Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mưa Trên Cây Sầu Đông - Nhã Ca

Cây sầu đông không biết có phải là một loại cây đặc biệt ở Huế không, tôi nghe người Bắc gọi là cây Xoan, người Huế gọi là Sầu đông, Thầu đâu hay có khi gọi Sầu đâu. Thân cây cao, có nhiều cành màu đen, khô, lá cây có khứa, nối chùm bằng những cọng nhỏ, hoa nhỏ, có cánh li ti màu tím nhạt, nhụy tím thẩm. Ở gốc cây, nếu bị vết sứt thường chảy ra một thứ nhựa trong màu vàng, có thể dùng để dán được. Bây giờ Huế đã đổ nát, đã tang thương. Tôi viết lại câu chuyện này để cùng những người bạn cũ và những cây sầu đông của Huế còn sống sót, nhớ tới một thành phố êm đềm thơ mộng cũ, những ngày cũ, với những giọt mưa rơi từ trên cây sầu đông. Sài Gòn năm 1968 *** Ánh mặt trời sau một mùa đông dài lẩn trốn, hôm nay hiện ra thật lộng lẫy. Hiện ra trên những mái ngói sạch bóng, trên những vườn cây xanh, hiện ra trên chiếc sân rộng giăng những hàng giây thép song song từ bờ rào đến miệng giếng, trên những hàng giây thép, những áo màu bay lay lắc đẩy đưa theo làn gió xuân nhẹ. Trước thềm nhà đặt đầy những chậu hoa thược dược, thằng Rọm đang ngồi lui cui thay mấy cây đại thọ vừa bị cắt bông để đem cắm vào bàn thờ buổi tối hôm trước. Sáng nay, có chị đàn bà gánh hoa từ trên Long Thọ xuống đi ngang qua nhà thật sớm, thằng Rọm đã gọi vào mua để thay thế những chậu cây cũ. Con Bông đang chạy ven bờ chè tàu, nhón gót hái những sợi tơ hồng non mướt đang giăng mắc trên bờ chưa ráo sương ướt. Ngoài ngõ có tiếng chuông xa xích lô bấm cong cong, thằmg Rọm dơ hai tay bẩn chùi vào đít quần rồi đứng dậy, lật đật đi ra cửa. - Ai? Thằng Đậu hở? Chi rứa? - Nì, xe cái bình sành ni vô. Bên cửa hàng bà biểu chở về đó. Thằng Rọm lạch bạch phụ với anh Đậu xính lô khiêng cái bình sành có hình nổi rồng phượng vô sân. Khi cái bình sành đặt nơi mái hiên rồi, anh Đậu xích lô hỏi thằng Rọm: - Răng, bà đem chậu sành về mần chi rứa. Thằng Rọm ngước mắt nhìn anh Đậu xích lô, nhăn mặt: - Chắc đám cưới bà đó, bà đem về chưng. Anh Đậu trợn mắt: - Nói thiệt hay nói chơi. Bà Phúc Lợi lấy chồng? Lấy ai rứa? - Lấy một người đàn ông. - Cái ông nị kỳ cục, ai giỡn, hỏi thiệt mà. - Thì tui cũng nói thiệt. Răng mà các người tò mò quá. Hỏi mần chi. Hỏi để đi ra bán cho cả làng cả nước biết hỉ? Anh Đậu dơ tay bịt miệng, vẻ hốt hoảng: - Bậy nờ, nhà bà từ lâu phúc đức, ai dám nói xấu. Hôm trước con vợ tui... Anh Đậu lại đưa tay che miệng. Nhưng thằng Rọm cười: - Vợ anh nghe chuyện nhà ni chớ chi? Thiệt tao nói cho mi biết con chó ăn cứt mà thơm, người ta ăn cơm mà thúi... Rồi không đợi anh Đậu nói thêm lời nào, thằng Rọm trở ra mấy chậu cây bông thọ đang trồng dở, ngồi xuống. Anh Đậu đội chiếc nón xích lô rách lên đi ra cổng: - Thôi tui về nghe. Thằng Rọm không trả lời. Nó bận bắt một con sâu màu xanh bám trên lá cây vạn thọ. Nó lấy hai ngón tay bóp con sâu nát bét rồi chùi lên quần. Khi đã trồng hết mấy cây bông, thằng Rọm lại lúi cúi tìm sâu tiếp tục bắt. Nó lượm được mấy con nữa, nó đặt trong vòng tay và cầm chặt lại. Thằng Rọm mãi tìm sâu không để ý đến Tỷ Muội mở cổng rào đi vào. Khi tới gần, thằng Rọm thấy bóng quần trắng loáng thoáng, nó mới ngẩng lên: - A, mi qua đó há? - Mần chi rứa ông thằng Rọm. Thằng Rọm phì cười: - Con ni hay hí? Kêu chi lạ rứa. Nhưng Tỷ Muội không để ý lời nói của thằng Rọm, nó chăm chú nhìn vào bàn tay thằng Rọm đang nắm chặt: - Cầm cái chi rứa. - Ni. Thằng Rọm dơ bàn tay lên rồi mở ra. Tỷ Muội kêu thét lên rồi lùi lại một bước. Trong lúc bàn tay thằng Rọm đầy sâu xanh, có con nằm ngay đơ, có con còn ngúc ngoắc muốn bò. Thấy mặt Tỷ Muội tái xanh, thằng Rọm dọa: - Sợ không? - Sợ, sợ ông thằng Rọm ơi, đừng dọa tui... tội tôi mà. Thằng Rọm cười xoà rồi bóp mạnh tay cho đám sâu bẹp dúm hẳn, lượm miếng lá chuối có rễ vạn thọ rũ sạch đất lau tay. Tỷ Muội đã hết sợ, nó hỏi: - Có ai ở nhà không? - Ai? - Ai nữa. Thằng Rọm cười: - Đang nằm trong buồng. Chắc ngủ chưa dậy. - Con quỷ ngủ dữ ác. Tỷ Muội bỏ thằng Rọm chạy vào nhà. Nó chạm phải bàn thờ bà ngoại của Đông Nghi, mấy cây đèn cầy sáp đang cháy dở và mùi nhang thơm nồng. Tỷ Muội nhìn lên tấm ảnh người đàn bà già, rồi chạy tuột vào một căn buồng nhỏ. - Nghi, Nghi. Ngủ chi dữ rứa. Tỷ Muội thấy Đông Nghi nằm trong giường, mùng màn chưa cuốn. Nó vén mùng chui tọt vào ngồi bên bạn. - Dậy, Nghi. Dậy nói chuyện ni cho nghe. Đông Nghi quay lại, mắt tỉnh khô. Nghi đâu có ngủ, nàng đã thức dậy từ lúc sáng sớm nhưng lười biếng nằm dài đó thôi. Nghe Tỷ Muội nói có chuyện Đông Nghi thở ra: - Nghe chuyện tao chưa đủ răng nghe chuyện người ta nữa? Tỷ Muội tiu nghỉu. Nó nhìn ra vườn, Đông Nghi ngủ mà không đóng cửa sổ. Nó nghe tiếng chim hót ngoài vườn và có tiếng cành lá lay động nữa. Nó hỏi bạn: - Đã móc võng lại chưa? - Rồi. - Ra vườn chơi đi. - Ừ, ra trước đi, đợi tao đi xúc miệng rửa mặt một chút. Đông Nghi nhảy ra khỏi giường, Tỷ Muội không đi mà ngồi đợi nơi chiếc ghế nhỏ. Nó thấy trên bàn của Đông Nghi những tờ giáy vẻ nhăng nhít còn bừa bãi. Trên bàn có thêm một đồ chơi mới, một con búp bê tóc vàng, chân dính vào một cái bục tròn, khi Tỷ Muội xoay, nó nghe thấy một điệu nhạc thật êm đềm. Một lát sau hai cô bạn đã ra ngoài vườn. Chiếc võng đã được giăng ra ở giữa cây sầu đông và cây hồng bì. Cây khế ngọt bị lẻ loi, Tỷ Muội nghĩ thế, và trước khi ngồi lên võng, nó vỗ vào thân cây khế và hái một đọt lá khế con cho vào miệng nhấm: - Lá non ngọt rứa thê mi ơi. Rồi nó nhìn quanh vườn: - Mau quá, mới đó mà mùa Xuân rồi. Đông Nghi im lặng. Mắt nàng nhìn mông lung vào những tàn cây xanh, những đọt lá non, những chồi đang hé. Ngày nào những giọt mưa trên cây sầu đông đã rụng xuống, vậy mà bây giờ, trên những cành khô, lá non đã xanh tươi, vẻ dửng dưng không nhớ nhung. Chính mình cũng đã quên hết rồi răng? Những điều đã nguôi ngoai thì quả là thật đúng. Tỷ Muội chợt nhìn thấy vẻ u buồn trên mặt bạn, nó lại tươi cười: - Nghi, đừng có khóc nghe. Đông Nghi mỉm cười choàng tay qua vai bạn. Nàng cảm thấy thương bạn ghê gớm. Tỷ Muội thật dễ thương, nó cũng bằng tuổi Nghi mà nó vô tư sung sướng quá. Đông Nghi nhìn khu vườn, hôm nay vườn cây đã mang một bộ mặt mới lạ hẳn. Những ngày mùa đông mưa mù trời đất như đã chìm vào giấc mộng xa xưa nào. Và Đông Nghi cũng thấy mình nhớn hẳn. Tay Nghi vẫn choàng qua vai Tỷ Muội. Tỷ Muội nép vào vai bạn: - Nghi nghỉ học luôn thiệt há? - Ừ. - Tụi nó nói Nghi đau Nghi nghỉ vài ngày. Đông Nghi cười, mắt mơ màng nhìn lên đọt cây: - Cô giáo có nhắc gì Nghi không? - Có, mấy cô hỏi thăm Nghi đau ra răng. - Mình có đau ốm chi mô. Tỷ Muội buồn bã: - Rứa là từ nay Muội đi học một mình. Đông Nghi nhìn vào mắt bạn, thấy mắt Tỷ Muội như rưng rưng sắp khóc. Đông Nghi cũng muốn khóc theo: - Thiệt mình không biết mần răng để cựa quậy nữa Muội ơi. - Răng chừ làm đám cưới. - Chắc vài tuần. - May áo mới chưa? - Tuần trước ba tui đi Saigon mua mười mấy chiếc áo dài, chưa kể áo cưới họ may. Tỷ Muội ngồi ngẩn ngơ. Đông Nghi cười lớn vỗ vào vai bạn: - Mi nghĩ là tao bằng lòng lấy thằng Khanh vì lẽ chi? - Mạ mi ép buộc chớ chi. - Không phải, vì tiếng đàn ghi ta của hắn, mùa xuân hắn đàn trở lại tao nghe và mê luôn. - Mê chi rứa? Đông Nghi ghé vào tai bạn: - Hắn có mùi hôi nách giống như con chi đó ở trường. Dù răng hắn cũng có mùi vị đặc biệt. Nói xong Đông Nghi rũ ra cười. Tỷ Muội cười theo nhưng thấy Đông Nghi vừa cười vừa chảy nước mắt ràn rụa, nó ôm chầm lấy bạn: - Nghi, Nghi đừng khóc. Đông Nghi đưa tay chùi nước mắt, vẫn chưa thôi cười: - Không, không, tao mô có khóc. Mi biết không? Khi tao đi lấy chồng mạ tao khóc, ông Bồ Đào khóc, thằng Rọm khóc, cây sầu đông khóc. Rồi không dừng được nữa, Đông Nghi òa khóc thật. Nàng ngồi im, nước mắt chảy như mưa lăn trên mặt lá cây. Tỷ Muội hốt hoảng định dỗ bạn, nhưng rồi nó cũng mũi lòng khóc theo bạn. Khóc một lúc, Đông Nghi nín hẳn. Như sau cơn mưa, cây cối sạch sẽ láng bóng, mặt của Đông Nghi trông rạng rỡ hẳn. Nàng nhìn cây sầu đông, những búp hoa như sắp bung nở. Không còn chi giống cảnh cũ nữa, sao mình vẫn còn đau lòng chuyện cũ? Đông Nghi ngơ ngác hỏi lòng mình, rồi nàng cầm tay bạn: - Hồi nớ Tỷ Muội nói chuyện chi lạ? - Chuyện con Trà. - Hắn mần răng? - Con Trà chửa hoang. Đông Nghi trợn mắt, bấu chặt vai bạn: - Thiệt không? - Thì nó nghỉ học cả tuần rồi, tụi nó đồn rầm rầm... Đông Nghi tự dưng mỉm cười. Thôi câu chuyện dành cho thành phố Huế đã ngã sang kẻ khác. Như vậy