Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

3 Chìa Khoá Mở Cửa Thành Công - Lord Beaverbrook

LỜI NGƯỜI DỊCH TUNG loại sách ích lợi trực tiếp cho các bạn trẻ hai mươi năm trước đây, tôi đã chọn cuốn MỘT NGHỆ THUẬT SỐNG (Un art vivre) của André Maurois để dịch ra VIỆT NGỮ (1953). Lần này tôi chọn cuốn « BA CHÌA KHÓA MỞ CỬA THÀNH CÔNG » của Lord Beaverbrook, vì cuốn sách này có thể đem lại nhiều ích lợi thực tiễn cho các bạn trẻ muốn thành công trên đường đời. Hơn thế nữa, những kinh nghiệm bản thân của tác giả tác phẩm giá trị này được đúc kết như là một thứ cẩm nang tranh đấu trên đường kinh doanh có thể giúp các bạn thanh niên học hỏi để tiến mạnh tới đích. Dịch giả không ước mong gì hơn là các bạn trẻ bước vào đời xem qua cuốn sách này sẽ rút ra được những bài học thích đáng đưa đến một tương lai tốt đẹp. HOÀNG THU ĐÔNG *** LỜI MỞ ĐẦU CỦA J. P. KENNEDY Tôi chưa biết người nào đủ tư cách hơn là Huân Trước Beaverbrook để hướng dẫn thanh niên, cũng chưa thấy có người nào mà lịch sử thành công của đời sống cá nhân hấp dẫn bằng. Sinh ra trong một gia đình thanh bạch ở Tân Brimswich, tại Gia Nã Đại, Max Aitken (về sau trở thành Lord Beaverbrook) ngay từ lúc nhỏ tuổi đã tỏ ra những dấu hiệu có năng khiếu kinh doanh. Khi lên mười chẳng hạn, ông ta hết sức mong ước một chiếc xe đạp, song những may mắn để có được còn yếu kém hơn số lương ít ỏi của thân phụ ông, một mục sư. Thế rồi một hôm, có một hãng xà bông đề nghị treo giải thưởng một chiếc xe đạp mới cho đứa trẻ nào gởi về số giấy gói xà bông nhiều nhất. Thay vì đến các nhà hàng xóm để yêu cầu họ mua dùng loại xà bông có thứ giấy gói quý giá kia, Max nghĩ ra một sáng kiến đặc biệt. Ông ta đem tất cả số tiền dành dụm được ra mua các kết xà bông kia, đem bán lại mỗi bánh theo một giá hạ hơn trên thị trường – với điều kiện người mua trả lại giấy gói cho ông – và lập đi lập lại nhiều lần dịch vụ này. Nhờ thế mà Max đã đoạt được chiếc xe đạp, ghi vào bảng kinh doanh sự thành công đầu tiên trong số nhiều thành quả trên đường hoạt động dịch vụ. Đầu óc tháo vác và hiểu biết bén nhậy của ông được khai thác về sau đã mang lại cho ông tài sản, danh tiếng quốc tế, địa vị Nam Tước, các sở hữu địa ốc ở Sirrey, ở Jamaique, ở Nassau và Fredericton, một nông trại ở Ontario, một khách sạn đặc biệt ở Luân Đôn, một cao ốc văn phòng choáng ngợp bằng sắt và kính ở Fleet-Street, nhiều cổ phần lên đến nhiều triệu bảng Anh trong các đại xí nghiệp, làm chủ một tờ báo hàng ngày có số xuất bản vào hàng mạnh nhất trên thế giới. Buổi đầu Max kiếm ra tiền bằng cách bán báo, rồi mở rộng sự phát hành báo chí ở thị trấn quê nhà tại New Castle. Như thế còn chưa đủ, ông thành lập một hội và ấn hành tờ báo nhỏ của mình, NGƯỜI LÃNH ĐẠO (The Leader), trông nom lấy tòa soạn, sắp chữ và in bằng máy quay tay. Rời ghế nhà trường, Max làm việc ít lâu trong một tiệm tạp hóa, rồi đến một văn phòng pháp luật, trong lúc vừa tiếp tục học luật ở Saint John tại trường đại học Tân Brimswisk. Ông đã khổ công để giao thiệp, làm quen với người mới. Cho đến đỗi ông phải thuê dạ phục về mặc với hy vọng được mời dự một cuộc họp quan trọng có nhiều người tại Quốc hội. Ông chờ đợi cho đến giờ mở cửa buổi dạ hội, song tấm thiệp mời không bao giờ đến. Đau lòng vì cảm thấy bị gạt bỏ ra bên lề, Max nhất quyết phải thành công để có thể mở ra bất cứ cánh cửa nào bấy lâu vẫn khép kín đối với ông. Tin chắc rằng có tiền bạc mới có thể đến khắp mọi nơi, ông đã sử dụng tất cả đầu óc sáng tạo và hiểu biết của mình để làm ra tiền. Sau một thời kỳ ngắn ở trong hãng Bảo hiểm sinh mạng, ông đến Halifax và vào làm thư ký cho John F. Stairs, một tài phiệt già có nhiều quyền lợi lớn ở phía đông Gia Nã Đại. Ông chủ và người làm công trẻ tuổi chẳng mấy chốc trở thành đôi bạn. Max đề nghị với Stairs tập hợp lại nhiều ngân hàng nhỏ địa phương để tăng cường năng suất. Stairs cho phép Max thi hành dịch vụ, nhìn nhận là anh phải thành công. Anh chàng trẻ tuổi bị thử thách đã không lùi bước. Bấy giờ ông chưa được hai mươi mốt tuổi, gặp phải những giám đốc ngân hàng khắc khổ liên hệ đến dịch vụ, thảo luận với họ, thuyết phục họ là sáng kiến của ông đem lại lợi tức. Việc phối hợp các ngân hàng thành tựu, và lần đầu tiên trong đời Max được 10.000 đô la. Stairs lấy làm thích thú, mới giao cho ông vụ bán trái khoán của Hội Cưa và Thanh Tân-Ê-Cốt. Từ văn phòng này đến văn phòng nọ, Max đi tìm kiếm những khách hàng có thể mua, mang trái khoán trong một cái túi xà cột. Nhiệm vụ thành công và kiếm được một món lời riêng khá lớn. Max tạo lập « Nghiệp hội An Ninh Hoàng Gia » với Stairs làm chủ tịch, còn ông thì trở thành tổng giám đốc. Trong những năm đầu của thế kỷ này, người ta chứng kiến buổi đầu điện khí hóa, đã trở nên vô cùng quan hệ trong đời sống hiện nay. Nhiều tài sản lớn lao đã được tạo nên nhờ thiết lập điện trong những nhà ở, kỹ nghệ, nông trại, xe lửa. Max đã dấn thân hết mình trong công cuộc phát triển lớn lao này, đem về lợi tức quan trọng cho « Nghiệp hội An Ninh Hoàng Gia ». Khi John Stairs mất, phần cả Max sau khi giải quyết dịch vụ lên tới 50.000 đô la. Bấy giờ ông mới về ở Montréal, rồi lại bắt đầu trông nom tổ chức và thay đổi các hội, nhưng trên một phương diện to lớn hơn. Vào lúc cực thịnh của thời kỳ ở Montréal, ông được Ngân hàng thế lực Montréal giao phó công việc kiểm soát hoạt động dịch vụ của ba hội xi măng Gia Nã Đại. Trong lúc hoàn thành nhiệm vụ này, Max nhận thấy khả năng phối hợp cả ba hội lại và phụ thêm các hãng xi măng khác nữa để thành lập một hội liên hiệp mới quan trọng. Việc này đòi hỏi phải góp một số vốn 38 triệu đô la, một số tiền hết sức lớn lao chưa từng thấy trong lịch sử Gia Nã Đại, và sẽ lợi ích cho nền kinh tế chung trong nước. Ngân hàng Montréal và các xí nghiệp Gia Nã Đại khác chấp thuận kế hoạch và ủng hộ ông. Tuy vậy, trong lúc đang thương