Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Diệt Vong

DIỆT VONG là tiểu thuyết cuối cùng và đen tối nhất của Thomas Bernhard. Xuyên suốt tác phẩm là tự sự của Franz-Josef Murau, con cừu đen trí thức trong một gia đình quý tộc lâu đời ở Áo, bị ám ảnh bởi căn tính của mình, căm ghét gia đình mình, ghê sợ tôn giáo của mình, yêu quí đất nước Áo, nhưng lại căm thù nhà nước Áo, Murau đã phân tích thấu đáo thực trạng vừa giả tạo vừa đê tiện vừa phù phiếm của xã hội, nhưng bên cạnh đó là những nhận thức bản thể tự thân, ông lý giải về sự tồn tại của bản thân trong tâm trí chính chúng ta và sự tồn tại của chúng ta trong mắt tha nhân. Với một phong cách phóng túng cường điệu, lối kể chuyện tinh tế, tri kiến sâu rộng, cùng thủ pháp độc thoại monologue bậc thầy, Thomas Bernhard được coi là người khổng lồ hùng mạnh nhất của văn học Đức ngữ kể từ sau chiến tranh thế giới II. -- “Với sự dữ dội ngạt thở... Qua tiếng nói của Murau, Thomas Bernhard tấn công thế giới hiện đại, được minh họa bởi nơi chôn rau cắt rốn của ông, nước Áo. ” Chicago Tribune "Sự tinh tế khác biệt của Diệt vong nằm ở sự mô tả ý thức trong hành động: Murau, hóa ra, có thể yếu đuối, đáng ngưỡng mộ, khó hiểu hoặc độc địa, nhưng tâm trí của anh ta, như được mô tả trên trang giấy, dường như hoàn toàn đúng với cuộc sống. " - Washington Post Book World “Không phải mọi kẻ điên đều là thiên tài. Nhiều người được gọi thế nhưng số người thực sự như vậy thì rất ít. Đó là một câu lạc bộ riêng biệt, nhưng Bernhard đã bước chân vào đó... Giống như Swift, Bernhard viết như một con quái vật thiêng liêng... Ông là một nghệ sĩ biểu diễn văn học xuất chúng: một người đi đến cực đoan bằng cách truyền sức sống cho ý thức của chúng ta về khả năng của con người, tuy nhiên lại mang tính phá hoại." The Wall Street Journal *** Với "Diệt vong", Thomas Bernhard viết ở một tầm cao khác, vượt xa những gì người ta có thể tưởng tượng, sống động và bất ngờ, điên rồ và tàn bạo, quái dị và phức tạp. Khi Franz-Josef Murau nhận được tin cha mẹ và anh trai vừa chết trong một tai nạn xe hơi, ông biết ngay mình sẽ được thừa kế lâu đài - đất đai - tài sản của dòng họ để lại. Ông khởi sự viết một cuốn sách độc thoại dài gần 500 trang chỉ để trả lời cho câu hỏi: “Làm cách nào để thoát khỏi cái mớ bòng bong thừa kế tự nhiên rơi vào đầu như thế?”. Để trả lời cho câu hỏi đó, ông liệt kê toàn bộ oán hận của mình với gia đình, với anh em họ hàng, và cả với đất nước của mình, và quá khứ phát xít của dân tộc Áo cũng được ông đưa ra để bình xét, không những thế ông tìm mọi chủ đề phê bình từ trí thức nhà thơ nhà văn đến người công nhân lao động bình thường, cả những thợ săn cho đến cô hầu gái, người phục vụ… cũng không thoát khỏi con mắt soi mói đầy phán xét của ông, tất cả chỉ để phục vụ cho mục đích duy nhất: là chối bỏ thừa kế.  Dĩ nhiên những chủ đề ám ảnh như vậy đòi hỏi một hình thức cũng ám ảnh không kém. Trong cuộc đấu tranh để mô tả ý thức hành động, Thomas Bernhard mài giũa một liên minh tinh tế về cấu trúc và ý tưởng. Diệt vong trở thành một cuộc độc thoại liên tu bất tận, cả cuốn sách gần năm trăm trang chỉ chia làm hai đoạn, những dòng chữ chảy tràn, không một ngắt đoạn, không xuống dòng, những câu văn dường như vô tận, kéo dài từ chủ thể này sang chủ thể khác mà không cần tạm dừng để thở, người đọc như bị kéo vào hình thức tàn bạo đặc biệt. Và điều đó làm tổn thương mọi cảm xúc từ sự trầm ngâm đến sự cuồng loạn. Người ta cảm giác người kể chuyện Franz-Josef Murau, con cừu đen trí thức trong một gia đình quý tộc lâu đời ở Áo, đang bị mắc kẹt trong tâm tưởng của mình, mắc kẹt trong những lời chỉ trích của chính mình, ý thức về sự giả dối và xấu xa của bản thân, nhưng ông không muốn và không chịu nhìn nhận một cách khách quan. Thomas Bernhard là bậc thầy trong việc phát triển độc thoại. Ông dựng nên những nghịch cảnh, và đặt người ta vào những biên cảnh ngặt nghèo, để khám phá sự khác biệt của mọi người ở mọi hoàn cảnh, tận hưởng niềm vui khi có tin xấu, tận hưởng hạnh phúc trong hoàn cảnh tồi tệ. Ông theo đuổi chủ nghĩa duy mỹ, phương châm của ông là châm biếm và trả thù, ông thích để con người chống lại con người, đẩy con người đến điểm cực hạn cho tới khi người ta phải bật trở lại. Ông