là Nghi thoát nạn. Nghi đứng dậy vươn vai, nhưng Tỷ Muội kéo bạn ngồi xuống. - Răng, chừ mi có muốn làm nổ thành phố Huế nữa không? Đông Nghi nhìn quanh khu vườn, mắt mơ màng: - Nổ à? Nó chưa nổ thì không trước thì sau nó sẽ nổ, nhưng tao không làm điều đó nữa. - Nếu nó nổ đi có tiếc không? - Tao thích Huế cứ như rì mãi. - Đồ mâu thuẫn. Đông Nghi hiền lành mỉm cười. Tỷ Muội đứng dậy, kéo tay bạn: - Đi vô đi, mình về. - Về mần chi? - Về học bài chớ. Bà quên tui còn đi học nữa. - Ừ hỉ. Đông Nghi thả tay bạn. Nàng đứng thẫn thờ, mình thì hết nữ sinh rồi. Hết nữ sinh thì mần răng làm nổ thành phố? Đông Nghi buồn bã: - Thôi mi về đi. - Không đưa tao vô hỉ? - Thôi Muội về học bài đi. Tỷ Muội cười và bỏ chạy, Nghi nói: - Mai rảnh đi đo áo mới với mình nghe. Hứa làm phù dâu thì phải diện nghe. - Dị òm. Tỷ Muội nói xong đã khuất sau những hàng cây. Còn một mình, Đông Nghi đi tới nơi cây sầu đông, nàng dựa vào thân cây mắt nhìn lên ngọn. Qua những cành cây xương xẩu và những tàu lá non mát, bầu trời xanh ngắt với những đám mây trắng nõn hiện ra. Những đám mây không bay mà đứng sửng, Đông Nghi bỗng thở dài, nàng đưa móng tay cào cào vào thân cây, bóc một mảng vỏ lớn. Đông Nghi nhớ lại thời còn thơ ấu, nàng hay lấy dao cạo thân cây để sáng ra thấy mủ sầu đông chảy ra, đọng thành những hình thù vàng trong xinh xắn. Đông Nghi đi tới một luống hoa, nàng hái một bông vạn thọ chà nát trong lòng tay. Mùi hoa vạn thọ hăng hắc, ngon ngọt làm Đông Nghi choáng váng. Hoa vạn thọ nhiều nhất là mùa Xuân, mỗi mùa Xuân mới có, và nó mới khoe đầy đủ hương sắc. Như cây sầu đông, mùa đông mới có mưa và có giọt lệ của chàng. Tuấn ơi, chừ anh đang ở đâu? Đang làm gì? Những ngày ở Huế chóng vánh nhưng có đủ kỷ niệm để chàng nuôi nhớ suốt đời không? Nhưng Nghi, Nghi sẽ nhớ suốt đời. Con gái Huế lãng mạn lắm, dữ dội lắm, vậy mà thành trì thành kiến vẫn vây chặt được. Năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, nếu không mọc cánh bay được một lần thì phải bán nắm xương tàn cho sông Hương núi Ngự. Đông Nghi cắn môi, nàng muốn khóc nhưng không thể khóc thêm được nữa. Bây giờ là mùa Xuân, mùa Đông chưa tới để mang những giọt lệ cho nàng. Nghĩ đến Tuấn, tim Đông Nghi đau nhói. Nàng ôm lấy ngực, mắt Đông Nghi hoa lên, rồi bao nhiêu cây cối như vừa quay ngược trước mắt nàng, Đông Nghi cố gượng chạy vào nhà. Vào tới sân, chân Đông Nghi vấp mạnh, rồi nàng lảo đảo muốn té. Đông Nghi lại gượng được, nàng mở bừng mắt, thằng Rọm như vừa ngã té xuống đất và đang lòm còm ngồi dậy. Hắn nạt: - Đi mô như bị ma đuổi rứa, khỉ. Đông Nghi khựng lại, nhưng rồi thấy dáng điệu của thằng Rọm, Đông Nghi không nín cười được, nàng cười phì. Thằng Rọm lại trợn mắt: - Cười nữa há. Ô cha, cái con ni cười chi lạ rứa hỉ? Đông Nghi đỡ thằng Rọm dậy: - Xin lỗi nghe. Rồi nàng mân mê mấy đóa hoa vạn thọ, màu vàng thẩm như ánh mặt trời ban mai chao nhẹ trong lòng nàng những nhớ nhung thơ ấu, màu vàng cũng nhắc nhở tấm lòng phụ bạc của nàng. Nghi chẳng phụ Tuấn là gì? Hình ảnh Tuấn chơ vơ giữa sân ga trống, mắt dõi theo chiếc xe cũ kỷ màu đen láng và bước chân chao hụt của chàng. Như thế là hết. Những lá thư ở xa gửi về không bao giờ Đông Nghi được đọc. Thằng Rọm thấy Nghi đang cười bỗng nhiên đăm chiêu, hắn gạt tay Nghi ra khỏi chậu hoa vạn thọ: - Ê, thả tay ra, gãy hết chừ. Đông Nghi chụm tay thằng Rọm. Rọm để yên bàn tay đen đủi của hắn trong tay Nghi nhìn chăm chăm rồi cười: - Ni lớn tồng ngồng rồi, sắp có chồng rồi, cứ làm như con nít con na. Rồi Rọm chỉ cái bình bằng sứ: - Mạ đem về bữa mô làm đám cưới đó tề. Không nghe Đông Nghi nói gì, thằng Rọm ngước nhìn lên, thấy hai giọt lệ đang lăn dài xuống má nàng. Thằng Rọm kêu: Nghi, răng khóc. Đông Nghi đã bỏ chạy vào nhà cánh cửa đóng lại. Buổi trưa hôm đó, Đông Nghi không ăn cơm, nàng khóc âm thầm một mình rồi ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy trời đã chiều. Đông Nghi nghe tiếng ông Bồ Đào nói chuyện với thằng Rọm ở nhà ngoài. Lát sau nàng đi ra, ông Bồ Đào nói: - Mặc áo đi con. Sang bên nớ mạ rồi ba chở đi thử áo hỉ. Đông Nghi ngoan ngoãn rửa mặt, thay áo. Buổi tối hôm đó, đi thử áo dài xong, Đông Nghi với mẹ và ông Bồ Đào đi ăn phở ở vườn hoa