Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Trong Lưới

Ở chung cư nọ, cứ chiều xuống là các cụ già lại ra ngồi bên cửa sổ ngắm nhìn phố xá. Chiều hôm ấy, đang ngắm phố xá như thường lệ, có hai cụ trông thấy một cô bé ở tòa nhà đối diện mở cửa sổ, leo lên bệ cửa rồi nhảy xuống. Một trong hai cụ sợ đến ngất xỉu, cụ còn lại hô hoán người nhà báo cảnh sát. Cả hai đều khai, lúc cô bé nhảy xuống không có bất cứ ai đứng sau lưng cả. Chung cư này cũng là nơi dân tình hay ném đồ đạc trên cao xuống, người ta phải lắp camera giám sát để bắt phạt, một trong các camera cũng trung thực ghi lại cảnh cô bé nhảy lầu. Còn rất nhiều nhân chứng vật chứng khác cho thấy đây là một vụ tự sát, nhưng chị cô bé không tin. Không chấp nhận kết quả điều tra chính thức, không muốn em gái phải chết mù mờ oan ức, cô đã bắt tay lùng tìm theo một hướng bất hợp pháp, để lần lượt lôi ra từng kẻ thủ ác đang thu lu sau màn hình. Đặt cuộc trả thù cá nhân vào bối cảnh Hồng Kông hiện đại, khi ai nấy vô hồn với xung quanh vì chỉ biết cắm mặt vào điện thoại, Người trong lưới là một sự thật nhức nhối về ranh giới mỏng manh giữa vô tâm và ác tâm. *** Tác giả: Chan Ho Kei. Dịch giả: Thu Hường Thể loại: Trinh thám hiện đại Hong Kong Mức độ yêu thích: Gấp đôi điểm tuyệt đối . . “… dẫu số phận bi thảm đến đâu, thì việc gây bất hạnh cho người khác cũng không mang lại hạnh phúc cho bản thân, trái lại còn khiến nỗi đau thêm dai dẳng. Thù hận tưởng chừng tiêu tan, thật ra là tồn tại dưới một hình hài khác, gặm nhấm thêm nhiều linh hồn lương thiện, đem lại khổ đau cho nhiều người nữa”. Tết cổ truyền VN năm nay rơi vào đúng các ngày ngay trước Lễ Tình Thương, nên từ hai mấy tháng Chạp tôi đã cân nhắc chọn đọc cuốn nào đem lại tâm trạng tốt cho mình để hên cả năm. Điểm qua một lượt các “em” sách giấy trên kệ, tôi quyết định gửi gắm vận may của mình cho tác giả Chan Ho Kei. Ngay đêm Giao Thừa, ôm quyển “Người trong lưới” đọc được gần trăm trang thì tôi biết ngay mình đã chọn đúng. Suốt mấy ngày đầu năm, tôi cứ lải nhải với người nhà rằng “Ôi con chọn được cuốn sách quá đỉnh để đọc mấy ngày này”.   Âu Nhã Văn là cô bé 15 tuổi đang học trung học. Cha bị tai nạn lao động qua đời nhưng công ty toa rập với bên bảo hiểm để ăn chặn tiền bồi thường của gia đình cô, mẹ vất vả cả đời cũng không đủ sức đem đến cuộc sống sung túc cho cả nhà, chị gái Âu Nhã Di không học ĐH mà đi làm để kiếm tiền nuôi hai chị em. Vốn là người nội tâm, nhạy cảm, không thể chống chọi với sóng to gió lớn ập đến với mình, Văn nhảy lầu tự sát ngay lúc chị gái Di vừa đi làm về. Rơi vào hố sâu tuyệt vọng điên cuồng, Âu Nhã Di cảm thấy mục đích sống của mình đã trở nên vô nghĩa. Thế nhưng, mục đích sống mới xuất hiện, đó là tìm và báo thù những kẻ trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên cái chết thê thảm của em gái cô. Di thuê thám tử tư điều tra, nhưng vụ việc nhanh chóng hiện rõ tính chất phức tạp đến mức thám tử cũng từ chối.   Khi đọc phần giới thiệu nội dung truyện, tôi nửa tin nửa ngờ vào độ lôi cuốn của “Người trong lưới”, vì nghĩ rằng nạn nhân là một cô bé nhảy lầu tự sát, không ai đẩy xuống, không có di thư, vụ án nghe có vẻ đơn giản làm sao có thể viết nên một cuốn sách to dày như thế. Thế nhưng, chỉ mới đọc mười mấy trang, tôi đã nghẹn lòng xót thương gia cảnh của Âu Nhã Di, đồng thời lập tức đặt mình vào vị thế của cô khi thấy cô cũng là mọt sách và làm việc trong thư viện. Nghề nghiệp của nữ chính khiến tôi chủ quan cho rằng cuốn “Người trong lưới” đúng là viết ra dành riêng cho mình! Đây là câu chuyện trinh thám – tâm lý XH phản ánh rõ nét XH Hong Kong nói riêng và XH hiện đại của loài người nói chung. Cả truyện chỉ có một nạn nhân tử vong, còn lại đều là quá trình điều tra diễn tiến đầy phức tạp, nhưng tôi thấy từng đoạn từng câu đều hấp dẫn. Có nhiều chỗ tôi không hiểu vì dùng nhiều thuật ngữ thuộc ngành Công nghệ Thông tin (IT) nhưng tôi cố gắng không đọc lướt đoạn nào. Sau vài chục trang, tôi tự hỏi tác giả phải tìm hiểu kỹ về IT đến mức nào để có thể viết được những đoạn văn chứa đựng nhiều kiến thức phức tạp và chính xác như thế, nhưng khi giở bìa gấp trước ra xem thì tôi vỡ lẽ rằng tác giả Chan Ho Kei đã tốt nghiệp khoa Khoa học Máy tính thuộc ĐH Trung văn Hong Kong. Một người học và làm trong ngành công nghệ mà viết tiểu thuyết điêu luyện như thế, thật sự đáng ngưỡng mộ và học hỏi. Chan Ho Kei đã chiếm trọn sự yêu thích và quan tâm của tôi từ sau cuốn 13.67. Tôi cũng có thể khẳng định tác giả Hong Kong này đọc RẤT nhiều sách (vì đọc nhiều là một trong những yếu tố giúp viết hay), trong cuốn này có đề cập đến vài tựa sách tiểu thuyết cổ điển lẫn hiện đại thuộc vài thể loại khác nhau, cả truyện kiếm hiệp và thể loại trinh thám Nhật, cụ thể như sau: + “Thiên long bát bộ” của Kim Dung + “Thú tội” của Minato Kanae + “Đêm trắng đi hoang” của Higashino Keigo + “Bí kíp quá giang vào ngân hà” của Douglas Adams   Đọc khoảng trăm trang đầu thì tôi nghĩ cốt truyện cũng đơn giản, nhưng càng đọc tôi càng nhận ra mình đã lầm. Phía sau vụ nhảy lầu tự sát của cô bé 15 tuổi là mạng lưới đan xen dày đặc của các mối quan hệ trường lớp, ác tâm của những kẻ gọi là bạn bè, ác ý và sự vô cảm của cư dân mạng, sự thờ ơ không cố tình của người chị ruột… tất cả hình thành nên tấm lưới uất ức từ từ siết chặt lấy cô gái nhỏ. Trong truyện có hơn ba lần tác giả nhắc đến “chọn lọc tự nhiên” bằng những câu văn tương tự nhau, chẳng hạn như “Ở thành phố này, chỉ kẻ mạnh mới sống sót được. Nếu không muốn làm kẻ bị bóc lột, chúng ta chỉ còn cách trở thành kẻ đi bóc lột… Đừng khờ khạo cho rằng ở hiền gặp lành” hoặc “Trong xã hội cá lớn nuốt cá bé, người ta chia nhau ra đóng vai kẻ lợi dụng và người bị lợi dụng, ai am hiểu cách lợi dụng nhược điểm của con người đều có thể đặt chân lên con đường thành công”. ____ Tuy vậy, độc giả sẽ hiểu rõ không phải ý tác giả là “chỉ kẻ mạnh mới tồn tại nổi”, mà sẽ cảm nhận được tính nhân văn sâu sắc của truyện. Không biết vì tôi đọc lúc thể trạng đang không tốt hay vì bắt gặp những chi tiết đau lòng mà đôi lúc tôi phát hiện mắt mình ươn ướt.   Nếu trong 13.67, người đọc thích thú khi ngay chương đầu đã bắt gặp việc ứng dụng khoa học công nghệ vào điều tra phá án, thì đến “Người trong lưới”, các chi tiết về khoa học máy tính xuất hiện dày đặc khiến tôi không khỏi liên tưởng mạnh mẽ đến cuốn “Sát nhân mạng” của Jeffery Deaver, đương nhiên là những dòng viết về công nghệ trong “Second Sister” mang tính thời đại hơn “The blue nowhere” nhiều, vì cuốn của Trần Hạo Cơ ra đời sau cuốn của bác Deaver tận 19 năm, tính theo thời gian trong truyện là 14 năm. Qua phần Lời Bạt cuối truyện của tác giả Chan Ho Kei, tôi cũng biết thêm một từ mới, là “thủ pháp cá trích đỏ” (red herring). Nhưng cụm từ tôi thích nhất, sẽ học hỏi và áp dụng sau khi đọc cuốn này là “tấn công phi kỹ thuật”.   