Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giấu Anh Vào Trong Nỗi Nhớ Của Em Đi - Hân Như

Cuối cùng thì phần 3 của Chỉ có thể là yêu sắp đến tay bạn đọc rồi, anh chàng Hải Long lạnh lùng cùng siêu xe Windy và chàng lãng tử Huy Khánh tái xuất sẽ đem lại những bất ngờ gì? Các bạn đón chờ nha Lời tác giả: Thân gửi bạn đọc yêu quý. Cũng đã gần hai năm kể từ ngày cuốn tiểu thuyết “Chỉ có thể là yêu” đầu tiên được đặt lên kệ sách, cũng là ngần ấy thời gian tôi dành hết tâm huyết cho cuốn tiểu thuyết thứ ba có tên là “Giấu anh vào trong nỗi nhớ của em đi” này. Gần hai năm không phải là một thời gian ngắn nhưng cũng đủ dài để tôi suy ngẫm và tìm cho mình một con đường, một lối đi riêng trong sáng tác. “Giấu anh vào trong nỗi nhớ của em đi” chính là bước chuyển trung gian trong sự thay đổi về tư duy đó của tôi. Đây là cuốn tiểu thuyết chính thức đóng lại series tiểu thuyết “Chỉ có thể là yêu”, đóng lại thế giới của những chiếc siêu xe và những con người đam mê bất tận với trò chơi tốc độ. Đồng thời, nó cũng mở ra một tư duy sáng tác mới cho bản thân tôi. “Giấu anh vào trong nỗi nhớ của em đi” sẽ không có câu chuyện tình yêu nhiều ngọt ngào mà cũng đầy mâu thuẫn như “Chỉ có thể là yêu”, cũng không nhẹ nhàng mà đầy đau khổ như “Yêu không hối tiếc”, nó lặng lẽ và giản dị như một chiều trời xanh đầy nắng và gió. Ở cuốn tiểu thuyết này, tôi hy vọng sẽ đem đến cho độc giả cái nhìn rộng mở hơn về cuộc sống, về môi trường, về xã hội, về những mâu thuẫn tưởng chừng rất đơn giản nhưng không hề dễ tháo gỡ, về những câu chuyện tình yêu không phải lúc nào cũng có kết thúc đẹp, về những hạnh phúc mà người ta phải đi một vòng thật lớn, thậm chí đánh đổi rất nhiều thứ mới ngỡ ngàng nhận ra rằng, nó vẫn ở ngay bên cạnh mình. Có nhiều người hỏi tôi, tại sao lại không viết về thế hệ tiếp theo của “Yêu không hối tiếc” mà lại quay ngược về quá khứ của “Chỉ có thể là yêu”? Cuộc sống vốn là một vòng luẩn quẩn giữa những mối quan hệ nhiều chiều, khi một câu chuyện này khép lại, sẽ lại có một câu chuyện mới mở ra. Câu chuyện mới ấy lại là bắt đầu của một câu chuyện khác nữa, và biết đâu, kết thúc của nó lại chính là khởi đầu của câu chuyện đầu tiên. Cứ theo cái vòng tròn ấy, bạn sẽ nhận ra có nhiều điều khá thú vị và bất ngờ trong cuộc sống của chính mình. Khép lại cuốn cuối cùng trong series tiểu thuyết “Chỉ có thể là yêu”, tôi sẽ bắt đầu với một chủ đề mới, ở đó nhân vật cũng có những sở thích và đam mê mới. Vẫn là những câu chuyện tình yêu nhưng ở đó, tôi tìm được sự trưởng thành của chính mình qua các nhân vật của tôi. *** Cuộc đua! Hạ Chi không biết mình ngủ quên từ lúc nào, khi cô mở mắt ra thì trời bên ngoài đã tang tảng sáng. Chăn gối xung quanh đều nhàu nhĩ- hậu quả của việc cô đã khóc rất nhiều trước khi ngủ quên vào đêm qua. Cô chỉ nhớ một điều là lần cuối cùng cô xem giờ thì khi ấy đã gần 2h sáng. Cô đợi Nguyên đến tận lúc đó để có thể nói chuyện với anh, nhưng rốt cục Nguyên đã không về, và lúc này anh đã về hay chưa cô cũng không biết nữa. Chợt cô lắng tai nghe, có tiếng Nguyên đang nói chuyện ở bên ngoài, hình như là qua điện thoại. -Mẹ cư xử như