Nguyễn Hoàng. Nhìn qua bên kia sông, vườn hoa trước trường Đồng Khánh tối om, chỉ thấy lờ mờ vài đọt dừa cao và những cột điện nhấp nháy sáng sát mặt đường. Thấy cảnh cũ, Đông Nghi lại muốn khóc, nhưng nàng cố che bằng nụ cười, nàng hỏi mẹ: - Đám cưới con mạ có may áo mới không? Bà Phúc Lợi cười, đưa tay vuốt tóc con gái: - Có chớ, mạ may áo gấm đẹp lắm. Rồi bà nhìn ra mặt sông, giọng mơ màng: - Mặc áo mới chắc hôm đó mạ thấy vui lắm. Lâu lắm mạ không còn biết vui khi mặc áo mới nữa. Đông Nghi cúi đầu. Khi đưa đám ma người ta cũng mặc áo mới. Khi bà ngoại chết Nghi cũng có áo mới. Trong đời ta còn bao nhiêu áo mới nữa, sá chi cái cáo mới ngày cưới. Đông Nghi lặng lẽ ăn. Ông Bồ Đào ân cần: - Con thích đi Saigon không, ba cho đi vài ngày trước đám cưới. Mộtánh sáng loé ra trong đầu Nghi. Nhưng rồi tia sáng đó cũng tắt ngấm rất nhanh. Đông Nghi lắc đầu: - Con không muốn xa Huế nữa. Câu nói của Nghi làm cho ông Bồ Đào nhìn bà Phúc Lợi cười đầy ý nghĩa. Nhưng Nghi không nghĩ như họ, nếu lần này được xa Huế không bao giờ nàng còn trở lại nữa. Nghi biết Nghi cũng không còn can đảm dứt bỏ Huế khi không có Tuấn bên cạnh. Căn nhà giam thành kiến ở trong mọt thành phố đầy thành trì miệng tiếng, khu vườn nhốt tuổi thơ, rồi cây nhãn cây hoàng lan, cây bại hoại. Thôi ngoại ơi, con ở lại đây để hái hoa bại hoại cúng ngoại hỉ? Nhưng giá đám cưới muộn hơn để mùa hè này Nghi còn được tắm sông với Tỷ Muội, đi biển với Tỷ Muội hay hai đứa đánh thẻ, chơi ô làng bên Đò Cồn bẻ bắp nướng ăn. Thôi, mơ ước chi nữa, bầu trời con gái đã sụp đổ, tình yêu đã sụp đổ. Mười phương cũng đã hết chín phương, còn một đi lấy chồng. Đông Nghi nhìn mẹ, nhìn ông Bồ Đào, tại sao hai người không là vợ chồng được. Thành kiến, miệng tiếng đã chia rẽ mẹ, và mẹ lại tiếp tục đổ lên đầu con. Ta ở đây, mai một đẻ con đẻ cái, ta lại tiếp tục giữ trọn cái nề nếp cho cái nhà, cái vườn, ta sẽ thành bà mẹ khắt khe như mạ. Nhưng mạ tiếp tục sống như rứa mạ sẽ làm nổ tung thành phố đó. Nếu một mai bà vợ ông Bồ Đào nổi nơi tam bành. Nhưng Đông Nghi yên trí ngay, thành phố này là nơi mang tiếng trong nhà chưa rõ ngoài ngõ đã hay, không lý gì chuyện mẹ và ông Bồ Đào dấu kín mãi được. Nhưng nàng không đủ sức để tìm hiểu chuyện ai nữa, dù kẻ đó là mẹ nàng. Gió ở bờ sông thổi lên mát rượi, Đông Nghi nhớ lại đêm nào ngồi với Tuấn nơi ghế đá bên kia sông. Tóc nàng bay vào mặt chàng, hơi thở chàng phà ấm bên tai. Đông Nghi bỗng thấy nàng cô đơn, trống vắng như một kẻ đi xa trở về quê cũ vẫn còn nguyên từng ấy cảnh vật, nhưng sự xúc động xưa cũ đã chết mất rồi. Buổi tối hôm đó, ông Bồ Đào với mẹ lại bày bàn ra ngồi ở góc sân, nơi cây nhãn. Cũng người xưa cảnh cũ, bụi hoa nhài tỏa hương thơm nức. Và bà Phúc Lợi kêu, giọng ngọt ngào: - Nghi ơi, lấy nước trà ra cho mạ. Đông Nghi bưng nước trà ra, hương hoa nhài vẫn ngây ngất và nàng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn: Thì ra có gì thay đổi mô? Có chi mô, Đông Nghi đặt hai tách nước trà xuống bàn, nhưng mạ không bắt đứng quạt nữa. Nàng đi vào phòng mở cửa sổ. Song cửa ngắn đã được tháo ra và thay bằng song cửa mới, Đông Nghi không trông thấy gì ở ngoài vườn hết. Nhưng khi nàng đứng yên, tưởng tượng, nàng có cảm tưởng như những giọt nước đang rơi lốp bốp ngoài kia, không biết có phải phía ở cây sầu đông không. Mùa đông qua rồi. Nghi ơi, đợi ta với mùa đông nghe. Bao nhiêu nước mưa sẽ là nước mắt, và ta sẽ khóc với người. Nhưng cũng chả can gì hết, chả chết ai hết. Mùa Xuân cũng sẽ trở lại. Đông Nghi lục lọi tìm xấp thơ của Tuấn. Nàng để giữa phòng và châm lửa đốt. Ngọn lửa bùng lên soi rõ khuôn mặt của Đông Nghi với hai mắt mở lớn, khô lệ.   Mời các bạn đón đọc Mưa Trên Cây Sầu Đông của tác giả Nhã Ca.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Mẹ - Pearl S. Buck
Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Mời các bạn đón đọc Người Mẹ của tác giả Pearl S. Buck.
Ngài Đại Tá Chờ Thư - Gabriel García Márquez
