Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trò Chơi Của Thiên Thần

Nếu đã yêu thích Bóng hình của gió hay Tù nhân của thiên đường, bạn sẽ không thể bỏ qua Trò chơi của thiên thần. Tập thứ 2 trong bộ sách về Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên kể về nhà văn trẻ David Martin. Trong những tháng ngày bị ám ảnh bởi mối tình bất thành, anh nhận được lời đề nghị kỳ lạ từ một chủ nhà xuất bản bí hiểm: Viết một cuốn sách chưa từng có trên đời, một câu chuyện mà vì nó người ta có thể sống và cũng có thể chết, có khả năng giết người và cũng có khả năng bị giết hại. Đổi lại, anh sẽ nhận được một gia tài khổng lồ và có thể nhiều hơn thế nữa. Thế nhưng, từ khi đặt bút ký vào bản hợp đồng kia, David cũng đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ, đặt mạng sống của những người thân xung quanh mình vào vòng đe doạ… GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Carlos Ruiz Zafón sinh năm 1964, là một trong những nhà văn Tây Ban Nha được đọc nhiều nhất và được yêu quý nhất. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm viết cho lứa tuổi thiếu niên, mà khởi đầu là một tiểu thuyết dày 500 trang được ông sáng tác năm mười bốn tuổi. Trò chơi của thiên thần nằm trong xê ri bộ tứ Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên, bên cạnh các tập Bóng hình của gió, Tù nhân của thiên đường và Mê cung của linh hồn. Sách của Zafón đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng trên thế giới, được giới phê bình khen ngợi và giành được nhiều giải thưởng quốc tế. NHẬN ĐỊNH: “Nhà văn Tây Ban Nha Carlos Ruiz Zafón có một cung tên mang nhiều dây cung, và ông thích cùng lúc kéo căng tất cả: tiểu thuyết trinh thám, huyền ảo, tình cảm. Trò chơi của thiên thần là một cuộc pha trộn thể loại được xử lý một cách hoàn hảo.” Marianne Dubertret - La Vie *** 80 năm trước, trong một tác phẩm đầy thách đố của mình, Jorge Louis Borge đã tưởng tượng ra một thư viện trong đó chứa đựng những cuốn sách dày 410 trang, mỗi cuốn sách bao gồm những chỉnh hợp của 23 chữ cái, dấu câu và dấu cách – nghĩa là mọi cuốn sách đã từng có và sẽ có trên đời, về tất cả những gì đã biết và sẽ được biết tới. Nói cách khác, đó không phải là một vũ trụ sách, đó là một vũ trụ. Thư viện là cõi vũ trụ. Cố nhà văn người Tây Ban Nha Carlos Ruiz Zafón nói rằng ông không thấy có lí do chi để Borges (sự uyên bác) không thể trộn cùng với Neil Gaiman (tính giải trí), “chỉ là kể chuyện thôi; những cách khác nhau để sử dụng mật mã và hình ảnh và ngôn từ và tiếng động”. Và vì không có lí do chi để không làm vậy, nên ông liền làm vậy, bằng cách viết Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên, chuỗi tiểu thuyết bốn tập độc lập tựa một biên niên u huyền về Barcelona, nơi những kẻ mộng mơ sẽ bị kéo về phía một mê cung thư viện bí ẩn để cất giấu những cuốn sách mà không hay đó chỉ là chương đầu cho những ngày thẫm tối. Bộ tiểu thuyết như tòa lâu đài làm bằng thủy tinh giữa một vương quốc bị bỏ quên, lộng lẫy vô cùng và cũng mong manh vô kể, sẵn sàng bốc cháy mọi ngọc ngà thành tro bụi ngay khi đến lúc.   Được đọc những tập tiểu thuyết như thế này luôn là một ân điển, khiến ngay cả một vài đêm không ngủ cũng chỉ là chuyện phù du, ta chấp nhận cái giao kèo mơ hồ đổi lấy vài đêm thức trắng ấy để quăng mình vào một giấc chiêm bao lưu huyết, và ta nhận lại một thứ gì đẹp đẽ - vâng, những cuốn sách của Carlos Ruiz Zafón là minh chứng rằng rốt cuộc vẫn còn một thứ gì dẫu điêu tàn, nhưng đẹp đẽ. Cho nên sẽ quá tham vọng nếu định viết về cả bốn tập sách của ông trong khuôn khổ một bài viết đôi ngàn từ, thay vì thế, hãy chỉ ngẫu nghiên chọn ra một trong số đó, Trò chơi của thiên thần. Sẽ không thể lôi văn chương ra từ một tâm hồn lành lặn an ổn, chỉ những kẻ đã bị bể dập tan tành và trải qua những cuộc đại phẫu hư ảo thì từ những vết nức toác mới nảy lên được văn chương. David Martín, một nhà văn trẻ trên bờ vực lụn bại nhận được một đề nghị không-thể-từ-chối từ một người đàn ông bí hiểm: một trăm ngàn france đổi lại việc anh sẽ sáng tác một câu chuyện khiến mọi người có thể sống vì nó, chết vì nó, giết chóc vì nó và để mặc cho mình bị giết chóc vì nó, một câu chuyện khiến người ta tin, mơ, dâng hiến, hy sinh, chuộc tội – hay, một tôn giáo mới, một Kinh Thánh mới. Giống như Faust, anh bằng lòng, đâu hay biết mình đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Đó trước hết là một tiểu thuyết noir, lắt léo những ngóc ngách và nấp trong ngóc ngách là những kẻ truy lùng giấu mặt, gợi nhớ về những bộ phim thời kỳ đỉnh cao của Jean-Pierre Melville, tàn nhẫn mà cũng băn khoăn triết lí. Đó tiếp theo là một bảo tàng ngây thơ về Barcelona thế kỷ 20. Cuộc điều tra, rượt đuổi và chạy trốn của David Martín đưa anh xuyên qua thành phố được làm nên từ tội ác và hoài niệm, từ thiên thần và địa ngục, từ tâm hồn si tình đến chết của những cư dân hữu tử và từ những bóng ma bất tử nán lại trong hoang phế, từ những ngôi nhà bị nguyền rủa và những cuốn sách bị vùi quên, từ những ô cửa sổ nhìn ra sương mù và những đại lộ trong hũ nút. Trên tư cách nhà văn của một nơi chốn, Carlos Ruiz Zafón ngang hàng với Paul Auster của New York, Patrick Modiano của Paris hay Orhan Pamuk của Istanbul. Số phận của Barcelona là số phận của ông, say đắm nhưng đồng thời đẫm máu như một cuộc đấu súng trong mơ.  Lúc sinh thời, Carlos Ruiz Zafón nhận được rất nhiều lời đề nghị để chuyển thể các tác phẩm của ông thành phim, nhưng lần nào ông cũng từ chối. “Chẳng có gì sai khi chuyển thể sách thành phim nhưng tại sao mọi thứ lại cứ phải là một bộ phim điện ảnh, một mini series hay một series truyền hình? Sao một cuốn sách không thể chỉ là một cuốn sách?”, ông chất vấn. Và ông bảo, những cuốn sách của ông “ổn khi là chính nó”. Đáng để suy nghĩ về một câu hỏi như thế, sao một cuốn sách không thể chỉ là một cuốn sách mà thôi.  Không cần bàn, Carlos Ruiz Zafón là người có khả năng mise-en-scène (dàn cảnh) không thua gì những tiểu thuyết gia vĩ đại của thế kỷ 19. Ông tạo nên những vũ đài điện ảnh ngoạn mục chỉ bằng ngôn từ, nào là hình ảnh trinh bạch u ngục của một người thiếu phụ chết dưới hồ băng, nào là trường đoạn giằng giật dữ dội trên cáp treo giữa bầu trời Barcelona khi trời ngả tối, nào là cảnh tòa dinh thự cũ xưa chìm trong biển lửa. Chúng quá phù hợp để được chuyển thành một bộ phim, nhưng tác giả lại khăng khăng giữ chúng như chúng vẫn là, như thể ông đã lấy được cuốn sách này từ Nghĩa địa những cuốn sách bị lãng quên, nơi mỗi người chọn lấy một cuốn sách và lập lời thề sẽ bảo vệ nó vĩnh viễn.  Ông muốn bảo vệ sự sinh động vô hình ấy – điều vốn là bản chất tự nhiên của văn chương, dù nghẹt thở, rợn ngợp hay tráng lệ đến mấy thì cũng không nhìn thấy được, tất cả bị gói chặt trong những con chữ màu đen ngay ngắn. Văn chương là giấc mơ, ta hình dung được nó như một người nằm mơ tưởng như đã nhìn rõ vạn vật trong mơ, nhưng tất thảy sẽ tan biến ngay khi ta tỉnh giấc, ta không thể thấy bản lai diện mục của giấc mơ. Khác với mọi môn nghệ thuật thị giác, văn chương tạo nên những phóng chiếu trong đầu mỗi người, nó không dựa trên hình ảnh hiện thực vững chắc nào. Văn chương đích thực là thế đấy, lộng lẫy vô cùng và cũng mong manh vô kể, sẵn sàng bốc cháy mọi ngọc ngà thành tro bụi ngay khi đến lúc. Cho nên, sau những lớp kịch noir, những hành lang bảo tàng về một thành phố, Trò chơi của thiên thần đến cùng đích là một nghiền ngẫm về văn chương, về sự viết. Hành trình vật lộn để sống của David Martín trùng với hành trình vật lộn để viết của anh. Thỏa thuận giữa anh và người đàn ông bí hiểm tóm lược lại chỉ là: nếu muốn sống, anh phải viết. Và chẳng phải đây là định mệnh không thể tránh khỏi của mọi nhà văn, với họ, sống và viết là một, “không thể sống mà không viết”, nói như Pablo Neruda. Và giống như David Martín, để viết nên một tác phẩm để đời, mọi nhà văn phải đánh bạn với quỷ dữ và bán linh hồn cho cái ác. Sẽ không thể lôi văn chương ra từ một tâm hồn lành lặn an ổn, chỉ những kẻ đã bị bể dập tan tành và trải qua những cuộc đại phẫu hư ảo thì từ những vết nứt toác mới nảy lên được văn chương. Mọi nhà văn đều sống trong ngôi nhà với căn phòng nguyền rủa khóa kín và bị một bóng ma ám ảnh, đôi khi bóng ma ấy là chính họ, họ tự săn đuổi và giam cầm mình. Nhìn xem, David Martín đã lì lợm viết bản thảo nguy hiểm ấy đến cùng bất chấp sự can ngăn và những lời cảnh báo. Tình yêu không ngăn cản được anh, quyền lực không ngăn cản được anh, sự hoài nghi, sự ghê tởm và sự căm phẫn của chính mình không ngăn cản được anh, không gì ngăn được ham muốn kể chuyện của một người kể chuyện, cái ham muốn mãnh liệt không thể gò cương. Tất cả chỉ bởi David Martín tin rằng chỉ câu chuyện ấy mới cứu được đời anh. Không phải biết, mà là tin. Anh đã dấn quá sâu để không thể không tin. Văn chương là một loại cuồng giáo, mà mọi loại cuồng giáo đều đi tới hủy diệt tín đồ.  Biết là vậy, nhưng làm sao khác đi đây với một nhà văn? Trong tác phẩm của Goethe, quỷ Mephistopheles đã nhắn nhủ với Faust rằng: “Đừng âu yếm những nỗi khốn khổ của mình, nó ăn mòn ngươi như một con kền kền vậy”, nhưng không âu yếm những nỗi khốn khổ thì làm sao hoài thai văn chương, làm sao hoài thai cái đẹp? Với một nhà văn, không thể sống mà không viết, không thể viết mà không tự hủy hoại mình.  