thuyết, một phe liên hệ đề nghị đem một công ty xi măng của mình nhập cuộc. Max từ chối, cho rằng lời yêu cầu bán công ty kia quá cao và nhận thấy dịch vụ không được lương hảo về mặt tài chính. Tác giả đề nghị liền rút lui khỏi buổi họp đang tiếp tục, phản đối Max trước Nghị viện, buộc tội ông đã tạo nên những tiền lời bất hợp pháp khi phóng đại giá trị tư bản pháp định của Hiệp hội. Như vậy là Max phải đương đầu với một đối thủ quỉ quyệt, có nhiều thế lực để đánh ngã bất cứ một thanh niên nào dưới ba mươi tuổi. Song Max đã không chiến bại. Anh chỉ có việc trình bày những dữ kiện ra trước Nghị viện và dân chúng, thế là chấm dứt nội vụ. Một khi bắt đầu, hiệp hội tỏ ra là một cơ sở tuyệt hảo và làm cho giá xi măng hạ xuống khắp Gia Nã Đại. Tuy vậy, ấm ức xót xa vì những lời lẽ rỉ tai của bọn thù nghịch loan truyền trong dân chúng chống lại ông, Max thanh toán phần của mình lên tới gần năm triệu đô la lúc bấy giờ, và tuyên bố là từ bỏ mãi mãi giới kinh doanh. Thời ấy ông đang ở lợi thế để lưu ý đến việc thực hiện một hoài bão vẫn ôm ấp bấy lâu : là đồng nhất những địa phận cách biệt của Đế quốc Anh thành một khối thịnh vượng hơn bằng cách hạ bỏ hàng rào thuế quan. Ông bắt đầu suy nghĩ thực sự đến việc nhảy vào chính trường để tranh đấu cho một sự cải cách giá biểu thuế quan và như thế là đảm bảo cho một sự đoàn kết chặt chẽ hơn của Đế quốc Anh. Ông đã gặp Bonar Law, một ngươi đồng hương ở Tân Brimswich, hoạt động chánh trị từ vài năm nay ở Anh. Max đến Luân Đôn, đi gặp Law, nói chuyện cải tổ quan thuế và Đế quốc Anh. Law hết sức quan tâm đến. Một tình bạn nồng ấm và lâu dài bắt đầu. Ít lâu sau đó, khi Law bắt đầu cuộc vận động bầu cử cho phe Đoàn kết, ông yêu cầu Max giúp cho một tay. Max mới quyết định đứng chung liên doanh với Law. Ông ra ứng cử trong một khu vực ở Lancashire. Khi bắt đầu cuộc vận động tranh cử, chỉ còn có mười ngày nữa thôi, mà ông lại phải đương đầu với một đối thủ có tên tuổi. Nhưng Max không sợ. Ông đã có dịp làm mau lẹ và đâu ra đấy. Ông liền thảo một kế hoạch vận động có thể giúp mình gặp tất cả những cử tri trong địa hạt. Max chưa có một kinh nghiệm nào về hùng biện chính trị, và hơn thế nữa giọng nói Gia Nã Đại của Ông làm cho cử tri Anh nghe lạ tai lắm. Bởi thế khi giới thiệu bạn cùng liên doanh, Bonar Law đã phải nói : « Xin quí vị đừng xét đoán bạn tôi qua các bài diễn văn đầu tiên. Tôi xin bảo đảm cùng quí vị rằng Ông ta sẽ giúp được nhiều việc cho khu vực nào bầu ông lên ». Law đã lo ngại không đúng. Thái độ chân thành của Max, sự ngay thật gạt bỏ những mánh lới mị dân, tất cả làm cho dân chúng chất phác ở Lancashire khoái chí tử. Max đã thắng lợi với một đa số đáng kể. Ông ta không gây sôi nổi trong năm đầu tiên ở nghị trường. Ông nghiên cứu thấu đáo những vấn đề chính trị Anh và liên kết bạn hữu trong tất cả các giới công luận, cũng như ông đã từng làm trong giới kinh doanh. Ông áp dụng cách trau dồi tuyệt hảo tài hùng biện của mình bằng lối chấp nhận đứng lên phát biểu khắp mọi nơi. Dần dà ông trở thành một nhân vật chính trị. Ông được trao tặng chức hiệp sĩ năm 1911. Mặc dù hết sức gắt gao, chính trị chỉ thu hút một phần hoạt động hăng say của Sir Max. Tuy đã tuyên bố là rời bỏ kinh doanh, ông trở thành chủ tịch Ngân hàng Thuộc địa và Công ty tổ hợp Công binh, trong lúc ông có mặt tại Luân Đôn từ một năm nay. Năm 1912, trong một tháng, đầu óc tháo vát của Ông đã phá vỡ những kỷ lục của ông. Ông điều đình mua tất cả những mễ cốc chở đến trong cùng một tỉnh,135 kho mễ cốc và hai máy xay, cộng với 1.370 đô la tài sản địa ốc ở Montréal, cũng trong thời gian ấy, ông làm tăng số vốn của một hội kim khí từ 200.000 đô la lên đến một triệu và gia tăng sự sản xuất theo đà ấy. Nhưng đến năm 1.913, ông đã trả giá cho nhưng năm lao lực không ngừng, phát bệnh nặng. Trong thời kỳ dưỡng bệnh, ông khám phá ra rằng tinh thần tháo vát và sự hiểu biết mà ông đã trông vào để tạo nên sự nghiệp, không đáng kể gì thiếu sức khỏe. Cho nên, ông tự hứa là ngừng bớt hoạt động. Bệnh trạng đã giúp ông tìm thấy một chìa khóa thứ ba, cộng thêm với hai chìa khóa đã đưa ông tiến lên khá xa. Người ta thấy Sir Max miễn cưỡng tỏ ý quyết liệt từ chối nhiều đề nghị hấp dẫn của người ta mang đến tận văn phòng ông tại Thredneedle Street. Một nghiệp vụ hiếm có thời bấy giờ có vẻ hình như là một lỗi lầm của thời đại lúc ấy, nhưng sẽ bộc lộ là nguyên nhân của một sự thành công lớn lao, đó là việc mua một số cổ phần nhỏ của nhựt báo xuất bản ở Luân Đôn, tờ Daily Express. Thế rồi vụ Sarajevo châm lửa vào là thuốc súng. Chiến thanh thế giới thứ nhứt xảy đến, và những quyết định hạn chế hoạt động của Max liền quên đi. Sir Max tự cảm thấy phải nhảy vào cuộc đấu tranh vì chính phủ Anh dấu kín không cho dân chúng biết những tin tức xấu từ mặt trận đưa về từng giờ. Ông nghĩ rằng người ta phải nói sự thật, dù là tốt hay xấu, và chỉ sau khi biết rõ các tai họa thì đế quốc Anh mới cảm thấy cần đoàn kết với nhau để nổ lực chiến thắng. Ông muốn nhất là những đồng bào Gia Nã Đại của ông biết rõ sự thật, chắc hẳn rằng họ sẽ chịu nổi và sẽ vì thế mà hành động quyết liệt. Sự khẩn khoản của ông gắt gao đến độ người ta phải cử ông làm đại diện cho chính phủ Gia Nã Đại ở mặt trận. Bắt đầu bằng mặt trận ở Ypres năm 1915, Sir Max nói cho thế giới hay những nỗi khốn khổ và tính chất anh hùng của binh sĩ Gia Nã Đại ở chiến trường. Trong khi chính phủ Anh còn dấu diếm dưới các hình thức tốt đẹp những sự thiệt hại ghê gớm của binh sĩ, thì Sir Max không rời nhiệm vụ đã định, chấp nhận cho những thông tín viên chiến tranh được tự do vào các phòng tuyến Gia Nã Đại và cung cấp cho họ tất cả những tin tức đòi hỏi, nếu không phương hại đến bí mật quân sự. Việc làm của ông có kết quả. Từ Tân Brunswich đến Vancouver, người Gia Nã Đại nỗ lực gấp đôi, khoác đầy mình danh dự. Tại Luân Đôn, hành động