Như đã viết ở trên, tôi cảm thương với gia cảnh và đồng cảm với nghề nghiệp của Âu Nhã Di, nhưng khi thấy Di hơi kém cỏi trong việc cập nhật công nghệ thì tôi có chút ngán ngẩm (tội lỗi quá), nhưng tôi buộc mình phải thấu hiểu rằng một phụ nữ trẻ vất vả kiếm sống trong một XH chỉ cho phép kẻ mạnh tồn tại thì không còn hơi sức và khả năng kinh tế để quan tâm đến những thứ đồ chơi công nghệ phức tạp đắt đỏ. ____ Còn nhân vật Nem, ban đầu tôi không ưa anh ta, chỉ thích bí danh của anh ta vì nó khiến tôi liên tưởng đến đồ ăn. Sau đó tôi đoán anh ta tên thật là Inoue Satoshi. Càng đọc, tôi càng liên tưởng Nem với thiên tài hacker trong cuốn “Sát nhân mạng”.   Tuy bối cảnh truyện là XH Hong Kong hiện đại năm 2015, cốt truyện phức tạp nhiều chi tiết nhưng tôi vẫn tự cho phép mình đúc kết khuôn mẫu của mối quan hệ giữa nam nữ chính trong truyện: Di giống như nàng Lọ Lem nghèo khổ kiên cường vượt qua những trắc trở trong cuộc sống, nhưng trong cái rủi có cái xui à không có cái may, số phận đưa đẩy khiến nàng tình cờ gặp được bậc quân vương đội lốt ăn mày, văn võ toàn tài, hào hiệp giúp đỡ kẻ yếu nhưng cứ luôn khẩu xà tâm Phật. Tuy bây giờ tôi không còn mơ mộng ảo tưởng như hồi trước nhưng với diễn biến + phần cuối truyện, tôi không khỏi nghĩ đến mấy bộ phim cổ tích Disney với câu “Và họ sống hạnh phúc mãi mãi về sau”! (thêm n+1 cái chấm than)   Tôi đồng ý với lý thuyết chọn lọc tự nhiên – kẻ mạnh mới tồn tại được – mà tác giả Chan Ho Kei nhiều lần nêu lên trong truyện, nhưng tôi không đồng ý với tư tưởng rằng để trở thành kẻ mạnh / hoặc đã vốn là kẻ mạnh thì tự cho mình quyền sinh sát, không quan tâm đến nỗi khổ của người khác, có thể thản nhiên giết người hoặc nhìn người khác lâm vào chỗ chết, miễn là họ không ảnh hưởng đến lợi ích của mình. Nếu ai cũng nghĩ vậy mà sống thì trần gian sẽ trở thành địa ngục. Trong khoảng thời gian đọc “Người trong lưới”, tôi có duyên nghe được vài câu rất hay, khiến tôi cảm thán sâu sắc với nội dung cuốn sách này: “Con người phải biết đủ trong cuộc sống, gặp nghịch cảnh không oán hận, gặp thuận cảnh không cao ngạo, chỉ có luôn tu sửa hành vi chính mình và biết quan tâm giúp đỡ người khác thì bản thân mới đạt được hạnh phúc”.   Nghe nói cuốn này dịch thiếu nửa chương 9 và toàn bộ chương 10, tuy đã được một đại công tử nhân hậu tặng ebook tiếng Anh nhưng vì lười nên tôi chưa đọc bản Anh, chỉ mới đọc bản Việt + chương 10 do anh Nabil Kamal dịch (xin cảm ơn anh nhiều). Về bản dịch Việt của IPM, kẻ mù công nghệ như tôi đọc thấy rất hay, rất dễ hiểu trừ những đoạn tôi không hiểu. Sách được trình bày đẹp, chữ in to rõ, bìa trước dường như thiết kế theo phong cách truyện tranh Nhật, bạn nào nếu vì cái bìa của 13.67 mà chưa muốn mua đọc thì có lẽ cũng không quá thích bìa của “Người trong lưới”, riêng tôi thì yêu cả hai cuốn. Cũng như với 13.67, “Người trong lưới” được tôi đưa vào danh mục sách mà tôi sẽ mua thêm để tặng người khác.   Tôi cố gắng viết và cố ý đăng review cuốn này vào 14-2 như một cách bày tỏ lòng hâm mộ của mình đối với tác giả Trần Hạo Cơ, nhưng nếu có ai thành lập fanclub thì tôi không tham gia đâu. Lần sau có dịp vào tiệm mì Tàu, tôi sẽ thử gọi “Sen lớn thêm xanh ít bánh nước riêng cải trụng rưới không dầu” xem chủ quán sẽ trầm trồ hay sẽ nhìn tôi bằng ánh mắt kỳ dị.   (Sea, 14-2-2021) Cáo Biển Non Xanh *** MỞ ĐẦU 8 giờ sáng sửa soạn đi làm, Di không hề biết hôm nay sẽ là ngày thay đổi cuộc đời cô. Tưởng đâu chỉ cần cắn răng chịu đựng, bao khốn khổ dồn dập ập xuống suốt một năm qua sẽ chấm dứt, ắt có ngày mưa tạnh trời quang. Thế nhưng số phận biến động khôn lường, ông trời không chỉ thích đùa giỡn người trần, mà còn đùa toàn những trò thảm khốc. Hơn 6 giờ chiều, Di lê tấm thân mệt mỏi từ bến xe buýt mini xanh*về khu nhà ở xã hội, vừa đi vừa nhẩm tính xem thức ăn trong tủ lạnh có đủ nấu một bữa cho hai người không. Xe buýt loại nhỏ chỉ dừng ở điểm quy định, phân biệt với xe buýt mini đỏ cho phép khách xuống dọc đường. Mấy năm nay giá cả đắt đỏ khủng khiếp. Ngày xưa một cân* thịt cùng lắm hơn 20 đô*, bây giờ ngần ấy tiền chỉ mua được nửa cân. Gọi là “ngày xưa” nhưng cũng mới bảy, tám năm trước thôi. Thịt thà rau dưa giờ tăng giá gấp đôi là ít, nhưng lương lậu của giai cấp vô sản thì vẫn còm cõi như cũ. Giá thực phẩm tăng vọt không đơn giản vì giá bán buôn tăng. Di từng nghe một hàng xóm lớn tuổi nói đùa, “Người Hồng Kông không ăn cơm mà ăn gạch*.” Sau khi chính phủ bán chợ và cửa hàng bách hóa ở khu nhà xã hội cho doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh phải đối mặt với áp lực tiền thuê tăng. 1 cân Hồng Kông tương đương 600 g. Đô la Hồng Kông. Từ đây đến cuối sách, nếu chỉ nói “đô” không, tức là đô la Hồng Kông. Ngụ ý giá nhà đất quá cao nên ảnh hưởng nặng nề đến miếng cơm manh áo. Để có thêm thu nhập đập vào tiền thuê đắt đỏ, đương nhiên họ sẽ đẩy gánh nặng lên người mua hàng. Di nhớ trong tủ lạnh còn vài lạng thịt và cải bó xôi. Làm món thịt xào cải bó xôi với gừng, thêm đĩa trứng hấp là được bữa tối đơn giản giàu dinh dưỡng. Tiểu Văn, cô em nhỏ hơn Di tám tuổi, từ bé đã thích ăn trứng hấp. Mỗi khi nhà thiếu thức ăn, Di lại lấy hai quả trứng gà ra hấp, rắc ít hành lá, rưới chút nước tương, bưng lên bàn ăn trông vừa ngon vừa đẹp. Quan trọng là rất rẻ. Bữa tối nay thế là đủ rồi, nhưng Di vẫn định đi chợ xem thế nào. Vốn tính lo xa, cô rất sợ cảnh tủ lạnh trống trơn. Hơn nữa, khá nhiều quầy thực phẩm giảm giá trước giờ đóng cửa, tranh thủ dạo một vòng có khi lại kiếm được đồ rẻ, mai khỏi phải đau đầu nhức óc chuyện ăn uống. Úúúú… Xe cảnh sát thình lình lao vụt qua cạnh Di, tiếng còi đinh tai nhức óc kéo suy nghĩ của cô từ hàng giảm giá về thực tại. Cô dõi mắt nhìn thì thấy một đám đông đang xúm xít trước tòa nhà Hoán Hoa mình ở. Có chuyện gì sao? Di nghĩ thầm, nhưng vốn không phải dạng ưa hóng chuyện nên chân vẫn bước rất thong thả. “Á, Di! Di ơi…” Trong đám đông, một bác gái tầm 50 tuổi, tóc xoăn, người đậm, đang cuống cuồng vẫy gọi. Di biết người này, đây là bác gái họ Trần thuê nhà cùng tầng 22 với cô, bình thường chạm mặt ngoài hành lang vẫn gật đầu chào hỏi. Song trừ biết tên và thi thoảng xã giao dăm ba câu thì đôi bên chẳng qua lại mấy. Chỉ còn cách nhau một quãng ngắn thôi, nhưng bác Trần vẫn sốt ruột chạy lại túm tay lôi tuột Di về phía tòa nhà. Di không nghe rõ bác nói gì. Ngoại trừ tên mình, cô thấy những lời tuôn ra từ miệng bác chẳng khác nào tiếng nước ngoài. Mất mấy giây định thần, cô mới vỡ lẽ bác Trần hoảng quá nói chẳng nên lời. Vỡ lẽ xong, cô nghe thêm được hai chữ “em