Theo Báo Thanh niên *** Kẻ viết văn không bao giờ quên được khoảnh khắc lần đầu tiên chấp nhận đổi một câu chuyện lấy chút tiền hoặc vài lời khen ngợi. Hắn cũng không bao giờ quên lần đầu tiên cảm thấy trong mạch máu mình nọc độc ngọt ngào của lòng kiêu hãnh và tin rằng nếu không ai phát hiện sự bất tài nơi hắn, giấc mộng văn chương của hắn có thể mang lại cho hắn một mái nhà che nắng che mưa, một bữa ăn tử tế mỗi tối và điều mà hắn khát khao nhất trần đời: tên hắn được in trên một mẩu giấy thảm hại mà hắn dám chắc rằng sẽ còn tồn tại ngay cả khi hắn đã từ giã cõi đời này. Kẻ viết văn buộc phải nhớ về khoảnh khắc ấy, bởi lẽ kể từ giờ phút ấy, hắn đã thất bại: linh hồn hắn đã được định giá. Khoảnh khắc ấy, tôi đã biết đến vào một ngày xa xăm thuộc tháng Mười hai năm 1917. Bây giờ tôi mười bảy tuổi và đang làm việc tại Tiếng nói ngành công nghiệp, một tờ báo bên bờ phá sản đang lay lắt trong ngôi nhà xây đầy ngóc ngách, xưa kia vốn là xưởng sản xuất axit sunfuric với những bức tường vẫn còn tiết ra thứ hơi độc ăn mòn đồ đạc, quần áo, những khối óc và cho tới cả đế giày. Tòa nhà mọc lên sau một rừng thiên thần và thánh giá của nghĩa trang Pueblo Nuevo, và từ đằng xa, cái bóng của nó hòa lẫn với bóng các lăng mộ để nổi bật trên nền trời tua tủa hàng trăm ống khói và nhà máy khiến cho buổi hoàng hôn bao trùm Barcelona vĩnh viễn có màu đỏ ối pha đen. Buổi tối đó hẳn đã xoay chuyển dòng đời tôi. Phó tổng biên tập, ông Basilio Moragas, đã gọi tôi tới căn phòng tối tăm nằm tận cuối tòa soạn, là nơi được ông dùng như phòng làm việc kiêm phòng hút xì gà. Ông Basilio có vẻ ngoài dữ tợn với bộ ria rậm, ông ghét cay ghét đắng những thứ vô vị và công khai bày tỏ lý thuyết cho rằng việc sử dụng thừa thãi trạng từ và tính từ là hành vi của những kẻ đồi bại và thiếu vitamin. Nếu phát hiện biên tập viên nào thiên về lối văn hoa lá cành, ông sẽ phân cho hắn viết cáo phó ba tuần liền. Nếu sau đợt thanh trừng này mà đối tượng vẫn tái phạm, ông Basilio sẽ đày hắn vĩnh viễn sang mục “nội trợ gia đình”. Chúng tôi ai cũng khiếp sợ mục này, và ông biết rõ điều đó. “Ông gọi tôi, ông Basilio?” tôi rụt rè đánh tiếng. Phó tổng biên tập gườm gườm nhìn tôi. Coi đó như một mệnh lệnh, tôi liền bước vào phòng làm việc nồng nặc mùi mồ hôi và thuốc lá. Phớt lờ sự hiện diện của tôi, ông Basilio tiếp tục đọc soát một trong những bài viết nằm trên bàn, tay lăm lăm cây chì đỏ. Suốt nhiều phút, phó tổng biên tập nã liên tiếp vào bài viết những chỗ chỉnh sửa, thậm chí là cắt xén, miệng làu bàu những lời thô tục như thể không có mặt tôi ở đó. Đang không biết phải làm gì, tôi chợt nhìn thấy một chiếc ghế đặt dựa vào tường, bèn vờ ngồi xuống. “Ai đã cho phép cậu ngồi?” ông Basilio lầm bầm, mắt vẫn không rời bài viết. Tôi vội vàng đứng lên và nín thở. Phó tổng biên tập thở dài, buông rơi cây chì đỏ, rồi dựa vào lưng ghế bành để dò xét tôi như thể tôi là một thứ cặn bã vô dụng. “Ta được nghe kể là cậu viết văn, Martín.” Tôi bỗng cảm thấy cổ họng khô khốc và khi tôi mở miệng, từ đó thoát ra một giọng nói lố bịch. “Một ít... à mà tôi không biết... Có nghĩa là, vâng, tôi có viết…” “Ta hy vọng cậu viết tốt hơn là nói. Mà cậu viết những gì vậy, nếu hỏi như vậy không quá tọc mạch?” “Vài truyện trinh thám. Thực ra là…” “Được, ta hiểu rồi.” Ông Basilio hướng về tôi một cái nhìn khó tả. Cũng hào hứng ngang bằng khi giả sử tôi nói mình chuyên tâm vào việc dùng phân bò nặn thành tượng để trang trí máng cỏ Giáng sinh. Ông thở dài lần nữa rồi nhún vai. “Vidal cho rằng hẳn cậu không tệ đến mức ấy. Thậm chí cậu hẳn còn có chút tài cán. Đúng là ở đây cậu không có nhiều đối thủ. Nhưng dù sao, nếu Vidal đã khẳng định thế…” Pedro Vidal là cây bút ngôi sao của tờ Tiếng nói ngành công nghiệp. Anh phụ trách mục thời luận vặt hằng tuần, mục duy nhất đáng đọc trong cả tờ báo, và anh cũng đã xuất bản mươi mười hai tiểu thuyết đề cập đến những tên đầu đảng của khu Raval và những cuộc dan díu tình cảm của chúng với các phu nhân tầng lớp cao trong xã hội, những cuốn tiểu thuyết này mang lại cho anh một thành công khiêm tốn. Luôn diện những bộ com-plê lụa hoàn hảo cùng đôi giày mô-ca Ý bóng loáng như gương, Vidal có dáng dấp cũng như phong thái của một tài tử điện ảnh thường xuất hiện trong những suất phim chiều, với mái tóc vàng luôn chải mượt, hàng ria như được vẽ bằng bút chì cùng nụ cười dung dị và độ lượng của một người cảm thấy mãn nguyện về bản thân và cả thế giới. Anh xuất thân từ một gia tộc mà ông cha đã tạo dựng sản nghiệp tại Mỹ nhờ ngành công nghiệp mía đường, và khi trở về, họ chiếm được cả một mảng lớn trong việc cung cấp điện cho thành phố. Cha anh, người đứng đầu gia tộc, là một trong số các cổ đông chủ chốt của tờ báo, và Pedro dùng tòa soạn như thể sân chơi để tiêu diệt nỗi buồn chán bởi không bao giờ cần phải làm việc dù chỉ một ngày trong đời. Việc tờ báo thất thoát các khoản tiền theo cùng cách các loại ô tô tân thời bắt đầu lưu thông khắp các đường phố Barcelona bị rò dầu đối với anh không quan trọng: được ban vô số tước hiệu quý tộc, kể từ giờ triều đại Vidal chuyên tâm thu nạp nhà băng và những tòa nhà trên những diện tích tương đương các lãnh địa nhỏ trong khu Ensanche. Pedro Vidal là người đầu tiên tôi dám cho xem những bản thảo mà tôi viết hồi mới chỉ là một thằng nhóc với công việc chủ yếu là mang cà phê và thuốc lá tới tòa soạn. Anh luôn có thời gian dành cho tôi, để đọc những gì tôi viết và đưa ra lời khuyên hữu ích. Vài năm trôi qua, anh nhận tôi làm trợ lý riêng và cho phép tôi gõ lại những bản thảo anh viết tay. Cũng chính anh từng nói nếu tôi muốn đùa giỡn với số phận bằng nghiệp văn chương may rủi, anh sẽ sẵn lòng giúp đỡ và định hướng cho tôi vào con đường đúng đắn. Và đúng như lời đã hứa, giờ đây anh ném tôi vào nanh vuốt của ông Basilio, tay gác cổng hắc ám của tòa báo. “Vidal là một người cảm tính vẫn còn tin vào loại chuyện hoang đường hoàn toàn không phù hợp với Tây Ban Nha, ví như chế độ trọng dụng nhân tài hay quan điểm là cần ban phát cơ hội cho người thực sự xứng đáng chứ không phải cho dạng con ông cháu cha. Cậu ấy giàu sụ nên có thể dễ dàng cho phép bản thân làm những trò ngông cuồng lãng mạn ấy. Nếu có được một phần trăm trong số gia tài cậu ấy đang phung phí, ta cũng sẽ chuyên tâm vào việc làm thơ và lũ chim nhỏ bé sẽ tới ăn trên tay ta, bị thu hút bởi lòng tốt và sự quyến rũ nơi ta.” “Vidal là một người tốt bụng!” tôi khẳng định. “Còn hơn thế ấy chứ. Cậu ấy là một vị thánh, bởi vì bất chấp bộ dạng khố rách áo ôm của cậu, cậu ấy vẫn quấy nhiễu ta hàng tuần trời khi cứ lải nhải về tài năng và công việc của thằng nhóc ít tuổi nhất tòa soạn. Cậu ấy biết, sâu thẳm trong tâm hồn, ta thực ra rất dễ mềm lòng, vả lại cậu ấy còn hứa là nếu cho cậu cơ hội, ta sẽ nhận được quà của cậu ấy là một hộp xì gà La Habana. Và nếu Vidal đã nói thế thì cũng giống như thể nhà tiên tri Moise xuống núi, tay cầm những bảng đá ghi Mười Điều Răn và mang theo Thần khải. Thế nên tóm lại, vì đang dịp Giáng sinh, và cũng để anh bạn của cậu ngậm miệng một lần cho xong, ta sẽ trao cho cậu cơ hội khởi nghiệp viết lách như những vị anh hùng: đương đầu với bão táp và thủy triều.” “Nghìn lần biết ơn ông, ông Basilio. Tôi cam đoan rằng ông sẽ không phải hối hận vì đã…” “Đừng vội hăng tiết vịt, chàng trai. Mà trước tiên, cậu nghĩ gì về việc sử dụng bừa phứa và không đúng lúc các phó từ và tính từ?” “Đó là một sự sỉ nhục và đáng bị luật hình sự trừng phạt, tôi đáp lời với niềm tin chắc của một chiến binh quá khích.” Ông Basilio tỏ vẻ tán thành. “Hoàn hảo, Martín. Cậu có những mối ưu tiên tuyệt vời. Những người tồn tại trong nghiệp viết lách này là những người có ưu tiên chứ không phải có nguyên tắc. Vậy thì công việc là thế này. Hãy ngồi xuống và lắng tai nghe cho rõ, vì ta sẽ không lặp lại tới lần thứ hai đâu.” Công việc là thế này: vì một số lý do mà ông Basilio thấy tốt hơn hết là không đi sâu vào chi tiết, trang bìa cuối của số báo ra ngày Chủ nhật từ trước tới nay vốn luôn được dành để đăng truyện ngắn hoặc bài viết về du lịch đã bị để trống vào giờ chót. Nội dung dự kiến là một bài viết thấm đẫm tinh thần yêu nước và một bài thơ trữ tình hừng hực xoay quanh sự nghiệp anh hùng của những chiến binh Almogavare, ngợi ca chiến công bảo vệ đạo Thiên Chúa cũng như mọi giá trị đạo đức trên đời của những hiệp sĩ Catalan thời Trung cổ khi họ tiến quân từ Vùng Đất Thánh và dừng chân tại đồng bằng Llobregat. Thật không may, bài viết không thể hoàn thành đúng hạn định, mà tôi ngờ rằng, đơn thuần là ông Basilio không muốn cho đăng bài đó. Tòa soạn chỉ có sáu tiếng trước giờ phải lên trang toàn bộ số báo, mà hiện lại không có bài nào dự phòng ngoài một trang quảng cáo áo nịt ngực làm từ tấm lược trong miệng cá voi với lời hứa hẹn đảm bảo một vòng eo trong mơ và xóa bỏ những ngấn mỡ thừa. Trước tình thế khó xử, ban biên tập đã quyết định đối đầu thử thách, kêu gọi tài năng văn chương ẩn giàu trong một thành viên bất kỳ của tòa báo, ai cũng được, để chữa cháy tạm và phát hành số báo Chủ nhật với bốn cột chữ mang đậm tính nhân văn hòng thỏa mãn những độc giả trung thành vốn thân thiết như gia đình của chúng tôi. Danh sách những cây bút tài năng được công nhận trong tòa soạn bao gồm mười cái tên, và dĩ nhiên, trong đó không hề có tên tôi. “Martín thân mến, hoàn cảnh trớ trêu khiến không ai trong số những cây bút gạo cội của chúng ta kịp có mặt tại đây vào thời điểm nguy cấp này, cũng không một ai hiện đang ở trong tầm liên lạc. Trước thảm họa đang tới gần, ta quyết định ban cho cậu cơ hội này.” “Xin ông cứ tin ở tôi.” “Ta tin vào năm trang giấy cách dòng đúp hoàn thiện trong sáu tiếng đồng hồ, Edgar Allan Poe* ạ. Hãy mang tới cho ta một câu chuyện, không phải một bài diễn văn. Nếu muốn nghe lời thuyết giáo, ta thà đi dự lễ misa vào lúc nửa đêm. Hãy đem tới đây một câu chuyện mà ta chưa từng đọc, và nếu ta đã đọc truyện nào tương tự rồi, hãy viết thật khéo sao cho ta không nhận ra chút quen thuộc nào trong đó.” Tôi đang định chạy biến đi thì ông Basilio đứng dậy, đi vòng qua bàn, đoạn đặt bàn tay vừa to vừa nặng không kém gì cái đe bằng thép lên vai tôi. Đôi mắt ông như đang mỉm cười. “Nếu truyện cậu viết đạt tiêu chuẩn, ta sẽ trả mười đồng peseta. Còn nếu truyện hay hơn thế và được độc giả yêu thích, ta sẽ tiếp tục cho cậu đăng bài.” “Còn chỉ dẫn đặc biệt nào nữa không, ông Basilio?” tôi hỏi. “Có đấy: đừng làm ta thất vọng.” Sáu tiếng đồng hồ tiếp theo tôi ở trong trạng thái tập trung cao độ. Tôi ngồi dính lấy chiếc bàn đặt ngay giữa phòng nội dung vốn được dành riêng cho Vidal vào những ngày anh nổi hứng ghé qua tòa soạn. Ngoài tôi ra, căn phòng không có một ai và ngập trong thứ bóng tối mịt mù tù đọng bởi khói của chục ngàn điếu thuốc. Nhắm mắt lại giây lát, trong đầu tôi hiện lên một hình ảnh: một tấm màn kết từ những đám mây đen loang ra trên thành phố đang chìm ngập trong cơn mưa, một người đàn ông vừa rảo bước vừa tìm cách ẩn mình trong bóng tối với máu dính trên đôi tay và bí ẩn hàm chứa trong đôi mắt. Tôi không biết anh ta là ai, cũng không biết anh ta đang trốn chạy khỏi điều gì, nhưng trong vòng sáu tiếng đồng hồ tới đây anh ta sẽ trở thành người bạn thân thiết nhất của tôi. Tôi gài một trang giấy trắng vào máy chữ, rồi không ngừng lấy một giây, bắt đầu vắt kiệt mọi câu chữ xuất hiện trong đầu mình. Tôi vật lộn với từng từ, với mỗi câu cũng như các cấu trúc, hình ảnh và chữ cái, như thể đó là những điều cuối cùng tôi viết ra. Tôi viết rồi viết lại từng dòng như thể cả cuộc đời tôi phụ thuộc vào đó, rồi tôi còn viết lại thêm lần nữa. Bạn đồng hành với tôi là tiếng lạch cạch không ngừng từ chiếc máy chữ vang vọng khắp căn phòng tối tăm cùng chiếc đồng hồ treo tường đang rút dần đi từng phút giây còn lại cho tới lúc bình minh lên. Ngay trước khi kim đồng hồ chỉ sáu giờ sáng, tôi giật trang giấy cuối cùng khỏi máy chữ, thở dài vì kiệt sức, đầu óc quay cuồng như thể bên trong có cả đàn ong đang bay lượn. Tôi nghe thấy tiếng bước chân nặng nề, chậm rãi của ông Basilio, ông đang lững thững tiến tới chỗ tôi sau khi tỉnh dậy từ một trong những giấc ngủ ngắn vẫn luôn được ông kiểm soát chặt chẽ. Không dám đối diện trực tiếp với ánh mắt của ông Basilio, tôi xếp lại các trang bản thảo và đưa cho ông. Ông Basilio ngồi xuống cái bàn ngay cạnh, đoạn bật đèn đọc lên. Đôi mắt ông lướt trên bản thảo, không để lộ chút cảm xúc nào. Rồi ông đặt điếu xì gà xuống cạnh bàn, đoạn liếc nhìn tôi và đọc to dòng đầu tiên trong truyện: “Màn đêm buông xuống thành phố, những con đường ngập trong mùi thuốc súng như hơi thở của một lời nguyền.” Ông Basilio liếc mắt nhìn tôi còn tôi thì trốn sau nụ cười không để lộ dù chỉ một chiếc răng. Không nói thêm một lời, ông đứng dậy rồi bỏ đi cùng tập bản thảo của tôi trong tay. Ông khép cánh cửa lại sau lưng. Tôi sững sờ đứng ngây ra đó, không biết nên chạy trốn hay ở đây đợi chờ án tử giáng xuống. Mười phút sau - thực ra tôi có cảm giác như đã mười năm trôi qua - cửa phòng làm việc của phó tổng biên tập bật mở và giọng nói như sấm rền của ông Basilio vang khắp khu phòng nội dung. “Martín. Làm ơn lại đây.” Tôi lết vào phòng ông chậm rãi hết mức, cứ mỗi bước lại rụt cổ so vai, tới khi không còn lựa chọn nào khác là ló mặt vào phòng và ngước nhìn lên. Ông Basilio, với cây chì đỏ đáng sợ trong tay, lạnh lùng nhìn tôi. Tôi muốn nuốt ực một cái, nhưng miệng lại khô không khốc. Ông cầm tập bản thảo lên và đưa cho tôi. Tôi nhận lại xấp giấy và quay về phía cửa nhanh hết mức, tự nhủ với bản thân rằng chắc vẫn còn chân đánh giày ở sảnh khách sạn Colon. “Hãy mang xấp bản thảo xuống phòng sắp chữ và bảo họ lên trang ngay,” giọng nói phía sau lưng tôi ra lệnh. Tôi quay phắt lại, chắc mẩm mình chính là nạn nhân của một trò đùa ác. Ông Basilio mở ngăn kéo bàn làm việc, đếm đủ mười đồng peseta rồi đặt lên mặt bàn. “Đây là phần của cậu. Ta khuyên cậu nên dùng số tiền này sắm cho mình một bộ cánh ngon lành hơn, vì ta thấy cái thứ cậu đang mặc vẫn y như vậy sau bốn năm trời, chưa kể còn to hơn cậu đến tận sáu cỡ. Nếu muốn, cậu cứ thử ghé qua tiệm quần áo của ông Pantaleoni trên phố Escudellers, cứ nói là ta giới thiệu cậu. Ông ấy sẽ tiếp đãi cậu tử tế.” “Cảm ơn ông rất nhiều, ông Basilio. Tôi sẽ làm như vậy.” “Còn giờ hãy tiếp tục nghĩ thêm những truyện khác cho ta. Ta cho cậu một tuần lễ. Nhưng đừng ngủ quên trên chiến thắng. Và lần này cậu phải xoay xở sao cho có ít xác chết hơn đấy, bởi độc giả ngày nay chuộng những cái kết lâm ly trong đó tinh thần nhân đạo cao cả chiến thắng trước mọi tai ương, đại loại là mấy trò nhảm nhí kiểu như vậy.” “Vâng thưa ông Basilio.” Phó tổng biên tập chìa tay ra. Tôi bắt lấy tay ông. “Làm khá lắm, Martín. Vào thứ Hai tới ta muốn thấy cậu ngồi ở cái bàn trước từng thuộc về Junceda, giờ nó là của cậu. Ta xếp cậu vào bộ phận chuyên viết tin vặt.” “Tôi sẽ không khiến ông thất vọng đâu, ông Basilio.” “Không, cậu sẽ không khiến ta thất vọng. Cậu sẽ chỉ bỏ ta mà đi thôi, chẳng sớm thì muộn. Và cậu hoàn toàn đúng khi làm vậy, vì cậu không phải một nhà báo và sẽ chẳng bao giờ làm được nhà báo. Nhưng giờ cậu vẫn chưa phải tiểu thuyết gia trinh thám đâu, dù cậu cứ tưởng là như vậy. Hãy ở đây một thời gian và bọn ta sẽ chỉ dạy cho cậu một vài mánh mà về sau sẽ luôn hữu dụng.” Vào giây phút ấy, lá chắn phòng thủ đột ngột rơi xuống, tôi ngập tràn trong cảm giác biết ơn đến mức tưởng chừng muốn ôm chầm lấy người đàn ông to lớn trước mặt. Ông Basilio, vừa đeo lại chiếc mặt nạ dữ dằn quen thuộc, ném cho tôi một cái nhìn sắc lẹm rồi chỉ thẳng về phía cửa. “Làm ơn đừng diễn mấy trò xúc cảm ở đây. Đóng cửa lại. Và Giáng sinh vui vẻ.” “Chúc ông Giáng sinh vui vẻ.” Vào ngày thứ Hai tuần kế tiếp, khi đến phòng nội dung và sẵn sàng ngồi vào bàn làm việc riêng của mình lần đầu tiên, tôi nhìn thấy có một phong bì giấy xám buộc ruy băng, trên đó là tên tôi được gõ bằng chiếc máy chữ mà tôi đã miệt mài sử dụng suốt nhiều năm nay. Bên trong phong bì là trang bìa cuối số ra ngày Chủ nhật cùng với câu chuyện của tôi được đóng khung hẳn hoi, kèm theo đó là một tờ giấy nhắn: “Đây mới chỉ là khởi đầu thôi. Mười năm nữa tôi sẽ thành tay thợ học việc còn cậu sẽ là thầy. Bạn và đồng nghiệp của cậu, Pedro Vidal.” Mời các bạn đón đọc Trò Chơi Của Thiên Thần của tác giả Carlos Ruiz Zafón & Ngô Hoàng Việt (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bà Già Phá Luật
Tuổi già xồ tới như một con chó xồm, chưa kịp nhận ra, ta đã ở trong viện dưỡng lão. Nếu chẳng thể nào thanh tân trở lại, chi bằng hãy già đi theo một kiểu thật ngầu? Một bà lão nhỏ bé, 79 tuổi, Martha Anderson không có ý định dành những ngày tháng còn lại của cuộc đờitrong viện dưỡng lão mà không làm gì, bàmuốn hướng đến một lối sống thú vị hơn nhiều: với phong cách Robin Hood. Cùng với bốn người bạn thân,Martha quyết định nổi dậy chống lại tất cả các luật lệ áp đặt lên họ. Rồi khi những người già trở nên táo bạo hơn, các hoạt động của họ cũng leo thang: họ đưa ra một kế hoạch xảo quyệt để trốn khỏi viện dưỡng lão và ĐI CƯỚP!!! Sức quyến rũ đặc biệt của Bà già phá luật đến từ những tình tiết gây cười, bất ngờ, khó đoán nhưng thật đáng suy ngẫm. Xét cho cùng, đời người cốt yếu đâu phải sống được bao nhiêu năm, mà là bao nhiêu năm ta thực sự sống? *** "Một ngày phạm tội, khỏe lên gấp bội" (Chritina, bảy mươi bảy tuổi) Từ thế giới ảm đạm của tuổi già và sự quên lãng, tại trại dưỡng lão Kim Cương ngày một tồi tệ, 5 người già đã về hưu bỗng "sống lại" với những kế hoạch phạm tội để đời. Cùng với nhau 5 người bạn thân: Martha, Brains, Christina, Anna-Greta và Rake lần lượt phá bỏ tất cả các luật lệ, đưa người đọc đến những bất ngờ nối tiếp. Với một phong cách rất Robin Hood, những ông bà lão tuổi thất tuần từng bước dấn thân vào một đời sống tội phạm đầy rủi ro nhưng cũng vô cùng quyến rũ. Họ trốn khỏi trại dưỡng lão, thành lập Băng Hưu Trí, ăn trộm tại một khách sạn hạng sang, "bắt cóc" tống tiền tranh của Renoir và Monet tại Bảo tàng Quốc gia...và đi cướp ngân hàng! "Bà già phá luật" của Catharina Ingelman-Sundberg khá trọn vẹn trong vai trò một cuốn mở đầu của bộ ba tiểu thuyết. Tiểu thuyết