giống như một nghệ sĩ cường điệu, đẩy mọi ý tưởng đến cùng cực, đòi hỏi một dạng chủ nghĩa cực đoan tương tự. Người ta bảo Thomas Bernhard bạo lực ngôn ngữ cũng không có gì sai, câu châm ngôn nổi tiếng của Wittgenstein “giới hạn ngôn ngữ của tôi là giới hạn thế giới của tôi” rất đúng với trường hợp của ông, Bernhard đã cố gắng mở rộng giới hạn bên ngoài của ngôn ngữ của mình đến mức nó có thể bao gồm cả những hình thái cực đoan nhất trong trải nghiệm của con người. Thomas Bernhard viết ở một tầm cao khác, vượt xa những gì người ta có thể tưởng tượng, sống động và bất ngờ, điên rồ và tàn bạo, quái dị và phức tạp, tất cả đã tạo nên một cuốn Diệt vong tối thượng ảm đạm.  Tác giả Thomas Bernhard là nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch người Áo. Ông được coi là tác gia Đức ngữ quan trọng nhất thời hậu chiến. Được đánh giá cao ở nước ngoài nhưng tại Áo, ông lại bị chỉ trích là kẻ “vạch áo cho người xem lưng” khi các tác phẩm của ông thẳng thắn chỉ ra và cay nghiệt phê phán các thói tật của quê hương, bao gồm của quá khứ Quốc xã. ***  trên đồi Pincio nhằm khớp lịch học tháng Năm với anh học trò Gambetti của tôi, một thanh niên mà trí thông minh tuyệt vời vẫn làm tôi phải kinh ngạc ấy - ông Franz-Josef Murau viết - lòng tôi trở nên khoan khoái và vui vui cùng ý nghĩ, mình quả thực đã sống từ lâu ở Rome rồi chứ không còn ở Áo nữa, niềm vui làm tôi phấn chấn đến mức trái thói quen thường ngày, tôi không đi ngay qua phố Condotti để về nơi tôi ở tại Piazza Minerva nữa, mà vòng qua ngả Flaminia và Piazza del Popolo, đi dọc cho hết cả dãy đại lộ Corso mới về tới căn hộ tôi ở, là nơi khoảng hai giờ trưa tôi nhận được bức điện tín báo tin về cái chết của bố mẹ và ông anh trai Johannes. Bố mẹ và anh Johannes bị tai nạn chết. Caecilia, Amalia, cầm bức điện trên tay, đầu óc hoàn toàn tỉnh táo, tôi bình thản bước đến bên cửa sổ phòng làm việc nhìn xuống Piazza Minerva vắng tanh không một bóng người. Tôi đã đưa Gambetti năm quyển sách mà tôi tín chắc là trong mấy tuần tới sẽ có ích và cần thiết cho anh ta, đồng thời yêu cầu anh ta đọc hết sức cẩn thận, cũng có nghĩa là thật thong thả, cả năm quyển sách đó: Luật sư Siebenkäs của Jean Paul, Vụ án của Franz Kafka, Amras của Thomas Bernhard, Người đàn bà Bồ Đào Nha của Musil, Gã Esch hay chủ nghĩa vô chính phủ của Broch, và bây giờ, sau khi mở toang cửa sổ cho dễ thở, tôi nghĩ tôi đã quyết định đúng khi đưa đúng năm quyển ấy, chứ không phải quyển nào khác cho Gambetti, bởi năm quyển ấy sẽ mỗi lúc một quan trọng hơn trong quá trình học, rằng tôi đã rất kín đáo mách khéo, lần tới tôi sẽ cùng anh ta phân tích mổ xẻ cuốn Tình đầu ý hợp chứ không bàn đến cuốn Thế giới như là ý chí và biểu tượng. Chuyện trò với Gambetti đối với tôi cũng lại là một hứng thú lớn, sau bấy nhiêu cuộc trò chuyện nặng nề, khó nhọc, loanh quanh độc những nhu cầu thường nhật, hết sức riêng tư và tầm thường với gia đình tôi ở Wolfsegg. Từ ngữ tiếng Đức như những quả cân bằng chì treo vào ngôn ngữ Đức, tôi đã bảo Gambetti vậy, và chắc chắn sẽ đè tư duy xuống một bình diện vốn rất có hại cho chính tư duy ấy. Cả tư duy Đức lẫn tiếng nói Đức đều bị tê liệt rất nhanh dưới sức nặng phi nhân của ngôn ngữ Đức, một gánh nặng đè bẹp mọi ý nghĩ ngay trước khi chúng được phát ngôn thành lời, như lịch sử hàng trăm năm lao tâm khổ tứ của dân Đức đã cho thấy. Do bị nằm đè dưới ngôn ngữ ấy, nền tư tưởng Đức dường như đã rất khó phát triển và không bao giờ có thể bột phát toàn diện, ngược hẳn nền tư tưởng Roman dưới ngôn ngữ Roman. Mặc dù tôi đánh giá tiếng Tây Ban Nha cao hơn, có lẽ chỉ vì tôi thạo nó hơn chăng, nhưng buổi sáng hôm đó Gambetti đã lại cho tôi một bài học quý giá về tính nhẹ nhàng, thanh thoát lẫn sự linh hoạt vô cùng tận của tiếng Ý. Đem thứ tiếng này so với tiếng Đức cũng giống như đem so một đứa trẻ hoàn toàn tự do lớn lên trong một gia đình khá giả và hạnh phúc với một đứa trẻ xuất thân từ gia đình nghèo khó, bần cùng, bị đè nén, bị đánh đập mà đâm ra lươn lẹo. Bởi thế, càng phải đánh giá cao công sức của các triết gia và văn sĩ của chúng tôi, tôi bảo Gambetti vậy. Mỗi một từ tức khắc sẽ níu suy nghĩ của họ xuống, câu nào cũng đè ý nghĩ của họ xuống đất, bất kể họ dám nghĩ điều gì, và như