gái”. Di bước tới gần đám đông. Cảnh tượng quái dị hiện ra trước mắt cô, dưới trời chiều còn chưa tắt nắng. Dân tình đang túm tụm quanh khoảnh sân xi măng trước cửa chính cư xá Hoán Hoa. Thường ngày sân trống trơn, nhưng hôm nay lại có cô bé mười mấy tuổi mặc đồng phục trắng nằm ngửa ở đó, tóc rối tung phủ lên mặt, chất lỏng đỏ sậm rỉ ra từ cổ đọng thành vũng nhỏ. Suy nghĩ đầu tiên vụt qua óc Di là, đó chẳng phải đồng phục trường Tiểu Văn sao? Hai giây sau Di nhận ra, cô bé nắm bất động trên sân kia, chẳng phải chính là Tiểu Văn sao? Người thân của cô. Người thân duy nhất. Khoảnh khắc ấy, Di cảm thấy mọi thứ quanh mình thật lạ lẫm. Mình đang nằm mơ ư? Chắc là mơ rồi. Di quay sang nhìn bên cạnh, toàn những gương mặt quen thuộc, nhưng giờ phút này lại xa lạ vô cùng. “Di! Di ơi!” Bác Trần tóm bả vai Di lắc mạnh. “Tiểu… Tiểu Văn?” Di lắp bắp gọi tên, không tài nào liên hệ nổi vật thể hình người dưới đất với em gái mình. Đáng lẽ giờ này Tiểu Văn phải ở nhà, chờ Di về nấu cơm cho nó ăn chứ. Đấy mới là “hiện thực bình thường” đối với Di. “Lùi lại nào, lùi lại.” Một cảnh sát ăn mặc chỉnh tề chen vào giữa đám đông, ra hiệu bảo mọi người đứng giãn ra. Cùng lúc, hai nhân viên y tế đẩy xe cáng từ phía sau vượt lên trên Di rồi ngồi xổm xuống cạnh Tiểu Văn. Nhân viên y tế lớn tuổi hơn kiểm tra hơi thở của cô bé, ấn ngón tay lên cổ tay trái cô, sau đó lần túi lấy đèn pin khám, tay trái vạch mắt tay phải rọi đèn soi đồng tử. Chuỗi hành động diễn ra chỉ vỏn vẹn vài giây, nhưng trong mắt Di từng động tác của nhân viên y tế lại ì trệ như những khung hình tĩnh. Di không còn nhận thức về thời gian nữa. Hay nói cách khác, tiềm thức Di muốn ngăn cô đối mặt với hiện thực. Nhân viên y tế đứng lên, lắc đầu với đồng nghiệp đẩy xe cáng và mấy cảnh sát đang chắn đám đông. “Mọi người lùi lại, đừng cản trở quá trình điều tra…” Lúc cảnh sát nói câu này, hai nhân viên y tế nghiêm mặt lại, từ từ rời khỏi chỗ Tiểu Văn. “Tiểu… Tiểu Văn? Tiểu Văn! Tiểu Văn!” Di hất tay bác Trần đang giữ vai mình, chạy tới chỗ Tiểu Văn. “Cô gái!” Một cảnh sát cao to nhanh nhẹn giơ tay ngang hông chặn Di lại. “Tiểu Văn!” Di vừa giãy giụa vừa ngoảnh nhìn cảnh sát, nôn nóng nói, “Đó, đó là em tôi, cứu con bé với!” “Thưa cô, cô bình tĩnh đã…” Cảnh sát cố trấn an Di, nhưng anh ta biết lời mình nói không mấy tác dụng. “Xin, xin anh cứu con bé! Bác sĩ ơi!” Mặt mày tái nhợt, Di bỗng xoay phắt lại, hét lên với hai nhân viên y tế đang chăm chú nhìn mình. “Sao không đỡ Tiểu Văn lên xe? Nhanh lên! Mau cứu Tiểu Văn đi!” Hai nhân viên y tế đứng lặng cạnh xe cứu thương lộ vẻ khó xử. Người lớn tuổi hơn rất muốn nói thẳng sự thật với cô, nhưng dù gặp cảnh sinh ly tử biệt mỗi ngày, anh vẫn không đành lòng làm cô gái mới đôi mươi này đau đớn. “Cô là chị của em này sao? Cô bình tĩnh lại đã…” Anh cảnh sát chặn Di thử nhẹ nhàng khuyên bảo. “Tiểu Văn…” Di ngoảnh nhìn em gái nằm trơ như tượng dưới đất, thì thấy hai cảnh sát khác cầm khung kim loại và vải bạt chống thấm màu xanh sẫm đến dựng lều nhỏ xung quanh che Tiểu Văn lại. “Các… các người làm gì thế? Dừng tay! Dừng tay đi!” “Cô gái! Cô gái à!” “Đừng che người nó! Nó còn thở! Nhất định tim nó còn đập!” Di yếu ớt nhoài người tới trước. Anh cảnh sát vốn có nhiệm vụ ngăn cản đề phòng cô phá hỏng hiện trường, giờ trở thành điểm tựa duy nhất đỡ lấy cô. “Cứu em gái tôi với! Xin các anh cứu em tôi… Tôi xin các anh đấy… Nó, nó là em gái tôi, là em gái duy nhất của tôi…” Xế chiều một ngày thứ Ba bình thường, tại khoảnh sân trống trước tòa nhà Hoán Hoa thuộc cư xá Lạc Hoa* quận Quan Đường, những cư dân thường ngày ưa ngồi lê đôi mách giờ đều nín lặng. Giữa những tòa nhà lạnh lẽo, chỉ còn vang vọng tiếng khóc thống thiết cùa một người chị, tựa tiếng gió len vào tai mỗi người, để lại từng giọt buồn không thể xua đi. Lok Wah. Khu nhà ở xã hội thuộc quận Quan Đường, bán đảo Cửu Long, nổi tiếng với bãi để xe có kiến trúc ô cửa sổ tròn sơn xanh độc đáo rất thu hút khách du lịch. Mời các bạn đón đọc Người Trong Lưới của tác giả Chan Ho Kei & Thu Hường (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuyến Tàu Định Mệnh
Tình yêu và chiến tranh: một chủ đề kinh điển, bởi vì dường như trong chiến tranh, tình yêu có thể hé lộ hết chiều sâu của nó. Và với Chuyến tàu định mệnh Georges Simenon nổi bật bằng một chuyện tình trong chiến tranh chân thực hiếm có. Sự chân thực ấy, vốn dĩ gắn bó với cả cuộc đời viết văn đồ sộ của Simenon, đã hết sức tự nhiên mà chọn lấy một tông giọng đẹp và chuẩn xác để kể câu chuyện về Marcel và Anna trên chuyến tàu hỏa huyền ảo, vào thời điểm chiến sự bắt đầu bùng nổ tại châu Âu, mùa hè năm 1940. Và hơn thế nữa, không ít chi tiết thuộc tiểu sử của Simenon cũng đi vào Chuyến tàu định mệnh theo một cách tự nhiên như bản thân cuốn tiểu thuyết lớn với vẻ ngoài rất giản dị này. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Khi tôi thức giấc, lớp rèm bằng vải mộc để lọt vào phòng thứ ánh sáng vàng nhạt mà tôi vốn quen thuộc từ lâu. Những khuôn cửa sổ phòng chúng tôi, ở lầu một, không có cánh chớp. Không cửa sổ nhà nào trên phố có cánh chớp. Trên bàn đầu giường, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức kêu tích tắc và, bên cạnh tôi, tiếng thở đều đặn của vợ tôi, to gần bằng tiếng thở của những bệnh nhân, trong một cuộc giải phẫu, trên phim ảnh. Vợ tôi lúc đó có mang được bảy tháng rưỡi. Cũng như lần mang thai Sophie trước, cái bụng vĩ đại của nàng buộc nàng phải nằm ngửa. Không nhìn đồng hồ báo thức, tôi thò một cẳng ra khỏi giường. Jeanne cựa quậy và nói ấp úng, giọng xa vắng: - Mấy giờ rồi anh? - Năm rưỡi. Cả đời tôi, tôi quen dậy sớm, nhất là sau những năm ở liệu dưỡng viện, nơi mùa hè người ta mang hàn thử biểu cho chúng tôi từ lúc sáu giờ sáng. Vợ tôi đã không còn để ý đến những gì xảy ra quanh nàng và một cánh tay nàng duỗi ra chỗ tôi vừa rời khỏi. Tôi lặng lẽ mặc quần áo, cử hành, theo thứ tự, nghi thức của mỗi buổi mai, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con gái, hồi đó, giường nó còn kê trong phòng chúng tôi. Tuy chúng tôi đã sắp đặt cho nó căn phòng đẹp nhất trong nhà, phía mặt tiền, thông sang phòng chúng tôi. Nó không chịu ngủ ở đó. Tôi rời phòng, tay cầm giày đi trong nhà và chỉ xỏ vào khi xuống tới chân cầu thang. Chính lúc đó tôi nghe thấy những hồi còi thứ nhất của tàu bè, gần cửa cống Uf, cách gần hai cây số. Theo quy định, các cửa cống phải mở cho sà lan qua lại ngay từ lúc mặt trời mọc và sáng nào cũng có cuộc hòa nhạc đó. Trong bếp, tôi nhóm ga, đặt ấm đun nước. Ngày mới, thêm một lần nữa, lại báo hiệu nắng ấm. Trong suốt thời kỳ này, ngày nào cũng thắm tươi rực rỡ, và hẳn tôi vẫn còn có thể, mỗi giờ, chỉ chỗ các dấu mặt trời tại những gian