Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? - Richard David Precht

Có rất nhiều cuốn sách về triết học, nhưng Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là một sự khác biệt. Trước nay chưa từng có một ai dẫn dắt người đọc đến với những câu hỏi lớn của triết học bằng một cách am tường chuyên môn, đồng thời nhẹ nhàng tinh tế như vậy. Thông qua môn khoa học nghiên cứu não bộ, tâm lý học, lịch sử, và thậm chí văn hóa đại chúng (pop-culture), triết gia đương đại người Đức Richard David Precht đã khéo léo soi sáng những vấn đề ở tâm điểm của tồn tại con người như: Sự thật là gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì? Tại sao tôi nên tốt? và trình bày chúng qua lối văn ngắn gọn, thông tuệ, uốn hút. Kết quả là một chuyến du hành xuyên lịch sử triết học và một dẫn nhập sáng tỏ vào những nghiên cứu hiện thời về não bộ. Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? đích thực là một cuốn sách xuất sắc để tiếp cận triết học. Cuốn sách như một lăng kính vạn hoa của những vấn đề triết luận, những kiến thức thú vị và hài hước, các vấn đề thuộc môn thần kinh học và sinh vật học cũng như nghiên cứu tâm lý học. Sách chia được chia làm ba phần: 1) Tôi có thể biết gì? - tập trung vào các mô tả não bộ, bản tính cũng như phạm vi của tri thức nhân loại, khởi đầu từ các câu hỏi được mổ xẻ bởi Kant, Descartes, Nietzsch, Freud, và các triết gia khác. 2) Tôi nên làm gì? - giải quyết các vấn đề đạo đức và luân lý, sử dụng các nghiên cứu thần kinh học và xã hội học để lý giải tại sao chúng ta có thiện cảm với người khác và buộc phải hành động có đạo đức. Các cuộc tranh luận về trợ tử, phá thai, nhân bản vô tính và những chủ đề gây tranh cãi khác. 3) Tôi có thể hy vọng gì? - xoay quanh những câu hỏi quan trọng nhất của cuộc đời: Hạnh phúc là gì và tại sao chúng ta yêu? Có Chúa không và chúng ta có thể chứng minh sự tồn tại của Chúa như thế nào? Tự do là gì? Mục đích của cuộc sống là gì? Với chủ đích dành cho giới trẻ, cuốn sách Tôi là ai – và nếu vậy thì bao nhiêu? là chuyến khám phá hồi hộp, thông minh, hài hước và thú vị xuyên qua thế giới bộn bề kiến thức để đến với chính bản thể con người! *** ôi có thể biết được gì? Sils Maria Loài thú tinh khôn trong vũ trụ. Sự Thật là gì? “Ở một xó xỉnh nào đó của vũ trụ bao la với hằng hà hệ thống mặt trời lung linh có một hành tinh, trên đó có những con vật tinh khôn khám phá ra sự hiểu biết. đó là giây phút kiêu hãnh và dễ hiểu lầm nhất của „lịch sử thế giới”: nhưng chỉ kéo dài một giây phút mà thôi. Sau vài nhịp thở của thiên nhiên, hành tinh khô cứng lại, và loài thú khôn ngoan sống trên đó phải chết. đấy có thể là một câu truyện ngụ ngôn tưởng tượng của một ai đó nghĩ ra. Nhưng câu truyện này cũng chưa nói lên được hết sự nghèo nàn, hư ảo, chóng qua, vô tích sự và tuỳ tiện của trí khôn con người trong thiên nhiên; trí khôn con người không phải là chuyện muôn thủa. Một khi trí khôn đó qua đi, thì mọi sự cũng mất hết dấu vết. Là vì trí khôn này chẳng có thêm sứ mạng nào khác ngoài chính cuộc sống con người. Trí khôn này hoàn toàn mang tính người, và chỉ có người sở hữu và tạo ra nó mới say mê nó, coi nó như là chìa khóa đi vào thế giới. Nếu chúng ta hiểu được loài muỗi, thì chúng ta sẽ nhận ra, là chúng cũng có sự đắm say đó và chúng cũng nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ quay cuồng“.  Con người là một loài vật tinh khôn, nhưng loài vật này lại tự đánh giá mình quá cao. Là bởi vì lí trí của con người không hướng về Chân lí lớn lao, mà chỉ quan tâm tới những cái nhỏ nhặt trong cuộc sống. Trong lịch sử triết học, có lẽ chẳng có đoạn văn nào mô tả con người thơ mộng và triệt để hơn đoạn trên đây. đó là đoạn mở đầu có lẽ đẹp nhất của một tác phẩm triết học năm 1873 với tựa đề: Über Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne (Về sự thật và dối trá bên ngoài í nghĩa đạo đức). Tác giả của nó là Friedrich Nietzsche, một giáo sư Cổ ngữ học 29 tuổi của đại học Basel, Thuỵ-sĩ.  Nhưng Nietzsche đã không cho xuất bản cuốn sách nói về loài vật tinh khôn và kiêu căng này. Trái lại, ông phải mang thương tích nặng nề, vì đã viết một tác phẩm bàn về nền tảng văn hoá hi-lạp. Những người phê bình khám phá ra sách này là một tài liệu thiếu khoa học và chứa đựng những phỏng đoán vu vơ. Mà quả đúng như thế. Ông bị thiên hạ chê là một thiên tài lạc lối, và danh tiếng một nhà cổ ngữ nơi ông xem ra cũng theo đó mà tiêu tan. Khởi đầu, thiên hạ kì vọng rất nhiều nơi ông. Cậu bé Fritz sinh năm 1844 tại làng Röcken vùng Sachsen và lớn lên tại Naumburg bên bờ sông Saale. Cậu nổi tiếng thần đồng. Cha cậu là một mục sư coi xứ, và mẹ cũng rất đạo đức. Khi Fritz được bốn tuổi thì cha mất, không lâu sau đó người em trai cũng mất. Mẹ đưa cậu về Naumburg, và từ đó Fritz lớn lên trong một gia đình toàn là nữ giới. Hết tiểu học, Fritz vào trung học của giáo phận và sau đó vào một nội trú danh tiếng, đâu đâu cậu cũng được tiếng thông minh. Năm 1864, cậu ghi danh học Ngôn ngữ cổ điển và Thần học tại đại học Bonn. Nhưng sau một bán niên, Fritz bỏ Thần học. Fritz muốn làm mục sư để hài lòng mẹ, nhưng „ông mục sư non“ – tiếng con nít vùng Naumberg vẫn trêu chọc cậu – đã sớm mất niềm tin vào Chúa. Fritz cảm thấy quá tù tùng khi sống với mẹ, với niềm tin và với đời mục sư. Anh quyết định thoát ra khỏi mọi thứ đó, nhưng cuộc chuyển hướng này đã gặm nhấm tâm hồn anh suốt cả đời.  