thế bao giờ cũng có nghĩa là đètất tật xuống đất. Chính vì thế mà triết lý của họ, cũng như những gì họ sáng tác ra, đều như thể bằng chì hết cả. Tự dưng tôi xướng to để Gambetti nghe một câu của Schopenhauer trích từ Thế giới như là ý chí và biểu tượng, bằng tiếng Đức trước, tiếng Ý sau, nhằm thử minh họa cho anh ta, Gambetti, thấy bên tay trái tôi, tượng trưng cho đĩa cân đặt tiếng Đức bị vít thấp xuống đến mức nào, trong khi tay phải tượng trưng cho đĩa cân bên đặt tiếng Ý được hất cao bổng lên ra sao. Trong sự khoái chí của tôi lẫn của Gambetti, tôi nói vài câu của Schopenhauer bằng tiếng Đức trước, rồi bằng tiếng Ý do chính tôi dịch ứng khẩu, đoạn đặt chúng lên hai đĩa cân ở hai bên tay tôi ấy cho toàn thể thiên hạ, nhưng trước hết là cho Gambetti, nhìn rõ điều đó; rồi dần dần nó biến thành mộttrò chơi mà tôi đẩy lên đến tột đỉnh, một trò chơi rốt cuộc kết thúc bằng các câu nói của Hegel và cách ngôn của Kant Thật đáng tiếc, tôi bảo Gambetti, không phải những từ ngữ nặng nề bao giờ cũng thuyết phục nhất đâu, y hệt các câu nặng nề không phải bao giờ cũng thuyết phục nhất. Trò chơi này chẳng mấy chốc làm tôi kiệt sức. Đứng dừng lại trước khách sạn Hassler, tôi kể Gambetti nghe ngắn gọn về chuyến đi Wolfsegg, nhưng càng về cuối, tôi lại càng thấy câu chuyện đâm ra chi li đầy đủ quá, vâng, thậm chí ba hoa quá. Tôi định dọn chỗ, đặt anh ta trước một buổi cân đong, so sánh giữa hai gia đình, đặt yếu tố Đức của gia đình tôi ở bên này, đối diện với yếu tố Ý trong gia đình anh ta ở bên kia; song, rốt cuộc tôi lại để gia đình tôi đối đầu với gia đình anh, khiến câu chuyện tôi kể bị méo mó, và làm Gambetti, thay vì được dạy dỗ, được khai minh chỗ này điều nọ, chắc lại bị quấy rầy khó chịu lắm. Gambetti là người rất biết lắng nghe và có đôi tai thật thính, lại được tôi dạy thêm thủ thuật nghe sàng lọc về nội dung sự thật cũng như về tính nhất quán của bất cứ một cuộc thuyết trình nào. Gambetti là học trò của tôi, nhưng ngược lại, tự tôi cũng là học trò của Gambetti. Ít ra tôi cũng học được ở Gambetti bấy nhiêu bài học, ngang đúng số bài Gambetti học được ở tôi. Quan hệ giữa hai chúng tôi là quan hệ lý tưởng, bởi lần này tôi là thầy của Gambetti và anh ta là trò của tôi, lần sau Gambetti là thầy, tôi là trò, và một tình huống rất hay xảy ra là cả hai chúng tôi đều không biết lúc ấy Gambetti là trò, tôi là thầy, hay ngược lại. Đó chính là lúc tình huống lý tưởng nảy sinh. Nhưng đằng thẳng ra thì bao giờ tôi cũng là thầy học của Gambetti vì tôi được Gambetti, hay nói đúng hơn là được ông bố giàu có của Gambetti trả công dạy học. Hai ngày sau khi trở về từ đám cưới của Caecilia em gái tôi với tay chủ xưởng sản xuất nút chai vang ở Freiburg, tức là chồng nó, bây giờ thành em rể tôi, tôi lại phải xếp lại chỗ quần áo tôi vừa bỏ ra, mới hôm qua chứ đâu, chưa kịp dọn, còn nằm ngổn ngang trên chiếc ghế bành kê cạnh bàn làm việc của tôi vào túi xách du lịch và quay lại Wolfsegg - cái chốn từ mấy năm trở lại đây tất tật mọi thứ thật sự trở nên ít nhiều đáng ghê tởm đối với tôi, tôi nghĩ bụng, lúc vẫn đang đứng bên cánh cửa sổ mở toang nhìn xuống Piazza Minerva không một bóng người - vì một duyên cớ lúc này không còn nực cười và lố bịch nữa, mà là một duyên cớ thật kinh khủng. Thay vì được ngồi chuyện trò với Gambetti về Luật sư Siebenkäs và Người đàn bà Bồ Đào Nha, tôi sẽ phải nộp mình cho hai con em gái đang đợi tôi ở Wolfsegg, tôi tự nhủ, thay vì được trao đổi với Gambetti về Tình đầu ý hợp, tôi sẽ phải bàn chuyện với hai đứa chúng nó về chuyện chôn cất bố mẹ và ông anh, cũng như về tài sản họ để lại. Thay vì được cùng Gambetti đi qua đi lại trên đồi Pindn, tôi sẽ phải lui tới văn phòng Thị trưởng, ra vào nghĩa địa hay nhà thờ rồi cãi nhau với hai con em gái về việc thu xếp đám tang. Trong lúc xếp số quần áo hôm qua tôi vừa lôi ra vào túi, tôi cố hình dung xem các hậu quả sinh ra từ cái chết của bố mẹ tôi cùng cái chết của anh trai tôi sẽ như thế nào, nhưng chẳng hình dung được gì. Song, tất nhiên tôi rất hiểu cái chết của ba người, mà chí ít xét trên giấy tờ, cũng là gần gũi nhất với tôi ấy, sẽ đòi hỏi những gì ở tôi: tức là toàn bộ sức lực, toàn bộ sức mạnh ý chí của tôi. Sự bình thản trong tôi lúc tôi lần lượt nhồi nhét các