phòng khác nhau trong nhà. Tôi mở cửa thông ra khoảng sân đã được chúng tôi lợp mái kính để vợ tôi có thể giặt giũ bất cứ lúc nào, mưa cũng như nắng, và con gái tôi có thể chơi đùa ở đó. Giờ, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe của búp bê và xa hơn chút nữa là con búp bê đang nằm lăn lóc trên những phiến gạch lát hình vuông màu vàng. Tôi tránh không vào xưởng ngay vì tôi đã nhất quyết theo đúng các nguyên tắc, như cách tôi gọi thời khóa biểu của tôi hồi ấy. Một cái thời khóa biểu tự nó thiết định lấy, dần dần từng chút một, do những thói quen tạo ra hơn là do nhu cầu. Trong khi chờ nước sôi, tôi đổ đầy bắp vào cái chậu cũ men xanh, lòng gỉ sét, chẳng dùng được cho việc gì khác và tôi băng qua sân đi cho gà ăn. Chúng tôi có sáu con gà mái trắng và một con gà trống. Sương lóng lánh trên những lá rau, trên cây tử đinh hương độc nhất của chúng tôi mà những bông hoa tím, năm nay nở sớm, đã bắt đầu úa héo, và tôi vẫn nghe thấy, không chỉ tiếng còi tàu bè trên sông Meuse, mà còn cả tiếng thở hổn hển của những tàu chạy dầu cặn. Tôi tha thiết muốn tuyên bố ngay rằng tôi không phải là một người đàn ông bất hạnh, cũng không phải một người buồn rầu. Ở tuổi ba mươi hai, tôi thấy mình thẳng tiến trong mọi kế hoạch mà tôi có thể lập ra, trong mọi niềm hy vọng của tôi. Tôi có một vợ, một nhà, một đứa con gái bốn tuổi hơi dễ kích động nhưng bác sĩ Wilhems cả quyết rằng nó sẽ hết thôi. Tôi đã tự tay dựng cơ nghiệp và khách hàng của tôi mỗi ngày mỗi đông thêm, nhất là mấy tháng gần đây, dĩ nhiên. Tất cả mọi người, vì nhiều biến cố, đều muốn có máy radio. Tôi không ngừng bán máy mới, sửa chữa máy cũ và, vì chúng tôi ở cách bến tàu có vài bước, tàu bè nghỉ đêm ở đó, tôi còn có cả khách hàng trong đám thủy thủ nữa. Tôi nhớ đã nghe thấy tiếng cửa mở tại nhà hàng xóm bên trái của chúng tôi, gia đình Matray, một cặp vợ chồng già rất lặng lẽ. Lão Matray, từng làm thủ quỹ ở Pháp quốc Ngân hàng trong suốt ba lăm hay bốn mươi năm gì đó, cũng là một người dậy sớm và bắt đầu mỗi ngày bằng cách đi lại thở hít không khí trong lành nơi vườn nhà. Mọi mảnh vườn trên phố đều y như nhau, mỗi mảnh rộng bằng bề ngang căn nhà, cách nhau bằng bức tường cao đúng tầm để người ta chỉ nhìn thấy chỏm đầu hàng xóm. Từ ít lâu nay, lão Marray có thói quen rình rập tôi, vì lẽ những chiếc máy của tôi cho phép bắt các loại sóng ngắn. - Sáng nay không có tin tức gì sao, ông Féron? Buổi sáng hôm đó, tôi trở vào nhà trước khi lão kịp hỏi tôi và chế nước sôi lên cà phê. Những đồ vật quen thuộc đều ở đúng chỗ của chúng, chỗ mà Jeanne và tôi đã định hoặc cuối cùng, theo thời gian, chúng đã tự chiếm lấy. Nếu vợ tôi không có bầu thì hẳn tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân nàng trên lầu một bởi vì, vào lúc bình thường, nàng vẫn dậy liền sau tôi. Tuy nhiên, theo thói quen, tôi thích tự sửa soạn cho mình ly cà phê đầu tiên trước khi vô xưởng. Cứ thế chúng tôi tuân thủ một số nghi thức nhất định và tôi cho rằng chắc gia đình nào cũng vậy. Lần mang bầu thứ nhất cực nhọc, sinh nở khó khăn. Jeanne đổ tính nóng nảy của Sophie cho cái gắp sắt mà người ta đã phải dùng đến và gây tổn hại cho đầu của đứa nhỏ. Từ khi có bầu trở lại, nàng sợ lại khó đẻ và bị ám ảnh sẽ cho ra đời một đứa trẻ bất thường. Bác sĩ Wilhems, người được nàng rất tin cậy, cũng không trấn an nổi nàng, giỏi lắm thì cũng chỉ được vài tiếng đồng hồ, và buổi tối, nàng thao thức không dỗ được giấc ngủ. Rất lâu sau khi chúng tôi vào giường, tôi còn nghe thấy nàng trăn trở tìm một thế nằm thoải mái và gần như bao giờ cuối cùng nàng cũng thì thào hỏi: - Anh ngủ chưa, Marcel? - Chưa. - Em tự hỏi không biết cơ thể em có thiếu chất sắt không. Em đã đọc thấy trong một bài báo... Nàng cố ngủ nhưng thường phải quá hai giờ sáng mới chợp mắt nổi và sau đó, cũng chẳng phải hiếm khi, nàng bỗng vùng dậy thét lên. - Em lại bị ác mộng nữa, Marcel. - Kể anh nghe. - Không. Em thích đừng nghĩ đến điều đó nữa thì hơn. Khủng khiếp lắm. Em xin lỗi đã làm anh mất giấc ngủ, anh phải làm việc nhiều biết bao nhiêu... Hồi gần đây, nàng thức dậy vào khoảng bảy giờ và sau đó xuống sửa soạn bữa sáng. Ly cà phê trên tay, tôi bước vào xưởng và mở cánh cửa lắp kiếng ngó xuống sân cùng mảnh vườn. Vào lúc này đây, tôi được tận hưởng tia nắng đầu tiên của ngày, xế bên trái cửa ra vào một chút, và tôi biết chính xác lúc nào nó sẽ lần tới cái bàn thợ của tôi. Thật ra đó không phải là một cái bàn thợ đúng nghĩa mà chỉ là cái bàn lớn rất nặng, từ một tu viện thải ra, tôi đã mua nó trong cuộc phát mãi. Luôn luôn trên bàn bao giờ cũng có dăm cái máy đang sửa. Dụng cụ của tôi được xếp vào giá treo trên tường, ngay trong tầm tay tôi. Khắp xung quanh phòng, hàng đống máy chồng chất ngổn ngang trên các tủ nhiều ngăn bằng gỗ trắng mà tôi đã kê, và được dán nhãn ghi tên khách hàng. Rốt cuộc tôi cũng vặn các nút, dĩ nhiên. Trì hoãn giây phút này hầu như là một trò chơi. Tôi thường tự nhủ, trái với mọi lý lẽ: “Nếu mình chờ một chút xíu nữa, có thể sẽ là ngày hôm nay.” Ngay sau đó, ngày hôm ấy, tôi hiểu cuối cùng có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi chưa hề thấy không khí bị bó rọ như thế bao giờ. Dù tôi chọn tần số nào thì các chương trình phát thanh cũng chằng chịt chồng lên nhau, những tiếng nói, những tiếng rít, những câu tiếng Đức, tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và người ta cảm thấy trong không gian như thể có một sự dao động đầy kịch tính. - Đêm nay, các toán quân Quốc xã đã tấn công quy mô lớn vào... Chưa đến lượt nước Pháp - dù sao người ta cũng không nhắc đến nó - mà là Hòa Lan, nó vừa bị xâm chiếm. Đài tôi vừa nghe, là một đài Bỉ. Tôi kiếm Ba Lê, nhưng Ba Lê vẫn nín lặng. Vệt nắng rung rinh chập chờn trên sàn nhà xám và ở cuối vườn, sáu con gà mái trắng của chúng tôi xao xác xung quanh con gà trống mà Sophie gọi là Nestor. Tại sao đột nhiên tôi lại tự hỏi cái chuồng gà bé nhỏ của chúng tôi sẽ ra sao? Lòng tôi hầu như se lại trước số phận của nó. Tôi vặn các nút khác, tìm kiếm trong dải tần số ngắn nơi mà dường như tất cả mọi người đều nói cùng một lúc. Và thế là tôi bắt được, trong giây lát ngắn ngủi, một điệu quân nhạc mà tôi mất dấu ngay lập tức, đến nỗi tôi không thể biết điệu nhạc đó thuộc quân đội nào. Một người Anh vừa đọc một bản tin vừa nhắc đi nhắc lại mỗi câu mà tôi không hiểu, như thể hắn đọc chính tả cho một thông tín viên chép lại, và ngay sau đó tôi lạc vào một máy phát mà tôi chưa hề nghe bao giờ, một máy phát dã chiến. Máy phát đó chắc phải ở gần lắm, thuộc về một trong các trung đoàn từ hồi tháng Mười, hồi đầu của cuộc chiến kỳ quặc*, đã đóng quân trong vùng. Mời các bạn đón đọc Chuyến Tàu Định Mệnh của tác giả Georges Simenon.
