm bộc lộ. Người ta bắt chước nhau nhanh lắm, để tìm được cô này khác với cô kia chỗ nào rất khó. Nhưng chắc chắn, cái gọi là bản sắc, cá tính, vẻ đẹp nội tâm vẫn luôn là hằng giá trị trong thế giới này. *** Y Ban là bút danh của một nhà văn, nhà báo nữ Việt Nam. Bà tên thật là Phạm Thị Xuân Ban, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961 tại Nam Định, trong một gia đình không có truyền thống văn chương. Năm 1978, bà lên Hà Nội theo học khoa Sinh học Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân năm 1982. Một số tài liệu lại ghi bà tốt nghiệp Trường Đại học Y Hà Nội. Bà hiện đang ngụ tại Hà Nội cùng với gia đình. Mặc dù là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1996, từng có nhiều tác phẩm xuất bản cũng như nhận được nhiều giải thưởng, bà chỉ thực sự được chú ý khi cho xuất bản cuốn I am đàn bà, một cuốn sách bày tỏ những khao khát về tình dục của phụ nữ và bị Cục Xuất bản thu hồi. Sau đó cộng thêm những phát biểu lạ tai như: Tôi đang viết "tiểu thuyết ba xu"!, tên tuổi của bà dần được biết đến hơn là những tác phẩm. Tác phẩm: - Người đàn bà có ma lực (tập truyện ngắn, 1993) - Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm (tập truyện ngắn, 1995) - Vùng sáng ký ức (tập truyện ngắn, 1996) - Truyện ngắn Y Ban (tập truyện ngắn, 1998) - Miếu hoang (tập truyện ngắn, 2000) - Cuộc phiêu lưu trên dòng nước lũ (truyện vừa viết cho trẻ em, 2000) - Cẩm Cù (tập truyện ngắn, 2002) - Cưới chợ (tập truyện ngắn, 2003) - Đàn bà xấu thì không có quà (tiểu thuyết, 2004) - Thần cây đa và tôi (truyện vừa, 2004) - I am đàn bà (truyện ngắn, 2006) - Xuân từ chiều (tiểu thuyết, 2008) - Hành trình tờ tiền giả (tập truyện ngắn, 2010) - Sống Ở Đời Biết Khi Nào Ta Khôn - Đàn Bà Xấu Thì Không Có Quà - Người đàn bà và những giấc mơ - Truyện ngắn Y Ban *** Nàng Nấm rất ghét những buổi trưa. Khi ăn cơm xong, chị em tản đi hết. Họ đi thực hiện những ước mơ ban đêm. Chỉ còn lại một mình nàng Nấm đối diện với thân phận mình trong cái ánh sáng ban ngày, khi không còn giấc mơ bao phủ nữa. Mười ba tuổi, nàng Nấm đã nhận chân được diện mạo của mình. Tạo hóa thật trớ trêu đã cho nàng là thân gái với nước da trắng nõn, khuôn mặt trái xoan. Thiên hạ kháo nhau: mặt trái xoan da trắng, mẹ mắng cũng mua. Nhưng ai dám mua nàng Nấm với đôi chân ngắn cũn chỉ bằng nửa mình trên. Bị chúng bạn cười nhạo, nàng Nấm bỏ học, mặc dù tạo hóa đã kèm thêm cho nàng một trí tuệ sáng láng. Chị gái thương em, mang về thành phố nuôi nấng. Để không phụ công chị, nàng Nấm đã chăm lo việc nhà cho chị. Sáng sáng, nàng Nấm dậy từ năm giờ, quét dọn sạch sẽ nhà cửa rồi đặt nước pha trà cho anh rể, nấu bữa sáng cho chị gái. Đến bảy giờ nàng Nấm gõ cửa căn phòng cuối cùng để đánh thức anh chị dậy đi làm cũng là để quét tước. Tám giờ sáng, nàng Nấm xách làn đi chợ. Ở chợ, người ta gọi nàng Nấm là con lùn khôn ngoan. Nấm đi dạo chợ một vòng để xem chợ sáng nay có món gì ngon nhất mà lại rẻ nhất. Các món ăn trong ngày sẽ được định trong lúc dạo chợ. Thế là các bữa ăn được dọn lên với những món ăn ngon miệng nhưng thường không đắt đỏ. Cuộc sống êm đẹp như vậy diễn ra được ba năm cho đến khi Nấm mười sáu tuổi. Và bắt đầu từ căn phòng cuối cùng đó. Nấm có thói quen gõ cửa căn phòng đó lúc bảy giờ sáng và quen thói nắm tay vào quả đấm cửa rồi mở ra luôn. Rất nhiều lần nàng Nấm nhìn thấy đầu chị gái mình vẫn gối trên tay chồng. Thì phải rồi, họ đang trong thời kỳ mãnh liệt của sức lực, lại được hỗ trợ bởi tình yêu. Trước vẫn hình ảnh đó nhưng không lưu giữ lại gì trong đầu óc Nấm. Nay nó cứ vấn vương trong đầu óc Nấm như một mạng nhện. Nó làm xao nhãng cả những tính toán của Nấm lúc dạo chợ. Đêm đến hình ảnh đó hiện lên trong đầu Nấm rất rõ ràng. Hình ảnh một người đàn ông. ... Mời các bạn đón đọc Đàn Bà Xấu Thì Không Có Quà của tác giả Y Ban.