thứ cần thiết cho chuyến đi vào túi xách, cũng như sự bình thản trong lòng tôi lúc suy tính đến tương lai bị rung chuyển ngay sau tai nạn chắc chắn là kinh khủng đó, mãi một lúc lâu, sau khi đã đóng túi lại, tôi mới thấy là kỳ quái. Cái câu hỏi, liệu tôi có thương yêu bố mẹ và anh trai không, tuy bị ngay cái từ dĩ nhiên gạt đi - không những chỉ là chung chung, mà nói cho đúng - vẫn chưa được trả lời. Đã từ lâu rồi, cả đối với bố mẹ lẫn đối với ông anh trai, tôi không còn có mối liên hệ nào gọi là tốt đẹp nữa cả, mà phải gọi là căng thẳng thì đúng hơn, và dần dần, cho đến những năm gần đây, trở nên hờ hững. Tôi chẳng thiết gì đến Wolfsegg, như thế cũng có nghĩa là không thiết gì đến bố mẹ và ông anh tôi nữa, thì ngược lại, bố mẹ và ông anh cũng chẳng thèm quan tâm gì đến tôi nữa; đó là sự thật. Xuất phát từ một nhận thức như thế, các mối liên hệ của chúng tôi chỉ còn được đặt trên một nền tảng ít nhiều đủ để gọi là có nữa mà thôi. Tôi nghĩ, hai chục năm trước ông bà già mày không những để mày tuột khỏi Wolfsegg, là nơi ông bà định buộc xích vào chân mày suốt đời, mà ông bà mày còn để mày tuột hẳn khỏi lòng dạ ông bà nữa kia. Ông anh tôi ghen tị khôn nguôi với tôi suốt hai chục năm trời ấy, vì tôi đã bỏ đi, vì tính tự lập đầy hoang tưởng của tôi, như gã có lần đã đốp thẳng mặt tôi như thế, vì các đòi hỏi được tự do đến độ tàn nhẫn của tôi; tóm lại, gã căm ghét tôi. Còn hai con em gái tôi chỉ dành cho tôi mối nghi ngờ bao giờ cũng lớn hơn mối nghi ngờ thường có giữa anh chị em, chúng nó dõi theo tôi với những cặp mắt hằn học, ngay từ thời điểm tôi quay lưng lại với Wolfsegg để ra đi, cũng là lúc quay lưng lại với chúng nó. Đó là sự thật. Tôi nhấc cái túi xách lên, như mọi khi, nó nặng trình trịch, quá nặng, tôi nghĩ bụng, mà thật ra thì nó cũng chẳng để làm gì, vì ở Wolfsegg tôi có đủ mọi thứ kia mà. Tha nó theo làm quái gì chứ? Tôi quyết định không mang túi về Wolfsegg nữa và lôi các thứ trong túi ra xếp lại vào ngăn kéo. Chúng ta vẫn thường thương yêu bố mẹ một cách tự nhiên, và vẫn thường thương yêu các anh chị em chúng ta, cũng một cách tự nhiên như thế - tôi tự nhủ, lúc tôi lại đến đứng bên cửa sổ nhìn xuống Piazza Minerva vẫn không một bóng người ở dưới kia - mà không nhận thấy rằng, đến một thời điểm nhất định nào đó, ta bắt đầu căm ghét họ, hoàn toàn trái với ý muốn của chính ta, nhưng cũng hoàn toàn tự nhiên y như lúc trước đó ta yêu thương họ vậy, xuất phát từ tất cả những nguyên do mà phải nhiều năm sau, thường là hàng chục năm sau, ta mới vỡ nhẽ. Ta không thể xác định được chính xác cái thời điểm từ đó trở đi ta không còn yêu thương bố mẹ và anh chị em ta nữa mà xoay ra căm ghét họ là lúc nào, và chúng ta cũng không còn cất công tìm cho ra cái thời điểm ấy nữa làm gì, vì xét cho cùng, ta rất sợ tìm ra nó. Những ai đã trái ý nguyện người thân để từ bỏ họ ra đi, thêm vào đó, lại ra đi theo một cách hết sức ác độc như tôi đã ra đi, thì tất phải tính đến lòng căm ghét của họ, và tình thương yêu trước đó dành cho ta lớn lao bao nhiêu thì bây giờ, khi ta đã hoàn thành những gì ta đã định, sự căm ghét của họ càng sâu sắc bấy nhiêu. Hàng chục năm trời tôi từng đau khổ vì bị người nhà căm ghét, giờ đây tôi tự nhủ, song những năm gần đây, chẳng còn chút đau đớn nào nữa cả, tôi quen bị căm bị ghét rồi và không còn vì thế mà bị tổn thương nữa. Lòng căm ghét mà cả nhà đổ lên đầu tôi ấy, không thể tránh khỏi, đã đương nhiên khơi dậy trong tôi sự căm ghét dành cho cả nhà. Và, từ mấy năm gần đây, cũng chẳng ai còn đau khổ vì bị tôi căm ghét nữa. Cả nhà khinh bỉ cái thằng thành Rome, cũng như tôi coi thường bọn Wolfsegg vậy, và nói cho cùng, chẳng ai nhớ đến tôi, cũng như tôi không mấy khi nhớ đến ai trong nhà. Cả nhà chỉ toàn gọi tôi là thằng bịp bợmhay thằng ba hoa, một kẻ ăn bám cả gia đình lẫn thiên hạ. Còn tôi, tôi chỉ còn mỗi một từ lũ đần độn để gọi mọi người trong nhà. Cái chết của cả ba người, chắc chỉ có thể là do tai nạn xe hơi mà thôi ấy, tôi tự nhủ, chẳng mảy may làm thay đổi sự thật đó. Tôi chẳng hề lo ngại tôi sẽ vì thế mà sinh ra đa sầu đa cảm. Đôi tay tôi thậm chí còn chẳng run rẩy chút nào khi cầm đọc bức điện tín, thân thể tôi chẳng mảy may rung động, dù chỉ một phút giây ngắn ngủi. Tôi sẽ báo tin