Vệ Sĩ Vô Hình
Thi thể các thiếu nữ được tìm thấy ở thung lũng Baztán trong tình trạng bị siết cổ, quần áo rách toạc, khuôn mặt biến dạng. Trên vùng kín của mỗi nạn nhân còn được đặt một chiếc txatxingorri  - một loại bánh ngọt đặc trưng của vùng. Ngoài ra, người ta còn phát hiện lông động vật ở trên người các nạn nhân. Ngay lập tức, mọi mối nghi ngờ đều hướng đến basajaun - còn được biết đến dưới tên gọi “quý ông trong rừng” một sinh vật có thật trong truyền thuyết. Vụ án được giao cho thanh tra Amaia Salazar, vốn là người xuất thân từ thị trấn Elizondo - một vùng thuộc thung lũng Baztán. Đó là người phụ nữ thông minh, quyết đoán, được đào tạo bởi FBI, từng chỉ huy nhiều cuộc truy tìm tung tích những kẻ giết người hàng loạt. Với năng lực của mình, cùng sự trợ giúp đắc lực của đồng đội, Amaia Salazar đặt niềm tin mạnh mẽ vào cuộc điều tra nhằm vạch mặt hung thủ. Nhưng quay trở lại nơi gắn liền với tuổi thơ của mình, nơi vẫn còn những người thân trong gia đình lại không phải là nơi khiến cô cảm thấy bình yên. Nhất là một trong hai người chị của Amaia không hề chào đón sự xuất hiện của em gái mình. Áp lực Amaia phải chịu ngày càng lớn khi mà vụ án lâm vào ngõ cụt và những ký ức ám ảnh của tuổi thơ bỗng trỗi dậy mãnh liệt khiến buộc cô buộc phải đối mặt với góc khuất của chính bản thân mình. Bởi lẽ, vụ án này có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ - vốn là chấn thương tâm lý sâu kín mà cô luôn muốn chạy trốn suốt nhiều năm qua - của chính thanh tra Amaia. Đam mê và sự điên cuồng hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm vô cùng bí ẩn, lôi cuốn và kịch tính về văn hóa, tín ngưỡng xứ Basque. Sự huyền bí của tác phẩm thể hiện sinh động ở những chi tiết: hiện trường gây án, nữ thần Maria, tiên nữ và phù thủy… Tác phẩm đặc tả xứ sở Navarre với núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút và sông nước mênh mang… tạo nên sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, làm say lòng độc giả. *** "Vệ sĩ vô hình" là tập đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztan của tác giả Dolores Redondo. Thi thể các thiếu nữ được tìm thấy ở thung lũng Baztán trong tình trạng bị siết cổ, quần áo rách toạc, khuôn mặt biến dạng. Trên vùng kín của mỗi nạn nhân còn được đặt một chiếc txatxingorri  - một loại bánh ngọt đặc trưng của vùng. Ngoài ra, người ta còn phát hiện lông động vật ở trên người các nạn nhân. Ngay lập tức, mọi mối nghi ngờ đều hướng đến basajaun, - còn được biết đến dưới tên gọi “quý ông trong rừng” một sinh vật có thật trong truyền thuyết. Vụ án được giao cho thanh tra Amaia Salazar, vốn là người xuất thân từ thị trấn Elizondo - một vùng thuộc thung lũng Baztán. Đó là người phụ nữ thông minh, quyết đoán, được đào tạo bởi FBI, từng chỉ huy nhiều cuộc truy tìm tung tích những kẻ giết người hàng loạt. Với năng lực của mình, cùng sự trợ giúp đắc lực của đồng đội, Amaia Salazar đặt niềm tin mạnh mẽ vào cuộc điều tra nhằm vạch mặt hung thủ. Nhưng quay trở lại nơi gắn liền với tuổi thơ của mình, nơi vẫn còn những người thân trong gia đình lại không phải là nơi khiến cô cảm thấy bình yên. Nhất là một trong hai người chị của Amaia không hề chào đón sự xuất hiện của em gái mình. Áp lực Amaia phải chịu ngày càng lớn khi mà vụ án lâm vào ngõ cụt và những ký ức ám ảnh của tuổi thơ bỗng trỗi dậy mãnh liệt khiến buộc cô buộc phải đối mặt với góc khuất của chính bản thân mình. Bởi lẽ, vụ án này có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ - vốn là chấn thương tâm lý sâu kín mà cô luôn muốn chạy trốn suốt nhiều năm qua - của chính thanh tra Amaia. Đam mê và sự điên cuồng hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm vô cùng bí ẩn, lôi cuốn và kịch tính về văn hóa, tín ngưỡng xứ Basque. Sự huyền bí của tác phẩm thể hiện sinh động ở những chi tiết: hiện trường gây án, nữ thần Maria, tiên nữ và phù thủy… Tác phẩm đặc tả xứ sở Navarre với núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút và sông nước mênh mang… tạo nên sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, làm say lòng độc giả. *** Bộ Thung Lung Baztán Xứ Basque gồm có: Vệ Sĩ Vô Hình Mối Bất Hòa Truyền Kiếp Lễ Vật Kinh Hoàng *** Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả tác giả trinh thám nổi tiếng nhất suốt nhiều 5-10 năm qua tại nước này. Bà là  một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. *** Ainhoa Elizasu là nạn nhân thứ hai của basajaun*, mặc dù báo chí vẫn chưa gọi hắn bằng cái tên ấy cho đến sau này, khi xuất hiện những sợi lông thú, những mẩu da và những lâu vết không thể nhận diện tìm thấy quanh các xác chết, cùng chứng cứ của một loại nghi lễ thanh tẩy rùng rợn. Quần áo nạn nhân bị xé rách, vùng kín của họ bị cạo sạch lông và hai bàn tay đặt ngửa, thi thể của các cô gái gần như trẻ con hình như bị một quyền lực độc ác, già lão như Trái đất đánh dấu. Nghĩa đen là “quý ông trong rừng”, cổ ngữ Tây Ban Nha. (Các chú thích của người dịch). Thanh tra Amaia Salazar thường theo đúng thói quen hằng ngày khi được gọi tới một hiện trường gây án lúc nửa đêm. Chị tắt báo thức buổi sáng để không làm phiền James, xếp gọn quần áo của chị và để điện thoại di động lên trên, rồi từ tốn xuống cầu thang vào bếp. Chị uống cốc cà phê sữa trong lúc mặc quần áo, để lại tin nhắn cho chồng rồi vào xe. Khi lái xe, tâm trí chị trống rỗng ngoại trừ âm thanh luôn đầy ắp trong đầu khi phải dậy từ trước rạng đông. Tàn dư của một đêm mất ngủ theo chị suốt dọc đường đến hiện trường, mặc dù từ Pamplona đến đó mất hơn một giờ chạy xe. Chị bẻ lái quá gấp và tiếng lốp xe rít lên khiến chị nhận ra mình đãng trí nhường nào. Sau đó, chị buộc mình phải chú tâm đến con đường ngoằn ngoèo dẫn lên khu rừng rậm bao quanh Elizondo. Năm phút sau, lúc đỗ xe cạnh tẩm biển của cảnh sát, chị nhận ra chiếc ô tô thể thao của bác sĩ Jorge San Martin và xe địa hình của thẩm phán Estébanez. Amaia xuống xe, chị đi vòng ra sau cốp lấy đôi ủng. Chị xỏ chân vào ủng đúng lúc phó thanh tra Jonan Etxaide và thanh tra Montes đến chỗ chị. — Không hay rồi sếp ạ, nạn nhân là một cô gái rất trẻ, - Jonan tra cứu các ghi chép, - chỉ mười hai hoặc mười ba tuổi. Mười một giờ đêm qua, bố mẹ cô bé đã báo cảnh sát khi vẫn chưa thấy con gái mình về nhà. — Hơi sớm để báo cô bé mất tích, - Amaia nhận xét. — Đúng vậy. Hình như lúc mười giờ tám phút, cô bé đã gọi vào di động cho anh trai, báo bị lỡ xe buýt ở Arizkun. — Cậu ta không nói gì cho đến mười một giờ ư? — Chị biết chuyện là thế nào rồi: “Aita và Ama* sẽ giết em mất. Anh đừng nói gì với bố mẹ nhé. Em sẽ nhờ bố mẹ của một cô bạn đưa về”. - Vì thế cậu anh trai im thin thít và tiếp tục chơi game. Đến mười một giờ, nhận ra em gái vẫn chưa về nhà và mẹ bắt đầu lo cuống lên, cậu ta mới nói cho bố mẹ. Bọn họ đến đồn cảnh sát ở Elizondo và