thế rồi làm sao còn mặt mũi mà nhìn bố mẹ đẻ chị ấy nữa. Mẹ nên để thằng Boo ở với chị ấy hơn là giữ khư khư nó bên mình hay để nó sống với một người cha vô trách nhiệm và một bà mẹ kế. -… -Tại chị ấy hay tại anh con? Mà suy cho cùng cũng là tại mẹ. Ngày ấy mẹ biết anh con đã có người yêu mà vẫn ép anh ấy lấy chị Dung. Nếu không phải tại anh ấy sống không đúng trách nhiệm của một người chồng, một người cha thì chị ấy có cần phải đi tìm một chỗ dựa khác hay không? Vì sao bắt chị ấy phải sống như một người vợ góa và thủ tiết thờ một ông chồng còn sống sờ sờ và rất hạnh phúc bên người phụ nữ khác ở trước mắt? -… -Tại con sao? Con đã chấp nhận ra đi cả chục năm trời, chẳng phải cũng vì cái danh dự của gia đình như mẹ nói sao? -… -Được rồi, có phải con lấy vợ và quên hẳn chị ấy thì mẹ sẽ nhượng bộ phải không? -… -Con hy vọng mẹ giữ lời nói ngày hôm nay. Chiều nay con đưa chị Dung về và mong bố mẹ thu xếp ổn thỏa mọi việc. Con chào mẹ. Sau câu chào đó, căn phòng lại trở về với vẻ lặng ngắt đến rợn người. Hạ Chi nhắm mắt lại khi nghe tiếng mở cửa phòng. Nguyên bước vào, ngồi xuống bên giường, khẽ đưa tay gạt tóc cô sang một bên rồi cúi xuống hôn lên thái dương cô. Anh cứ như thế ngồi nhìn cô cho tới tận khi Hạ Chi không nhịn được đành giả vờ cựa mình rồi mở mắt ra. Thấy cô thức giấc, anh cúi xuống nhìn, thấy đôi mắt cô hơi đỏ không biết là do thiếu ngủ hay do cô đã khóc nữa? -Hôm qua Vincent đưa em về lúc mấy giờ?- Anh cười hỏi. -Tầm 11h.- Giả vờ như không hề biết chuyện gì xảy ra, cô đáp lại- Anh uống rượu sao? -Ừ, tối qua có uống hơi nhiều nên anh ngủ ở ngoài salon, em không thích mùi rượu mà. Hạ Chi nhìn nụ cười gượng ép của anh, định hỏi mọi chuyện mà mình vẫn ôm trong lòng từ hôm qua đến giờ, nhưng rồi cô lại cố gắng đè nén nó xuống. Nụ cười như muốn chứng minh rằng anh đã làm gì có lỗi với cô khiến Hạ Chi có phần hơi cay đắng trong lòng. -Mình lấy nhau nhé!- Nguyên nắm lấy tay cô và đột ngột đề nghị. Câu nói là Chi sững lại trong mấy giây. Nếu như không nghe được cuộc nói chuyện của anh với mẹ khi nãy, có lẽ cô sẽ cảm thấy hạnh phúc lắm. Nhưng lúc này cô chỉ cảm thấy có chút đau đớn ê chề khi biết anh đề nghị đám cưới chỉ vì thỏa thuận với mẹ anh. Anh chỉ muốn đánh đổi hạnh phúc của cô lấy hạnh phúc của một người phụ nữ khác mà anh cũng rất yêu mà thôi. Sự thực thì một người đa tình như anh sẽ yêu cô được bao nhiêu phần? Cô có thể trói giữ anh được bao nhiêu ngày? Có thể được anh yêu hơn người phụ nữ bị chồng bỏ kia hay không? -Em đang nghĩ gì vậy? Em không tin anh sao?- Nguyên ngạc nhiên khi thấy cô ngồi thẫn người ra. -Không sao. Em chỉ đang nghĩ tới anh Lâm thôi. Nguyên siết lấy tay cô an ủi: -Thanh Lâm sẽ bình an thôi, em đừng lo lắng quá! -Em còn có một mình anh ấy là người thân, nếu anh ấy còn sống thì em muốn đợi đến ngày anh ấy có thể tiễn em về nhà chồng. -Anh có thể đợi cùng em, nhưng đó là trước khi Vincent xuất hiện. Từ khi biết mối quan hệ giữa hai người, anh luôn có cảm giác lo sợ. Anh sợ khi em nhớ lại, em sẽ không còn là của anh nữa. -Chuyện đó để sau đi anh. Em nghe anh Trung nói có gặp chị dâu anh ra đây tìm anh. Ở nhà