Sau một năm, Nietzsche và vị giáo sư của anh chuyển tới Leipzig. Ông thầy rất quý cậu học trò thông minh của mình, nên đã khuyên anh nhận chân giáo sư tại đại học Basel. Năm 1869, lúc 25 tuổi, Nietzsche trở thành giáo sư thỉnh giảng. đại học Basel cấp tốc trao cho anh bằng tiến sĩ và bằng lên ngạch giáo sư (Habilitation). Ở Thuỵ-sĩ, Nietzsche làm quen với giới văn nghệ sĩ cùng thời, trong đó có Richard Wagner và bà vợ Cosima, mà Nietzsche đã có dịp gặp ở Leipzig. Nietzsche quá mê nhạc Wagner đến độ cảm hứng viết ra cuốn Die Geburt der Tragödie aus dem Geist der Musik (Tinh thần âm nhạc đã khai sinh ra Bi kịch) vào năm 1872. Cuốn sách là một thất bại, và nó cũng bị quên nhanh. Lí do là vì từ đầu thời Lãng mạn, người ta đã nói tới mâu thuẫn giữa cái gọi là tính „sáng tạo xuất thần“ (Dionysischen) của âm nhạc và cái „thể cách chân phương“ (Appolinischen) của nghệ thuật tạo hình rồi, và kinh nghiệm lịch sử cũng đã cho thấy, hai cái đó chỉ là những phỏng đoán mà thôi. Thành ra, điều Nietzsche bàn tới trong sách chẳng có gì mới. Hơn nữa, thế giới học giả âu châu thời đó đang bận tâm tới sự hình thành của một bi kịch khác, quan trọng hơn. Một năm trước đó, xuất hiện cuốn sách Về Nguồn Gốc Con Người từ thú vật của Charles Darwin, nhà thần học và thực vật học nổi tiếng người Anh. Từ lâu rồi, ít nhất từ mười hai năm trước khi sách Darwin ra đời, đã có quan điểm cho rằng, con người có thể được tiến hoá dần từ những hình thái nguyên sơ trước đó. Nhưng trong Sự Hình Thành Các Chủng Loại, vì chính Darwin đã hé mở cho biết, có thể con người cũng từ loài vật mà thành, nên tác phẩm bán chạy như tôm tươi. Trong những năm 1860, nhiều nhà khoa học tự nhiên cũng đi tới một kết luận như vậy, và họ nối con người vào liên hệ với loài khỉ đột vừa được khám phá. Mãi cho tới cuộc thế chiến thứ nhất, Giáo hội Kitô giáo, đặc biệt ở đức, chống lại Darwin và những người ủng hộ ông. Nhưng ngay từ đầu ai cũng biết rằng, sẽ chẳng có một sự lùi bước tự nguyện nào nữa để quay trở về cái vũ trụ quan của thời trước đó. Người ta không còn tin vào chuyện Thiên Chúa là đấng trực tiếp tạo dựng và điều khiển con người nữa. Và các khoa học tự nhiên giờ đây ăn mừng chiến thắng của họ với một hình ảnh về con người rất thực tế: Họ bỏ Thiên Chúa để quay sang quan tâm tới khỉ. Và hình ảnh cao cả của con người như một thụ tạo giống Thiên Chúa bị vỡ ra làm hai: một đàng, sự cao cả này không còn khả tín nữa và đàng khác, con người giờ đây không hơn không kém đượi coi như là một loài thú thông minh mà thôi. Nietzsche phấn chấn vô cùng trước cảnh quan vũ trụ mới đó. Về sau, có lần ông viết: „Tất cả cái mà chúng ta cần, đó là một (công thức) hoá học cho các quan niệm đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật và cho những cảm nhận cũng như tất cả những cảm xúc mà ta có được trước những tiếp xúc lớn nhỏ với văn hoá và xã hội, với cả nỗi cô đơn.“ Hơn ba chục năm cuối của thế kỉ 19 nhiều nhà khoa học và triết gia đã đổ công tìm kiếm chính cái hoá học đó: Họ đi tìm một giải thích sinh học cho sự sống mà chẳng cần gì tới Thiên Chúa nữa. Nhưng chính Nietzsche thì lại chẳng quan tâm một tí gì tới cuộc tìm kiếm đó. Ông quan tâm tới chuyện hoàn toàn khác: đâu là í nghĩa của cái nhìn thực tế kia của khoa học đối với thân phận con người? Nó giúp con người lớn lên hay làm nó bé lại? Khi nhìn được rõ hơn về chính mình, con người giờ đây được thêm gì hay lại mất cả chì lẫn chài? Trong tình hình đó, ông viết luận văn Wahrheit und Lüge (Sự thật và dối trá), có lẽ đây là tác phẩm tuyệt nhất của ông. Câu hỏi, con người bé đi hay lớn lên, được Nietzsche trả lời là tuỳ theo tâm trạng. Khi con người bất hạnh – và đây là tâm trạng thường thấy nơi con người – lúc đó họ cảm thấy bị đè nén, hối tiếc và nói ra toàn chuyện dở hơi. Ngược lại, lúc vui vẻ, họ có những cảm xúc tự hào và mơ thành siêu nhân. Có một mâu thuẫn ghê gớm giữa những tưởng tượng ngạo mạn và giọng điệu tự tin sấm sét trong các tác phẩm của Nietzsche và diện mạo thật của ông: một dáng người nhỏ con, hơi phì, nhút nhát. Bộ ria mép lì lợm với một cây lược vừa vặn làm cho khuôn mặt ông mang nét cứng rắn và nam nhi hơn, nhưng nhiều căn bệnh thủa thiếu thời đã ăn