của Sir Max cũng được chú ý vì đến năm 1917, ông được phong làm huân tước Beaverbrook. Vài tháng sau, ông kiểm soát hoàn toàn nhựt báo Daily Express. Tất cả mọi người ở Fleet Strees đều cho rằng ông đã nhắm quá cao. Huân tước Northcliff, ấn hành tờ báo thế lực Daily Mail, tiên đoán rằng Max sẽ tiêu tan đến đồng xu cuối cùng vì báo chí. Cuối năm ấy, tờ Daily Express chứng tỏ thành công. Tuy vậy, Beaverbrook không ngủ trên những vòng hoa chiến thắng, đưa ra nhiều câu hỏi, nghiên cứu, hoàn bị kiến thức về nghề làm báo như ông đã từng hoàn bị kiến thức về tài chánh, kinh doanh. Nhiệm vụ nặng nề trông nom một nhựt báo bán chạy chưa đủ chiếm hết thì giờ, năm 1918 ông nhận giữ chức bộ trưởng Thông tin và hoàn thành nhiệm vụ khá tốt đẹp. Bao nhiêu nỗ lực làm việc đã được tưởng thưởng. Năm năm sau khi ông chủ trương tờ Daily Express vượt con số một triệu ấn bản. Ngày nay, các cơ sở xuất bản của ông ở Luân Đôn, Manchester và Glasgow, cùng hai tờ báo khác mà Beaverbrook lấy về sau đó, những nhựt báo buổi chiều ở Luân Đôn và Glasgow, Evening Standard và Evening Citizen, tổng cộng có năm triệu độc giả. Khi những đám mây đen vần vũ của chiến tranh thế giới thứ hai nổi lên, Beaverbrook (đã sáu mươi tuổi) thuộc nhóm ít người hướng dẫn cho nước Anh đang hướng về họ. Có dịp may được tham dự gần cuộc chiến đấu của những lũ khổng lồ, tôi có thể xác nhận với tính cách chứng nhân, rằng huân tước Beaverbrook, có lẽ hơn ai hết, là một trong số người tạo nên chiến thắng bằng cách làm cho nước Anh kiêu hãnh bị chiến bại đè nặng, đã ngẩng đầu lên trở lại. Vì cuộc chiến đã thắng lợi trên không nhờ R.A.F. (Không lực Hoàng gia), trong tháng chín năm 1940. Huân tước Beaverbrook, với tư cách là Tổng trưởng sản xuất Hàng không, đã cho « vài người » làm ra vô số phi cơ để chiến thắng trận đánh Anh quốc cho « bao nhiêu người ». Khi Thủ tướng Winston Churchill đưa ông lên làm Tổng trưởng Không quân năm 1940, Beaverbrook không để mất thời giờ chờ đợi chính phủ cấp cho những văn phòng cần thiết cho công việc bề bộn này. Ông lập tức biến đổi cơ sở của mình thành Đại bản doanh tạm thời, soạn thảo ngay cho mình và các cộng sự viên trực tiếp một kế hoạch làm việc bắt đầu từ tám giờ mỗi sáng để kết thúc vào hai giờ sáng hôm sau. Trong ngày hôm ấy, ông đến viếng bất ngờ một cuộc họp của những tay cầm đầu kỹ nghệ hàng không thường vẫn diễn ra. Ông tuyên bố rõ rệt với họ rằng bổn phận của họ không phải là mất thì giờ nhóm họp với nhau để bàn cãi các vấn đề. Vận mệnh của đất nước đang lâm nguy. Họ chỉ có một công việc độc nhất để làm : trở lại xưởng của họ để đóng máy bay. Ông đã nói với họ một cách hết sức giản dị, song thông điệp của ông mang đầy ý nghĩa : nếu họ muốn cho đất nước của mình còn tồn tại, thì họ phải hành động gấp, gấp hơn bao giờ hết và cho các phi công Anh phương tiện, bất cứ phương tiện gì, để hạ oanh tạc cơ của Hitler. Một ủy ban chủ nhân đem trình với ông một kế hoạch ba tháng sắp tới, ông mời họ về luôn, tuyên bố ngay rằng ông không để ý đến một kế hoạch cho ba tháng sắp tới. Họ có thể cho ông bao nhiêu máy bay trong ngày mai đây ? Không bận bịu vì giấy tờ, gạt bỏ tất cả những gì trên lối đi, ông chiếm các khoảng đất thuộc các cơ quan khác của chính phủ để làm xưởng máy, thu nhận những nhà chuyên môn tài giỏi có thể kiếm được, bất chấp các sự liên lạc của họ với chính phủ và quốc tịch của họ ; ông chỉ cần sản xuất máy bay với bất cứ giá nào. Kết quả ra sao ? Trong vòng một năm, Beaverbrook làm tăng con số sản xuất máy bay Hurricane từ 500 lên đến 2.850, máy bay Spitfire từ 430 lên đến 1.500. Ông giao cho không lực Hoàng gia (R.A.F.) 9.000 máy bay được sửa chữa trong một năm và 12.000 động cơ xét lại. Thương thuyết ký hiệp ước với chính phủ Hoa Kỳ, ông đã nhận được thêm 3.000 máy bay mỗi tháng. Ông kêu gọi những bà nội trợ Anh đi quyên hàng tấn nhôm phế thải. Ông mở một chiến dịch lớn hô hào gởi tặng phẩm để có « một phi cơ ghi tên bạn ». Ban đầu các nhóm gởi tiền cho ông, để mua các phi cơ lẻ loi, nhưng rồi chẳng mấy chốc, ông nhận được nhiều tiền để sắm cả bao nhiêu phi đoàn. Cuối chiến dịch này, ông nhận được các chi phiếu từ 25.000 đến 100.000 đô la, cùng một chi phiếu một triệu đô la. Khi Huân tước Beaverbrook bước vào bộ Không quân, vấn đề lớn đối với Anh quốc là tìm đủ số máy bay cho phi công, một năm sau, vấn đề là tìm ra đủ số phi công cho tất cả những máy bay sản xuất. Khi hòa bình trở lại, huân tước Beaverbrook quay về với báo chí của ông, tiếp tục cuộc đấu tranh cho sự thống nhất hợp tác, tương trợ lẫn nhau giữa các địa phận của Đế quốc Anh. Ông hết lòng ủng hộ vị trí Hoa kỳ trong cuộc chiến tranh Triều tiên, đến độ sa thải một viên chủ bút đã tỏ ra xem thường việc đó. Từ đấy, ông luôn luôn làm việc theo hướng làm sao cho Anh và Mỹ hiểu biết nhau hơn. Ông cho rằng việc liên lạc tốt đẹp giữa hai nước nầy là một cần thiết hệ trọng cho thời đại chúng ta. Sau gia đình, ông vẫn yên nhất là Đế quốc Anh : lý tưởng của ông là những vấn đề quốc tế phải do sự đoàn kết Anh Mỹ chi phối. Trong đời ông chẳng làm việc gì mà không phục vụ cho Đế quốc Anh. Điều đó cũng thực như việc ông phối hợp các ngân hàng nhỏ ở Halifax để có thể phục vụ thân chủ tốt hơn, việc ông hăng say sản xuất phi cơ trong thời chiến đã qua. Cho đến các đại nhựt báo của ông, trước tiên đối với ông không phải là phương tiện để làm ra tiền. Phần lớn những số tiền do các báo mang lại, ông đều đem tái đầu tư để phát triển báo chí và thúc đẩy phục vụ Đế quốc Anh tốt đẹp hơn.   J. P. KENNEDY Mời các bạn đón đọc 3 Chìa Khoá Mở Cửa Thành Công của tác giả Lord Beaverbrook.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Nửa của 13 là 8 - Jack Foster