đem tới cho người đọc những phút giây hồi hộp, bất ngờ của những tiểu thuyết trinh thám-tội phạm, những phút cười thư thái, những khoảng lắng đọng trầm lắng và sự tò mò ngóng đợi những hành trình tiếp theo của Băng Hưu Trí. Suy cho cùng, sự nổi loạn của những ông lão bà lão, là nỗi lực cuối cùng, nhưng xứng đáng để thoát khỏi sự bức bối và sự thờ ơ của một xã hội - nơi những người già bị bỏ lại như những món đồ cũ kĩ trong kho, để một lần nữa, được sống lại thực sự và sống lại thật "ngầu". Với thông điệp giản đơn: Không phải ta sống được bao nhiêu năm, mà bao nhiêu năm ta thực sự sống, cùng lối viết dễ gần, vui tươi, "Bà già phá luật" là một cuốn sách tươi sáng, tích cực mà bạn nên đọc. *** #Review #Bà_già_phá_luật Đọc xong quyển này mình cũng muốn lập băng hưu trí để già đi một cách thật ngầu :D “Tuổi già xồ tới như một con chó xồm, chưa kịp nhận ra, ta đã ở trong viện dưỡng lão” Đã vậy, nếu không thể quay trở lại tuổi thanh xuân thì làm cách nào để già đi theo một cách thật ngầu? Bà lão nhỏ bé Martha ở viện dưỡng lão quyết định nổi dậy chống lại các luật lệ, bà lên kế hoạch trốn khỏi viện dưỡng lão và đi cướp. Thế đã đủ ngầu chưa nhỉ? Bà đến ngân hàng và quyết định cướp ngân hàng bằng cách giơ tấm biển CƯỚP ĐÂY và bảo cô thu ngân của ngân hàng “ba triệu, bỏ vào giỏ ngay lập tức”. Một vụ cướp không thể hài hước hơn và dĩ nhiên nó thất bại. Sau vụ cướp bất thành vì như trò đùa đó của bà Martha, bà về viện dưỡng lão và cùng với những người bạn của mình lập kế hoạch trốn khỏi viện dưỡng lão để phạm tội. Băng hưu trí của bà Martha đã gây ra một vụ trộm chấn động Thuỵ Điển. Họ trộm 2 bức tranh nổi tiếng của Monet và Renoir cùng với số tiền chuộc 10 triệu cuaron của viện bảo tàng. Cuộc phiêu lưu của bức tranh, số tiền và băng hưu trí cũng hấp dẫn, ly kỳ không kém một vụ truy đuổi các tên tội phạm trong các tác phẩm trinh thám đâu nhé. Một vụ phạm tội ly kỳ nhưng khá bất thường bởi cùng với nó là các tình huống hài hước phát sinh ngoài dự tính của họ. Hài hước nhưng cũng kém phần xúc động và suy ngẫm. Bà Martha ước ao có một gia đình nhưng tình yêu của đời bà bỏ đi khi con trai bà mới 2 tuổi. Con trai bà cũng ra đi mãi mãi vào một ngày Chủ nhật bên chiếc cầu tàu. Cố mang bầu để có một đứa con khác thì bà lại bị sẩy thai. Cuối cùng vì tuổi tác bà từ bỏ ý định lập gia đình. Sống ở viện dưỡng lão thì người ta tìm cách cắt xén mọi phúc lợi, bà bị cấm đoán mọi thứ, họ đối xử với những người già như những đứa trẻ mẫu giáo, nhiều khi còn không bằng một nhà tù. Không chỉ những tình huống hài hước mà Bà già phá luật cũng để lại những suy nghĩ trăn trở. Chúng ta rồi cũng sẽ già đi nhưng mấy ai hiểu được người già muốn gì và cần gì. Con cái đưa họ vào viện dưỡng lão nhưng có biết họ sống ra sao ở viện dưỡng lão? Trong nơi mà viện dưỡng lão bị biến thành nơi kinh doanh, nơi người ta trục lợi. Cái họ cần là sự quan tâm. Bà thích xem các bộ phim trinh thám gay cấn, đọc những chồng sách về các vụ giết người rùng rợn. Và việc đó quả thật đã giúp ích cho bà rất nhiều trong việc lên kế hoạch và thực hiện những phi vụ phạm tội mà đến cả cảnh sát, mafia cũng bị qua mặt. Đừng đùa với người già nhé. Sau vụ bức tranh và tiền chuộc băng hưu trí đã kịp lên kế hoạch cho những lần tiếp theo. Nghe nói Nhã Nam sắp phát hành 2 quyển nữa trong series Băng Hưu Trí này, mình ngóng chờ sự bất ngờ, táo bạo trong cuộc phiêu lưu tiếp theo của họ. *** Bà lão bé nhỏ nắm chặt tay cầm chiếc khung trợ lực Zimmer, treo gậy chống vào gần chiếc giỏ để đồ và cố phớt tỉnh. Dù gì thì một người phụ nữ bảy mươi chín tuổi chuẩn bị ra tay cướp ngân hàng lần đầu cũng cần phải có thần thái một chút chứ. Bà thẳng lưng lên, kéo sụp mũ xuống trán và đẩy cửa mở ra. Được chiếc khung Zimmer trợ lực, bà bước chậm rãi và cương quyết vào ngân hàng. Còn năm phút nữa là đóng cửa và ba người khách đang xếp hàng chờ phục vụ. Chiếc khung khẽ kêu cọt kẹt. Bà đã bôi trơn nó bằng dầu ô liu, nhưng một bánh đã lung lay kể từ lúc bà va chạm với xe đẩy dọn vệ sinh ở viện dưỡng lão. Tuy nhiên đó không hẳn là vấn đề. Điều tối quan trọng là chiếc khung trợ lực này có chiếc giỏ rộng đủ chỗ để chứa rất nhiều tiền. Martha Andersson – đến từ Södermalm, Stockholm – khòng khòng bước tới, cố tình mặc áo khoác trơn màu nhờ nhờ để tránh bị người ta để ý. Bà nhỏ con, chắc nịch chứ không béo. Bà đi đôi giày tiện dụng tối màu hoàn hảo cho việc chuồn lẹ nếu cần thiết. Đó là giả sử bà có thể tăng tốc để chạy. Đã nhiều năm rồi bà không làm điều đó, bởi vậy có lẽ bà đành hài lòng với việc rảo bước vậy. Hai bàn tay nổi gân chằng chịt của bà được giấu trong đôi găng da đã sờn và mái tóc trắng cắt ngắn được che dưới chiếc mũ nâu rộng vành. Bà đã quấn một chiếc khăn màu neon quanh cổ, bởi vậy nếu bà bị chụp ảnh, thì bức ảnh sẽ bị dư sáng và đường nét khuôn mặt bà sẽ biến mất. Chiếc khăn đó về cơ bản chỉ mang tính cẩn tắc vô áy náy, bởi vì miệng và mũi bà đã được chiếc mũ che khuất. Nhưng càng già thì bà càng phải khôn ngoan mới được. Chi nhánh ngân hàng nhỏ ở Götgatan trông giống như hầu hết các ngân hàng khác ở Thụy Điển ngày nay. Có đúng một giao dịch viên đứng đằng sau quầy dịch vụ duy nhất; những bức tường phẳng buồn tẻ; sàn nhà siêu bóng và một chiếc bàn nhỏ đặt đầy những tập quảng cáo về các gói vay ưu đãi và những lời khuyên đầu tư. Quý vị viết quảng cáo thân mến, Martha nghĩ, tôi biết cách kiếm được bộn tiền hơn nhiều! Martha định sẽ cười suốt quãng đường tới quầy và suốt cả quãng đường trở ra nữa. Bà ngồi xuống băng ghế dành cho khách hàng và giả vờ xem những tờ quảng cáo về các khoản tiết kiệm nhưng nhận thấy thật khó giữ tay mình khỏi run. Bà kín đáo luồn một tay vào túi áo tìm kẹo thơm trái cây. Một trong những thứ kẹo không tốt cho sức khỏe mà các bác sĩ đã cảnh báo bà tránh xa còn các nha sĩ thì ngấm ngầm ưa thích. Bà đã cố gắng sống lành mạnh; bà đã cố gắng để không bị đồ ngọt khuất phục. Nhưng nếu bà đang cố gắng trở thành kẻ nổi loạn, thì hôm nay là ngày bà cần làm điều đó. Bà hẳn phải được hưởng một thú vui tội lỗi chứ? Số thứ tự xếp hàng thay đổi cùng với một tiếng “tẹt” và một người đàn ông chừng tứ tuần vội bước lên quầy. Giao dịch của anh ta được xử lý nhanh chóng và rồi một thiếu nữ cũng được phục vụ nhanh chóng như vậy. Tuy thế, ở cuối hàng đợi là một ông lão và mất thời gian lâu hơn nhiều vì ông ta nói năng thì lúng búng còn xử lý giấy tờ thì luống cuống. Martha bắt đầu sốt ruột. Bà không được phép ở trong ngân hàng quá lâu. Có thể sẽ có ai đó nhận ra ngôn ngữ cơ thể của bà hoặc những chi tiết khác có thể làm bà bị lộ tẩy. Bởi thế bà cố hết sức để làm bộ giống như một quý bà đang chuẩn bị rút tiền. Mỉa mai thay, bà sắp sửa làm đúng như thế thật, dù giao dịch viên sẽ sốc vì số tiền bà rút và thực tế rằng số tiền đó không nhất thiết là tiền của bà. Nhưng ba cái chi tiết vụn vặt… Martha lần tìm mẩu báo được cắt ra để trong túi áo khoác. Bà đã lưu lại một bài báo viết về thiệt hại của các ngân hàng từ những vụ cướp. Bài báo có tiêu đề: “Cướp đây!” và trên thực tế, chúng chính là những từ đã thúc đẩy bà. Ông già ở quầy giao dịch đã gần xong, Martha chực đứng dậy khỏi sofa, cố thẳng lưng hết cỡ. Từ trước đến giờ, bà vẫn luôn là kiểu người trung thực, đáng tin cậy khiến mọi người đặt trọn niềm tin – hồi trung học bà thậm chí từng là lớp trưởng. Bây giờ bà chuẩn bị trở thành tội phạm. Nhưng nhìn vào thực tế mà xem, bà đâu còn cách nào khác để sống sót qua tuổi già? Bà cần tiền để trả cho một chỗ ở tử tế chút cho bản thân – và cho bạn bè mình. Lúc này đơn giản là bà chẳng thể quay đầu được nữa. Bà và các bạn hữu lâu năm ở dàn đồng ca của mình sẽ phải có một cái dốc bên kia đời xán lạn. Nói một cách đơn giản, một chút vui thú trong mùa thu của cuộc đời. Bà sẽ đảm bảo điều đó. Quý ông lớn tuổi ở bàn thanh toán đứng đó đã lâu, nhưng cuối cùng tiếng loa cũng vang lên và số của bà xuất hiện phía trên màn hình nơi giao dịch viên đứng. Chậm rãi, nhưng đường hoàng, bà bước lại quầy giao dịch. Bà sắp sửa hủy hoại danh tiếng gây dựng cả đời trong một khoảnh khắc. Nhưng còn có thể làm gì khác trong cái xã hội hiện đại đối xử bạc bẽo thế này với những thành viên lớn tuổi của nó chứ? Đành lòng chấp nhận nó và chịu thua, hoặc thích ứng với hoàn cảnh. Bà là kiểu người biết thích ứng với hoàn cảnh. Bà cất những bước cuối cùng tới cửa sổ quầy giao dịch, quan sát kỹ xung quanh căn phòng rồi mới dừng lại. Đoạn, gật đầu thân thiện với cô giao dịch viên, bà chìa ra mảnh báo được cắt rời: CƯỚP ĐÂY! Cô giao dịch viên đọc tít báo và mỉm cười ngẩng lên. “Vậy cháu có thể giúp gì bà ạ?” “Ba triệu – nhanh lên!” Martha hét to. Cô giao dịch viên cười tươi hơn. “Bà muốn rút tiền ạ?” “Không, cô sẽ rút tiền cho tôi, ngay lập tức!” “Cháu hiểu rồi. Nhưng tiền trợ cấp hôm nay chưa đến ạ. Phải đến giữa tháng mới có tiền trợ cấp mà bà.” Martha đã mất phần nhiều động lực. Mọi thứ đang không diễn ra như bà hình dung. Tốt nhất là phải hành động thật nhanh. Bà nhấc chiếc gậy chống lên và chọc nó qua khoảng trống dưới cửa sổ, khua mạnh hết mức có thể. “Nhanh lên! Ba triệu của tôi ngay lập tức!” “Nhưng tiền trợ cấp chưa…” “Làm như tôi nói! Ba