mòn thể lực và tinh thần của ông. Ông bị cận nặng, luôn bị dằn vặt bởi những cơn đau bao tử và đau đầu. Năm 35 tuổi, ông cảm thấy kiệt sức hoàn toàn và phải thôi dạy học ở Basel. Có lẽ chứng bệnh lậu, thường được thiên hạ xa gần nói tới, đã góp thêm phần dứt điểm đời ông. Mùa hè năm 1881, hai năm sau khi từ giã đại học, tình cờ Nietzsche khám phá ra một thiên đường hạ giới cho chính mình, đó là địa điểm Sils Maria trong vùng Oberengadin thuộc Thụy-sĩ. Một cảnh trí tuyệt vời, giúp ông có được những phấn chấn và động lực sáng tạo. Từ đó đều đặn hàng năm, ông tới đây để một mình đi dạo và đắm mình trong suy nghĩ. Nhiều tư tưởng hình thành ở đây đã được ông viết ra trong mùa đông ở Rapallo, ở bờ biển địa Trung, ở Genua và ở Nizza. đa số những tư tưởng đó cho thấy Nietzsche là một nhà phê bình bén nhạy, triệt để và có nhiều đòi hỏi về mặt văn chương. Ông đã đánh đúng vào những vết thương của triết học phương tây. Nhưng những đề nghị của riêng ông về một thuyết nhận thức mới và một nền đạo đức mới thì, ngược lại, lại dựa hoàn toàn trên thuyết tiến hoá xã hội chưa chín mùi của Darwin và thường chạy trốn vào trong những thị hiếu thời trang quay cuồng. Thành ra, điều ông viết càng mạnh mẽ bao nhiêu thì lại càng như những quả đấm vào không khí bấy nhiêu. „Thiên Chúa đã chết“ – câu ông viết đi viết lại nhiều lần – thật ra những người đồng thời với ông, cả Darwin và những tác giả khác trước đó, cũng đều đã biết rồi. Năm 1887, khi ngắm nhìn những ngọn núi phủ đầy tuyết của Sils Maria lần cuối, Nietzsche tái khám phá ra sự giới hạn nhận thức của các con vật tinh khôn, mà ông đã có lần đề cập tới trong một luận văn trước đây của mình. Trong tác phẩm bút chiến Zur Genealogie der Moral (Về hệ tộc của đạo đức), ông mở đầu với câu: „Chúng ta, những kẻ có khả năng nhận biết, lại chẳng biết mình là ai, chúng ta chẳng biết chính mình: điều này không lạ gì cả. Chúng ta đã chẳng bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó chúng ta nhận ra ta?“ Nietzsche thường dùng ngôi thứ nhất số nhiều để nói về chính mình; ông thường nói về một loài vật rất đặc biệt, mà ông là người đầu tiên mô tả: „Gia tài của chúng ta ở nơi các tổ ong nhận thức của chúng ta. Chúng ta được sinh ra như những con vật có cánh và những kẻ góp mật của tinh thần, luôn trên đường tìm tới các tổ ong kia, chúng ta chỉ thích quan tâm tới một điều mà thôi, đó là „mang về nhà“ cho mình một cái gì đó”. Nietzsche chẳng còn nhiều thời gian để sáng tác. Hai năm sau, ông bị suy sụp thần kinh khi còn ở Turin. Bà mẹ mang đứa con 44 tuổi từ Íđại-lợi về một bệnh viện ở Jena. Sau đó, ông sống với mẹ, nhưng chẳng còn viết được gì nữa. Tám năm sau, mẹ mất, ông phải sống với cô em gái khó ưa của mình. Ngày 25 tháng 8 năm 1900 ông mất ở Weimar, thọ 55 tuổi. Lòng tự tin của Nietzsche, điều mà ông luôn biện hộ bằng giấy bút, thật lớn: „Tôi biết số phận của tôi, nó sẽ gắn liền với tên tuổi của tôi và làm cho người ta nhớ tới một điều gì khủng khiếp“. Quả thật, cái khủng khiếp đó đã biến ông trở thành một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ hai mươi đang đến. Vậy đâu là nội dung của cái lớn lao đó? đóng góp lớn nhất của Nietzsche là sự phê bình hăng say và triệt để của ông. Hơn tất cả các triết gia trước đó, ông say mê vạch ra cho thấy cái hống hách và ngớ ngẩn của con người, khi họ dùng tiêu chuẩn lô-gích và sự thật của „chủng vật người“ để đánh giá thế giới mà họ đang sống trên đó. „Loài thú tinh khôn“ nghĩ rằng, chúng có một vị trí đặc biệt chẳng loài nào khác có được. Nietzsche trái lại quả quyết rằng, con người không hơn không kém chỉ là một con vật và suy nghĩ của nó cũng không khác chi một con vật, nghĩa là suy nghĩ của nó cũng bị điều chế bởi bản năng và dục vọng, bởi í muốn thô thiển cũng như bởi khả năng nhận thức giới hạn của nó. Như vậy, đa số triết gia tây phương đã lầm, khi họ coi con người là một cái gì đó hoàn toàn đặc biệt, như một thứ máy điện tử có công suất lớn về khả năng tự nhận thức. Có thật con người có thể tự nhận biết mình và nhận biết được thực tại khách quan không? Con người có thật có khả năng đó không? Hầu hết triết gia trước nay đều trả lời có. Cũng có một vài triết gia chưa bao giờ đặt ra cho mình câu hỏi đó. Họ đương nhiên cho rằng, trí khôn của con người cũng đồng thời là một thứ tinh anh của hoàn vũ. Họ không coi con người là một loài thú khôn ngoan, mà xác định chúng là một thực thể thuộc vào một cấp hoàn toàn khác. Họ chối bỏ thẳng thừng mọi gia sản phát sinh từ gốc rễ thú vật nơi con người. Hết triết gia này đến triết gia khác ra công đào sâu thêm hố cách ngăn giữa người và thú vật. Tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá thiên nhiên sống động là lí trí và trí hiểu của con người, là khả năng suy nghĩ và luận định của nó. Và họ đều cho rằng, cái