có chuyện gì sao? -Ừ, cũng có chút rắc rối, chiều nay anh phải về Hà Nội ngay. Em đi cùng luôn chứ? Anh sợ về đó rồi sẽ không ra đây ngay được đâu. Công việc đợi anh sắp ngập cổ rồi. -Em ở lại cho tới cuộc đua của bác sĩ rồi sẽ về cùng chị Hương. -Vậy cũng được. Nhớ về sớm đấy, anh sẽ rất nhớ em. -Vâng. -Nhưng còn chuyện của em và Vincent…- Nguyên ngập ngừng mãi cũng không tìm ra được lời nào thích hợp để nói. -Cho tới khi em nhớ ra, thì em chỉ biết rằng em yêu mình anh mà thôi. Em nghĩ anh ấy sẽ hiểu và thông cảm. -Anh về Hà Nội rồi, em nhất định không được để nó tán tỉnh đâu đấy.- Anh dí một tay lên trán cô, trừng mắt.- Thôi dậy đi, anh đưa em đi ăn sáng và qua chỗ Thiên Anh chút. *** Hạ Chi không nhớ nổi đây là lần thứ bao nhiêu cô gọi cho Quân và đều được thông báo là thuê bao không liên lạc được. Sau khi xuất hiện và đặt cho cô một đống nghi vấn, anh lại biến mất một cách kì lạ như thế. Cô nên tin ai đây? Thiên Anh? Nguyên? Vincent? Hay Quân? Chưa lúc nào cô lại mong gặp lại anh trai mình như lúc này, có lẽ chỉ có Thanh Lâm là người duy nhất không lừa dối cô. Nguyên đã về Hà Nội cùng Dung cách đây hai ngày. Và cho tới tận khi anh đi, cô đã nhiều lần muốn hỏi đêm đó anh đã ở đâu, có ở cạnh người phụ nữ kia hay không? Nhưng câu hỏi cứ tới cửa miệng lại bị nuốt chửng trở lại, không sao thốt ra được. Một nửa cô tự an ủi mình rằng Nguyên sẽ không bao giờ làm điều không đúng đó, rằng anh không hề đến và ở bên người đàn bà đó như cô tưởng tượng, nhưng một nửa cô lại hoài nghi lòng tin ấy của mình. Người như anh có thể dễ dàng dứt bỏ tình cảm với người mà anh đã yêu đơn phương suốt mười năm trời hay sao? Và cả Trung nữa. Cô chưa biết phải nói gì với anh về chuyện giữa cô với Nguyên, hoặc cũng có thể Trung đã đoán ra hết nhưng không nói gì. Ngày hôm qua đi cùng Trung dạo khắp đảo nhưng cô vẫn chưa tìm ra cơ hội để nói chuyện đó với anh. Mặc dù cho tới lúc này cô không dám chắc mình và Nguyên sẽ đi được tới đâu, nhưng cô cũng không muốn lừa dối một người như Trung. -Anh có ở khách sạn chứ? -Ừ, anh vừa về tới. Chút anh mời em đi ăn tối nha.- Vincent nhiệt tình đáp lại. -Cũng được. Em đang ở phòng khám, chút nữa sẽ về khách sạn. Em cũng có chuyện muốn nói với anh mà. -OK, vậy lúc nào về tới nơi thì gọi cho anh. -Vâng. Thở dài một hơi, Hạ Chi đứng dậy và quay sang nói với Phượng. -Chị về khách sạn đây. Hôm nay em chịu khó ở lại phòng khám một mình nhé! Ngày mai cuộc đua diễn ra nên chắc đêm nay bác sĩ không về đây đâu. Có gì thì em cứ gọi cho anh ấy, anh ấy sẽ về ngay. -Dạ em biết rồi. Hạ Chi cười chào cô bé rồi ra khỏi phòng khám. Hôm nay thời tiết tương đối dễ chịu, lại đang là buổi chiều nên trời tương đối mát mẻ. Ngày mai đã là lễ ra mắt câu lạc bộ đua xe rồi nên mấy hôm nay Thiên Anh cũng rất bận rộn, hết chạy lên trung tâm làm việc lại ghé qua phòng khám rồi tới khách sạn họp mặt với anh em của đội đua xe. Cũng nhờ có sự kiện ồn ào này mà mấy ngày nay Cát Bà đông khách đột biến. Các khách sạn lớn nhỏ đều hết phòng, xe lớn xe nhỏ chạy ào ào trên phố. Công tác chuẩn bị cho cuộc đua đầu tiên này cũng được giám sát chặt chẽ. Đường từ phòng khám