G. Garcia Marquez  nói : Trên thực tế mỗi nhà văn chỉ viết có một cuốn sách. Cuốn sách tôi đang viết là cuốn sách nói về cái cô đơn.  Trong tác phẩm của ông, cái cô đơn được biểu hiện như là mặt trái của sự đoàn kết, như là sự tách mình khỏi cộng đồng xã hội của con người, hay nói khác đi, đó là những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ của con người trong xã hội tư bản. Đó là những típ người đã tha hoá xuống hạng người - thú, người - công cụ - những loại người ở mức dưới Người...  *** Gabriel Garcia Márquez (sinh năm 1927) tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Columbia, ông là nhà văn nổi tiếng người Colombia. Ngoài viết văn ông còn là một nhà báo và một nhà hoạt động chính trị. Ông được biết đến với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả, Mùa thu của vị trưởng lão, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Trăm năm cô đơn... Gabriel Garcia Márquez sinh ra và lớn lên tại một gia đình trung lưu gồm 11 người con và ông là anh cả. Những năm đầu tiên học tại đại học Quốc gia Colombia Márquez đã bắt đầu tham gia viết báo và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Sau khi học được năm kỳ, ông quyết định bỏ học rồi chuyển về Barranquilla thực sự bước vào nghề báo và viết tiểu quyết đầu tay La hojarasca (Bão lá). Trong năm 1955, ông tới Thụy Sỹ làm đặc phái viên của tờ El Espectador. Sau đó qua Ý học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang Paris sinh sống trong điều kiện vật chất vô cùng khó khăn. Trong thời gian này ông viết cuốn tiểu thuyết La mala hora (giờ xấu), đồng thời tách từ cuốn này viết nên El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư). Năm 1982 ông nhận giải Nobel văn học cho những cống hiến của mình. Sau đó ông vẫn tiếp tục sáng tác và có nhiều tác phẩm giá trị, ngày càng khẳng định được tên tuổi trên văn đàn thế giới. *** Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: - Ký sự về một cái chết đã được báo trước (tiểu thuyết), Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983. - Ngài đại tá chờ thư (tập truyện), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983; 2001. - Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hải Phòng - NXB Đồng Nai, 1987. - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Thanh Niên, 1989; NXB Văn Học, 2001. - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1990; NXB Hội Nhà Văn, 1999.  - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1995; NXB Văn Học, 2004. - Tình yêu thời thổ tả (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1995; 2000. - Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986; 1992; 1999; 2000. - 36 truyện đặc sắc (tập truyện ngắn), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2001. - Tin tức về một vụ bắt cóc (tiểu thuyết), Đoàn Đình Ca dịch, NXB Đà Nẵng, 1998; NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001. - Những người hành hương kì lạ (tập truyện ngắn), Phan Quang Định dịch, NXB Thanh Niên, 2002. - Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2004. - Sống để kể lại (hồi kí), Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005. - Ông già và đôi cánh khổng lồ, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NX B Quân Đội Nhân Dân, 1998; Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Làng này không có kẻ trộm, Quà Tết, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Dấu máu em trên tuyết (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1997. - Máy bay của người đẹp ngủ, Gió Bắc, Mùa hè hạnh phúc của bà Phorớt, Thánh bà, Người bạn Mutit của tôi, Thưa Tổng thống - chúc ngài thượng lộ bình an, Dấu máu em trên tuyết, Nguyễn Trung Đức dịch; Giấc ngủ trưa ngày thứ ba, Nguyễn Kim Thạch dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong cuốn Thời cơ của Matraga, NXB Mũi Cà Mau, 1986; Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Buổi chiều tuyệt vời của Bantaxa, Dương Tường dịch; Thần chết thường ẩn sau ái tình, Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999. - Biển của thời đã mất, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999; Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Bà Maria Dos Przeres, Đoàn Đình Ca dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000. - Đôi mắt chó xanh, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Thần chết thường ẩn sau ái tình, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004. *** Êrênhđira đang tắm cho bà nội thì cơn gió bất hạnh của đời cô cũng bắt đầu nổi lên. Căn nhà khổng lồ, tường đã lở vôi, vốn đã xiêu vẹo trong cảnh cô đơn của hoang mạc, rùng mình ngay từ cơn gió giật đầu tiên. Nhưng Êrênhđira và người bà đã quen với những nguy hiểm của thiên nhiên hung bạo ấy, cho nên cả hai người, đang ở trong buồng tắm, cái buồng tắm được trang trí bằng những chiếc lông công bện lại và bằng những bức khảm nổi thường dùng trong các nhà tắm thời các Hoàng đế Xêda – hầu như không nhận ra được sức gió mạnh tới mức nào.   