triệu! Bỏ vào giỏ – ngay lập tức!” Đến lúc này cô gái đã chịu đựng quá đủ. Đã đến giờ đóng cửa và cô muốn về nhà. Martha dõi theo khi cô đứng dậy gọi hai đồng nghiệp nam. Cả hai trông đều đẹp trai như nhau và cười nhã nhặn. Người gần bà nhất trông giống Gregory Peck – hay là Cary Grant nhỉ? Anh ta nói: “Chúng cháu sẽ giải quyết tiền trợ cấp của bác, bác đừng lo. Và đồng nghiệp của cháu đây sẽ gọi taxi đưa bác về nhà.” Martha nhìn chăm chăm qua vách kính. Bà có thể thấy cô gái đó ở phòng trong, đang nhấc điện thoại lên. “Ồ, vậy có lẽ tôi sẽ phải cướp các vị vào lúc khác vậy,” Martha chịu thua. Bà nhanh chóng thu cây gậy chống về và nắm gọn mẩu báo trong lòng bàn tay. Tất cả bọn họ đều cười một cách ngọt ngào và giúp bà ra khỏi cửa rồi vào taxi. Họ thậm chí còn gập chiếc khung trợ lực giúp bà. “Viện dưỡng lão Nhà Kim Cương – cước ưu đãi cho người cao tuổi,” Martha vừa nói với tài xế vừa vẫy tay chào các nhân viên ngân hàng. Bà cẩn thận đút mẩu báo vào túi áo. Mọi việc đã diễn ra theo đúng kế hoạch. Một bà lão nhỏ bé mang khung trợ lực có thể làm rất nhiều điều mà nhiều người khác không làm được. Bà lại thọc tay vào túi áo khoác tìm chiếc kẹo thơm trái cây nữa và khoái chí lẩm nhẩm một mình. Để kế hoạch của bà thành công, lúc này bà chỉ cần sự giúp đỡ của bạn bè ở dàn đồng ca. Đó là những người bạn gần gũi và thân thiết nhất; những người bà đã quen biết và hát cùng suốt hơn hai mươi năm. Tất nhiên bà chẳng thể hỏi thẳng rằng họ có muốn trở thành tội phạm không. Bà sẽ phải thuyết phục bọn họ bằng nhiều phương cách tế nhị. Nhưng sau đó – và bà khá chắc chắn với điều này – họ sẽ cảm ơn bà vì đã khiến cuộc đời họ thay đổi theo chiều hướng tốt hơn. Martha bị đánh thức bởi tiếng “vù vù” từ phía xa xa, theo sau là một tiếng “tinh” đanh sắc. Bà thức dậy, mở mắt và cố xác định xem mình đang ở đâu. Phải rồi, đương nhiên là bà đang ở trong viện dưỡng lão. Và cũng đương nhiên đó là Rake – cái tên mà mọi người dùng để gọi ông bạn Bertil Engström của bà. Ông luôn thức dậy lúc nửa đêm để ăn vặt. Ồng có thói quen bỏ thức ăn vào trong lò vi sóng xong rồi quên biến. Martha ra khỏi giường và vào bếp với sự giúp đỡ của khung trợ lực. Vừa lẩm bẩm một mình, bà vừa mở lò vi sóng và lấy ra một chiếc đĩa phủ màng bọc thực phẩm, có mì ống và thịt viên trộn xốt cà chua. Bà mơ màng nhìn những tòa nhà phía bên kia đường. Một vài ngọn đèn tỏa sáng trong đêm. Ở phía bên kia đường hẳn các ngôi nhà vẫn còn nhà bếp tử tế, bà nghĩ. Ớ đây, trong viện dưỡng lão này, trước kia họ đã từng có nhà bếp tiện nghi, nhưng để tiết kiệm tiền và nhân lực, những người chủ mới đã cắt béng bộ phận cấp dưỡng. Trước khi Nhà Kim Cương tiếp quản viện dưỡng lão này, các bữa ăn từng là tâm điểm của mỗi ngày và hương vị thức ăn ngào ngạt bay khắp khu sinh hoạt chung. Còn bây giờ ấy à? Martha ngáp và dựa vào bồn rửa bát. Hầu như mọi thứ đều trở nên tồi tệ hơn và tồi tệ tới nỗi bà thường trốn vào những giấc mơ. Và bà vừa bị đánh thức dậy khỏi một giấc mơ tuyệt đẹp. Cảm giác cứ như thể bà đã thật sự ở trong ngân hàng đó vậy, cứ như thể tiềm thức của bà đã trỗi dậy và cố gắng nói với bà điều gì đó. Hồi còn đi học bà luôn chống lại những thứ mà bà cho là bất công. Thậm chí trong thời gian làm giáo viên, bà luôn đấu tranh chống những quy định không hợp lý và những cải cách ngớ ngẩn. Vậy mà thật lạ, ở đây trong viện dưỡng lão này, bà chỉ nhắm mắt đưa chân. Sao bà có thể dễ bảo và lờ phờ đến thế chứ? Dân chúng không thích những kẻ thống trị ở đất nước mình thì họ phát động cách mạng. Ở đây họ cũng có thể làm điều đó một cách ngon nghẻ nếu như bà có sự hậu thuẫn của bạn bè. Nhưng cướp ngân hàng, điều đó có vẻ là hơi quá đà, phải không nhỉ? Bà khẽ cười lo lắng. Bởi vì đây mới là điều đáng sợ – những giấc mơ của bà hầu như luôn trở thành sự thật. Mời các bạn đón đọc Bà Già Phá Luật của tác giả Catharina Ingelman-Sundberg.
Pháo Đài Cấm
Chuyện kể về Billy, một cậu bé mười bốn tuổi nghịch ngợm, chán học, tò mò về sự phát triển cơ thể phụ nữ. Cậu lên kế hoạch cùng nhóm bạn thân của cậu cho “cuộc phiêu lưu” trộm tờ tạp chí Playboy tại một tiệm tạp hóa, để ngắm nhìn những bức ảnh nóng bỏng của cô người mẫu Vanna White và photo những bức ảnh đó để bán cho các bạn trong trường. Từ đó, những chuyện dở khóc dở cười xảy ra xung quanh “cuộc phiêu lưu” của cậu và nhóm bạn. Một điều trớ trêu trong “cuộc phiêu lưu” ngốc nghếch này, cậu lại phải lòng chính cô con gái ông chủ tiệm bán tờ tạp chí mà cậu có ý định lấy cắp và cũng là một “chuyên gia” trong lập trình trò chơi máy tính. Điều này khiến cậu gặp không biết bao nhiêu rắc rối, những nút thắt khó gỡ làm đảo lộn cuộc sống của cậu, nhưng cũng là lần đầu trong đời cậu hiểu được tình yêu thực sự. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh thập niên tám mươi, thời đại của chiếc máy C64 như một hồi ức mạnh mẽ trong tâm trí của Jason Rekulak. Ông kể về nó, xuyên suốt qua Pháo đài cấm theo dòng cảm xúc, suy nghĩ nội tâm và những tình cảnh éo le của Billy trước những nhập nhằng giữa cái tốt đẹp và cái xấu xa, giữa tự do và khuôn khổ, giữa sa ngã trong sự trụy lạc và sự thức tỉnh nhân tâm, giữa sự tha hóa các giá trị đạo đức và sự cố gắng cứu vãn các giá trị ấ qua tình cảm Billy dành cho cô bạn Mary như thanh sô-cô-la mùi bạc hà có vị ngọt ngào, thơm tho nồng nàn. Pháo đài cấm – cuốn tiểu thuyết của Jason Rekulak lấy cảm hứng từ lĩnh vực lập trình máy tính mang đậm những cá tính độc đáo của những đứa trẻ vị thành niên. Câu chuyện mang thông điệp rất đặc biệt về sự giáo dục con trẻ. Tất cả được thể hiện tự nhiên, trần trụi mà không kém phần tinh tế qua ngòi bút “đậm bản năng về sự tò mò tính dục” ở Jason Rekulak. Tác giả Jason Rekulak là một nhà văn người Mỹ. Ông sinh ra và lớn lên tại New Jersey. Ông làm biên tập cho dòng sách hư cấu và phi hư cấu tại Nhà xuất bản Quirk Books trong nhiều năm. Pháo đài cấm là cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông. *** Câu chuyện kể về Billy, Alf và Clark là những cậu bé mười bốn tuổi sống ở cuối thập niên 80. Khi mấy câu chàng nhìn thấy tin tức từ gameshow “The Wheel of Fortune” về hình ảnh “lộ hàng” của nữ nghệ sĩ Vanna White có trên trang bìa của tạp chí Playboy, họ đã quyết định phải có bằng được quyển tạp chí này dù ở độ tuổi của mấy cậu này thì không được phép mua loại tạp chí đó. Khi nỗ lực đầu tiên của họ trong việc mua tạp chí thất bại, họ đã nghĩ ra một kế hoạch để đánh cắp nó. Họ có thêm động lực sau khi thu tiền từ các bạn cùng lớp – những cậu chàng mới lớn cũng đang tìm cách xem hình của Vanna White. Kế hoạch đã được triển khai với việc đột nhập vào cửa hàng tiện lợi sau nhiều giờ và điều kiện để thành công đều phụ thuộc vào việc Billy có thu hút được con gái của chủ cửa hàng tên là Mary hay không. Và kỳ ngộ đã xảy ra khi cả hai cô cậu này rất đều đam mê với việc lập trình máy tính. Mary thích một trò chơi do Billy tạo ra và khuyến khích cậu tham gia vào một cuộc thi từ một công ty game uy tín, cùng với đó là sự hỗ trợ của cô nàng. Chính trong thời gian này, Billy thấy mình đang ở ngã tư đường và phải lựa chọn giữa Mary và Vanna White. Trong khi Alf và Clark làm công việc hậu cần cho kế hoạch của bọn họ thì Billy rất vui khi dành thời gian mỗi buổi tối với Mary, làm việc trong trò chơi của họ. Trong lòng Billy biết rằng cậu cảm thấy điều gì đó hơn cả tinh thần đồng đội và tình bạn đối với Mary và cậu nghĩ Marry cũng có cảm giác đó nhưng cậu ta không biết phải làm gì hoặc làm thế nào cả. Khi trò chơi đã được tham gia vào cuộc thi và mọi thứ trở nên hơi rắc rối, Billy phải đối mặt với một tình huống khó xử là liệu cậu có nên nói với bạn bè về cảm giác của bản thân với Mary và thuyết phục họ dẹp đi cái kế hoạch vớ vẩn kia hay vẫn giữ lời hứa thực hiện kế hoạch?! “Pháo đài cấm” đã miêu tả xuất sắc sự tò mò cũng như thiếu chín chắn của những cậu bé tuổi teen và sự theo đuổi tiền bạc, sự nổi tiếng và những bức ảnh khỏa thân của phụ nữ. Đó là một câu chuyện thú vị về lòng trung thành với bạn bè, sự bùng nổ của tình yêu đầu đời, những mong muốn tạo ra một cái gì đó của chính mình và sự phấn khích của trí tuệ sáng tạo ở người trẻ. Jason Rekulak gợi lên khoảng thời gian của những năm 80 cực kỳ tốt. Thật đáng ngạc nhiên khi mọi thứ trở nên khác biệt, khi bạn không thể dựa vào internet để biết thông tin, khi chỉ một số người nhất định có lập trình riêng để giao tiếp qua email một cách chậm chạp và khi sự liên lạc chưa phải là một điều dễ dàng trong xã hội. Tôi thực sự rất thích đoạn hội thoại gợi lại những hồi tưởng cùng với nỗi nhớ về thập niên 80. Cảm giác như bản thân đã được đưa trở lại thời của đĩa mềm máy tính và cuộc sống không có mạng xã hội. Tác giả đã hoàn toàn thành công trong việc miêu tả sự tương tác giữa các thanh thiếu niên với các bài học về cuộc sống. Nếu nhìn nhận những khuyết điểm trong quyển sách này thì có thể thấy tác giả Rekulak không thực sự mang đến cho các nhân vật của mình nhiều chiều sâu hay sự hấp dẫn từ trong tính cách. Mọi thứ khác trong cuốn sách đều khá dễ đoán và các nhân vật cư xử đúng như mình mong đợi. Sẽ không là vấn đề gì to tát nếu như được biết thêm về Alf và Clark nhưng chúng ta chỉ thấy họ hành động như những kẻ ngốc và gây áp lực với Billy. Mary là một nhân vật hấp dẫn mà tôi thực sự rất thích vì cô nàng có cá tính riêng. Nếu ai đã từng trưởng thành trong thập niên 80 hoặc thích những câu chuyện giải trí về tình bạn tuổi teen và những thách thức của tuổi dậy thì thì hãy xem “Pháo đài cấm” vì đây chắc chắn là một lựa chọn phù hợp cho bạn. Quyển sách đề cập đến hàng loạt thứ khác nhau như nghèo đói, máy tính, trò chơi điện tử, những người bị ruồng bỏ ở trường trung học, những người mọt sách, nhạc New Wave, những người bạn tốt, những cô gái trường Công giáo, và những bộ phim của John Hughes,… Chi tiết yêu thích của mình là Billy hoàn toàn không phải là một thiên tài máy tính. Cậu ấy không phải là một hacker đáng sợ hay một kẻ thua cuộc trong xã hội. Cậu ấy thực tế hơn nhiều. Cậu ta là người đam mê việc tự học hỏi, người đã mắc phải lỗi lập trình và mơ ước làm game để kiếm sống bằng cách biến những câu chuyện trong đầu thành sản phẩm trên màn hình. Rõ ràng tác giả đã xây dựng một cậu bé bình thường và rất gần gũi với bạn đọc. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 08-01-2020) *** Mẹ tôi tin rằng tôi sẽ chết trẻ. Mùa xuân năm 1987, vài tuần sau sinh nhật lần thứ mười bốn của tôi, mẹ bắt đầu làm ca đêm ở Food World (Thế giới ẩm thực) vì ca đêm người ta trả thêm mỗi giờ một đô la. Tôi ngủ một mình trong căn nhà trống trải trong khi mẹ nhận điện thoại đặt hàng và lo lắng về tất cả những thứ tồi tệ có thể xảy ra: Lỡ tôi mắc nghẹn món gà viên chiên thì sao? Lỡ tôi trượt té trong khi tắm thì sao? Lỡ tôi quên tắt lò và căn nhà sẽ nổ tung trong một trận hỏa hoạn kinh hoàng thì sao? Cứ mười giờ tối, mẹ sẽ gọi điện xem tôi đã làm xong bài tập và khóa cửa trước chưa, đôi khi bà dặn dò tôi kiểm tra hệ thống báo khói, chỉ là phòng hờ thôi. Tôi thấy mình là đứa học trò lớp chín may mắn nhất. Mỗi đêm, hai đứa bạn tôi, Alf và Clark, đều đến nhà tôi, hào hứng ăn mừng tự do mới có được của tôi. Chúng tôi xem ti vi hàng giờ, pha hàng mấy lít sữa lắc, ngốn bánh Pop-Tart và pizza bagel đến phát ngán thì thôi. Chúng tôi chơi những ván game Rick và Monopoly kéo dài đến mấy ngày, và bao giờ tàn cuộc đứa nào thua cũng nổi giận hất bàn cờ khỏi bàn. Chúng tôi múa miệng nói về âm nhạc và phim ảnh; hào hứng tranh luận rằng ai sẽ là người chiến thắng: Rocky Balboa hay Freddy Krueger? Bruce Springsteen hay Billy Joel? Magnum P.I. hay T. J. Hooker hay MacGyver? Mỗi đêm trôi qua như một bữa tiệc ngủ* vậy, và tôi nghĩ rằng khoảng thời gian tuyệt vời này sẽ không bao giờ kết thúc. Tiệc ngủ (nguyên tác: “slumber party”) tức một buổi tiệc vui chơi kéo dài thâu đêm nhân một dịp nào đó và trẻ con thường ngủ chung ở nhà người tổ chức tiệc. Có nghĩa là “Vòng quay may mắn”. Ở Việt Nam là trò chơi “Chiếc nón kỳ diệu” của Đài Truyền hình Việt Nam, được mua bản quyền từ chương trình “Wheel of Fortune”. Nhưng sau đó, trên tờ tạp chí Playboy có đăng những tấm hình của Vanna White, người dẫn chương trình “Wheel of Fortune”* mà tôi si mê đến cuồng dại, và mọi thứ bắt đầu thay đổi. Alf thấy tờ tạp chí trước tiên, nó chạy hộc tốc từ sạp báo Zelinsky về để kể cho chúng tôi nghe. Clark và tôi đang ngồi trên sofa trong phòng khách, xem top 20 video đếm ngược của MTV thì Alf đâm sầm vào từ cửa trước. “Mông cô ấy ngay trên trang bìa!” Nó thở hổn hển. “Mông ai?” Clark hỏi. “Trang bìa gì vậy?” Alf ngã sấp trên sàn, ôm chặt hai bên sườn và thở dốc: “Vanna White. Tờ Playboy. Tao vừa thấy một bản, và mông cô ấy ở ngay trang bìa.” Rõ là tin sốt dẻo, “Wheel of Fortune” là chương trình nổi tiếng nhất trên truyền hình, người dẫn chương trình Anna White là niềm tự hào của cả nước, cô gái tỉnh lẻ đến từ Myrtle Beach, nhanh chóng nổi tiếng nhờ may mắn khi lật ô chữ trong một cuộc thi giải đố ô chữ. Tin tức về những bức ảnh trên tờ Playboy đã phủ kín những dòng tít của các tờ báo khổ nhỏ phát hành ở siêu thị: VANNA ĐANG RẤT SỐC VÀ NHỤC NHÃ, thừa nhận các BỨC HÌNH HỞ HANG đó được chụp trước đây và chắc chắn không phải cho tờ Playboy. Cô ấy đã đệ trình một vụ kiện 5,2 triệu đô để ngừng phát tán các bức hình này, và bây giờ - sau nhiều tháng râm ran đồn đoán và ngờ vực - tạp chí ấy cuối cùng cũng lên sạp. “Đó là điều đáng kinh ngạc nhất tao từng thấy”, Alf tiếp tục. Nó nhảy lên một cái ghế, bắt chước dáng điệu của Vanna trên tờ bìa. “Cô ấy đang ngồi bên khung cửa, như thế này phải không? Và cô ấy đang nhướng ra ngoài. Như thể đang xem thời tiết nhỉ? Chỉ có điều cô ấy không mặc quần!” “Không thể nào”, Clark nói. Ba đứa chúng tôi sống trong một khu nhà, sau nhiều năm chúng tôi biết Alf rất thích lối cường điệu. Như lần nó nói John Lennon bị ám sát bằng một khẩu súng máy. Trên nóc tòa nhà Empire State. “Tao thề trên mạng mẹ tao”, Alf nói, giơ tay lên như đang thề trước Chúa. “Nếu tao nói láo, mẹ tao sẽ bị máy kéo cán.” Clark kéo tay nó xuống: “Mày không nên nói những điều như thế. Mẹ mày thật may mắn vì bà ấy vẫn còn sống.” “À, mẹ mày thì như cửa hàng McDonald ấy”, Alf búng tay. “Bà ta chiều lòng tỷ tỷ khách hàng.” “Mẹ tao?” Clark hỏi. “Sao mày lôi mẹ tao vào đây?” Alf cãi lại: “Mẹ mày thì giống như thủ môn khúc côn cầu vậy. Ba lần hành kinh mới thay băng một lần.” Nó như một cuốn bách khoa về trò đùa “Mẹ mày…”, và đây là mức trêu đùa nhẹ nhất của nó. “Mẹ mày như một tiệm thịt nướng kiểu Nhật ấy…” Clark ném cái gối tựa trúng mặt Alf. Alf nổi điên, ném trả thật mạnh, nhưng không trúng Clark mà trúng ly nước Pepsi của tôi. Bọt ga và soda loang đầy thảm. “Chết tiệt!” Alf hoảng hốt, bò đến lau dọn. “Tao xin lỗi, Billy.” “Không sao”, tôi nói. “Lấy khăn giấy ra đây.” Làm lớn chuyện cũng chả có ích gì. Không phải tôi muốn đá Alf và Clark để tìm vài đứa bạn mới ý tứ hơn hai đứa chúng nó. Chín tháng trước, ba đứa tôi đến trường và xem đám bạn học gí đầu vào các môn thể thao, câu lạc bộ hay bộ môn học thuật nào đó. Nhưng chúng tôi chỉ đi vòng quanh, vì thấy chẳng cái nào phù hợp. Trong đám lớp chín, tôi là đứa cao nhất, nhưng tôi không thuộc loại cao khỏe; tôi cứ lảo đảo quanh trường như một chú hươu cao cổ con, chân gầy trơ xương, hai cánh tay khẳng khiu, như đang chờ phần còn lại của cơ thể lắp vào vậy. Alf lùn hơn, vâm chắc hơn, nhiều mồ hôi hơn và khổ sở vì trùng tên với nhân vật ngoài hành tinh nổi tiếng trên truyền hình - một con rối cao chừng một mét trong chương trình hài nhộn trên kênh NBC. Cả hai đều mang vẻ bí hiểm. Cả hai tên Alf đều giống như gã khổng lồ vậy, mũi to, mắt nhỏ và sáng, tóc nâu bù xù. Ngay đến giáo viên của chúng tôi cũng đùa rằng họ nhìn như sinh đôi vậy. Vì những nhược điểm lồ lộ ấy, Alf và tôi biết là chúng tôi không thể bì được với Clark. Mỗi sáng, nó ra khỏi giường nhìn như người nổi tiếng xuất hiện trên tạp chí Tiger Beat. Nó vạm vỡ với mái tóc vàng lượn sóng, cặp mắt sâu xanh biếc và làn da hoàn hảo. Mấy cô nàng trong khu mua sắm hễ trông thấy Clark bước đến thì há hốc mồm như thể nó là River Phoenix hay Kiefer Sutherland* không bằng - cho đến khi họ đến đủ gần để thấy cái càng của nó, họ sẽ lập tức quay đi chỗ khác. Một khuyết tật bẩm sinh quái gở đã nối các ngón trên bàn tay trái của Clark thành một thứ giống như càng cua màu hồng. Về cơ bản là vô dụng - nó có thể nắm mở được bàn tay nhưng không thể cầm vật gì to và nặng hơn một tờ tạp chí. Clark thề khi mười tám tuổi, dù phải tốn cả triệu đô, nó vẫn quyết tìm một bác sĩ tách rời các ngón tay ra. Cho đến khi đó, nó tiếp tục sống cúi đầu và giấu cái càng vào trong túi để tránh sự chú ý của người khác. Chúng tôi biết Clark phải sống độc thân cả đời, nó sẽ chẳng tìm được một cô bạn gái bằng xương bằng thịt nào trên quả đất này nên nó cần Vanna White trên tờ Playboy hơn ai hết. Các tài tử nổi tiếng Hollywood. “Có hình cô ấy ở tờ gập giữa không nhỉ?” Nó hỏi. “Tao không biết nữa”, Alf đáp. “Ở sạp Zelinsky nó được bày trên giá đằng sau quầy thu tiền. Kế bên kệ thuốc lá. Tao không lại gần đó được.” “Mày không mua à?” Tôi hỏi. Alf khịt mũi: “Ừ, tao chỉ đến Zelinsky và hỏi mua một tờ Playboy. Lốc sáu gói thuốc. Cả ống điếu nữa, tại sao không chứ? Mày điên à?” Chúng tôi đều biết là không nên hỏi mua tờ Playboy. Mua đĩa nhạc rock đã khó lắm rồi, Jerry Falwell đã cảnh báo về những ảnh hưởng xấu, còn Tipper Gore khuyến cáo các bậc phụ huynh về những ca từ mang tính kích động. Không người bán hàng nào ở Mỹ đi bán tờ Playboy cho một đứa trẻ mười bốn tuổi cả. “Howard Stern bảo những bức hình quả rất đáng kinh ngạc”, Clark giải thích. “Ông ấy nói ta có thể thấy cận cảnh cả bộ ngực khủng. Hai ti, ốn dẫn sữa, đó là cả một tác phẩm nghệ thuật.” “Ốn dẫn sữa?” Tôi hỏi. “Ống dẫn chứ”, Clark sửa lại. “Quầng hồng quanh ti ấy”, Alf giải thích. Clark lắc đầu: “Đó là núm, ngốc ạ! Ống dẫn sữa là phần lõm vào của ti. Nơi mà sữa chảy ra.” “Ti không lõm”, Alf vặc lại. “Chắc chắn có”, Clark khẳng định. “Thế nên chúng rất nhạy cảm.” Alf kéo áo thun, để lộ khuôn ngực và cái bụng nhão nhèo: “Của tao thì sao? Chúng có lõm không?” Clark che mắt: “Cất đi. Làm ơn!” “Ti của tao không lõm”, Alf khăng khăng.   Mời các bạn đón đọc Pháo Đài Cấm của tác giả Jason Rekulak & Minh Hiền (dịch) & Tuyết Vy (dịch).