về khách sạn khá xa nên bình thường, nếu Nguyên không đưa cô đi thì Hạ Chi thường đi lại bằng xe bus. Từ nơi xuống xe về đến khách sạn khoảng chừng 1km thì cô đi bộ, coi như ngày hai buổi thể dục. Ngày mai sau khi cuộc đua kết thúc, cô sẽ đi cùng Hương về Hà Nội. Cô sẽ kiếm một công việc nào đó ở thành phố và đợi cho tới khi có tin tức của Thanh Lâm. Mặc dù cho tới nay không có tin tức gì, bản thân cô cũng biết là dữ nhiều lành ít, nhưng cô không tỏ ra vô vọng mà vẫn tin sẽ có một ngày anh trai mình trở về. Từ giờ cho tới lúc đó, cô cần phải tiếp tục sống, tiếp tục tồn tại. Cô cũng không muốn mãi để Thiên Anh hay Nguyên lo cho mình. Cho tới hiện tại, cô cũng đã nợ họ một ân tình quá lớn rồi. Đó là những điều Hạ Chi dự định sẽ nói cho Trung biết vào tối nay. Anh sẽ về Lang Biang của anh, còn cô có cuộc sống của mình ở Hà Nội, ít nhất cho tới khi cô nhớ ra mọi chuyện. Vừa đi vừa nghĩ thơ thẩn nên chẳng mấy chốc khách sạn Paradise đã xuất hiện trước mắt Hạ Chi. Ở khách sạn hàng đầu này không lúc nào là vắng khách, vắng xe đẹp hay người đẹp ra vào. Mấy ngày này, phóng viên nhà báo cũng tới đây để phỏng vấn thành viên của hội đua xe rất nhiều nên càng nhộn nhịp hơn. Phía trước khách sạn, đèn hoa treo vô cùng tráng lệ, một tấm bảng quảng cáo lớn treo ngay trên mái cao giới thiệu về các thành viên hội đua xe cũng như những chiếc xe con cưng của họ. Không biết những anh chàng công tử của hội chơi xe đã bỏ ra bao nhiêu tiền bạc cho sự kiện ồn ào và vô cùng hoành tráng này, nhưng chỉ nhìn người ta cũng biết đó không phải một con số nhỏ. Mặc dù quen Thiên Anh và Long- hội trưởng và hội phó của câu lạc bộ này nhưng Hạ Chi cũng chưa bao giờ trực tiếp tiếp xúc với các thành viên còn lại. Họ luôn có một vẻ xa lạ và cao ngạo quá đáng khiến cô cảm thấy không muốn làm quen một chút nào. Hơn nữa, cô cũng cảm thấy những anh chàng này càng lắm tiền thì càng nhiều tật, ngoại trừ Thiên Anh ra thì ngay cả Nguyên cũng không tránh khỏi những tật xấu của đám con nhà giàu nói chung. Đang định rẽ vào con đường dẫn vào khách sạn thì cô nghe thấy tiếng còi xe inh ỏi từ phía sau. Hạ Chi ngoảnh đầu lại, chỉ thấy một chiếc Toyota màu đen đang trờ tới, cũng chẳng cần quá ngạc nhiên vì mấy ngày nay xe ra vào ở đây rất nhiều, tới nỗi khách sạn phải thuê thêm hẳn một bãi đậu xe ở cách đó không xa cho khách để xe. Cô khẽ tránh sang một bên để xe đi vào. Chiếc xe chầm chậm tiến tới, nhưng đầu xe vừa vượt qua cô thì nó chợt dừng lại. Hạ Chi ngẩn người khi thấy có mấy người đàn ông từ trên xe bước xuống, không để cô kịp có phản ứng thứ hai, một trong ba người đàn ông nhanh chóng khóa tay cô lại, người thứ hai bịt ngay lấy miệng cô còn người thứ ba thì mở cửa xe. Tất cả các hành động diễn ra quá nhanh, gần như là chớp nhoáng nên Hạ Chi một tiếng cũng không kêu được, một phản ứng cũng không thể có, cô bị bọn họ lôi tuột vào trong chiếc xe màu đen. Và chiếc xe quay đầu chuyển bánh chạy thẳng về phía ngược lại với hướng mà cô vừa đi. Cùng lúc đó… Trường đua xe Ngư Long- trường đua xe chuyên nghiệp đầu tiên được xây dựng ở Việt Nam. Quãng đường đua dài hơn 10km tạo thành một vòng