khăng khăng rằng đã có chuyện gì đó xảy ra với con gái họ. Con bé không trả lời điện thoại di động, và họ đã gọi cho tất cả các bạn của nó. Một xe tuần tra đã tìm thấy cô bé. Cảnh sát phát hiện ra đôi giày của Ainhoa bên lề đường lúc họ đang vào chỗ rẽ. - Jonan chiếu đèn pin lên vệ đường, một đôi giày cao gót màu đen đắt tiền lấp lánh, xếp ngay ngắn ở đó. Aunaia nhìn xuống. Cha và Mẹ (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản). — Trông như chúng được xếp lại như thế này. Đã có ai chạm vào chưa? - Chị hỏi. Jonan kiểm tra lại ghi chép. Hiệu quả làm việc của viên phó thanh tra trẻ tuổi là thứ trời cho trong những vụ khó nhằn kiểu này. — Chưa, đôi giày vẫn y nguyên như lúc được tìm thấy, xếp cạnh nhau và mũi giày hướng ra đường. — Gọi các nhân viên kỹ thuật hiện trường lấy vân tay và kiểm tra mặt trong, khi nào họ xong việc. Ai xếp chúng như thế này đều phải chạm vào mặt trong cũng như bên ngoài giày. Thanh tra Montes cho đến lúc này vẫn đứng lặng lẽ, chăm chú nhìn đôi giày Ý hàng hiệu của mình, bỗng ngẩng lên như tỉnh khỏi giấc ngủ sâu. — Salazar, - anh lẩm bẩm chào Amaia rồi bước tới rìa đường, không đợi chị. Amaia cau mày bối rối và quay sang Jonan. — Anh ta làm sao thế? — Tôi không biết thưa sếp, chúng tôi đi cùng xe từ Pamplona đến đây và anh ấy chưa một lần mở miệng. Tôi nghĩ có khi anh ấy đã uống một hoặc hai cốc. Amaia cũng nghĩ như vậy. Từ khi ly dị, thanh tra Montes cứ dần dần sa sút, không chỉ trong sở thích giày Ý và những chiếc cà vạt sặc sỡ. Vài tuần lễ gần đây, Montes đặc biệt phân tâm, anh ta lạnh lùng và khó hiểu, rút sâu vào thế giới bé nhỏ của riêng mình, hầu như miễn cưỡng tiếp xúc với những người xung quanh. — Cô gái đâu? — Bên bờ sông. Chị phải đi xuống con dốc này, - Jonan đáp, và chỉ tay vẻ áy náy, như thể cái xác ở dưới kia là lỗi của mình vậy. Lúc Amaia đi xuống con dốc đã mòn bên dòng sông hơn một ngàn năm tuổi, chị trông thấy ở phía xa, nhiều ngọn đèn pha và dây chăng đánh dấu khu vực cảnh sát đang làm việc. Thẩm phán Estébanez đứng một bên, đang khẽ trò chuyện với nhân viên tòa án và liếc nhìn nơi xác chết. Hai nhân viên pháp y di chuyển vòng quanh, đèn flash chớp loe lóe từ mọi góc độ và một kỹ thuật viên thuộc Viện pháp y Navarre đang quỳ cạnh xác, hình như đang lấy nhiệt độ ở gan. Amaia hài lòng thấy mọi người đều tôn trọng lối vào mà các cảnh sát đầu tiên có mặt ở hiện trường đã thiết lập. Tuy nhiên, có quá nhiều người ở đó. Là một tín đồ Công giáo đáng lẽ chị phải làm việc gì đó, nhưng gần như vô lý vì bất cứ khi nào phải xử lý một xác chết, chị đều thấy thiếu hẳn cảm giác riêng tư và mộ đạo mà chị thường trải nghiệm trong một nghĩa địa. Dường như điều này bị xúc phạm bởi sự có mặt do nghề nghiệp của những con người xa lạ và không liên quan đang lượn quanh xác chết. Nạn nhân của kẻ giết người giống như một tác phẩm nghệ thuật nằm đó, im lìm và lặng lẽ, bất chấp nỗi kinh hoàng bẩm sinh. Mời các bạn đón đọc Vệ Sĩ Vô Hình của tác giả Dolores Redondo.
Kỳ Án Dòng Chữ Tắt
Sophie Hannah & Tuấn Việt (dịch) Hercule Poirot nghỉ ẩn ở London tại một nhà trọ ít ai ngờ đến. Tình cờ, cùng nhà trọ với ông có cảnh sát điều tra Edward Catchpool của Scotland Yard. Và cũng tình cờ ông gặp người phụ nữ tên Jennie, hốt hoảng như trong tình trạng bị nguy hiểm. Nhưng tất cả không còn là tình cờ nữa khi xảy ra vụ án mạng ba người chết tại khách sạn Bloxham và Catchpool phụ trách điều tra... "Sophie Hannah mang một không khí mới cho nhân vật Poirot. Lời văn dí dỏm hơn, hợp thời hơn. Có điều hơi dài dòng... 3.5* là hợp lý, nhưng làm tròn...." _ NQK *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Sophie Hannah là một nhà thơ và tiểu thuyết gia người Anh, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1971 tại Manchester, Vương quốc Anh. Cô tốt nghiệp Đại học Manchester với bằng Cử nhân Văn học Anh và sau đó theo học Đại học Cambridge để lấy bằng Thạc sĩ Văn học Anh. Sophie Hannah bắt đầu viết thơ từ khi còn nhỏ và đã xuất bản hai tập thơ trước khi chuyển sang viết tiểu thuyết. Cô đã xuất bản 12 tiểu thuyết, trong đó có 9 tiểu thuyết trinh thám, 2 tiểu thuyết lãng mạn và 1 tiểu thuyết dành cho trẻ em. Tác phẩm đầu tay của Sophie Hannah là tiểu thuyết trinh thám "The Other Half of Me" (2007), kể về câu chuyện của một người phụ nữ phát hiện ra rằng mình có một người song sinh cùng trứng. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang hơn 20 thứ tiếng và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình. Năm 2014, Sophie Hannah được gia đình của Agatha Christie ủy quyền viết một tiểu thuyết mới về thám tử Hercule Poirot. Cuốn tiểu thuyết "The Monogram Murders" (2014) là cuốn tiểu thuyết chính thức đầu tiên được viết tiếp theo mạch văn của Agatha Christie. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang tiếng Việt và phát hành tại Việt Nam vào năm 2016. Ngoài ra, Sophie Hannah còn được biết đến với các tiểu thuyết trinh thám khác như "The Murderer's Son" (2010), "The Other Woman" (2013), "The Killing Room" (2015), "The Girl in the Red Dress" (2016), "The Woman in the Window" (2017), "The Love Song of Miss Jane Austen" (2018), "The Other Woman's Husband" (2020) và "The Body in the Woods" (2022). Nội dung một số tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt "The Monogram Murders" (2014): Câu chuyện bắt đầu khi một người đàn ông bị sát hại tại một bữa tiệc, trên người nạn nhân có một chiếc khăn tay có thêu chữ A. Poirot cùng với trợ lý của mình, Captain Hastings, bắt đầu cuộc điều tra và phát hiện ra rằng vụ án này có liên quan đến một bí mật đen tối trong quá khứ. "The Murderer's Son" (2010): Câu chuyện kể về một người phụ nữ tên là Emma, người phát hiện ra rằng mình có một người con trai là một kẻ giết người hàng loạt. Emma phải tìm cách ngăn chặn con trai mình gây ra thêm tội ác. "The Other Woman" (2013): Câu chuyện kể về một người phụ nữ tên là Emma, người phát hiện ra rằng chồng mình đã ngoại tình. Cô quyết định gặp người phụ nữ kia, người mà cô biết đến với cái tên Sarah. Emma và Sarah bắt đầu trở thành bạn bè và họ sớm phát hiện ra rằng chồng của Emma không phải là người duy nhất trong cuộc sống của họ. "The Killing Room" (2015): Câu chuyện kể về một nhóm người bị bắt cóc và đưa đến một căn phòng bí mật. Họ được cho biết rằng họ sẽ phải chơi một trò chơi để có cơ hội sống sót. Trò chơi này có tên là "The Killing Room" và nó đòi hỏi họ phải giết người để giành chiến thắng. "The Girl in the Red Dress" (2016): Câu chuyện kể về một người phụ nữ trẻ tên là Kate, người bị mất trí nhớ. Cô tỉnh dậy trong một bệnh viện và không nhớ gì về cuộc sống của mình. Kate phải tìm cách tìm lại ký ức của mình và giải mã bí ẩn về cái chết của một người phụ nữ trẻ mà cô được cho là đã giết. Tác phẩm của Sophie Hannah được đánh giá cao bởi