để Gambetti biết, bố mẹ và anh trai tôi đã chết, nên tôi phải bỏ qua vài buổi dạy, tôi nghĩ thầm, chỉ vài ngày thôi, bởi tôi sẽ chẳng lưu lại Wolfsegg lâu hơn vài ba ngày; cùng lắm chỉ một tuần là đủ, ngay cả khi có bao nhiêu thủ tục rắc rối không lường trước được cũng vậy thôi. Tôi đã thoáng có ý nghĩ, hay là đưa Gambetti đi theo, bởi tôi cảm thấy e ngại trước số đông vượt trội của đám người ở Wolfsegg và muốn có lấy ít nhất một người về phe mình, một người có thể giúp tôi đủ sức chống đỡ cuộc tấn công ồ ạt của đám người Wolfsegg, một con người, một đồng đội tương ứng với tôi trong tình thế có thể sẽ là vô vọng ấy, nhưng tôi lại gạt ngay ý nghĩ đó đi, vì tôi muốn tránh cho Gambetti cuộc đối mặt với Wolfsegg. Bởi có thể anh ta sẽ thấy tất cả những gì suốt mấy năm qua tôi nói với anh ấy về Wolfsegg thật là vô hại so với sự thật và thực tế mà anh ta sẽ được chứng kiến, tôi nghĩ bụng. Lúc nãy tôi vừa định kéo Gambetti đi cùng, lúc sau lại thôi, không đưa anh ta theo nữa. Rốt cuộc tôi nhất quyết không đem anh ta theo. Mang Gambetti theo, tôi tự nhủ, thể nào tôi cũng gây nhiều ồn ào ở Wolfsegg và nhất là gây một vố náo động giật gân mà đối với tôi, nói chung, chắc chắn sẽ rất đáng ghê tởm. Một người như Gambetti, đám Wolfsegg sẽ không bao giờ hiểu nổi. Ngay cả với những người lạ hết sức hiền lành, bọn họ ở Wolfsegg bao giờ cũng đón tiếp một cách ghê tởm và hằn học, tất tật những ai lạ mặt đều bị họ khước từ, họ không bao giờ hành động như tôi, vốn vẫn quen trong chớp mắt đã có thể sà ngay vàotìm hiểu một cái gì đó lạ lẫm hay làm quen với một người lạ mặt nào đấy. Đưa Gambetti về Wolfsegg sẽ có nghĩa là cố tình đối xử bất nhã với anh, và nói cho cùng, là xúc phạm anh ta một cách nặng nề. Đến chính tôi còn chưa đủ sức thanh toán xong mọi sự với Wolfsegg, huống hồ một con người đầy cá tính như Gambetti. Sự đối đầu giữa Gambetti với Wolfsegg biết đâu sẽ dẫn tới một tai họa thật sự, tôi nghĩ bụng, và nạn nhân không chừng sẽ chẳng là ai khác ngoài Gambetti. Lẽ ra tôi đã có thể đưa Gambetti về thăm Wolfsegg một lần rồi đấy, tôi thầm nghĩ, nhưng rồi tôi lại thôi, mặc dù tôi vẫn thường tự bảo, sẽ đưa Gambetti về Wolfsegg chơi, may ra, không những sẽ chỉ có lợi cho tôi, mà còn có lợi cho cả Gambetti nữa. Các câu chuyện tôi thuật về Wolfsegg lẽ ra sẽ nhờ đó, nhờ thông qua con mắt tinh tường của chính Gambetti, mang một tính xác thực không thể đạt tới bằng bất cứ cách nào khác. Tôi quen Gambetti, tính đến giờ đã mười lăm năm, nhưng tôi chưa đưa anh về thăm Wolfsegg lấy một lần, tôi nghĩ bụng. Rất có thể Gambetti suy nghĩ về việc đó khác tôi, giờ đây tôi tự nhủ, bắt nguồn từ sự bất thường cũng rất chi là tự nhiên ấy rằng, tôi, trong suốt mười lăm năm trời ấy, không mời và không đưa theo, dù chỉ một lần, con người mà mười lăm năm ròng rã tôi đã ít nhiều trở nên thân thiết ấy, về một nơi vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi. Tại sao suốt mười lăm năm ấy tôi đã không để Gambetti ngó vào lá bài quê hương của tôi nhỉ? - tôi tự hỏi. Bởi vì tôi đã luôn luôn e sợ, và cho đến tận bây giờ vẫn còn e sợ điều đó. Mời các bạn đón đọc Diệt Vong của tác giả Thomas Bernhard & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ulysse Moore Tập 2 - Pierdomenico Baccalario
Trong câu chuyện li kỳ này bạn sẽ gặp: Rick banner - cậu nhóc Kilmore Cove thực thụ,cua rơ xe đạp nghiệp dư sống với triết lý "cơ bắp và hai lá phổi". Ngoài hai thứ đó trong cuộc đời này,người ta không cần thêm gì nữa. Jason Covenant - Cậu nhóc Luân Đôn, tay săn ma tập sự,không tin trên đời có thiếu niên Anh quốc nào lại không biết đến tiến sỹ ma học Mesmero huyền thoại và tin chắc rằng biệt thự Argo nơi cậu sống cũng đang tiếp đón một con ma. Julia Covenant - ngoại trừ việc một trong hai đứa là con gái thì Jason và Julia giống nhau như đúc. Julia  chỉ cao hơn và to khỏe hơn một chút so với Jason, cứ như thể cô bé đã vội vã lớn lên... Và Oblivia Newton - cặp chân dài, một suối tóc đỏ, một sợi dây chuyền nặng trĩu kim cương. Một quý cô thơm lừng, quý cô găng tay màu cam, quý cô tóc đỏ giận dữ, quý cô đạo chích... mà thậm chí không phải một quý cô!!! Mời các bạn đón đọc Ulysse Moore Tập 2: Ở Tiệm Những Tấm Bản Đồ Bị Lãng Quên của tác giả Pierdomenico Baccalario.