phần cơ thể thuần tuý vật chất bên ngoài là điều không quan trọng. Và để bảo đảm cho khả năng nhận định đúng đắn của con người, các triết gia đã phải chấp nhận rằng, Thượng đế đã ban cho con người một bộ máy nhận thức đặc biệt. Và với sự trợ giúp của ngài, con người có thể đọc được sự thật về thế giới từ „Cuốn sách thiên nhiên“. Nhưng nếu quả thật Thượng đế đã chết, thì bộ máy nhận thức được ban tặng kia hẳn chỉ có khả năng giới hạn. Và như thế, bộ máy này cũng chỉ là một sản phẩm của thiên nhiên, và cũng như mọi sản phẩm thiên nhiên khác, nó chẳng toàn hảo. Chính quan điểm này Nietzsche đã đọc được của Arthur Schopenhauer: „Chúng ta chung quy chỉ là một thực thể giai đoạn, hữu hạn, chóng qua, như một giấc mơ, như chiếc bóng bay qua“. Và như vậy con người làm sao có được một „trí khôn có thể nắm bắt được những cái đời đời, vô tận, tuyệt đối?“ Khả năng nhận thức của con người, như qua linh cảm của Schopenhauer và Nietzsche, trực tiếp lệ thuộc vào những đòi hỏi của tiến trình thích ứng tiến hoá. Con người chỉ có thể nhận biết được điều mà bộ máy nhận thức của nó, vốn được hình thành qua cuộc đấu tranh sinh tồn, cho phép nó hiểu mà thôi. Như bất cứ mọi loài thú khác, con người đổ khuôn thế giới theo các giác quan và nhận thức của mình. điều này hẳn rõ: Mọi nhận thức của chúng ta tuỳ thuộc trước hết vào các giác quan của chúng ta. Những gì không thể thấy, nghe, cảm, nếm và sờ, ta không nhận biết được chúng và chúng cũng không có mặt trong thế giới của chúng ta. Ngay cả những gì trừu tượng nhất, chúng ta cũng phải tìm cách đọc hay có thể nhìn chúng như là những dấu chỉ, thì mới hình dung ra được chúng. Như vậy, để có thể có được một vũ trụ quan hoàn toàn khách quan, con người hẳn phải cần có một bộ máy nhận thức siêu nhân có thể nắm bắt được hết mọi góc cạnh của giác quan: cặp mắt siêu đẳng của đại bàng, khứu giác ngửi xa nhiều cây số của loài gấu, hệ thống đường hông của cá, khả năng biết được động đất của rắn v.v. Nhưng con người không thể có được những thứ đó, và vì thế nó không thể có được cái nhìn khách quan toàn bộ của các sự kiện. Thế giới của chúng ta chẳng bao giờ là cái thế giới như „vốn có của nó“, nó cũng chỉ là cái thế giới của con chó con mèo, của con chim con bọ, không hơn không kém. „Con ơi, thế giới của ta là một cái thùng lớn đầy nước!“, đó là câu giải thích của cá bố cho cá con trong chậu. Cái nhìn không nhân nhượng của Nietzsche về triết học và tôn giáo cho thấy sự ôm đồm bao biện của con người qua những tự định nghĩa của họ (Còn việc chính Nietzsche đặt ra cho thế giới những ôm đồm bao biện mới, thì đây lại là chuyện khác). Í thức con người không nhắm ưu tiên tới câu hỏi: „đâu là sự thật?“. đối với họ, câu hỏi sau đây quan trọng hơn: đâu là điều tốt nhất cho sự sống còn và thành đạt của tôi? Những gì không liên quan trực tiếp tới vấn nạn này xem ra ít có cơ hội có được một vai trò quan trọng trong cuộc tiến hoá loài người. Nietzsche mơ hồ hi vọng rằng, có lẽ sự tự nhận thức của con người ngày càng trở nên sáng suốt hơn, nó có thể tạo cho họ trở thành một „siêu nhân“ và „siêu nhân“ này hẳn sẽ có được khả năng nhận thức lớn hơn. Nhưng điểm này cũng nên cẩn thận. Là vì cho dù những tiến bộ nhân loại đã đạt được cho tới nay trong việc tìm hiểu về nhận thức và về „hoá học“ của con người, kể cả việc có được những máy móc tinh vi nhất và những quan sát bén nhạy nhất trong địa hạt này, chúng ta vẫn phải thú nhận rằng, con người không có khả năng đạt tới được một nhận thức khách quan. Nhưng điều đó chẳng có hại gì lắm. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nhiều, nếu như con người thông suốt được mọi sự về chính mình. Chúng ta có nhất thiết cần đến một chân lí độc lập bay lơ lửng trên đầu chúng ta không? Nhiều khi chính con đường đi cũng là một mục tiêu đẹp rồi, nhất là khi con đường đó lại là lối dẫn vào trong chính ta, lối đi chằng chịt nhưng cũng đầy hấp dẫn. „Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu mình – chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu một ngày nào đó ta nhận ra ta?“, đó là câu hỏi Nietzsche đã nêu lên trong Genealogie der Moral. Vì thế, giờ đây chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu mình, được chừng nào càng tốt. Nhưng ta sẽ dùng con đường nào, sẽ chọn cách thức nào để thực hiện? Và rồi ra kết quả sẽ ra sao? Nếu mọi nhận thức của chúng ta đều diễn ra trong não bộ và bị lệ thuộ c vào não bộ của loài vật có xương sống, thì tốt nhất ta hãy bắt đầu bằng tìm hiểu ngay não bộ. Và câu hỏi đầu tiên sẽ là: Não bộ đến từ đâu? Và tại sao nó có được cấu trúc như nó hiện có? •Lucy ở trên trời. Chúng ta đến từ đâu? ... Mời các bạn đón đọc Tôi Là Ai - Và Nếu Vậy Thì Tôi Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Richard David Precht.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giữa Những Điều Bình Dị - Nguyễn Quang Thân