Chưa bao giờ trong lịch sử, ý tưởng lại có giá trị và cần thiết như bây giờ. Đó là bởi, ý tưởng mới cũng như những bánh xe của sự vận động. Không có ý tưởng, sự trì trệ sẽ thống trị. Hơn nữa, hệ thống máy tính thông minh đã làm thay bạn đa phần những công việc thường nhật, nhờ vậy, bạn được rảnh tay, và thực tế là bạn được yêu cầu làm công việc sáng tạo mà các hệ thống đó không thể làm. Mặt khác, thời đại của chúng ta tràn ngập thông tin đến mức nhiều khi ta cảm thấy bội thực. Thế giới luôn đòi hỏi những luồng ý tưởng mới để có thể vươn lên xứng với tầm cỡ và vận mệnh của mình. Bởi thế, thật hoài phí nếu bạn không biết cách sử dụng nguồn tài sản thông tin này để sáng tạo ra những ý tưởng như vậy. *** “Albert Einstein nói ý tưởng tuyệt vời nhất đến khi ông đang cạo râu,” Jack Foster đã viết như vậy trong cuốn sách Một nửa của 13 là 8. Đọc đến đây, bạn sẽ làm gì? Rất có thể, bạn sẽ đặt cuốn sách xuống và đi cạo râu để thử xem liệu có ý tưởng nào nảy sinh không. Nhưng bạn sẽ không muốn đặt cuốn sách xuống thêm lần nào nữa. Bởi những gì Jack Foster viết trong cuốn sách này hết sức thú vị và lôi cuốn.  Ít nhất một lần trong đời, bạn từng băn khoăn: tại sao có người nghĩ được rất nhiều ý tưởng, trong khi mình không thể nghĩ được gì; và liệu có phải có những bí kíp bí truyền, độc nhất để có được tư duy sáng tạo hay không. Cuốn sách của Jack Foster trả lời những câu hỏi đó. Jack Foster cho rằng, lý do để trí sáng tạo của ta ngày càng hao mòn là do hầu hết chúng ta đều làm theo cách thức cũ và suy nghĩ theo lối mòn. Thực chất, bất kỳ ai, bất kể tuổi tác hay màu da nào, bất kể làm công việc gì, đều có thể sáng tạo nhiều ý tưởng hơn, nhanh hơn, dễ dàng hơn. Điều cốt yếu là ta phải nhận ra những lối tư duy, những phong cách sống vô ích cho sự sáng tạo, để rồi phá bỏ chúng bằng các mẹo nhỏ dễ thực hiện và những bài tập đầy hứng thú.  Thông qua cách viết ngắn gọn, dễ hiểu và dí dỏm của Jack Foster, bạn sẽ biết cách đánh thức đứa trẻ trong tâm hồn bạn, trở nên hài hước, vui vẻ hơn; xem lại cách tư duy, học cách hòa trộn các ý tưởng khác nhau, và chiến thắng nỗi sợ bị từ chối.  Chỉ mất một hoặc hai tiếng để đọc xong cuốn sách, nhưng bạn sẽ được lợi từ các lời khuyên của Foster cho đến hết cuộc đời.  Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới bạn cuốn sách nhỏ hữu ích này.  Hà Nội, tháng 1 năm 2012 *** Trong bảy năm, tôi tham gia giảng dạy một khóa học 16 tuần về quảng cáo tại trường Đại học Nam California. Khóa học được Hiệp hội quảng cáo Hoa Kỳ (American Association of Advertising Agencies ‒ AAAA) tài trợ với mục đích đem lại cho lớp trẻ trong lĩnh vực quảng cáo cái nhìn tổng quan về nghề nghiệp họ đã lựa chọn. Trong khóa học có một người giảng về quản trị khách hàng, một người giảng về truyền thông và nghiên cứu thị trường, còn tôi giảng về quảng cáo. Tôi giảng về quảng cáo báo in và quảng cáo truyền hình, về thư chào hàng và quảng cáo ngoài trời, về cách tạo một tiêu đề hấp dẫn và một nội dung quảng cáo thuyết phục, cách sử dụng nhạc và giai điệu quảng cáo, về quảng cáo hướng dẫn sử dụng sản phẩm và quảng cáo người thực việc thực, những lợi ích và lựa chọn loại hình quảng cáo cũng như khách hàng mục tiêu, thăm dò chất lượng quảng cáo, tiểu đề mục, chiến thuật và mồi nhử, phiếu giảm giá và tờ bướm, cả về phân đoạn thị trường và nhiều chuyên mục khác. Vào cuối năm đầu tiên, tôi hỏi những người tốt nghiệp xem mình có bỏ qua điều gì trong quá trình giảng dạy không.  “Ý tưởng,” họ trả lời. “Thầy đã dạy rằng quảng cáo báo in hay quảng cáo truyền hình đều nên xuất phát từ ý tưởng,” một người nói, “nhưng thầy chưa từng nói ý tưởng là gì và làm sao để có ý tưởng.” Ra vậy. Thế là trong sáu năm sau đó, tôi cố gắng giảng về ý tưởng và làm sao để tìm ra ý tưởng. Không chỉ ý tưởng quảng cáo mà tất cả các loại ý tưởng. Xét cho cùng, chỉ có một số ít học viên tôi dạy phụ trách việc tìm kiếm ý tưởng quảng cáo báo in và truyền hình; đa số là phụ trách khách hàng, tổ chức sự kiện, và nghiên cứu thị trường, chứ không phải người viết quảng cáo hay đạo diễn nghệ thuật. Nhưng tất cả bọn họ, cũng như bạn và tất thảy những người làm kinh doanh, viên chức nhà nước, người dạy học hay nội trợ, dù mới vỡ lòng hay dày dạn kinh nghiệm đều cần biết cách tìm ra ý tưởng.  Tại sao vậy? Trước hết, ý tưởng mới cũng như những bánh xe của sự vận động. Không có ý tưởng, sự trì trệ sẽ thống trị. Dù bạn là nhà thiết kế mơ ước về một thế giới khác, một kỹ sư miệt mài với công trình mới, một giám đốc phụ trách phát triển mô hình kinh doanh mới, một nhà quảng cáo tìm bước đột phá để tiêu thụ sản phẩm, một giáo viên lớp Một tìm cách chuẩn bị chương trình hội trường thật đặc sắc, hay một tình nguyện viên tìm cách bán vé số thì để thành công, khả năng sáng tạo ý tưởng hay là vô cùng quan trọng. Hơn nữa, hệ thống máy tính đã làm thay bạn đa phần những công việc thường nhật, nhờ đó (ít nhất là về mặt lý thuyết) bạn được rảnh tay, và thực tế là bạn được yêu cầu làm công việc sáng tạo mà các hệ thống đó không thể làm. Thứ ba, thời đại của chúng ta tràn ngập thông tin đến mức nhiều khi ta cảm thấy bội thực. Thế giới luôn đòi hỏi những luồng ý tưởng mới để có thể vươn lên xứng với tầm cỡ và vận mệnh của mình. Đó là vì giá trị thực của thông tin, ngoài việc giúp bạn hiểu vấn đề rõ hơn, chỉ được biết đến khi nó được kết hợp với những thông tin khác, hình thành nên những ý tưởng mới để giải quyết các vấn đề và giúp đỡ con người, giúp tiết kiệm, sửa chữa hay sáng tạo ra đồ vật, những ý tưởng khiến mọi thứ tốt hơn, rẻ và hữu ích hơn, những ý tưởng giúp khai sáng, tiếp sức, truyền cảm hứng, đem lại sự táo bạo cho con người. Thật phí hoài nếu bạn không sử dụng nguồn tài sản thông tin này để sáng tạo ra những ý tưởng như vậy.  Tóm lại, chưa bao giờ trong lịch sử, ý tưởng lại có giá trị và cần thiết như bây giờ. Trong lần xuất bản đầu tiên, cuốn sách này có hầu hết những gì tôi giảng cho sinh viên về ý tưởng.   Mời các bạn đón đọc Một Nửa của 13 là 8 của tác giả Jack Foster.