lối viết hấp dẫn, cốt truyện chặt chẽ và các nhân vật được xây dựng chân thực. Cô là một trong những nhà văn trinh thám nổi tiếng nhất hiện nay. Thông tin bổ sung Giải thưởng: Giải Agatha Christie dành cho tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014 cho "The Monogram Murders" Giải Barry dành cho tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014 *** “Tóm lại, tôi không ưa cô ta,” cô phục vụ có mái tóc bay bay thì thào nói. Đó là một tiếng thì thào lớn vì mọi khách trong quán cà phê Pleasant đều nghe thấy. Ông tự hỏi, trong trường hợp này, cô ta là một cô phục vụ nào khác hay là một khách thường xuyên giống như ông. “Mắc gì tôi phải ưa cô ta, đúng không nào? Cô nghĩ khác thì tùy cô.” “Tôi nghĩ cô ta cũng tốt mà,” cô phục vụ mặt tròn, thấp bé hơn cất tiếng, có vẻ kém tự tin hơn so với ít phút trước. “Khi lên cơn ngạo mạn thì cô ta mới thế. Lúc cái mặt vênh lên thì lưỡi cô ta mới nhỏ độc. Chẳng hay ho chút nào. Tôi biết hàng tá người kiểu đó – chớ bao giờ tin họ.” “Chị nói chẳng hay ho chút nào là ý sao?” cô mặt tròn hỏi. Hercule Poirot, người duy nhất đang dùng bữa trong quán cà phê vào lúc 7 giờ 30 phút tối ngày thứ năm, tháng 2, biết rõ cô phục vụ tóc bay bay muốn ngụ ý gì. Ông mỉm cười một mình. Đây không phải lần đầu cô đưa ra một quan sát sắc bén. “Nếu vô tình thốt ra lời gì đó gay gắt thì còn tha thứ được. Tôi không ngại thú nhận, chính tôi cũng thường thế. Nhưng tôi mà vui thì tôi muốn mọi người cùng vui. Thế mới phải chứ. Nhưng có những kẻ như cô ta, chuyện chẳng có gì mà cứ trầm trọng hóa lên. Đó chính là loại người cần phải tránh thật xa.” Bien vu, Tốt, Hercule Poirot nghĩ. De la vrai sagessepopulaire. Khôn ngoan đấy. Cửa quán chợt mở tung, bật cả vào bờ tường. Đứng ở lối vào là một phụ nữ trong bộ áo khoác nâu nhạt đội chiếc nón cũng màu nâu nhưng sậm hơn. Cô có mái tóc vàng hoe. Poirot không thấy khuôn mặt cô. Đầu cô đang ngoái ra sau như chờ ai đó theo vào. Vài giây cửa ngỏ cũng là đủ lâu để cái lạnh đêm hôm tước đi hết sự ấm áp của căn phòng nhỏ. Bình thường, việc đó sẽ khiến Poirot nổi cáu, nhưng ông đang quan tâm sự xuất hiện kịch tính của kẻ mới đến nên chẳng mấy để ý tác động mà cô ta gây ra. Ông ấp bàn tay lên tách cà phê, hy vọng giữ lại chút hơi ấm cho món uống của mình. Ngôi nhà nhỏ hẹp, tường xiêu vẹo tại khu vực Gregory’s Alley này của London dù chẳng phải sang trọng gì nhưng lại có món cà phê ngon nhất thế giới. Ông không hay uống cà phê trước và sau bữa tối – thật ra, một viễn cảnh như thế luôn khiến ông thấy gơm gớm trong hoành cảnh bình thường – nhưng vào mỗi thứ năm, khi đến Pleasant chính xác lúc 7 giờ 30 tối, ông đều ban cho mình một ngoại lệ. Giờ thì ông xem cái ngoại lệ hàng tuần này là một thứ truyền thống nho nhỏ. Những nề nếp khác của quán thì ông chẳng ưa mấy: cứ mỗi khi đến quán, ông lại thấy dao nĩa, khăn ăn và ly nước bày lung tung trên bàn và phải sắp chúng lại cho đúng vị trí. Rõ ràng các cô phục vụ luôn cho rằng các món đồ này nằm đâu đó – bất cứ đâu – cũng được. Poirot không chịu và luôn đòi hỏi tái lập lại trật tự mỗi khi ông đến. “Xin lỗi, cô làm ơn đóng cửa sau khi vào được không ạ?” Tóc Bay Bay gọi với ra người phụ nữ áo-nâu-nón-nâu đang nắm chặt khung cửa, mặt vẫn hướng ra đường. “Hoặc giả cô không vào cũng chẳng sao. Chúng tôi ở trong này không muốn bị lạnh cóng đâu ạ.” Người phụ nữ bước vào. Cô ta khép cửa lại, không hề tạ lỗi vì đã để ngỏ cửa quá lâu. Từ cuối phòng cũng nghe được hơi thở gấp của cô. Cô chừng như chẳng để ý sự hiện diện của mọi người. Poirot đón cô bằng một câu Chào cô nhỏ nhẹ. Cô khẽ xoay sang ông, nhưng không đáp lễ. Mắt cô mở lớn trong nỗi lo lắng bất thường, một nỗi lo đủ rõ ràng để người lạ có thể nắm bắt được như một thứ vật chất. Poirot không còn thấy tĩnh tại và hài lòng như mọi khi. Sự thanh bình của ông đã vỡ tan. Người phụ nữ lao vội đến cửa sổ, săm soi nhìn ra ngoài. Cô ta sẽ không thấy thứ muốn tìm, Poirot nghĩ. Nhìn vào màn đêm từ một căn phòng chiếu sáng tốt thì chẳng thể thấy gì nhiều khi mà kính cửa chỉ phản chiếu hình ảnh ở bên trong căn phòng. Thế mà cô ta vẫn đăm đăm nhìn ra ngoài hồi lâu, cứ như quyết chí muốn canh gác cả con đường. “Ồ, hóa ra là,” cô Tóc Bay Bay nói với một thoáng bực bội. “Có chuyện gì vậy? Cô gặp chuyện gì sao?” Người phụ nữ áo-khoác-nâu-mũ-nâu quay đầu lại. “Không, tôi…” Lời thốt ra như một tiếng thổn thức. Nhưng cô ta nén lại được. “Không. Tôi lấy chiếc bàn ở góc có được không?” Cô trỏ vào chiếc bàn ở xa cánh cửa nhất. “Trừ chỗ quý ông kia đang ngồi, cô muốn chọn đâu cũng được ạ. Các bàn đều trống cả.” Sực nhớ đến Poirot, Tóc Bay Bay vội bảo ông, “Bữa tối của ông đang được nấu, ngon lắm đấy ạ.” Poirot rất thích nghe câu này. Thức ăn ở Pleasant ngon chẳng kém cà phê. Thật ra, xét cả hai khoản này, Poirot thấy khó tin vào điều mà ông được biết: các đầu bếp ở đây đều là người Anh. Incroyable. Không thể tin nổi. Tóc Bay Bay quay sang người phụ nữ đang lo lắng. “Cô chắc là không sao chứ, Jennie? Trông cô cứ như vừa gặp phải ma quỷ ấy.” “Tôi không sao, cảm ơn. Tôi chỉ xin một tách trà nóng thật đặc, làm ơn nhé.” Jennie bước vội đến chiếc bàn ở góc xa, ngang qua Poirot mà không hề nhìn ông. Ông khẽ xoay ghế để có thể quan sát cô. Chắc chắn cô ta đang gặp chuyện, một chuyện mà cô rõ ràng không muốn nói với các cô phục vụ. Không cởi áo, cởi nón, cô ngồi xuống chiếc ghế trông ra đường, đấu lưng với cánh cửa. Chỉ xong đâu đấy cô mới ngoái lại, nhìn ra sau. Có cơ hội quan sát chi li hơn khuôn mặt cô, Poirot đoán cô trạc bốn mươi tuổi. Đôi mắt to xanh luôn mở lớn và không bao giờ chớp. Poirot nghĩ, đôi mắt ấy như đang nhìn một cảnh tượng gây sốc. Gặp phải ma quỷ, Tóc Bay Bay đã nhận xét như thế. Nhưng Poirot chẳng thấy cảnh tượng nào kinh khủng với Jennie cả, chỉ có căn phòng vuông vức với bàn ghế, chiếc tủ gỗ treo áo khoác và nón, cùng những chiếc kệ cong vênh, đỡ trọng lượng của rất nhiều ấm tách với màu sắc, hoa văn và kích cỡ khác nhau. Các kệ này chỉ nhìn thấy thôi là cũng đủ rùng mình! Poirot chẳng hiểu sao một chiếc kệ cong oằn lại không được thay ngay bằng một chiếc kệ phẳng phiu. Ông cũng không thể hiểu nổi vì sao người ta xếp nĩa lên chiếc bàn vuông mà lại không chịu đặt nó song song với cạnh bàn. Tuy vậy, không phải ai cũng suy nghĩ như Hercule Poirot và từ lâu ông đã chấp nhận điều đó, cả mặt thuận lợi lẫn bất lợi mà nó gây ra. Ngồi nhấp nhổm trên ghế, người phụ nữ – Jennie – đăm đăm nhìn ra cửa như chờ đợi ai đó xông vào bất cứ lúc nào. Cô đang run rẩy, chắc một phần vì lạnh. Không – Poirot đổi ý – hoàn toàn không vì lạnh. Quán đã ấm lại rồi. Do muốn canh chừng cánh cửa, Jennie ngồi quay mặt về phía đó, giữ khoảng cách tối đa, dấy là kết luận hợp lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Kỳ Án Dòng Chữ Tắtcủa tác giả Agatha Christie.