Trong Chúng Tôi Có Kẻ Nói Dối
Năm học sinh có mặt trong phòng phạt buổi chiều thứ Hai. Nhưng chỉ có bốn người sống sót rời khỏi đó. Bronwyn, nữ sinh đứng đầu trường với tương lai xán lạn ở Yale trong tầm tay Addy, nữ hoàng dạ hội xinh đẹp, sang chảnh với một cuộc sống lung linh trong mắt mọi người Cooper, ngôi sao thể thao, vận động viên bóng chày được các trường đại học và các đội tuyển săn đón Nate, tay buôn thuốc trái phép đang trong thời gian quản chế Và cuối cùng là Simon, người nắm giữ những bí mật kinh khủng của bốn người bạn kia. Nhưng cậu đã chết trước khi công khai những bí mật đó trên ứng dụng tin đồn khét tiếng của mình. Cảnh sát tin rằng đây là một vụ giết người, và mỗi học sinh có mặt trong căn phòng đó đều có lý do để hạ sát Simon. Ai là kẻ thủ ác, ai là con rối, ai là nạn nhân? Một câu chuyện hấp dẫn đan cài giữa mặc cảm, thù hằn, hồ nghi, tin tưởng, tình yêu, dũng cảm, và trên hết là sự trưởng thành. Đánh giá sách: “Cốt truyện ngoắt ngoéo, nhịp độ chóng mặt và cách xây dựng nhân vật đầy lôi cuốn, tất cả góp phần tạo ra một bữa tiệc giật gân, độc đáo và cuốn hút.” - The Guardian “Đây là một tác phẩm trinh thám không hề tầm thườ gây ngạc nhiên và hết sức đáng đọc” - USA Today “Độc giả sẽ thấy rất khó có thể đặt cuốn sách hấp dẫn này xuống.” - BookP “Một tiểu thuyết trinh thám gây nghiện với vô số bất ngờ sẽ khiến bạn phân vân cho đến phút chót: Ai đã giết Simon?” - Kara Thomas “Khi bí ẩn căng thẳng của McManus dần hé lộ mỗi nhân vật đều trở nên phức tạp và sắc nét hơn, và điều đó đã thêm thắt chiều sâu cũng như sự đa diện vào cảm giác hồi hộp nơi cuốn sách.” - VOYA, Starred Review *** Karen M. McManus nhận bằng Cử nhân ngành ngôn ngữ Anh ở trường College of the Holy Cross và bằng thạc sỹ ngành Báo chí ở trường Northeastern University. Cô bắt đầu viết văn từ năm 2017 với tác phẩm đầu tay là Trong chúng tôi có kẻ nói dối. Cuốn sách được độc giả đón nhận nồng nhiệt và đã nằm trong danh sách best-seller của New York Times trong 79 tuần liên tiếp. Tác phẩm của cô đã được dịch sang 40 thứ tiếng trên thế giới. *** 5 học sinh bước vào phòng phạt. Chỉ 4 em sau đó còn sống. Người đã chết là Simon - admin của ứng dụng tin đồn khét tiếng, người nắm giữ những bí mật của 4 bạn kia. Sự thật về cái chết của Simon là như thế nào? Có phải một trong số 4 học sinh còn sống là người đã giết Simon? Cuốn này những tưởng hoàn toàn là trinh thám, thế nhưng càng đọc thì mình lại thấy nó giống dạng tiểu thuyết về đề tài học đường xoay quanh một sự kiện bí ẩn hơn. Yếu tố điều tra, phá án một cách chuyên nghiệp thì không có nhiều, có suy luận thì cũng chủ yếu đến từ 4 học sinh dính dáng đến vụ án. Tuy nhiên, truyện đọc vẫn cuốn vô cùng, mình không thể bỏ sách xuống được, nếu không phải đi làm thì chắc là đã đọc xong cuốn này vào hôm qua rồi. Cái chết của Simon được phía cảnh sát xem là một vụ án mạng, và những gì diễn ra sau đó đã cuốn hút mình vào câu chuyện, khi mà 4 học sinh có mặt trong phòng phạt hôm đó dường như đều có một bí mật úp mở nào đó. Rồi còn cả thế giới học đường bên Mỹ được tác giả vẽ nên vô cùng sinh động và cũng đầy rẫy những mặt trái. Thêm sự can thiệp của truyền thông, sự tắc trách từ phía cảnh sát, nói chung là hay và hấp dẫn. Một số bạn bảo càng về sau truyện càng có vẻ cụt cụt, cơ mà cá nhân mình thì lại thấy tác giả viết khá tốt đấy chứ. Với tình huống dẫn đến cái chết của Simon như thế, thì mình cũng có dự liệu trước đáp án về cái chết của Simon rồi. Nhưng mà điều làm mình bất ngờ đó chính là sự thật về một số nhân vật và kế hoạch được dựng nên khi mọi thứ đã được phơi bày hoàn toàn, cảm giác đáng sợ vãi luôn, không ngờ lại là như thế. Fan trinh thám quen đọc mấy cuốn “nặng đô” chắc là sẽ chê cuốn này rồi. Nhưng mà vì trong tim mình luôn có chỗ cho những câu chuyện thuộc thể loại không hẳn là trinh thám đặt trong bối cảnh học đường này, nên là mình vẫn rất kết “Trong Chúng Tôi Có Kẻ Nói Dối”. Cảm giác giống giống như khi xem phim “Elite” của Tây Ban Nha ấy, mặc dù trình kể chuyện của tác giả cuốn này vẫn thua trình viết kịch bản của biên kịch “Elite” một bậc ^^ À mà cuốn này cũng đang được dựng thành phim truyền hình đấy nhé, thấy dàn cast có vẻ khá giống với những gì mình đã mường tượng khi đọc truyện đó. Đúng là dàn cast được tác giả chấp thuận có khác :))) Kết Bronwyn với Nate quá cơ, cute vãi luôn ^^ Mong là hai đứa chẳng chóng thì chày sẽ chính thức trở thành một cặp :D Đoạn Vĩ thanh mang đến cho tôi nhiều hy vọng quá mọi người ơi :D Review sơ sơ là vậy ha. Vì đang trong tuần nên mình không có thời gian rảnh để ngồi vắt não là viết nguyên cái full review dài thòng lòng đâu (mặc dù mình rất muốn hu hu, nhưng mà chất xám 8 tiếng ở chỗ làm lấy hết rồi…). Sắp tới hy vọng sẽ có review chi tiết hơn, không thì trước mắt tạm xài nhiêu đây đi :D *** Tác phẩm của Karen M.McManus đặt ra rất nhiều vấn đề của học đường; nạn bắt nạt, sự trầm cảm, những bốc đồng dẫn đến bạo lực... Ai đã giết Simon? Câu hỏi được đặt ra từ những phút giây đầu tiên khi bắt đầu vào hành trình của 5 cô cậu học sinh trong phòng phạt và chỉ 4 học sinh có cơ hội hé lộ dần bí mật của mình. Cả 5 đều chứng kiến Simon, "Admin" của ứng dụng NGHE ĐỒN nơi đăng những tin sốt dẻo về đời tư, những thứ nhạy cảm tại trường trung học BayView, nằm khò khè, ngạt thở cho đến chết. Sách Trong chúng tôi có kẻ nói dối do Trương Trung Tín dịch, Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn phát hành. Liệu trong 4 học sinh trong phòng phạt gồm Bronwyn, nữ sinh bảng vàng với thành tích học tập khủng hay Addy xinh đẹp luôn nhận được cái nhìn ngưỡng mộ vì có người bạn trai đẹp mã hoặc Cooper, ngôi sao bóng chày với sự săn đón nồng nhiệt từ các trường đại học và các đội tuyển, và biết đâu người cuối cùng trong bộ tứ Nate, lạnh lùng buôn "cỏ" với đôi mắt buồn biết nói, đã giết Simon? Câu hỏi được bỏ ngỏ để khi đi dần tới cuối hành trình, cũng là lúc nút thắt của câu chuyện được mở ra với 4 lời nói dối được che đậy bằng nước mắt, sự khổ đau và nỗi dằn vặt khôn nguôi. Không đơn thuần là một tiểu thuyết trinh thám với cái chết được bày ra và có hơn một nghi can trong vụ án mạng mà ở Trong chúng tôi có kẻ nói dối dễ dàng bắt gặp những vấn đề nhức nhối xảy ra hầu như mỗi ngày ở chốn học đường. Ở đó, có nạn bắt nạt, sự trầm cảm, con cái hư hỏng đến từ một gia đình đổ vỡ, thiếu quan tâm và những bốc đồng dẫn đến bạo lực cùng với sự mất kiểm soát với các thông tin nhạy cảm dần đưa các học sinh vào chiếc kén cô độc và không tìm nổi một ai để giãi bày. Mỗi nhân vật trong câu chuyện lần lượt đổi vai thành nhân vật "tôi" dần trao từng mảnh ghép rời rạc cho độc giả và chính trong đường dây câu chuyện ấy, mảnh ghép cuối cùng "đội mồ sống dậy" với vô số bất ngờ mà chỉ khi dấu chấm câu cuối cùng ở chương Vĩ thanh, độc giả mới nhận ra mình đang đứng ở cái kết trọn vẹn. Phần kết thúc khép lại bi kịch học đường và mở ra tương lai xán lạn khi những lỗi lầm được cứu chuộc và thứ tha bằng chính sự thật thà. Với tác phẩm đầu tay Trong chúng tôi có kẻ nói dối, Karen M.McManus sớm định hình phong cách riêng bằng cốt truyện lắt léo, dựng xây nhân vật với cá tính độc đáo, nối những chi tiết tưởng chừng rời rạc thành một nút thắt đầy kịch tính và chạm "điểm nổ" với vô số bất ngờ đầy thú vị. Mời các bạn đón đọc Trong Chúng Tôi Có Kẻ Nói Dối của tác giả Karen M. McManus & Trương Trung Tín (dịch).
Tôi Đã Chết Vào Một Ngày Nào Đó
"Tôi đã chết vào một ngày nào đó, liệu cái chết của tôi có ý nghĩa gì không?" Hai dòng đầu cuốn nhật ký Jae Joon để lại, giống như một điềm gở về sự ra đi đột ngột của cậu. Nó ngăn trở đồng thời cũng thôi thúc Yoo Mi thu hết can đảm lật từng trang nhật ký, bước vào thế giới của cậu bạn thân, và gặp lại một Jae Joon vừa quen vừa lại. Bắt đầu bằng bi kịch nhưng lại không hoàn toàn chìm đắm trong nỗi buồn, Tôi đã chết vào một ngày nào đó mang đến sức mạnh của sự sống và hi vọng. Những băn khoăn, mất mát, nổi loạn và trưởng thành của tuổi trẻ được miêu tả sống động qua một cốt truyện tự nhiên. *** REVIEW “TÔI ĐÃ CHẾT VÀO MỘT NGÀY NÀO ĐÓ”: NHỮNG BĂN KHOĂN, MẤT MÁT, NỔI LOẠN VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA TUỔI TRẺ Jae Joon, cậu bạn thân có một không hai của Yoo Mi, đột ngột qua đời do một tai nạn xe máy, làm cho cô bé không khỏi ngỡ ngàng và đau đớn. Trốn tránh khỏi nỗi đau thương giằng xé, cô không dám đối mặt với cái chết của Jae Joon, lại càng không dám đến thăm ngôi nhà của cậu ấy, đối diện với những con người có lẽ còn đang đau đớn gấp hàng nghìn cô.  