Con Đường Tuổi Trẻ - Daisaku Ikeda
Con đường tuổi trẻ là tập hợp những bài viết ở dạng tâm sự - hướng dẫn của một người đã góp phần giáo dục nên một thế hệ trẻ của Nhật Bản ngày hôm nay, được chia làm tám mục ở tám lĩnh vực với tám mươi lăm câu hỏi đáp về gia đình, bạn bè, tình yêu, học tập, hướng nghiệp, lòng nhân ái. Tất cả những lời hướng dẫn của ông đều nhắm tới một cuộc sống có ích cho xã hội, cho tha nhân và toàn môi trường này. *** Trong những trang sau đây, bạn sẽ đọc một loạt những câu hỏi được đặt ra cho Daisaku Ikeda, và những mối quan tâm của những người trẻ, được bày tỏ ra với ông. Mặc dù một vài trong số những vấn đề được nêu lên có thể dường như đơn giản, có những ý tưởng rất sâu xa ẩn chứa bên trong những câu trả lời thẳng thắn của Daisaku Ikeda. Đó là những lời khuyên từ ái, có sức thuyết phục mạnh mẽ. Theo những lời khuyên đó, ta đi tới chỗ nhận ra khả năng của ta trong việc kiểm soát vận mệnh cá nhân của mình. Riêng với bản thân tôi, tôi thấy rằng, ông đã đưa ra những lời khuyên sâu sắc liên quan đến tình yêu và những mối quan hệ, mà 10 năm về trước, nếu đã nghe thấy nó, chắc hẳn tôi đã tránh được nhiều phiền muộn. May thay, những lời khuyên mà tôi đã thực sự nghe theo, đã củng cố quyết tâm của tôi trong việc thay đổi những điều về chính mình, những điều mà đã kìm hãm, ngăn cản tôi thành tựu những mục đích có tính sáng tạo của bản thân tôi. Trước khi tôi được đọc những lời khuyên của Daisaku Ikeda, tôi không chịu được việc hát nơi công chúng – tôi không thích âm thanh giọng hát của chính mình và ngượng ngùng một cách khổ sở trên sân khấu. Không phải là chuyện tình cờ ngẫu nhiên,  mà 7 năm sau,  album đầu tiên của tôi đoạt huy chương vàng, và tôi được giải Grammy về Giọng Nam Hay Nhất; tôi cũng đã đi lưu diễn vòng quanh thế giới, trình diễn trước hằng triệu người. Gần đây, tôi đọc nhiều về computer, về tầm quan trọng ngày càng tăng của nó trong thế giới của chúng ta. Chỉ cần nói rằng, theo mọi nguồn thông tin có thẩm quyền, thì trong những thập niên sắp tới, sẽ có những thay đổi mà thậm chí chúng ta không thể nào tưởng tượng nỗi – những thay đổi mà sẽ hoàn toàn biến đổi bộ mặt xã hội chúng ta – về mặt xã hội, văn hóa, và chính trị. Dĩ nhiên, sự sống chính nó được đặt nền tảng trên sự thay đổi liên tục. Như nhiều người đã chỉ ra, cái thường hằng duy nhất là sự thay đổi. Đây là lý do tại sao cấp thiết phải tìm thấy một triết lý có thể đưa ta đi qua những giai đoạn lịch sử này, để đón nhận những thay đổi tích cực và xử trí với những thay đổi tiêu cực. Điểm thực sự quan trọng mà Ikeda thường xuyên nhấn mạnh,  là việc định hướng cho những thay đổi này và tạo ra thế giới mới này – việc ấy tùy thuộc vào chúng ta, thế hệ trẻ. Tất cả chúng ta không chỉ có cái khả năng bản hữu (vốn có) để tạo ra những thay đổi này, mà chúng ta còn có trách nhiệm làm như thế, trong một cách thức từ ái, khôn ngoan. Và tôi nghĩ, đây là mục đích của cuộc sống: Hạnh phúc, sáng tạo và trân quý sự sống trong mọi biểu hiện kỳ diệu của nó. — DUNCAN SHEIK *** “Tôi có một giấc mơ!”, đó là lời của Tiến sĩ Martin Luther King Jr.[1] Những giấc mơ của bạn là gì? Những hy vọng của bạn là gì? Không có gì mạnh mẽ hơn một cuộc sống đầy hy vọng. Hằng ngày, tôi nhận được những lá thư từ những người trẻ khắp thế giới, và tôi nói chuyện với những chàng trai và những cô gái trẻ bất cứ khi nào tôi có dịp. Tôi thấy có nhiều người trẻ tràn đầy hy vọng và nhiệt huyết, song những người khác mà tôi tình cờ gặp, thì lại có vẻ như trĩu nặng những ưu phiền thuộc loại này hay loại khác. Tuổi trẻ là một thời cho sự phát triển và thay đổi, nhưng nó cũng có thể là một thời của những lo âu to lớn.[2] Những người trẻ nhiều khi cảm thấy bất an trong xã hội, như thể là họ bị bỏ rơi một mình trong một vùng hoang dã hay một bãi chiến trường nào đó. Họ có thể cảm thấy không có ai mà họ có thể tin cậy;  rằng không ai quan tâm đến  họ; rằng họ không có mục đích nào trong đời. Nhưng hãy đợi! Bạn hiểu chính mình như vậy là có đúng không? Bạn có nên đánh giá quá thấp những khả năng của bạn? Không có ai mà lại không có sứ mệnh nào đó, mục đích nào đó trên thế gian này. Và cảm thức này về sứ mệnh và mục đích là cái đem lại ý nghĩa và sự thoả mãn chân thực cho đời người. Khi tôi 19 tuổi, tôi gặp Josei Toda, người đã trở thành vị ân sư suốt đời của tôi. Ngay cả bây giờ tôi vẫn chưa thể quên, và sẽ không bao giờ quên,  những lời nói từ ái mà ông đã nói với tôi cách đây hơn 40 năm, khi tôi đang trải qua một giai đoạn rất khó khăn. “Daisaku,” ông nói, “những người trẻ phải có những rắc rối của họ. Những rắc rối là cái biến ta thành một con người hạng nhất!” Mỗi buổi sáng, ngay cả vào Chủ Nhật, ông Toda đóng vai như là gia sư của tôi, dạy tôi về mọi loại đề tài. Và theo cách tương tự, tôi đã cố gắng nói chuyện với những người trẻ bất cứ khi nào tôi có cơ hội. Từ những cuộc thảo luận đó mà có ra chất liệu trong cuốn sách sau đây. Phần lớn những cuộc thảo luận này, dĩ nhiên, là với những người trẻ Nhật Bản. Song những đề tài mà chúng tôi thảo luận – gia đình, bạn bè, những ước mơ, những mục đích trong đời – tôi chắc rằng, đó là những mối quan tâm chung của những người trẻ khắp mọi nơi trên thế giới. Nicheren[3] đã dạy rằng, một đời người có một tiềm năng vô hạn, và ông đã phát hiện ra một con đường có thể tiếp cận dễ dàng; theo con đường đó, mọi người có thể nuôi dưỡng tiềm năng này và tìm thấy hạnh phúc thực thụ trong đời. Triết lý này, được dạy bởi Nicheren, đặt nền tảng trên việc tuyệt đối kính trọng sự sống và giá trị của mỗi cá nhân. Và bởi vì tôi hy vọng chia sẻ triết lý có giá trị phổ quát này với những bạn đọc bình thường tại Mỹ, và tại những nước nói tiếng Anh khác, nên tôi đã yêu cầu những nhà biên tập của ấn quán Middle Way Press giúp tôi sắp xếp lại cuốn sách này, và dịch ra Anh ngữ, dựa trên một loạt những buổi nói chuyện mà tôi đã có với những học sinh trung học. Đương nhiên là một vài trong những câu hỏi được nêu ra trong những cuộc thảo luận này tỏ ra rất khó trả lời – bởi vì tôi không phải là một chuyên gia trong những lãnh vực mà họ đề cập. Ước chi tôi đã có thể trực tiếp nói chuyện với mỗi người trẻ và thấu hiểu cái đang gây khó khăn cho họ; rồi sau đó, có lẽ tôi sẽ có thể hiến tặng một câu trả lời triệt để hơn cho mỗi câu hỏi. Nhưng tôi hy vọng rằng, những ý tưởng của tôi trên những vấn đề được nêu ra, sẽ giúp mang đến cho bạn đọc một cái nhìn mới mẻ trên từng vấn đề, một cách nghĩ mới mẻ về nó. Và nơi nào liên quan đến những vấn đề có tính chất đặc biệt, tôi động viên những người trẻ tìm kiếm lời khuyên của những người lớn tuổi hơn mà họ có thể tin cậy. Những thiên tài và những người có tài năng xuất chúng chỉ là một thiểu số nhỏ; đại đa số của xã hội, là những người bình thường, mộc mạc. Tôi là một người bình thường, với một hoàn cảnh không có gì đặc biệt. Trong tuổi trẻ, tôi đã đối mặt với cùng những vấn đề mà phần lớn những người trẻ đối mặt – mặc dù, bởi vì thuở đó tôi đang sống tại Nhật trong giai đoạn ngay sau Thế Chiến II, tôi đã trưởng thành trong một môi trường bị chiến tranh tàn phá. Cuốn sách này được viết ra với hy vọng rằng, những người trẻ có thể thu được lợi lạc từ lời khuyên của một ai đó giống như tôi, có một chút kinh nghiệm nhiều hơn họ. Thay vì là những bài giảng đạo, được thuyết giảng bởi một người tự cho rằng mình có sự hiểu biết nào đó ưu việt hơn, tôi hy vọng bạn đọc sẽ chấp nhận những điều tôi đã viết như là lời khuyên từ một kẻ mà đã đi xa hơn họ một chút trên đường đời. Một trong những mục đích của tôi trong đời, là giúp những người trẻ tìm thấy niềm hy vọng và lòng tự tin vào tương lai của họ. Chính bản thân tôi có niềm tin tưởng vô hạn vào thế hệ trẻ, và do vậy tôi nói với họ: “Bạn là niềm hy vọng của nhân loại! Mỗi người trong các bạn có một tương lai tươi sáng ở phía trước. Mỗi người trong các bạn có một tiềm năng quý giá đang chờ đợi được phát triển. Thành công của bạn, sự chiến thắng của bạn sẽ là sự chiến thắng của tất cả mọi chúng ta. Chiến thắng của bạn sẽ dẫn đường trong thế kỷ này,[4] thế kỷ của hòa bình và nhân ái, thế kỷ quan trọng nhất cho toàn nhân loại". Xin gởi đến bạn lời chúc chân thành nhất của tôi: Chúc bạn mạnh khỏe, tiến bước vững vàng, và luôn thành công trong mọi nỗ lực của bạn. — DAISAKU IKEDA Mời các bạn đón đọc Con Đường Tuổi Trẻ của tác giả Daisaku Ikeda.