Nguyễn Quang Thân, sinh năm 1936 tại Sơn Lễ, Hương Sơn, Hà Tĩnh, viết văn từ năm 1957, là tác giả của năm cuốn tiểu thuyết (Lựa chọn, Chú bé có tài mở khóa, Một thời hoa mẫu đơn, Ngoài khơi miền đất hứa [đã dịch và in ở Pháp năm 1998] và Con ngựa Mãn Châu), một số kịch bản phim, nhiều tập truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi v.v. Đặc biệt, ông còn được độc giả biết đến nhiều trong thể loại truyện ngắn. Truyện Người không đi cùng chuyến tàu của ông ra đời năm 1980 được xem là một khởi đầu sớm cho sự nở rộ của thể loại truyện ngắn thời kỳ đổi mới. Sau đó là Vũ điệu cái bô và gần đây nhất, Gió heo may cùng nhiều truyện khác đã góp phần khẳng định thành công của ông trong thể loại này. Truyện ngắn của ông đã xuất hiện trong hơn 10 tập riêng cũng như rất nhiều tuyển tập in chung gồm nhiều tác giả. Một số truyện trong đó đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Nga, Hindu. Truyện của ông cũng đã nhận được nhiều giải thưởng văn học trong nước. Sau thành công của tập truyện ngắn song ngữ Những tâm hồn lạc gồm nhiều tác giả, First News cùng với Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn xin hân hạnh giới thiệu với quý độc giả thêm một tác phẩm văn học Việt Nam bằng song ngữ. Đó là tập truyện ngắn Giữa Những Điều Bình Dị đang hiện diện trên tay bạn. Có thể nói, hai dịch giả có uy tín Rosemary Nguyen, Mạnh Chương lựa chọn dịch 5 truyện ngắn này là do những yêu cầu khác nhau, trong những thời gian khác nhau, nhưng đều gặp nhau một điểm: đó là họ đã có mắt xanh chọn dịch được những truyện khá tiêu biểu và đa dạng về nội dung cũng như phong cách của Nguyễn Quang Thân. Phong cách đa dạng đó rất dễ nhận ra trong những truyện có tính dự báo đầy chua chát và kỳ quái như Vũ điệu cái bô, Thanh minh đến lối phân tích tâm lý nhân vật rạch ròi đến nghiệt ngã trong Chân dung hay thấm đẫm tình người và gợi cảm hứng lãng mạn như Gió heo may, Người đàn bà đợi ở bến xe. Chúng tôi mong rằng, tác phẩm song ngữ này ngoài việc giúp các bạn người Việt cũng như nước ngoài nâng cao kỹ năng ngôn ngữ qua tác phẩm văn học Việt nguyên bản và các bản dịch tiếng Anh tin cậy, sẽ một lần nữa mang đến cho bạn đọc năm truyện ngắn của một nhà văn Việt Nam quen biết. First News Nguyễn Quang Thân was born in 1936 at Sơn Lễ, Hương Sơn, Hà Tĩnh, and has been writing since 1957. He is the author of 5 novels (The Choice, The Little Boy Who Could Open Any Locks, The Time of the Peony, Cast Off from the Promised Land (translated and published in France in 1998), and The Manchu Horse), as well as several film scripts and numerous collections of short stories and children stories. He is particularly well-known for his short stories. His story The Man Who Missed The Train, which was published in 1980, was considered to be an early manifestation of the flowering of the short story genre in the period of renovation. Later on, The Waltz of the Chamber Pot and most recently, Autumn Wind, as well as many other stories, has contributed decisively to his success in this genre. His short stories have appeared in 10 collections of Mr. Nguyen’s work, and have been included in many multi-author collections. Several of them have been translated into English, French, Russian and Hindu. His work has received numerous literary awards in Vietnam. After the success of the The Lost Souls, a multiauthor collection of short stories in parallel translation, First News together with Sai Gon Culture Publisher are proud to introduce to our readers yet another bilingual volume of Vietnamese literature: In And Amongst Simple Thing, this collection of short stories that you are holding in your hands. It must be said that, while these 5 short stories were selected by two reputable translators Rosemary Nguyen, Mạnh Chương for different reasons and during different time periods, they are similar one respect: they are all representative of the diversity of Nguyễn Quang Thân’s subject matter and style. The style diversity of his range is easily seen, from the bitter, eerily prophetic stories The Waltz of the Chamber Pot and Thanh Minh to the almost brutal clarity of psychological analysis of his characters in The Portrait, to the abundant humanity and romantic inspiration of Autumn Wind and A Woman at the Bus Stop. It is our earnest hope that this bilingual collection, in addition to helping all Vietnamese and foreigners, to improve their language skills by reading these original Vietnamese stories along with reputable English translations, will once again introduce to the reading public 5 short stories from this well-known author. First News Mời các bạn đón đọc Giữa Những Điều Bình Dị của tác giả Nguyễn Quang Thân.