Cô Gái Thứ Ba
Cô gái một gia đình danh giá mất tích, nhiều kẻ khả nghi xung quanh cô bị nghi ngờ. Viên thám tử tư già trong quá trình tìm kiếm cô đã phát hiện ra những âm mưu khác. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Hercule Poirot ngồi trước bàn ăn sáng. Bên tay phải ông là tách chocolate nghi ngút khói, ông vốn hảo ngọt. Ăn kèm bánh mì brioche. Loại bánh mì này vốn rất hợp với chocolate. Ông gật gù ra chiều ưng ý. Đây là cửa hàng thứ tư mà ông thử mua loại bánh này. Một tiệm Đan Mạch nhưng bán bánh ngon hơn hẳn cái tiệm tự xưng là bánh Pháp gần đó. Ăn bánh hàng ấy cứ thấy như bị lừa. Ông cảm thấy rất hài lòng. Dạ dày của ông rất yên ổn. Tâm trí cũng bình an, có khi còn hơi quá an bình, ông đã hoàn thành Magnum Opus, bài phân tích về các nhà văn lớn chuyên dòng tiểu thuyết trinh thám, ông đã dám nhận xét khá gay gắt về Edgar Allen Poe, phàn nàn về sự thiếu vắng phương pháp lẫn quy củ trong những trang viết đầy xúc cảm của Wilkie Collins; đồng thời ca ngợi lên tận mây xanh hai tác giả người Mỹ hầu như chưa ai biết đến; và bằng nhiều cách khác nhau tỏ ý vinh danh khi cần thiết và nghiêm khắc khước từ trước những gì ông không thấy xứng đáng. Ông đã thấy bài này trên báo, đã nhìn qua kết quả và, ngoại trừ số lỗi sắp chữ nhiều tới mức đáng kinh ngạc, thì ông cho rằng nó khá hay. Ông thấy hài lòng với thành tích văn học này cũng như đã rất thích thú với việc phải đọc một lượng lớn các tác phẩm, thích thú cả những lúc phải rít lên ghê tởm mà quăng cuốn sách nào đó xuống sàn nhà (dù sau đó ông luôn nhớ đứng dậy, nhặt nó lên và vứt gọn gàng vào thùng đựng giấy phế liệu), và hẳn nhiên ông thích được gật đầu tán thưởng vào những dịp hiếm hoi khi việc tán dương là hoàn toàn hợp lý. Và bây giờ? Ông đã có một khoảng nghỉ ngơi dễ chịu, rất cần thiết sau những giờ lao động trí óc. Nhưng người ta không thể thư giãn mãi được, rồi cũng phải bắt tay vào việc tiếp theo. Thật không may là ông không có bất kỳ ý tưởng gì cho cái việc kế tiếp ấy cả. Thêm một vài thành tựu văn chương nữa chăng? Ông cho là không. Cứ nên làm một việc thật tốt và rồi sau đó đừng dính dáng đến nó nữa. Đó là châm ngôn của ông. Còn thành thực mà nói thì, ông đã thấy chán. Tất cả các hoạt động tinh thần căng thẳng mà ông đã ấp ủ và theo đuổi đã quá nhiều. Chúng đã khiến ông dính vào những thói quen xấu, và làm ông không thể nào ngơi nghỉ… Thật là phiền nhiễu! Ông lắc đầu và nhấp lấy một ngụm chocolate. Cánh cửa mở ra và người đầy tớ được huấn luyện bài bản của ông, George, bước vào. Anh tỏ vẻ cung kính và hơi có phần hối lỗi. Anh ho và thấp giọng báo, “Một…” anh dừng lại, “…một cô gái trẻ đến xin gặp ạ.” Poirot nhìn anh ngạc nhiên và tỏ vẻ không mấy hài lòng. “Tôi không tiếp khách vào giờ này kia mà,” ông trách. “Tôi biết, thưa ngài,” George nhũn nhặn. Chủ và tớ nhìn nhau. Việc trao đổi thông tin giữa họ đôi khi đầy khó khăn. Bằng ngữ điệu hay ám chỉ hoặc một cách chọn từ nhất định, George ngầm tỏ cho ông biết rằng ông có thể moi thêm thông tin gì đấy từ cậu nếu đặt đúng câu hỏi. Poirot ngẫm nghĩ xem trong trường hợp này thì nên hỏi thế nào mới khơi đúng mạch. “Cô gái trẻ này, cô ấy đẹp phải không?” Ông hỏi một cách thận trọng. “Theo mắt nhìn của tôi thì không, thưa ông, nhưng thị hiếu thì vốn không thể giải thích được.” Poirot xem xét câu trả lời của anh. Ông nhớ lại là George có hơi ngập ngừng trước khi nói mấy từ “cô gái trẻ”. George là một người tinh tế trong việc quan sát. Anh có vẻ không chắc chắn về thân phận của vị khách nhưng vẫn mạnh dạn dùng cái xưng hiệu ấy. “Cậu cho rằng đó là một quý cô trẻ tuổi, chứ không chỉ là, giả dụ như, một người trẻ tuổi thôi?” “Tôi nghĩ vậy, thưa ông, mặc dù ngày nay để biết chắc được việc này không phải lúc nào cũng dễ dàng.” George nói bằng giọng áy náy chân thành. “Cô ấy có nói lý do vì sao muốn gặp tôi không?” “Cô ấy có nói…” George phát âm các từ một cách miễn cưỡng, như muốn xin lỗi trước về những gì mình sắp nói, “rằng cô muốn tham khảo ý kiến của ông về một vụ giết người cô ấy có thể đã gây ra.” Hercule Poirot nhìn sững. Đôi hàng lông mày của ông nhướng lên. “Có thể đã gây ra? Cô ấy không biết chắc sao?” “Đó là những gì cô ấy nói, thưa ngài.” “Chưa phải nhiều, nhưng có thể sẽ thú vị đây,” Poirot nói. “Đây có thể… là một trò đùa, thưa ông,” George nói với vẻ ngờ vực. “Bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra, tôi cho là vậy,” Poirot thừa nhận, “nhưng mấy ai nghĩ…” ông nâng tách lên. “Hãy cho cô ta vào sau năm phút nữa.” “Vâng, thưa ngài.” George rút lui. Poirot uống xong ngụm chocolate cuối cùng, ông đẩy cốc sang bên rồi đứng dậy. Ông bước đến lò sưởi và chỉnh lại hàng ria mép một cách cẩn thận qua tấm gương được đặt phía bên trên. Cảm thấy hài lòng, ông trở lại ghế của mình và chờ đợi sự xuất hiện của vị khách, ông không biết chính xác rằng mình mong thấy điều gì… Ông đã hy vọng cô gái này có nét gì đó gần với tiêu chuẩn của ông về sự hấp dẫn của nữ giới. Cụm sáo ngữ “vẻ đẹp trong đau khổ” bật ra trong suy nghĩ của ông. Để rồi ông thất vọng khi George trở lại và dẫn theo vị khách; trong thâm tâm ông lắc đầu và thở dài. Không có vẻ đẹp nào cả - và không có nét đau khổ rõ rệt nào cả. Lúng túng và bối rối thì phải hơn. “Chà!” Poirot ngao ngán. Mấy cô này! Họ thậm chí không buồn cố gắng để làm mình trông được mắt hơn sao? Trang điểm đẹp, ăn mặc hấp dẫn, làm tóc bởi tay thợ tốt, thì có thể cô ấy sẽ trông không đến nỗi. Nhưng nhìn xem cô ấy bây giờ! Vị khách của ông là một cô gái có lẽ khoảng ngoài hai mươi. Mái tóc rối dài nhìn không ra màu gì xõa trên vai. Đôi mắt to xanh ánh sắc lục không biểu lộ bất kỳ điều gì. Cô đang khoác trên người thứ quần áo được xem là hợp thời với những người thuộc thế hệ của cô. Giày ống da cao màu đen, bít tất len màu trắng in họa tiết, không rõ có sạch hay không, một chiếc váy thiếu vải, và một chiếc áo chui đầu dài bằng len dày trông luộm thuộm. Bất cứ ai cùng tuổi tác và thế hệ của Poirot cũng sẽ chỉ có một mong muốn. Đó là thả cô gái này vào một bồn tắm càng sớm càng tốt. Ông thường có phản ứng kiểu thế khi đi bộ trên phố. Có hàng trăm cô gái trông giống y như nhau. Tất cả đều trông bân bẩn. Tuy vậy - nghe thì mâu thuẫn - cô gái này lại trông như vừa bị dấn nước và được lôi lên khỏi một con sông. Những cô gái như thế này, ông ngẫm nghĩ, có lẽ không thực sự bẩn thỉu đâu. Họ chỉ là đã mất rất nhiều công sức khó nhọc để trông được như vậy. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Thứ Bacủa tác giả Agatha Christie.