Thiên Đường Có Thật - Todd Burpo
“Thiên đường có thật” là câu chuyện bất ngờ của một cậu bé đã đặt chân đến cõi thiên đường. Câu chuyện được bắt đầu khi cậu bé Colton Burpo phục hồi một cách kỳ diệu sau ca phẫu thuật cắt ruột thừa, gia đình cậu vui mừng khôn xiết. Thế nhưng, điều mà họ không ngờ tới chính là câu chuyện được hé mở vài tháng sau đó – một câu chuyện vừa kỳ thú vừa lạ thường, thuật lại chuyến chu du đến thiên đường của cậu con trai bé nhỏ. Colton, lúc đó chưa tròn bốn tuổi, đã kể với ba mẹ mình rằng cậu đã lìa khỏi thân xác trong suốt ca mổ - và minh chứng cho việc này bằng cách mô tả chính xác những gì mà ba mẹ cậu làm ở một nơi khác trong bệnh viện khi câu đang phẫu thuật… Thiên đường có thật mang đến một cái nhìn thoáng với một thế giới đang chờ đón chúng ta, nơi mà theo Colton “Không có ai già và không có ai đeo kính cả”. Thiên đường có thật sẽ thay đổi vĩnh viễn cách ta nghĩ về cõi vĩnh hằng, cho ta cơ hội để thấy, và tin, như một đứa trẻ. Tác giả của “Thiên đường có thật” chính là mục sư Todd Burpo, anh là mục sư nhà thờ tại nhà thờ Crossroads Wesleyan ở Imperial, Nebraska, nơi những bài giảng của anh được phát sóng vào mỗi chủ nhật qua đài phát thanh địa phương. Anh cũng làm việc tại trường Tư thục Hạt Chase với cương vị huấn luyện viên môn đấu vật cho các học sinh trung học và cao trung, kiêm thành viên của hội đồng quản trị nhà trường. Trong trường hợp khẩn cấp, Todd có thể làm việc sát cánh với Sở Cứu hỏa tình nguyện Imperial trong vai trò lính cứu hỏa. Anh cũng là cha tuyên úy cho Hiệp hội Cứu hỏa Tình nguyện tiểu bang Nabraska. Todd tốt nghiệp Đại học Wesleyan Oklahoma năm 1991 với học vị cử nhân chuyên ngành Thần học. Anh được thụ phong vào năm 1994. Chính những câu chuyện được kể lại bằng những từ ngữ đơn giản và làm người đọc liên tưởng đến những câu chuyện có thật trong cuộc đời khiến cho “Thiên đường có thật” nhận được rất nhiều lời khen từ các nhà khoa học lẫn các học giả. Như Tiến sĩ Everret Piper – Chủ tịch, Đại học Oklahoma Wesleyan, tác giả cuốn “Vì sao tôi là người tự do và những tư tưởng bảo thủ khác” đã từng nhận xét: “Tôi thường không đọc những chuyện kể về trải nghiệm "cận tử" đơn giản chỉ vì thật lòng tôi không mấy tin tưởng tác giả những câu chuyện này. Thế rồi, tôi đã đọc quyển sách này từ đầu đến cuối và thậm chí, hầu như tôi không thể ngưng lại! Vì sao ư? Vì tôi quen biết người viết và tôi tin anh ấy. Todd Burpo cho chúng ta một món quà tuyệt vời khi anh và con trai mình vén bức màn đến cõi vĩnh hằng, cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về những gì ở phía bên kia cuộc đời". *** LỜI KHEN TẶNG DÀNH CHO THIÊN ĐƯỜNG CÓ THẬT “BẠN SẼ CẢM ĐỘNG BỞI NHỮNG CÂU CHUYỆN ĐƠN GIẢN chân thành, hồn nhiên của một bé trai đã từng đến thiên đường. Câu chuyện thật hấp dẫn và thuyết phục. Đây là quyển sách bạn nên đọc. Nếu bạn đã sẵn sàng đến thiên đường, quyển sách sẽ tạo cảm hứng cho bạn. Còn nếu bạn chưa sẵn sàng, hãy để một trẻ nhỏ dắt bạn đi. Như Colton nói, “Thiên đường có thật.” - Don Piper   Diễn giả và Tác giả cuốn 90 phút nơi Thiên đàng “Thiên đường không phải là giải an ủi. Nơi đó thật sự là mái nhà vĩnh hằng đối với những ai có niềm tin. Hãy đồng hành cùng bé Colton và Todd để được nghe miêu tả những trải nghiệm bản thân về những điều kỳ diệu, những bí ẩn, và sự uy nghi của thiên đường. Điều đó khiến cho thế gian thêm trọn vẹn ý nghĩa và tương lai trở nên hữu ích hơn.” - Brady Boyd Mục sư quản nhiệm, Giáo đường Đời sống mới, Colorado Springs “Tôi thường không đọc những truyện kể về trải nghiệm ‘cận tử’ đơn giản chỉ vì thật lòng tôi không mấy tin tưởng tác giả những câu chuyện này. Thế rồi, tôi đã đọc quyển sách này từ đầu đến cuối và, thậm chí, tôi hầu như không thể ngưng lại! Vì sao ư? Vì tôi quen biết người viết và tôi tin anh ấy. Todd Burpo cho chúng ta một món quà tuyệt vời khi anh và con trai mình vén bức màn đến cõi vĩnh hằng, cho chúng ta"   - Tiến sĩ Everett Piper Chủ tịch, Đại học Oklahoma Wesleyan Tác giả cuốn Vì sao tôi là người tự do và những tư tưởng bảo thủ khác (Why I’m a Liberal and Other Conservative Ideas) “Trong quyển sách tuyệt vời này, Colton, mới bốn tuổi, có một trải nghiệm được xem như cận tử khi đang được gây mê. Tôi đã nghiên cứu hơn 1.600 trường hợp cận tử và thấy rằng các trường hợp điển hình có thể xảy đến với những trẻ em rất nhỏ và trong lúc bị gây mê. Ngay cả sau khi đã nghiên cứu rất nhiều trường hợp NDE, tôi vẫn thấy trải nghiệm của Colton đầy kịch tính, đặc biệt và là một nguồn cảm hứng đối với các tín đồ Kitô giáo khắp mọi nơi.” - Jeffrey Long, Tiến sĩ Y khoa, Người sáng lập Quỹ nghiên cứu Trải nghiệm Cận tử Tác giả cuốn Bằng chứng về Đời sau: Khoa học nghiên cứu các Trải nghiệm Cận tử “Nhiều câu chuyện cần được kể lại, đơn giản là vì những câu chuyện đó có đời sống riêng của chúng. Quyển sách bạn đang cầm trên tay thuộc loại ấy. Nhưng bạn sẽ không thể giữ nó riêng cho mình; nó sẽ lan đi qua những cuộc trò chuyện của bạn với những người chưa được nghe kể. Tôi biết bạn sẽ làm thế vì tôi đã làm thế.” - Phil McCallum Mục sư quản nhiệm, Giáo đường Evergreen, Bothell, Washington “Thánh kinh miêu tả Thiên đường là nơi cư ngụ của Chúa Trời. Đó là nơi có thật, chốn cư ngụ vĩnh hằng cho những ai dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa. Trong quyển sách này, Todd Burpo kể lại trải nghiệm của con trai mình khi cậu trải qua ca mổ ruột thừa. Câu chuyện thật chân thực, cảm động và đầy khích lệ đối với những ai hy vọng về chốn vĩnh hằng.” - Robert Morris Mục sư, Giáo đường