Dám Thành Công - Jack Canfiel & Mark Victor Hansen
HÃY ƯỚC MƠ VÀ DÁM THÀNH CÔNG Trong cuộc sống, chúng ta luôn có những hoài bão và ước vọng về hạnh phúc, thành công. Một số người thì đạt được những ước mơ của mình, những người khác thì không thể – và ước mơ vẫn mãi là ước mơ. Điều gì đã tạo nên sự khác biệt ở đây? Chúng ta cảm thấy mình không được thành công trong công việc, không có được một tình yêu như mong đợi, không có được niềm vui... và cuộc đời dần dần rơi vào tình trạng mất phương hướng, xám màu – khác hẳn những gì chúng ta dự định ban đầu. Vậy nguyên nhân gì đã cản trở chúng ta, khiến chúng ta không thực hiện được ước mơ của mình? Bất cứ ai cũng có thể đưa ra những lý do nghe có vẻ rất hợp lý. Vâng! Sẽ có hàng ngàn lý do. Nhưng sâu thẳm trong lòng, chính chúng ta hiểu rõ rằng mình hoàn toàn có thể biến ước mơ thành hiện thực - nếu như chúng ta đã cố gắng và quyết tâm hơn, dám vượt lên chính mình, dám giữ vững niềm tin về một viễn cảnh ta đã từng ước mơ, dám thực hiện những gì chúng ta đã suy nghĩ. Nói tóm lại là dám thành công! Tại sao chúng ta không dám? Khi thật sự nhìn lại tất cả, chúng ta sẽ phát hiện một nguyên nhân sâu xa hiện lên rất rõ: Nỗi sợ hãi! - "Đúng! Chúng ta đã từng sợ hãi!". Sợ hãi về điều gì? - "Sợ hãi về tất cả!" Kẻ thù đích thực của chúng ta chính là sự sợ hãi. Vậy đối với những người thành công, họ không có những nỗi sợ hãi ư? Không! Nỗi sợ hãi đều có trong tất cả mọi người. Điểm khác biệt là một số người nhìn rõ nỗi sợ hãi và đặt chúng vào tầm giải quyết để hành động, để vượt qua như một chướng ngại nhỏ trên con đường bước tới. Một số khác đặt chúng lên rất cao, xâm tỏa vào mọi ngóc ngách trong suy nghĩ, cảm xúc, làm che phủ và lấn át tất cả những điều tích cực khác. Chính nỗi sợ đã ngăn cản chúng ta có một niềm tin sẽ thành công. Điều đó làm yếu đi rất nhiều lòng quyết tâm và sức mạnh của chúng ta, dựng lên những rào chắn vô hình trong tâm trí. Nỗi sợ hãi đã ngăn cản chúng ta hành động - mà không hành động thì chúng ta chẳng bao giờ tiến xa hơn, khác hơn vị trí hiện tại của mình! Nếu chúng ta đối đầu và vượt lên nỗi sợ thì nỗi sợ sẽ biến mất. Và một khi chúng ta biết vượt lên chính mình thì chúng ta có thể thực hiện được tất cả những điều mình mong ước. Vậy hãy bắt đầu ngay bây giờ, ngay ngày hôm nay. Hãy dám vượt qua những nỗi sợ hãi, dám nghĩ, dám làm, dám vượt qua chính mình. Mục đích cuốn sách này là truyền cho bạn một niềm tin và cách để tạo ra sự đột phá đó. Chắc chắn bạn sẽ thành công, nếu bạn dám thành công! JACK CANFIELD & MARK VICTOR HANSEN *** Về tác giả - Jack Canfield & Mark Victor Hansen Và sự ra đời của bộ sách nổi tiếng Chicken Soup for the Soul và Dare to Win Jack Canfield là diễn thuyết gia nổi tiếng tốt nghiệp đại học Harvard, nhận bằng cao học của đại học Massachusetts và học vị tiến sĩ của đại học Santa Monica. Jack có kiến thức sâu rộng, có cách nói chuyện đầy sức thuyết phục và lôi cuốn, ông đã giúp rất nhiều người khám phá sức mạnh bản thân để theo đuổi và thực hiện ước mơ của mình. Trong suốt 25 năm qua, ông đã thực hiện các buổi nói chuyện với hàng triệu người của những tập đoàn lớn như: Virgin Records, Sony Pictures, Merrill Lynch, Federal Express, Sonic Burger, Income Builders International, … Mark Victor Hansen cũng là một diễn thuyết gia rất tâm huyết. Ông đã thực hiện hơn 4 ngàn buổi nói chuyện cho hơn 2 triệu thính giả ở 32 quốc gia về các đề tài cuộc sống, cách tìm kiếm sức mạnh tinh thần và phát triển nội tâm, chiến lược kinh doanh và hiệu quả trong công việc. Ông nhiều lần được mời nói chuyện trên các đài truyền hình và phát thanh nổi tiếng như ABC, CBS, PBS, CNN… và hiện là một trong những nhân vật được yêu thích nhất của khán thính giả nước Mỹ. Trong những buổi diễn thuyết, Jack Canfield và Mark Victor Hansen thường tiếp cận với thính giả bằng những câu chuyện có thật, xúc động và ý nghĩa, có tác dụng động viên tinh thần, giúp mọi người có thể cảm nhận sâu sắc được những ý tưởng và tư duy tích cực của cuộc sống. Ngược lại hai người cũng đã tích lũy được những kinh nghiệm quý báu từ thực tế cuộc sống của hàng trăm ngàn khán thính giả của mình. Sau đó, thính giả ở khắp mọi nơi mong muốn được đọc và lưu giữ những câu chuyện thú vị ấy và muốn Jack Canfield & Mark Victor Hansen chia sẻ những kinh nghiệm của hai ông sau hàng chục năm nghiên cứu về cách đạt được thành công trong cuộc sống. Mọi người đề nghị Jack và Mark tập hợp những câu chuyện thành một cuốn sách. Bộ sách Chicken Soup for the Soul nổi tiếng ra đời từ đó. Và sau một thời gian dài chắt lọc, đúc kết những trải nghiệm thực tế, quý giá của chính mình và rất nhiều người, cuốn Dare to Win – Dám Thành Công ra mắt và ngay lập tức nhận được sự đón nhận và yêu thích của độc giả khắp nơi trên thế giới. Cuốn sách đã được dịch ra hàng chục ngôn ngữ trên thế giới.   Mời các bạn đón đọc Dám Thành Công của tác giả Jack Canfiel & Mark Victor Hansen.