Đứa Con Hoàng Kim
Tác phẩm hay nhất năm 2014 do Entertaiment Weekly, Buzzfeed và Shelf Awarness bình chọn Trái Đất đang chết dần. Dưới những tầng đất sâu của Sao Hỏa, có một cộng đồng những con người mắt và tóc đỏ quạch như màu của hành tinh mà họ đang sống. Nhiệm vụ của họ là khai thác Helium 3 - một thứ nguyên tố được cho là sẽ biến bề mặt Sao Hỏa thành nơi con người có thể sinh sống được. Họ là niềm hy vọng cuối cùng của nhân loại. Họ là Đỏ. Ngoại trừ… tất cả là một lời nói dối khổng lồ. Các Đỏ không phải những người tiên phong. Họ chỉ là những nô lệ bị lợi dụng làm việc quần quật cho đến chết! Đỏ trỗi dậy phảng phất đâu đó những nét quen thuộc với các độc giả của Đấu trường sinh tử, Chúa ruồi, Trò chơi của Ender hay Trò chơi vương quyền. Nhưng đây vẫn là một cuốn sách hết sức khác biệt. Hồi hộp đến nghẹt thở, bất ngờ đến choáng váng, tàn nhẫn đến lạnh người. Rơi xuống chói lòa như một ngôi sao băng và cuốn ta đi như một cơn bão.  *** Là tập hai của bộ Đỏ trỗi dậy, Đứa Con Hoàng Kim tiếp nối thiên sử thi tráng lệ về Darrow, kẻ nổi loạn được trui rèn bởi thảm kịch. Trưởng thànhdưới các mỏ sâu trong lòng Sao Hỏa,lần đầu tiên được nhìn thấy mặt trời cũng là lúc Darrow phát hiện tín ngưỡng củagiống loài mình bấy lâu nay chỉ là một lời nói dối khổng lồ. Biết rằng nổi dậy là con đường giải phóng duy nhất, cậuliềuđem thân mình để tạo tác thành Hoàng Kim, với một kế hoạch xâm nhậptiềm ẩn nhiều bất trắc… … Đã bốn năm trà trộn trong thế giới những kẻ độc ác và hùng mạnh nhất loài người,Darrow nếm đủ đắng cay mặn ngọt. Cậu có được bạn hữu trung thành,bồi đắp tình yêuvới người con gái đáng lẽ cậu cần xa lánh, nhưng cũng chạm trán những kẻ thù khủng khiếp, bị lăng nhục, đày đọa dưới những tầng địa ngục sâu nhất. Lý tưởng giờ đây giống như vọng tưởng. Con đường này dường như càng lúc càng xa tự do? “Cácnút thắt và biến cố thậm chí còn gay cấn hơn ở tập đầu Đỏ trỗi dậy. Độc giả sẽ há hốc miệng khi đọc đến đoạn kết, để rồi đói khát chờ đợi tập cuối.” —Booklist   *** Tiểu thuyết gia Pierce Brown sinh ngày 28-1-1988 tại Thành phố Denver, bang Colorado- Hoa Kỳ. Là Tiểu thuyết gia sinh thuộc cung Bảo Bình, cầm tinh con (giáp) mèo (Đinh Mão 1987). Pierce Brown xếp hạng nổi tiếng thứ 29753 trên thế giới và thứ 176 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng. Tổng dân số của Hoa Kỳ năm 1988 vào khoảng 244,498,982 người. Tiểu thuyết gia của thể loại khoa học viễn tưởng và nhà biên kịch người là tác giả của tờ New York Times bán chạy nhất Red trilogy Rising trong đó bao gồm các chức danh Red Rising, Kim Sơn và Morning Star.  Trước khi bán Red Rising, anh là tác giả tiểu thuyết và đã bị từ chối bởi nhiều hơn 120 đại lý. Ông là một khoa học và kinh tế chính trị lớn tại Đại học Pepperdine. Ông đã làm việc như là một trang trong chương trình trang NBC khi sống trong nhà để xe giáo viên khoa học chính trị của ông khi ông bán Red Rising. *** TUYẾN NHÂN VẬT Nhà Augustus và các đồng minh NERO AU AUGUSTUS - Đại Thống Đốc Sao Hỏa, Trưởng Nhà Augustus, cha của Virginia và Adrius VIRGINIA AU AUGUSTUS/NGỰA HOANG - con gái của Nero, em sinh đôi của Adrius ADRIUS AU AUGUSTUS/CHÓ RỪNG - con trai Đại Thống Đốc, người thừa kế Nhà Augustus, anh sinh đôi của Virginia PLINY AU VELOCITOR - Tham Mưu Trưởng của Nhà Augustus DARROW AU ANDROMEDUS/THẦN CHẾT - Đại Thủ Lĩnh của Học Viện Sao Hỏa, Kỵ Binh của Nhà Augustus TACTUS AU RATH - Kỵ Binh của Nhà Augustus ROQUE AU FABII - Kỵ Binh của Nhà Augustus VICTRA AU JULII - Kỵ Binh của Nhà Augustus, chị gái cùng mẹ khác cha với Antonia, con gái của Agrippina KAVAX AU