Jae Joon, cậu bạn thân có một không hai của Yoo Mi, đột ngột qua đời do một tai nạn xe máy, làm cho cô bé không khỏi ngỡ ngàng và đau đớn. Trốn tránh khỏi nỗi đau thương giằng xé, cô không dám đối mặt với cái chết của Jae Joon, lại càng không dám đến thăm ngôi nhà của cậu ấy, đối diện với những con người có lẽ còn đang đau đớn gấp hàng nghìn cô. Đứng trước lời đề nghị đọc cuốn nhật ký của Jae Joon, Yoo Mi lại càng nhớ về những kỉ niệm cùng với người bạn cũ của mình, rồi thu hết can đảm, đọc những dòng suy nghĩ của cậu khi còn sống, để rồi gặp một Jae Joon “vừa quen vừa lạ.” Như lời giới thiệu nằm ở bìa của cuốn sách, “Tôi đã chết vào một ngày nào đó” bắt đầu bằng bi kịch nhưng lại không hoàn toàn chìm đắm trong nỗi buồn. Đọc nhật kí của Jae Joon gợi nhớ cho Yoo Mi rất nhiều về người bạn cũ, cũng như cho cô hiểu thêm về những khía cạnh mà cô chưa bao giờ biết tới. Như tình cảm dành cho cô bạn cùng lớp Jung So Hee mà cậu mãi không từ bỏ được, trò chơi “giả làm người chết” hay góc nhỏ mà cậu vẫn để dành cho cô bạn thân Yoo Mi trong trái tim mình. Những điều được viết trong cuốn nhật ký đó càng làm cho cô không thể tin được rằng Jae Joon đã mãi rời xa thế giới này rồi, nhưng cuối cùng lại phải chấp nhận rằng cậu ấy đã ra đi mãi mãi, để sống tiếp mà luôn giữ một góc nhỏ cho Hwang Jae Joon trong trái tim. Trò chơi giả làm người chết của Jae Joon thực sự đã để lại cho tôi rất nhiều suy nghĩ. Chính trò chơi này đã giúp cậu nhìn thế giới dưới một con mắt khác, một con mắt đau buồn hơn và tự biết trân trọng sự sống và những con người xung quanh mình hơn. Có lẽ, mỗi chúng ta cần dành một chút thời gian để thử chơi trò chơi của cậu thiếu niên ấy, để nhìn đời theo một cách nhìn khác, để thêm yêu quý và trân trọng những con người xung quanh mình, hay đơn giản chỉ là bình tĩnh lại sau giây phút nóng nảy. Như cái cách Jae Joon làm hòa với em trai của mình vậy. Gấp lại "Tôi đã chết vào một ngày nào đó", tôi đã thực sự hỏi bản thân mình rằng "Liệu cái chết của tôi có ý nghĩa gì không?" Nhưng rồi câu hỏi ấy cũng không tồn tại được quá lâu trong tâm trí tôi, vì tôi biết: mình có gia đình, có bạn bè - những con người sẽ mãi nhớ về tôi sau khi tôi ra đi. Đọc xong cuốn sách, tôi lại càng trân trọng và yêu quý thêm những con người xung quanh mình, cũng như trân trọng sự sống này vậy. Nội dung: Anh Thư - Bila Team *** “Yoo Mi à, cô... cô có chút việc muốn nhờ. Hôm nào đó con gặp cô một lát được không?” Tôi vô cùng bất ngờ khi nhận được điện thoại của cô. Nghĩ thế nào tôi cũng không đoán ra nổi cô có việc gì nhờ đến mình. Đã hai tháng rối, kể từ ngày Jae Joon qua đời, nhưng tôi chưa một lần đến nhà cậu ấy. Ngay cả mấy đứa chẳng thân thiết lắm cũng đã đôi lần qua động viên mẹ Jae Joon, thế mà tôi - cái đứa bạn thân có một không hai của cậu - lại chẳng bén mảng dù chỉ một bước chân về phía ngôi nhà đó. Cả cô cũng vậy. Dù thi thoảng có hỏi thăm lũ bạn về tôi, nhưng cô khỏng hề gọi tôi đến, một cuộc điện thoại cũng không. Tôi không đủ dũng khí để gặp cô. Dường như nếu gặp cô thì sự thật rằng Jae Joon đã chết sẽ ập đến và tôi sẽ chẳng thể vượt qua nổi nỗi khổ đau khi ấy. Tôi đã không hề liên lạc trong suốt hai tháng liên vì cho rằng cô cũng có cảm giác tương tự, thế nên tôi hoàn toàn không ngờ cô lại đột nhiên gọi điện và hẹn gặp mình. Trên đường đến chỗ hẹn, chưa gì khóe mắt tôi đã ướt rượt. Tôi nôn nao sợ rằng chỉ cần nhìn thấy cô, mình sẽ òa khóc mất. Cô ngồi lặng lẽ gần cửa sổ trong góc quán trà, đăm đắm nhìn ra ngoài. Dáng vẻ ấy chẳng khác nào một cành hoa héo úa. Như thể hai tháng qua đã rút cạn nước trong cơ thể cô. “Cô ơi...” Tôi đứng đó khó nhọc mở lời, nhưng cũng chỉ nói được một câu như vậy. Tôi không khóc như đã sợ, nhưng những lời chào hỏi “Con chào cô”, “Cô có khỏe không?” nghẹn ứ trong cổ họng, không sao thoát ra được. “A, Yoo Mi đến rồi đấy à. Mau ngồi xuống đi con.” Cô rời mắt khỏi khung cửa sổ và nhìn về phía tôi, thoáng nở nụ cười. Vậy nhưng, ngay khoảnh khắc trông thấy tôi, đôi mắt cô bỗng ngập những nước. Nước mắt tôi quả nhiên lập tức trào lên, tôi cúi gằm đầu. Chúng tôi đã không gặp nhau vì biết là sẽ thế này đây... Cô đưa mu bàn tay quệt qua vành mắt, rồi lại nhìn tôi mỉm cười. Tôi cũng cố ngăn nước mắt trào ra, gượng cười nhìn cô. “Ở trường học tốt chứ con?” Cô hỏi. “Vâng ạ...” “Cô nhớ con lắm...” “Con, con xin lỗi cô...” “Không đâu. Cô cũng không gọi cho con mà... Cô vừa nhớ con, lại vừa không dám gặp con...” Tôi chẳng biết nói gì thêm nữa. “Cô tự nhiên gọi con ra thế này...” Vừa nói, cô vừa rút trong túi xách ra một quyển sổ, đưa cho tôi. Quyển sổ bìa màu xanh da trời, vừa nhìn tôi đã nhận ra ngay. Đó là quyển nhật ký tôi tặng Jae Joon. “Đây là sổ nhật ký của Jae Joon... Hôm qua cô vô tình tìm thấy. Nhưng mà... Con có thể đọc nó trước giúp cô được không...” “Dạ? Sao cô không đọc luôn ạ...” Dù nói vậy tôi vẫn nhận lấy quyển sổ không chút đắn đo. Nhưng ngay sau khi lơ đãng giở ra trang đầu tiên, nhìn thấy những dòng chữ được viết trên đó, tôi liền hoảng hốt gập vội sổ lại. Tôi đã chết vào một ngày nào đó. Liệu cái chết của tôi có ý nghĩa gì không? Như bị giội cả xô nước lạnh, toàn thân tôi bỗng dưng run lên bần bật. Những ngón tay đang đặt trên quyển sổ cũng run lẩy bẩy. Nhìn bộ dạng đó của tôi, cô nói: “Con cũng bất ngờ phải không, Yoo Mi à, mấy lời này là thế nào chứ? Cô... Tim cô run lắm, một trang thôi cô cũng không đọc nổi.” Cô rùng mình, như đang rũ tấm thân ướt nhẹp. “Con là bạn thân nhất của Jae Joon nhà cô, con thay cô đọc có được không... Cô... Cô...” Cô cuối cùng cũng bật khóc. “Cô ơi...” Tôi cũng chỉ gọi được như vậy, rồi thấy họng mình nghẹn cứng, không nói thêm được lời nào. Jae Joon, bạn của tôi - Jae Joon, người bạn tôi yêu quý nhất từ khi sinh ra trên đời - Jae Joon, người bạn bỗng dưng bỏ tôi đi mất như những cánh hoa bay tan tác - Jae Joon... Nước mắt lăn dài trên má. Nhưng tôi vội vã lau đi. Nếu tôi cứ thế này thì tâm trạng cô sẽ ra sao chứ? “Cô, cô xin lỗi con, Yoo Mi à. Cô không muốn khóc đâu, nhưng...” Đôi vai cô rung lên. Hẳn là cô đang cố hết sức để ngăn mình khóc. “Không sao đâu ạ. Cô cứ khóc cho thỏa đi cô...” Những người khách xung quanh liếc nhìn chúng tôi, nhưng tôi vẫn nói vậy. Chẳng ở đâu và chẳng ai trên thế gian này có quyền ngăn cản nước mắt của một người mẹ mất con hết... Tôi im lặng chờ cho tới khi cô ráo nước mắt. Lúc này, hình ảnh Jae Joon cũng hiện lên trong tâm trí tôi, khiến tôi suýt chút nữa thì òa khóc; nhưng ngay lập tức, tôi ép mình hướng dòng suy nghĩ tới kỳ thi giữa kỳ sẽ diễn ra vào ngày kia. Kỳ thi giữa kỳ hai của năm lớp chín sẽ ảnh hưởng đến thành tích vào cấp ba. Thế mà giờ này, đến phạm vi ôn tập của kỳ thi tôi còn chưa biết. Trước cái chết của đứa bạn thân nhất thì thi giữa kỳ có ý nghĩa quái gì cơ chứ. Chậc, tôi lại nghĩ đến Jae Joon mất rồi. Tôi đưa mắt nhìn quyển nhật ký bìa xanh. Đã chết vào một ngày nào đó, câu nói như điềm gở khủng khiếp ấy lại một lần nữa thắt chặt lấy tim tôi. Tại sao cậu ấy lại viết như thế chứ? Lẽ nào Jae Joon đã...? Tôi lắc đầu. Không lý nào lại vậy. Jae Joon tuy rất hứng thú với cái chết, nhưng cậu ấy tuyệt đối không phải người có thể tự kết liễu mạng sống của mình. Nếu vậy thì tại sao chứ...? “Giờ thì cô ổn rồi. Thực sự xin lỗi con, Yoo Mi à... Cái đó... Được không con... Con có thể đọc hộ cô được không?” Cô nói sau khi chật vật nín khóc. “Vâng, con sẽ đọc ạ. Nhưng mà... có lẽ sẽ hơi lâu. Nếu cô có thể cứ quên chuyện này đi...” Tôi nói lí nhí. “Được, được mà... Cô sẽ không giục gì đâu, con cứ đọc hết, nếu thấy có chuyên gì muốn nói thì gọi cho cô nhé.” Cô nói vậy, rồi lại một lần nữa đưa mắt nhìn xa xăm ra ngoài cửa sổ. Tôi ngẩn ngơ nhìn gương mặt quay nghiêng của cô, tìm ra trong đó hình bóng Jae Joon. Làn da trắng, nét mặt thanh tú, hai hàng lông mi rủ xuống... Jae Joon vẫn còn đây, trong gương mặt mẹ cậu ấy. Có thế nào cũng không thể trốn nổi cậu. Cậu vẫn ở đây, đâu đâu tôi cũng nhìn thấy cậu... Tôi thì thào nói với chính mình. Sau khi chia tay cô, tôi lơ đãng lên bừa một chiếc xe buýt. Tôi muốn ngồi trên xe buýt lang thang chỗ nọ chỗ kia rồi mới về nhà. Nước mắt cứ chực tuôn ra, khó khăn lắm mới có thể kìm lại. Trên xe hầu như chẳng có ai. Tôi ngồi xuống một ghế trống ở phía cuối xe, nhìn ra ngoài cửa sổ, đúng lúc một chiếc xe máy chở hộp sắt giao hàng của tiệm cơm Trung Quốc phóng vụt qua. Khoảnh khắc ấy, trái tim tôi bất giác ngã quỵ. Làm sao tôi có thể quên được ngày hôm ấy? Đó là một ngày Chủ nhật. 3 giờ sáng ngày Chủ nhật. Tôi thức thâu đêm ngồi trước bàn học. Trước đó tôi đã bật băng xem hết bộ phim Ghost World, rồi đọc tận chín quyển truyện tranh 20th Century Boys đến khuya, mà chẳng hiểu sao vẫn thấy lòng trống trải quá đỗi, thế là bèn ngồi thử viết lời bài hát. Dưới chân tôi, con mèo Geombi cuộn tròn mình lại, rên ư ử và ngủ ngon lành. Đêm đã chìm sâu nhưng cải chết vẫn chưa đến Ném tuổi thanh xuân xuống dòng sông đang chảy kia đi Hôm nay bạn có sống không Ngày mai bạn có sống không Dượng tôi đã nói thế này. Viết một cách bình dị, đúng với cuộc sống của mình, đúng với những cảm nhận của mình, ca từ như vậy mới là ca từ hay. Thế nhưng tôi không muốn viết kiểu đấy. Tôi mà viết đúng với cái cuộc sống mình đang sống thì có gì hay. Thức dậy rồi tới trường, bị ăn mắng, học bài; ngủ gật, về nhà, xem ti vi rồi đi ngủ. Còn những gì tôi cảm nhận ấy à, chán ngấy bọn xung quanh, căm ghét mấy thầy cô giáo, nổi cáu với mẹ, ngoài ra thì còn gì nữa đâu. Tôi muốn viết một ca khúc với toàn những từ như là “cái chết”, “thanh xuân”, hay “tuyệt vọng”. Mấy cái thứ “tình yêu”, “cô độc”, tôi thấy ghét đến sởn gai ốc, nhưng “cái chết”, “tuyệt vọng”, “thanh xuân”, dù viết thế nào cũng không bao giờ chán. Bình minh đã đến nhưng cái chết vẫn chưa rời Bắt lấy tuổi thanh xuân trên ngọn núi phủ tuyết kia đi Hôm nay bạn có sống không Ngày mai bạn có sống không Dượng mà nhìn thấy đoạn ca từ này thể nào cũng lại tặc lưỡi, nhưng nếu là Jae Joon thì chắc chắn cậu ấy sẽ sáng mắt lên rồi khen tôi cho mà xem. Nhìn cái từ “bắt lấy” kìa, quá sức tuyệt vời luôn, Tôi cực kỳ hài lòng. Tôi muốn chia sẻ tâm trạng hào hứng này với Jae Joon luôn và ngay. Giờ này thì hẳn là cậu ấy đang ngủ say đến nỗi có vác lên đem đi cũng không hay, nhưng dù thế cũng phải khoe với cậu ấy ít nhất là một dòng chứ. Tôi mở điện thoại và gửi tin nhắn. Viết xong ca từ rồi mau chúc mừng đê đêm đã chìm sâu nhưng cái chết vẫn chưa đến câu đầu tiên đấy hết sảy phải không thức dậy thì lập tức trả lời nha ngủ ngon... Đúng lúc ấy, Jae Joon bay lên khỏi con đường trống trải thênh thang. Như một chú chim tự do, với tốc độ không ai tin nổi. Và rồi rơi xuống, nát tan. Như một hòn gạch vỡ, với dáng hình không ai tin nổi. Đêm đã chìm sâu nhưng cái chết vẫn chưa đến... Jae Joon đã chết ngay tại chỗ. Mời các bạn đón đọc Tôi Đã Chết Vào Một Ngày Nào Đó của tác giả Lee Kyung Hye & Liên Hương (dịch).