Bà già, trần truồng và khổng lồ như một con cá voi, nằm trong chậu tắm bằng đá hoa cương. Cô cháu vừa xấp xỉ tuổi mười bốn, dáng người mảnh khảnh và quá ngây thơ so với tuổi của mình. Với cử động thong thả mang vẻ kính cẩn, cô cháu tắm cho bà mình bằng thứ nước lá thơm mà cứ mỗi bận dội nước xong, lá bám vào cái lưng nần nẫn, lá bám vào mái tóc ngã màu cước, lá bám trên đôi vai vạm vỡ có xăm hình nhăng nhít với vẻ giễu cợt của các thủy thủ.   - Đêm qua bà nằm mơ thấy mình đang chờ thư – người bà nói.   Êrênhđira, vốn chỉ nói khi thật cần thiết, hỏi bà:   - Bà nằm mơ vào hôm nào cơ?   - Vào ngày thứ Năm!   - Vậy là một lá thư buồn bã ạ! Nhưng có lẽ không khi nào nó tới, bà đừng lo!   Khi tắm xong cho bà già, cô cháu dắt bà mình vào phòng riêng. Bà già béo ục ịch tới mức mỗi bận đi lại bà phải vịn vào vai cô cháu hay chống một cái ba-toong giống hệt cây gậy của Đức giáo chủ. Nhưng trong những cử chỉ nặng nề ấy của bà già, người ta vẫn nhận ra cái vẻ oai phong của lối sống vương giả đã hết thời. Trong căn phòng bày biện có phần hơi bừa bãi y hệt sự bày biện trong toàn căn nhà, Êrênhđira phải mất hai giờ liền mới trang điểm xong cho bà nội mình. Trước tiên cô cháu gỡ từng sợi tóc một, xức nước hoa và chải mượt mái tóc cho bà sau đó mặc cho bà bộ váy hoa sặc sỡ. Cuối cùng cô tô điểm cho bà: thoa phấn da mặt, tô môi son, đánh má hồng, tô móng tay. Khi trang điểm xong cho bà mình như trang điểm cho con búp bê có cỡ người thực, Êrênhđira dẫn bà ra vườn hoa, cái vườn hoa nở toàn hoa sặc sỡ y hệt màu hoa trên váy áo bà, rồi để bà ngồi trên chiếc ghế có tay dựa y như chiếc ngai vàng của các đấng Quân vương, một mình lặng lẽ nghe đĩa hát. ... Mời các bạn đón đọc Ngài Đại Tá Chờ Thư của tác giả Gabriel García Márquez.
Narcisse và Goldmund - Hermann Hesse
Tập tu ở tu viện Mariabronn, Narcisse nổi bật bởi năng lực trí tuệ và văn hoá của mình. Người ta giao phó cho thầy cậu học sinh Goldmund mà thân sinh cậu ta muốn định phận làm một tu sĩ: để chuộc tội cho cuộc sống xáo động trong quá khứ của thân mẫu cậu. Narcisse kết bạn với chú em thông minh ấy. Thầy cảm nhận khuynh hướng của cậu không phải ở tu viện, và giúp cậu chọn con đường đi. Từ ấy, Goldmund lao vào sống lang thang: trải qua các cuộc phiêu lưu tình ái, cậu tha thiết bắt gặp được tiện mạo lý tưởng của người phụ nữ "Êva vĩnh cửu", gương mặt thần tượng có thể thay cho thân mẫu cậu đã qua đời. Goldmund trải qua mọi nỗi gian truân, phạm nhiều lỗi lầm trong cuộc sống nay đây mai đó. Không phải Goldmund không ý thức về bản ngã, các điều đối lập nhau trong tâm hồn và xúc cảm của mình. Trong một giờ khắc suy tư tỉnh táo và sâu lắng, cậu quyết định trở thành một nhà điêu khắc: nghệ thuật là phương sách để tìm cái đẹp. Tuy vậy, cậu lại ra đi, cuốn hút theo cuộc sống lang thang... Narcisse và Goldmand kết thân với nhau; tư chất, lối sống, số phận của họ khác nhau, nhưng họ có những điểm gặp để hiểu và yêu quý nhau, để bổ sung cho nhau, khi còn trẻ cũng như về sau này.  *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** M ùa hè trôi qua, hoa phù dung, cúc lam, hoa cây đen và cúc sao tàn rơi, ếch nhái trong ao im tiếng, lũ cò bay lên cao, chuẩn bị ra đi. Bấy giờ Goldmund lại trở về. Một chiều mù sương, cậu trở về, không vào tu viện mà đi thẳng đến cổng vào gian xưởng của mình. Cậu đi bộ, không có ngựa nữa. Erich hoảng hốt khi thấy thầy bước vào. Chú thợ bạn nhận ra ngay thầy qua cái nhìn đầu tiên, con tim chú nhưng muốn bay ra đón thầy, nhưng dường như đây là một người hoàn toàn khác lạ: Một Goldmund giả, già đi nhiều năm, bộ mặt gần như tàn tạ, đầy phong trần, héo hon, nhăn nheo, bệnh hoạn, đau