Gateway, Southlake, Texas   “Thiên Đường Có Thật là một quyển sách tuyệt vời. Nó khẳng định lại niềm tin quan trọng như thế nào trong cuộc đời chúng ta – đối với cả trẻ em cũng như người lớn.” - Timothy P. O’Holleran, Tiến sĩ Y khoa “Câu chuyện của Colton có thể được kể trong Tân Ước – nhưng Chúa Trời đã chọn cách truyền đạt với chúng ta trong thế kỷ 21 này qua cái nhìn trong sáng của một đứa trẻ, tiết lộ một số bí ẩn về thiên đường. Giọng văn đầy cuốn hút và câu chuyện thật đáng kinh ngạc, khiến ta háo hức muốn nghe thêm.” - Jo Anne Lyon Tổng trưởng giáo hạt, Nhà thờ Wesleyan “Chúa Trời thật sáng tạo và đầy xác tín! Quyển sách này sẽ thể hiện điều này rõ hơn theo những góc độ mới. Tôi đã biết Colton từ lúc cậu mới ra đời. Khi mới chập chững biết đi, cậu đã có cảm xúc mãnh liệt về tâm linh. Khi mới 3 tuổi, cậu ngồi trên gối tôi, nhìn vào mắt tôi và hỏi tôi có muốn lên thiên đường sau khi chết không. Rồi cậu bảo tôi rằng “Bác phải có Chúa Giêsu ở trong tim.” Tôi xem quyển sách này như một góc nhìn mới đối với thực tế về Chúa Trời, Người thường có vẻ như ẩn khuất nhưng xuất hiện bất ngờ theo cách của Người.” - Phil Harris Tổng giáo hạt, Khu Colorado-Nebraska thuộc Nhà thờ Wesleyan “Thật là một ân sủng khi biết tranh vẽ của Akiane đã tác động đến cuộc sống của một ai khác. Bức họa Hoàng tử Hòa Bình của cô bé về Đấng Ki-tô luôn là một trong những tác phẩm được yêu thích nhất. Là bậc cha mẹ của một đứa bé đã trải nghiệm những điều phi thường và không thể giải thích theo những tiêu chí của trần gian, tôi chúc tụng gia đình này với niềm hân hoan của họ và trong việc họ kể lại câu chuyện đặc biệt của mình.” - Forelli Kramarik Đồng tác giả cuốn Akiane: cuộc đời, trái tim, thơ ca   *** KHI KỂ CÂU CHUYỆN VỀ COLTON, chúng tôi đã có cơ hội làm việc với những con người không những chuyên nghiệp và đầy nhiệt huyết mà còn là những con người chân thật và đầy yêu thương. Dĩ nhiên, chúng tôi rất ấn tượng với kiến thức chuyên môn của họ, nhưng điều mà cả Sonja và tôi cảm thấy trân trọng hơn nhiều chính là tấm lòng và tính cách của họ. Phil McCallum, Joel Kneedler, Lynn Vincent, và Debbie Wickwire không chỉ gác cả cuộc sống để thực hiện quyển sách này, họ còn vun đắp cho cuộc sống gia đình chúng tôi thêm phong phú. Nếu không có những nỗ lực lớn lao và tinh thần nhạy bén của họ, quyển sách Thiên đường có thật đã không thể được hoàn thành một cách mỹ mãn như vậy. Chúng tôi cảm tạ Đức Chúa Trời mỗi ngày vì đã mang những con người tài năng đến giúp chúng tôi kể câu chuyện của Colton. Mỗi người trong số họ chính là một phước lành đối với chúng tôi. Đối với tôi và Sonja, việc có được những người bạn như họ là một đặc ân quý giá.     Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Có Thật của tác giả Todd Burpo.
Phút Dừng Lại của Người Thông Minh - Atul Gawande
Thế giới hiện đại đã và đang mang lại cho chúng ta nhiều bí quyết thần kỳ. Nhưng những sai sót có thể tránh được lại tiếp tục quấy nhiễu chúng ta trong lĩnh vực y tế, hoạt động chính phủ, luật pháp, ngành tài chính – gần như là trong mọi lĩnh vực, các hoạt động và tổ chức. Và lý do thật đơn giản: khối lượng kiến thức và mức độ phức tạp của nó đang vượt quá khả năng kiểm soát của chúng ta, đe dọa khả năng của chúng ta trong việc truyền đạt thông tin đến mọi người xung quanh một cách hoàn hảo, nhất quán, chính xác và an toàn. Chúng ta được đào tạo lâu hơn, chuyên môn hóa hơn, sử dụng các công nghệ hiện đại hơn, nhưng chúng ta vẫn cứ thất bại. Giờ đây, tác giả nổi tiếng, bác sĩ phẫu thuật Atul Gawande đưa ra một lý lẽ hết sức thuyết phục rằng chúng ta có thể làm tốt hơn và tìm ra cách giải quyết vấn đề bằng giải pháp bình thường nhất: một danh mục kiểm tra tầm thường. Ông giải thích làm thế nào các danh mục kiểm tra lại biến những điều khó khăn nhất thành có thể – từ điều khiển máy bay đến xây dựng các tòa cao ốc phức tạp. Và với kinh nghiệm của chính mình, ông cho mọi người thấy nhờ vào đâu mà việc áp dụng ý tưởng này vào lĩnh vực phẫu thuật vốn vô cùng phức tạp lại tạo ra được một danh mục kiểm tra mà việc thực hiện chỉ mất 90 giây, nhưng lại giúp giảm hơn một phần ba tỷ lệ tử vong và biến chứng tại tám bệnh viện trên thế giới – mà hầu như không cần thêm khoản chi phí nào và có thể áp dụng cho hầu hết các loại hình phẫu thuật. Qua những câu chuyện kể hấp dẫn, Gawande dẫn dắt chúng ta đi từ nước Áo, nơi danh mục kiểm tra trong cấp cứu đã cứu sống một nạn nhân suýt chết đuối vì đã chìm dưới nước nửa giờ đồng hồ; đến Michigan, nơi danh mục kiểm tra vệ sinh ở các khu săn sóc đặc biệt gần như đã giúp loại trừ một kiểu nhiễm trùng gây chết người; và đến cả danh mục kiểm tra cho buồng điều khiển của chiếc máy bay đang gặp nạn. Xuyên suốt các câu chuyện, ông tiết lộ cho chúng ta điều gì danh mục kiểm tra có thể làm được, điều gì không, và chúng đã tạo ra những tiến bộ thần kỳ như thế nào trong cuộc sống này. Và vấn đề mà Gawande đặt ra cho mọi lĩnh vực nghề nghiệp là: Hãy đơn giản mọi thứ có thể và hãy ngăn chặn sai lầm bằng những bước đơn giản nhất. *** Atul Gawande là tác giả của hai cuốn sách Better (Tốt hơn nữa) và Complications (Các biến chứng). Năm 2006 ông đã từng đoạt giải thưởng MacArthur Fellowship, một trong những giải thưởng cao quý nhất trong các ngành khoa học, xã hội, nhân văn, nghệ thuật. Ông là bác sĩ phẫu thuật nội tiết và tổng quát ở Boston. Atul Gawande còn là cộng tác viên của tờ báo The New Yorker và là giảng viên Trường Y thuộc Đại học Harvard. Ngoài ra, ông còn điều hành chương trình Phẫu thuật An toàn của Tổ chức