TELEMANUS - Trưởng Nhà Telemanus, đồng minh của Nhà Augustus, cha của Daxo và Pax DAXO AU TELEMANUS - người thừa kế và là con trai của Kavax, anh trai của Pax Image Nhà Bellona TIBERIUS AU BELLONA - Trưởng Nhà Bellona CASSIUS AU BELLONA - người thừa kế Nhà Bellona, con trai của Tiberius, Kỵ Binh của Nhà Bellona KARNUS AU BELLONA - con trai của Tiberius, anh trai của Cassius, Kỵ Binh của Nhà Bellona KELLAN AU BELLONA - Pháp Quan, anh họ của Cassius, cháu của Tiberius Image Các Hoàng Kim trứ danh OCTAVIA AU LUNE - Hội Chủ đương nhiệm của Hiệp Hội LYSANDER AU LUNE - cháu trai của Octavia, người thừa kế Nhà Lune AJA AU GRIMMUS - Vệ Sĩ Trưởng của Hội Chủ MOIRA AU GRIMMUS - Tham Mưu Trưởng của Hội Chủ LORN AU ARCOS - Cựu Hiệp Sĩ Cuồng Nộ, Trưởng Nhà Arcos FITCHNER AU BARCA - Cựu Giám Thị Nhà Mars, cha của Sevro SEVRO AU BARCA/YÊU TINH - Thủ Lĩnh của Những Kẻ Gào Rú, con của Fitchner AGRIPPINA AU JULII - Trưởng Nhà Julii, mẹ của Victra và Antonia ANTONIA AU SEVERUS-JULII - cựu thành viên Nhà Mars, em gái cùng mẹ khác cha với Victra, con của Agrippina Image Các Con Trai Của Ares ARES - Thủ Lĩnh Khủng Bố, Màu chưa rõ VŨ CÔNG - Phó quan của Ares, một Đỏ HARMONY - Phó quan của Vũ Công, một Đỏ MICKEY - Nhà Tạo Tác, một Tím EVEY - cựu nô lệ của Mickey, một Hồng *** Ngày xửa ngày xưa, có một gã đàn ông từ trên trời cao xuống và giết chết vợ tôi. Lúc này đây bên cạnh hắn, tôi bước đi trên ngọn núi trôi lơ lửng phía trên thế giới của chúng tôi. Tuyết đang rơi. Những bức tường bằng đá trắng và kính mờ được đục lỗ châu mai trồi lên khỏi đá. Xung quanh chúng tôi là sự náo loạn của lòng tham đang cuộn xoáy. Tất cả các Hoàng Kim vĩ đại của Sao Hỏa đã đổ về Học Viện để giành lấy những người giỏi nhất và thông minh nhất trong khóa học của chúng tôi. Phi thuyền của họ tụ thành bầy trên bầu trời buổi sáng, cắt qua thế giới của tuyết và những lâu đài đang bốc khói ở Olympus mà tôi vừa càn quét chỉ vài giờ trước. “Hãy nhìn lại một lần cuối,” hắn nói khi chúng tôi đến gần tàu con thoi của hắn. “Tất cả những việc đã xảy ra trước đây sẽ chỉ còn là một tiếng thì thầm trong thế giới của chúng ta. Khi cậu rời khỏi ngọn núi này, mọi mối ràng buộc sẽ bị cắt đứt, mọi lời thề sẽ thành cát bụi. Cậu chưa được chuẩn bị. Từ trước đến nay cũng chưa có ai được chuẩn bị bao giờ.” Ở phía bên kia đám đông, tôi thấy Cassius cùng cha anh ta và các anh em ruột đang đi về phía tàu con thoi của họ. Mắt họ rực lửa nhìn chúng tôi qua làn tuyết, và tôi nhớ lại tiếng đập trái tim của em trai anh ta khi nó vang lên nhịp cuối cùng. Một bàn tay thô bạo với những ngón tay xương xẩu đặt lên vai tôi, siết chặt đầy chiếm hữu. Augustus nhìn chằm chằm vào những kẻ thù của hắn. “Nhà Bellona không bao giờ lãng quên hay tha thứ. Chúng đông đảo. Nhưng chúng không thể làm hại cậu.” Cặp mắt lạnh lùng của hắn nhìn chằm chặp tôi, chiến lợi phẩm mới toanh. “Vì cậu thuộc về ta, Darrow, và ta sẽ bảo vệ những gì thuộc về mình.” Tôi cũng vậy. Suốt bảy trăm năm, đồng bào tôi bị nô dịch mà không được cất lời, không một tia hy vọng. Giờ đây tôi đã trở thành lưỡi kiếm của họ. Và tôi không tha thứ. Tôi không lãng quên. Nên cứ để hắn dẫn tôi vào tàu con thoi của hắn. Để hắn nghĩ rằng hắn đang sở hữu tôi. Để hắn chào đón tôi vào nhà hắn, để tôi có thể thiêu rụi nó. Nhưng rồi con gái hắn nắm lấy tay tôi, và tôi cảm thấy tất cả những lời nói dối đè nặng lên đôi vai mình. Người ta nói một đất nước bị chia rẽ thì không thể nào trụ vững. Người ta không hề nói xem một trái tim bị chia rẽ thì sẽ ra sao.   Mời các bạn đón đọc Đứa Con Hoàng Kim của tác giả Pierce Brown.