Cánh Tay Trái Của Sếp - Alpha Books
“CÁNH TAY TRÁI” CẦN GÌ? Đã qua thời kỳ người thư ký hành chính chỉ cần biết đọc, biết viết và biết tính toán. Ngày nay, những người làm công việc này cần nhiều kỹ năng hơn, đảm nhiệm những công việc phức tạp hơn. Trên thực tế, phạm vi công việc của người thư ký hành chính bao quát rộng rãi, từ kế toán - tài chính cho tới nhân sự và cả tổng hợp - quản trị. Đồng thời, họ còn là người giao dịch trực tiếp với các khách hàng, ngân hàng, bảo hiểm,... Họ cũng là người phân phối thông tin và truyền đạt công việc từ cấp trên đến các bộ phận trong tổ chức. Do đó, ngoài năng lực tạo dựng quan hệ nội bộ, phối hợp tốt với cấp trên và cấp dưới, họ còn phải tạo dựng được mối quan hệ tốt với khách hàng, đối tác. Bên cạnh những yêu cầu đặc biệt về phẩm chất cá nhân như: khả năng giao tiếp, đàm phán, sự trung thực; người thư ký hành chính còn phải có những kỹ năng làm việc phục vụ thiết yếu cho công việc như: kỹ năng quản lý thời gian (lập chương trình nghị sự, chuẩn bị lịch trình công tác…); kỹ năng tổ chức công việc;… Tại Việt Nam, các kỹ năng rất quan trọng này, có vai trò quyết định đến sự thành công của nhân viên, cũng như góp phần vào sự thành công của sếp, của công ty lại hầu như không được hướng dẫn và đào tạo. Hầu hết các bạn sinh viên và nhân viên mới đi làm đều không được đào tạo các kỹ năng này và mất khá nhiều thời gian mới bắt kịp được yêu cầu của công việc. Khi trao đổi với các nhà quản lý, giám đốc, tôi thấy đây là sự thiệt thòi và lãng phí lớn với cả các bạn nhân viên và cả công ty tuyển dụng. Cánh tay phải của sếp là phó giám đốc, là trưởng phòng kinh doanh và các chức danh quản lý hỗ trợ khác… còn những nhân viên văn phòng và trợ lý, thư ký lại là những cánh tay trái, góp phần làm nên thành công của công ty, tổ chức. Trước thực tế đó, Alpha Books biên soạn cuốn sách Cánh tay trái của sếp nhằm cung cấp cho những người làm việc trong lĩnh vực này những kiến thức cơ bản nhất, từ việc sử dụng điện thoại cho đến các máy móc hiện đại khác trong văn phòng; từ các bước chuẩn bị cho những chuyến công tác, các hội nghị hội thảo đến cách trình bày các văn bản thông dụng trong công việc cũng như những thư tín quan trọng khác… Cuốn sách không chỉ giúp ích cho những người thư ký hành chính mà còn giúp cho tất cả những người làm việc trong văn phòng nói chung, nhất là những nhân viên mới bắt đầu công việc. Bạn có thể tìm trong thấy cuốn sách này lời giải đáp cho những thắc mắc trong buổi đầu đến chỗ làm, cuốn sách sẽ hướng dẫn bạn từ cách sử dụng những phần mềm máy tính thông dụng nhất tới những mẹo nhỏ giúp bạn hoàn tất công việc trong văn phòng. Phần Phụ lục cung cấp những mẫu văn bản thông dụng bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh, bạn có thể tham khảo những mẫu này để soạn thảo ra những văn bản hoàn chỉnh, sử dụng thống nhất trong văn phòng. Mỗi cuốn sách giống như một chìa khóa giúp bạn mở cánh cửa bước vào căn phòng mới với nhiều điều thú vị mới mẻ. Với cuốn sách này, chúng tôi muốn trao cho các bạn chiếc chìa khóa mở cửa căn phòng có những đồ đạc tiện dụng nhất cho bạn trong cuộc sống cũng như công việc. Không có trường học nào dạy bạn tất cả mọi điều cũng như không có cuốn sách nào đưa được cho bạn tất cả các chỉ dẫn, cuốn sách này cũng không phải là ngoại lệ. Vì vậy, nếu có những điều mới lạ, hãy hỏi, từ bạn bè, người thân đến đồng nghiệp. Đừng ngại ngần bởi ai cũng có những ngày bỡ ngỡ đầu tiên. Đó sẽ là những kinh nghiệm quý báu cho bạn. Chúc các bạn thành công. Hà Nội, tháng 8 năm 2010  NGUYỄN CẢNH BÌNH Mời các bạn đón đọc Cánh Tay Trái Của Sếp do Alpha Books biên soạn.