khổ, nhưng không để lộ mình đang đau đớn mà điểm một nụ cười nhân từ và kiên nhẫn. Goldmund kéo lê bước chân vật vã và dường như rất uể oải, mệt nhọc. Cậu Goldmund biến dạng và không ai nhận ra ấy chăm chăm nhìn chú thợ bạn trẻ với một con mắt kỳ lạ. Chuyến trở về của cậu rất kín đáo; cậu ứng xử như mình vừa ở căn phòng bên cạnh, như thể mới chốc lát vừa rồi, cậu đã ở đây. Chìa bàn tay cho người học trò, cậu không nói gì, không chào hỏi, chỉ bảo: “Ta cần ngủ”, có vẻ rất mệt nhọc. Cậu cho Erich đi nơi khác và sang phòng của mình ở bên cạnh gian xưởng. Nơi đây, cậu dỡ mũ và đánh rơi xuống đất, cởi giày và lại bên chiếc giường. Trong góc phòng, dưới lớp rào che, cậu nhận ra pho tượng Đức Mẹ Đồng Trinh của mình, ra một dấu hiệu tỏ ý bạn bè nhưng không dở lớp vải che và không chào hình ảnh ấy. Ngược lại, cậu xuất hiện ở khung cửa sổ nhỏ, nhìn thấy Erich ở ngoài sân đang bối rối, và cậu lên tiếng réo gọi: - Erich, cháu không cần báo với bất cứ ai là ta đã trở về. Ta đang rất mệt. Từ bây giờ đến mai, còn thời gian. Sau đó, cậu để nguyên quần áo đang mặc, nằm lăn ra giường. Hồi lâu, không ngủ được, cậu ngồi dậy, nặng nề bước lại gần bức tường có treo một chiếc gương soi và đưa mắt nhìn vào đó. Cậu qua sát chăm chú lão Goldmund từ trong gương nhìn cậu: Một bộ mặt quen biết nhưng lại như xa lạ, đối với cậu nó dường như không thực sự hiện hữu, và cậu không hề cảm thấy có chút quan hệ nào. Cậu chỉ nhớ những bộ mặt khác từng quen biết: Một ít vì thầy Niklaus, một chút về vị hiệp sĩ già ngày trước đã ra lệnh may cho cậu một bộ áo quần đung thời trang, cũng có phần thánh Jacques trong ngôi nhà thờ, vị thánh Jacques cao niên, nhiều râu, dưới chiếc mũ khách hành hương có vẻ rất già, rất già và da xạm, tuy vậy vẫn toát ra một ấn tượng vui vẻ và nhân từ. ... Mời các bạn đón đọc Narcisse và Goldmund của tác giả Hermann Hesse.
Chiếc Cầu Trên Sông Drina - Ivo Andritch
Chiếc cầu danh tiếng xây trên sông Drina ở Vichégrad để nối xứ Bosnie với xứ Serbie, cả hai thời đó đều là những tỉnh trong đế quốc Thổ, mới là nhân vật chính trong bộ cố sự chép từ thế kỷ XVI tới năm 1914 đó. “Công trình kiến trúc quí báu, đẹp tuyệt vời” kia trong xứ hẻo lánh ấy làm cho người ta ngạc nhiên và giúp cho tác phẩm có tính cách nhất trí: Chương nào cũng chép một cố sự liên quan tới “chiếc cầu trên sông Drina” Chiếc cầu đó được xây 1571, chương 3 và 4 chép việc xây cầu, những khổ dịch, và đau khổ ghê gớm mà tên hiểm ác Abidaga, người tin cẩn của quan tể tướng, bắt dân chúng chịu âm mưu phá cầu do Radislav tổ chức bị phát giác, Radislav bị bắt giam rồi bị xử tử xóc xiên (cuộc hành trình này thật rùng rợn, bút pháp tả chân thành tàn nhẫn) Nhưng mọi thứ biến cố - hết thảy đều liên quan tới chiếc cầu trên sông Drina - nối tiếp nhau xảy ra trong những thế kỷ sau: nạn lụt, loạn lạc, bệnh dịch, và trên cầu đặt lính canh gác, kiểm tra mọi người qua cầu, vụ tự tử của thiếu nữ diễm lệ Fata, để tránh khỏi một cuộc ép duyên… Bố cố sự dài này xen lẫn nhiều truyện tình cảm hoặc khôi hài, hấp dẫn từ đầu tới cuối. Như trong tập Cố sự Travnik, biến cố lịch sử ghép vào những sự biến cố gia đình. Tác giả là một học giả mà cũng là một nghệ sĩ, mô tả tâm lý rất dài. *** Ivo Andrić là nhà văn Nam Tư đoạt giải Nobel Văn học năm 1961. Ivo Andrić sinh ở làng Dolac, gần Travnik, Bosna và Hercegovina, khi đó thuộc Đế chế Áo-Hung. Tên là Ivan nhưng mọi người thường gọi là Ivo. Bố mất năm Ivo lên 2, mẹ phải đưa con đến ở nhờ một bà dì. Thời trẻ Ivo Andrić sống ở Bosnia nên ông có điều kiện tiếp xúc với nhiều tầng lớp đại chúng của nhiều sắc tộc, nhiều tôn giáo, nhiều nền văn hóa khác nhau vùng Balkan. Ông học triết học tại các đại học ở Zagreb, Viên và Kraków. Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra khiến ông phải nghỉ học; sau đó bị bỏ tù do hành động chống Đế quốc Áo. Năm 1923, Ivo Andrić nhận học vị tiến sĩ tại trường Đại học Graz, làm việc tại Bộ ngoại giao Nam Tư. Chức vụ cuối cùng mà ông nắm giữ là Tham tán tại Đại sứ quán Nam Tư ở Berlin. Khi Đức xâm lược Nam Tư năm 1939, Ivo Andrić trở lại Beograd cho tới hết Chiến tranh thế giới thứ hai, sau đó tiếp tục sống ở thủ đô Nam Tư. Ivo Andrić bắt đầu sự nghiệp văn chương với vai trò là nhà thơ: năm 1918 ra đời tập thơ Ex ponto (Từ biển), và hai năm sau là tập Немири Lo lắng. Sau đó, ông tập trung viết truyện ngắn. Cuốn đầu tiên là Пут Алије Ђерзелеза (Chuyến đi của Alija Djerzelez), xuất bản năm 1920, được coi là một trong những tác phẩm nổi trội trong cuộc đời sáng tác của Ivo Andrić. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, ông gần như bị quản thúc tại nhà; không thể tham gia cuộc kháng chiến chống phát xít, ông tập trung sáng tác. Năm 1941 - 1945 ông viết bộ sách có tên gọi chung "Bộ ba Bosna" với ba tiểu thuyết trở thành kiệt tác, На Дрини ћуприја (Nhịp cầu trên sông Drina), Травничка хроника (Sử biên niên Travnicka) và Госпођица (Tiểu thư); trong đó nổi tiếng nhất là Nhịp cầu trên sông Drina, kể về cuộc chiến giữa những người Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo trong lịch sử mấy trăm năm của Bosna. Ivo Andrić đạt tới đỉnh cao danh tiếng sau chiến tranh và trở thành một trong những nhà văn hàng đầu của Liên bang Nam Tư (mà Bosna là một trong sáu thành viên), vào Đảng Cộng sản và giữ chức Chủ tịch Hội Nhà văn Nam Tư. Năm 1948, ông giới thiệu cuốn Nove pripovetke (Những câu chuyện mới) viết về vấn đề con người xã hội lúc bấy giờ, về tâm lý của con người trong chiến tranh, về thời kì hậu chiến. Năm 1960, ông cho xuất bản tuyển tập truyện ngắn Lica (Những gương mặt). Ivo Andrić cũng viết một số khảo luận, trong đó nổi bật là Zapisi o Goji (Những ghi chép về Goya). Năm 1961 ông được nhận giải Nobel vì tài năng nghệ thuật sử thi "cho phép đặt ra những vấn đề và những số phận con người gắn với lịch sử đất nước một cách đầy đủ nhất". Ông mất năm 1975 ở Beograd. Tác phẩm: Ex ponto (Từ biển, 1918), tập thơ Немири (Lo lắng, 1919), tập thơ Пут Алије Ђерзелеза (Chuyến đi của Alija Djerzelez, 1920), tiểu thuyết Pripovetke (Truyện ngắn, 3 tập, 1924, 1931, 1936), truyện ngắn На Дрини ћуприја (Nhịp cầu trên sông Drina, 1945), tiểu thuyết Травничка хроника (Sử biên niên Travnicka, 1945), tiểu thuyết Госпођица (Tiểu thư, 1945), tiểu thuyết Nove pripovetke (Những câu chuyện mới, 1948), tập truyện Проклета авлија (Khu vườn bị nguyền rủa, 1954), truyện vừa Lica (Những gương mặt, 1960), tuyển tập truyện Zapisi o Goji (Những ghi chép về Goya, 1961), tiểu luận Омерпаша Латас (Omer-Pasha Latas, in sau khi mất vào năm 1977) *** Bối cảnh của truyện này là xứ Bosnie – Herzégovine, nhưng trong vài chương xứ Serbie cũng thường được nhắc tới; mà những xứ đó, đa số độc giả chưa được biết, nên chúng tôi giới thiệu ít hàng dưới dây để độc giả dễ hiểu truyện. Chúng ta thường nghe nói đến Nam Tư Lạp Phu (tiếng Pháp là Yougoslavie có nghĩa là xứ của dân tộc Slave phương Nam, mà Slave trỏ một giống người ở Trung Âu, nhất là Đông âu như dân tộc Ukraine, Serbie, Croatie, Nga, Bảo Gia Lợi …) và Thống chế Ti to, vị anh hùng Nam tư theo chế độ cộng sản. Ông có tinh thần quốc gia mạnh mẽ, ngày càng xích gần lại với Tây Âu. Bosnie – Herzégovine và Serbie nay là hai trong sáu tiểu bang của Liên bang Cộng hòa Nhân dân Nam Tư, bốn tiểu bang kia là Croatie, Slovénie, Monténégro, Dalmatie. Liên bang đớ nằm trên bờ vịnh Adriatique, phía Tây ngó qua Ý, phía Đông Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, phía Bắc giáp Áo, phía Nam giáp Hy Lạp; dân số năm 1954 khoảng 17 triệu, kinh đô là Belgrade, trên tiểu bang Serbie. Bosnie – Herzégovine và Serbie là hai tiểu bang giáp nhau, rộng nhất, dân số mỗi tiểu bang năm 1954 khoảng bốn triệu. Cả hai đều nhiều núi, từ thế kỷ XIX trở về trước nguồn lợi canh là canh nông và mục súc. Kinh đô của Bosnie – Herzégovine là Sarajevo, của Serbie là Belglade. Dân hai xứ đều là giống Slave, hiện nay khoảng một phần ba theo Hồi giáo, hai phần ba theo Ki tô giáo. Lịch sử của họ rất gian truân, có lẽ nhờ vậy mà họ anh dũng và có tinh thần quốc gia mạnh. Mới đầu họ lệ thuộc La Mã, qua thế kỷ VII mới thành lập những tiểu quốc gần như độc lập: Bọsnie – Herzégovine, Serbie. Họ phải chống với những dân tộc ở chung quanh: Hi Lạp, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi. Thế kỷ IX họ theo Ki tô giáo. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Cầu Trên Sông Drina của tác giả Ivo Andritch.