Đêm Tối Và Ánh Sáng - Torey Hayden
Đến với “Đêm tối và ánh sáng”, bạn sẽ cảm nhận mình như một người đang lặng lẽ chứng kiến những gì xảy ra trong một lớp học đặc biệt. Ở đó có: Torey – một cô giáo trẻ; Anton – anh chàng cao to mang trong mình hai dòng máu Mexico – Mỹ, mới vào nghề và vẫn chưa tốt nghiệp trung học; Whitney – cô gái tình nguyện chỉ mới học cấp hai. Với những đứa trẻ bị rối loạn và bị khiếm khuyết về mặt tâm thần: một cậu bé với hệ thần kinh bất ổn và thường xuyên có hành vi bạo lực, một cô bé chỉ mới tám tuổi nhưng đã hai lần tự sát, những đứa trẻ mắc bệnh tự kỷ bẩm sinh, một bé gái bảy tuổi từng là nạn nhân của nạn lạm dụng thể xác, một cô bé xinh xắn nhưng bị mắc bệnh tâm thần phân liệt từ nhỏ… Và Sheila – cô bé bị mẹ bỏ rơi trên đường cao tốc khi mới bốn tuổi, đã bắt cóc và thiêu sống một bé trai ba tuổi khi em lên sáu. Trong “Đêm tối và ánh sáng”, bạn sẽ thấy  được ý nghĩa của sự chân thật, ý nghĩa của những việc làm xuất phát từ trái tim của cô giáo Torey, để rồi những đứa trẻ dần dần thích nghi, bắt đầu trò chuyện, biết làm chủ phần nào cảm xúc của mình. Riêng đối với Sheila, với ánh mắt hoang dại và tính tình kỳ dị đầy bí ẩn là một thử thách gay go cho cô trong suốt thời gian em theo học để chờ một chỗ trống trong bệnh viện liên bang - nơi mà rất nhiều người có thầm quyền cho rằng đó là nơi tốt nhất đối với em. Sheila là cô bé thông minh và ở em sự thông minh trái ngược với cái thân thể nhỏ bé nhưng cân đối, với những hiểu biết vượt hẳn những đứa trẻ đồng trang lứa. Nhưng suốt sáu năm trời từ lúc được sinh ra, em đã bị vùi lấp bởi cái quá khứ kinh hoàng. Hạnh phúc mới thật sự đến khi em tin vào người mà em cho rằng đã “cảm hóa” em và phải có trách nhiệm với em. Với ý thức về vai trò, trách nhiệm và lòng yêu trẻ của một giáo viên, Torey đã từng bước, từng bước chinh phục cô nhóc Sheila. Điều này không dễ dàng chút nào, trái lại nó là một chặng đường đầy gian nan vất vả mà ít có người giáo viên nào làm được. Sheila bắt đầu chịu nói chuyện sau những ngày ngồi thu mình trên một chiếc ghế, em đã bớt sợ hãi, bớt đập phá và bắt đầu nhận thấy rằng sự quan tâm của cô Torey dành cho em không như những người khác, nó là sự yêu thương thật sự. Đọc “Đêm tối và ánh sáng” bạn như lạc vào thế giới của trẻ thơ. Sự ngây thơ, trong trẻo của những tâm hồn vẫn đang hiện hữu bên trong những biểu hiện kỳ lạ của các em. Rất nhiều lần bạn sẽ phải mỉm cười khi bắt gặp những ý nghĩ ngu ngơ tự nhiên mà chỉ ở trẻ thơ mới có. Sheila, cô bé với những suy nghĩ vượt hẳn tuổi của em, những ý nghĩ ganh tỵ pha lẫn nét nũng nịu, đáng yêu. Bệnh viện liên bang đã có chỗ trống, trong khi Sheila bắt đầu có những tiến bộ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu em bị đưa vào đó? Và không! Em sẽ vẫn được “điều trị” ở cái “lớp học điên khùng” mà em yêu mến, trước sự ủng hộ của rất nhiều người. Ngày mà phiên tòa “định mệnh” được mở ra và kết thúc bằng nụ cười vui sướng của chàng luật sư dễ mến là ngày mà Sheila hạnh phúc nhất, em cảm nhận được sự ấm áp của một gia đình, được ủ ấm trong tình thương của “cha Chad” và ”mẹ Torey” Trong lúc đau đớn tận cùng, Sheila vẫn cố níu chặt áo cô Torey, và thét lên: “Đừng bỏ con! Đừng để họ bắt con đi mất. Con muốn cô ôm con”. Bạn sẽ thấy mình rất lạ khi đồng hành cùng cô trò họ đến lúc này, mắt bạn ướt là một điều hết sức bình thường khi chứng kiến cái nhu cầu bình thường của một đứa trẻ; em cần sự chở che, cần tình yêu thương và vì cần tất cả điều đó, em rất cần cô Torey. Cuối cùng thì Sheila cũng sẵn sàng cho việc hòa nhập vào lớp học dành cho những trẻ bình thường. Và như bao người giáo viên khác, với cô Torey “Đó là một khoảnh khắc ngọt ngào nhưng buồn bã đối với tôi, bởi tôi biết mình đã bị bỏ lại đằng sau”. Và niềm vui trọn vẹn đã đến vào một ngày cô nhận được một lá thư, bên trong là bài thơ với tựa đề: Gửi đến Torey với rất nhiều “tình yêu” do chính tay cô Sheila viết. Xuyên suốt quyển sách, đặc biệt kể từ lúc Sheila vào lớp, bạn sẽ thấy nhịp thở của mình gần như bị phụ thuộc vào những chuyển biến tâm lý trong đó. Thật lạ khi đọc quyển sách này, bạn có cảm giác không dám thở mạnh vì sợ nếu như thế sẽ làm không khí trong lớp học đặc biệt này càng thêm căng thẳng, sợ nó có thể làm đứt sợi tơ mong manh vừa mới hình thành từ rất nhiều những cố gắng không ngừng của cô Torey. Tôi đọc và cảm nhận rất rõ tim mình phát ra từng đợt sóng dâng tràn ở ngực, lan ra hai bên vai rồi làm mắt âng ấng nước. Lúc trước tôi rất sợ phải yêu thương một ai đó, tôi đã từng như thế, yêu thương là hạnh phúc nhưng bạn vẫn cảm nhận đâu đó một nỗi đau, sự lo lắng khi sợ họ gặp những điều không vui thậm chí là rất đau khi một nỗi bất hạnh nào đó đến với họ. Và chính “Đêm tối và ánh sáng” đã xua tan nỗi sợ hãi đó. Tôi đã đọc ở đâu đó câu nói đại khái rằng sẽ rất vui khi ta có thể diễn tả “trúng phóc” ý nghĩ của mình, nhưng tôi vẫn chưa thật sự thấy vui vì trong lòng vẫn còn điều gì đó chưa thể hiện ra được, một phần do khả năng tôi chưa đủ, phần vì điều đó sẽ đầy đủ và chính xác hơn khi bạn dùng chính trái tim mình để cảm nhận. Và để biết điều đó là gì? Dành ít thời gian tìm đọc “Đêm tối và ánh sáng”, bạn sẽ cảm nhận rất rõ. Ngay cả khi bạn không muốn biết đi nữa, tôi nghĩ bạn cũng nên đọc vì quyển sách này sẽ là một người bạn hữu ích với bạn hôm nay và cả đến sau này. Mời các bạn đón đọc Đêm Tối Và Ánh Sáng của tác giả Torey Hayden.