Tư Duy Để Thắng: Dám Thất Bại - Billi P.S. Lim
Chúng ta thường nghe cũng như đọc nhiều về gương thành công, về những vĩ nhân. Chúng ta thường không thích nói về thất bại, như thể chúng ta đã được lập trình để tránh thất bại... Lẽ nào thất bại chẳng có chút giá trị nào sao? Quyển sách này đề cập đến một mặt khác của thành công. Đó là một phương diện chúng ta cần thật sự học hỏi. Đối với những ai đã từng cố gắng và đã từng thất bại, quyển sách này đứng về phía bạn. Dám thất bại, bạn sẽ thành công sau này... So với những người thất bại, những người thành công thật sự đã thất bại nhiều lần hơn, chỉ đơn giản là vì họ đã cố gắng nhiều lần hơn! ***   Tôi sinh năm 1950 trong một đại gia đình có 14 đứa con. Cha tôi bán hàng thịt, còn mẹ tôi là một người nội trợ bình thường. Tôi sinh ra trong tầng lớp thấp kém của xã hội, giữa những người nói năng rất thô lỗ và cộc cằn, nơi mà hằng ngày mọi người cứ luôn miệng chửi thề và nói những từ khó nghe. Trong bối cảnh đó, chúng tôi đã trải qua tuổi thơ khó khăn của mình, không ngày nào về nhà mà cha không chửi rủa, đánh mẹ tôi hay một đứa trong chúng tôi. Chúng tôi luôn phải ăn những mẩu xương và thịt heo thừa mà cha tôi bán không hết trong ngày. Không biết có phải vì đó là cách buôn bán của ông hay vì chúng tôi chỉ là những kẻ ăn bám mà ông đối xử bất công với chúng tôi khi ông dành toàn phần thịt ngon nhất cho khách hang và để cho chúng tôi toàn những mẩu vụn không ai thèm mua. Cha tôi lớn lên với ý nghĩ rằng cách dạy con tốt nhất trong mọi trường hợp là phải thật “nghiêm khắc” và “cứng rắn”. Một lần, ông kể với chúng tôi rằng suốt thời thơ ấu của mình, không ngày nào ông không bị mẹ nuôi cốc vào đầu (cha tôi vốn là con nuôi); vì vậy cho đến tận bây giờ, ông vẫn tin rằng ông khấm khá hơn, thông minh hơn các anh em nuôi và cả các anh chị em ruột của mình là nhờ những cái cốc đầu ấy.  Tôi còn nhớ một lần nọ, cha đánh chị cả tôi mạnh tay đến nỗi chị không thể chịu đựng được nữa nên phải báo cảnh sát. Chắc hẳn các bạn cũng đoán ra được tình huống lúc đó tồi tệ đến mức nào vì chúng tôi sợ cha đến nỗi không dám nói với bất cứ ai về việc cha đánh đập mình, nói gì đến việc báo cảnh sát. Một lần khác mà tôi còn nhớ là lúc tôi bị đánh và bị đốt áo sơ mi vì không chuẩn bị sẵn sàng đi học khi xe đến đón dù hôm đó xe đến sớm hơn thường lệ. Ngược lại, mẹ tôi là người phụ nữ dịu dàng và giản dị nhất mà ai cũng phải mơ ước. Dù bị ông bà và cha tôi đánh đập và la mắng, mẹ vẫn cứ nhẫn nhục và phục tùng họ. Lần nọ, mẹ kể với tôi rằng chi tôi chỉ “âu yếm” bà trong ba ngày đầu tiên sau lễ cưới. Tôi không hình dung nổi làm thế nào 14 anh em ra đời được! Còn một việc nữa, đó là trừ nhà ra, nơi duy nhất tôi có thể đến là trường học. Vì thế, tôi luôn mong được đến trường, tuy nhiên đó cũng là nơi tôi vừa yêu vừa ghét. Đó là vì suốt thời gian học tiểu học, tôi gặp phải một ông thầy thích nhéo hơn là dạy học. Mỗi khi chúng tôi không trả lời được câu hỏi, ông bắt chúng tôi đứng lên ghế, rồi tới cạnh bên, thọc tay vào túi quần sooc của chúng tôi và….. nhéo! Nhà thì giống như ngọn lửa, còn trường học giống “ cái chảo nóng”. Một thứ nữa cũng là một phần của tuổi thơ chúng tôi, đó là “kết phe”. Mỗi ngày sau khi tan học, tôi chẳng còn muốn về nhà, mà lại la cà đó đây với lũ bạn, đùa giỡn và đánh bạc….. Thậm chí, chúng tôi thành lập một đội bóng rổ mang tên “ FORTISS”; về sau, chúng tôi đã lấy tên này đặt cho công ty của mình. Đó là toàn cảnh những ngày thơ ấu của tôi. Tôi sinh ra giữa hai thái cực. Phải nói rằng tuổi thơ của tất cả anh chị em tôi bị ảnh hưởng và tôi không dám đoan chắc điều này không để lại dấu vết gì trong cuộc đời chúng tôi sau này. Nhiều người trong chúng ta cũng gặp phải điều tương tự trong cuộc sống. Cuộc sống có thể đã quá tệ bạc với ta. Thậm chí ta có thể nói nó quá bất công và tự hỏi mình tại sao lại thế. Trong cuộc tìm kiếm câu trả lời cho điều này, một số người bị rối loạn về mặt tinh thần và tâm lý, và nhiều người vẫn còn hết sức sợ hãi. Một số khác bị ảnh hưởng nặng nề đến nỗi họ bị “nhấm chìm” và mãi mãi không bao giờ đứng lên được nữa.   Mời các bạn đón đọc Tư Duy Để Thắng: Dám Thất Bại của tác giả Billi P.S. Lim.