Y tế Thế giới. Hiện nay, ông cùng vợ và ba con sống tại Newton, Massachusetts, Mỹ. *** Tôi đang trò chuyện với John, anh bạn học cùng trường y, nay là bác sĩ phẫu thuật tổng quát tại San Francisco. Cũng như các bác sĩ phẫu thuật khác, chúng tôi trao đổi những chuyện trong phòng mổ. John bắt đầu bằng câu chuyện về một anh chàng nhập viện trong đêm Halloween. Anh ta đến dự một buổi tiệc hóa trang, rồi vướng vào một cuộc ẩu đả và bị đâm. Khi nhập viện, tình trạng nạn nhân khá ổn định, nhịp thở đều, không kêu đau, nhưng say mèm và miệng lảm nhảm không ngớt. Các bác sĩ phải dùng kéo cắt bỏ quần áo anh ta và tiến hành kiểm tra toàn diện. Nạn nhân có vóc người trung bình, nặng khoảng 90 kg, bụng phệ. Vết đâm ở bụng, một vết thương hở còn đỏ máu và dài khoảng hơn hai đốt ngón tay. Một đường sắc gọn đỏ máu. Từ miệng vết thương đùn ra một thứ mỡ vàng sậm. Đó là lớp mỡ trong thành bụng chứ không phải thứ mỡ vàng nhạt dưới da. Các bác sĩ đưa anh ta đến phòng mổ để kiểm tra xem có tổn thương gì trong khoang bụng không, sau đó khâu vết thương lại. - Không có gì nghiêm trọng lắm. - John nói. Nếu đây là vết thương nặng, các bác sĩ sẽ phải lao vào phòng mổ, xe đẩy chạy như bay, y tá sẽ nhanh chóng chuẩn bị dụng cụ và chuyên viên gây mê sẽ bỏ qua các bước kiểm tra bệnh sử rườm rà để lập tức tiến hành ca mổ. Nhưng vết thương này không nặng. Các bác sĩ có thời gian để xem xét mọi việc trước khi kết luận. Ngay lúc đó, y tá phát hiện bệnh nhân không còn mấp máy môi nữa, nhịp tim tăng vọt, mắt trợn trừng. Y tá lay gọi nhưng anh ta không có phản ứng gì. Cô vội gọi cấp cứu và các bác sĩ vội quay lại phòng mổ. Huyết áp gần như không đo được. Họ đặt nội khí quản, truyền dịch, truyền máu khẩn cấp cho bệnh nhân, nhưng vẫn không thể giúp huyết áp tăng lên. Vậy là các bác sĩ phải hành động cấp tốc. Các bác sĩ lao vào phòng mổ, xe đẩy chạy như bay, y tá nhanh chóng chuẩn bị dụng cụ mổ và chuyên viên gây mê bỏ qua các bước kiểm tra bệnh sử rườm rà. Một bác sĩ thực tập đổ vội cả chai thuốc sát trùng Betadine lên vùng bụng bệnh nhân. John cầm dao mổ số 10 to tướng, rạch một đường sắc lẹm lên lớp da bụng, kéo dài từ lồng ngực đến tận xương mu. - Dao điện. John cầm lưỡi dao điện cắt dọc lớp mỡ dưới da, tách ra hai bên, sau đó cắt qua những sợi màng của mô liên kết dưới cơ bụng. Khi anh vừa mở khoang bụng thì máu tuôn ra ồ ạt. - Chết tiệt! Máu tràn khắp nơi. Lưỡi dao của kẻ thủ ác đã đâm vào sâu hơn một gang tay, xuyên qua lớp da, lớp mỡ, qua cả lớp cơ, qua ruột, sượt bên trái cột sống và cắt phải động mạch chủ. - Thật là kinh khủng, - John kể. Một bác sĩ phẫu thuật đến hỗ trợ kíp mổ đã dùng tay bóp chặt động mạch chủ, ngay trước vết cắt. Hành động đó đã giúp ngăn chặn sự mất máu và họ dần dần kiểm soát được tình hình. Đồng nghiệp của John nói rằng anh chưa gặp tình huống nào tương tự kể từ sau khi chiến tranh kết thúc. Hóa ra tình tiết cũng gần giống như thế. Sau này, John được biết rằng kẻ tấn công ở bữa tiệc hóa trang đã mặc đồng phục của một quân nhân, lại còn mang theo cả chiếc lưỡi lê dài. Bệnh nhân mê man mấy ngày, nhưng cuối cùng cũng qua khỏi tình trạng nguy kịch. John vẫn còn lắc đầu rầu rĩ khi nhắc lại trường hợp này. Khi bạn có một bệnh nhân bị đâm như vậy thì sẽ có hàng ngàn lý do khiến sự việc có thể trở nên tồi tệ. Và cả ê kíp chữa trị đã thực hiện rất tốt hầu hết mọi công đoạn, từ kiểm tra tổng quát, theo dõi cẩn thận huyết áp, mạch và hơi thở, giám sát tình trạng tỉnh táo, đến truyền dịch vào tĩnh mạch, liên hệ ngân hàng máu để sẵn sàng hỗ trợ, thay thế ống dẫn tiểu để luôn giữ vệ sinh... tức là tất cả mọi thứ. Chỉ trừ một việc là không ai nhớ hỏi bệnh nhân hay đội cấp cứu về hung khí gây thương tích. - Bạn chẳng bao giờ nghĩ đến một lưỡi lê ở giữa thành phố San Francisco này. - John chỉ biết giải thích như thế. John lại kể tôi nghe một câu chuyện khác. Một bệnh nhân đang được phẫu thuật cắt khối u dạ dày thì bất ngờ tim ngừng đập. John nhớ lúc nhìn vào máy điện tim, anh đã quay sang hỏi bác sĩ gây mê: “Này, có nhịp tim không?”. Trên màn hình hiện lên một đường thẳng, như thể máy điện tim không được kết nối với bệnh nhân vậy. Bác sĩ gây mê cho rằng có lẽ phích cắm điện bị tuột, vì việc bệnh nhân này bị ngưng tim là điều gần như không thể xảy ra. Ông ta mới khoảng gần 50 tuổi với tình trạng sức khỏe hoàn toàn tốt. Khối u được phát hiện tình cờ trong một lần ông ta đi khám bệnh vì một vấn đề khác, hình như là bị ho, và ông có nói với bác sĩ khám bệnh là mình thường bị ợ hơi. Thỉnh thoảng ông cảm thấy như ăn không tiêu, thức ăn hay bị tắc ở thực quản tạo cảm giác buồn nôn, khó chịu. Bác sĩ yêu cầu ông uống một ly nước chứa chất cản quang rồi tiến hành chụp X- quang. Kết quả cho thấy có một khối u cỡ bằng nắm tay ở gần cuống dạ dày, thỉnh thoảng lại chặn ở thực quản như một cái nút. Rất may là khối u được phát hiện sớm và chưa có dấu hiệu di căn. Trong trường hợp này, biện pháp duy nhất là phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ dạ dày. Đây là một dạng phẫu thuật khó và thường kéo dài khoảng bốn giờ. Ê kíp phẫu thuật đã đi được nửa chặng đường. Khối u được lấy ra mà không có bất kỳ vấn đề nào phát sinh. Các bác sĩ đang chuẩn bị khôi phục lại bộ máy tiêu hóa cho bệnh nhân thì đột nhiên màn hình báo không có nhịp tim. Phải mất năm giây, mọi người mới phát hiện ra là phích cắm vẫn nằm trong ổ điện. Chuyên viên gây mê cũng không thấy mạch đập trong động mạch cảnh. Tim bệnh nhân đã ngừng đập. ... Mời các bạn đón đọc Phút Dừng Lại của Người Thông Minh của tác giả Atul Gawande.