khép kín quanh nửa hòn đảo. Hai bên đường đua là hàng rào chắn kiên cố bảo vệ để tránh những tai nạn thảm khốc có thể xảy ra. Mặt đường được thiết kế theo tiêu chuẩn của đường đua quốc tế với những đoạn đường thẳng tắp xuyên qua núi hay những khúc cua- được coi là điểm nhấn kinh điển của các đường đua xe men theo bờ biển. Tại những khúc cua này, nếu tay đua không bản lĩnh và quyết đoán thì rất dễ xảy ra tai nạn, thậm chí là lao cả xe xuống vực núi hay biển. Bắt đầu từ ngày khởi công xây dựng cho tới lễ khánh thành vào ngày mai, trường đua này đã trở thành tâm điểm của những hội mê tốc độ cao. Những tay đua xe ô tô hay mô tô đều hướng về nó, khát khao một ngày được bay trên những cung đường này. Ngày cuối cùng trước khi chính thức khai trương đường đua, hầu như không có phóng viên nhà báo nào được phép tới đây vì các tay đua thường xuyên tới đây để thử xe cũng như làm quen với mặt đường và các khúc cua, nếu không cẩn thận rất dễ xảy ra tai nạn. Lúc này, ở vị trí xuất phát của đường đua có ba chiếc xe ô tô đang đỗ, ngoài ra còn có vài chiếc mô tô dừng ở đó không xa. Nổi bật nhất trong số đó là chiếc xe màu trắng, thon dài, mui trần mà bất cứ ai nhìn vào cũng không thể rời mắt ngay sau đó được. Tên chiếc xe là Windy. Ngồi bên trong chiếc xe là một anh chàng vẻ mặt hơi u uất, có chút dữ tợn và lạnh lùng. Chủ nhân chiếc xe này không phải ai khác, chính là người lâu nay nhận lời Thiên Anh để mắt tới Hạ Chi- Hải Long, đồng thời là chủ tịch câu lạc bộ đua xe. Chiếc xe thứ hai có màu xanh da trời- một chiếc Porsche mới coóng, ngồi trong xe là Thiên Anh- anh chàng bác sĩ đa tài. Chiếc xe thứ ba có màu da cam- một chiếc Ferrari được đặt tên là Prince Sun. Nó còn có một tên khác là Hoàng Tử Chói Chang vì màu sắc quá nổi bật luôn khiến người ta phải nóng rực mắt lên vì vẻ hấp dẫn của nó. Ngồi trong chiếc xe thứ ba này là Huy Khánh- một anh chàng đào hoa và lãng tử, đồng thời cũng là một nha sĩ trẻ ở Hà Nội. Ba chiếc xe xếp theo thứ tự đường đua 1, 2, 3, dường như đang chuẩn bị cho một cuộc đua thử. Phía sau họ là vài chiếc mô tô phân khối lớn mang nhãn hiệu của Suzuki- một tập đoàn sản xuất xe phân khối lớn có thương hiệu trên toàn thế giới. Mấy cậu thanh niên đang ngồi vắt vẻo trên xe vẻ ung dung nhàn hạ, có lẽ họ chỉ tới đây để xem cuộc đua của ba chiếc siêu xe trước mặt mà thôi. Hải Long đang chỉnh lại dây an toàn thì đột nhiên điện thoại rung lên. Khẽ cau mày một cái không vừa lòng, nhưng rốt cuộc anh cũng cầm máy lên nghe: -Đại ca, cô gái ấy bị bắt cóc rồi. ...

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trong Gia Đình - Hector Malot
Trong Gia Đình là một câu chuyện đẹp dành cho những em thiếu nhi và những ai đã trưởng thành. Đến với Trong Gia Đình chúng ta sẽ thấy được rằng nghịch cảnh có khó khăn đến mấy thì chỉ cần chúng ta có niềm lạc quan và biết lao động chăm chỉ thì cũng có thể vượt qua. Cách hành văn của Hector Malot có đôi chút hóm hỉnh, trong sáng, cách xây dựng nhân vật có cá tính rất riêng đã mang đến cho Trong Gia Đình một hơi thở độc đáo và tuyệt vời. Cùng với Không Gia Đình, Trong Gia Đình là một tròng hai tác phẩm nổi triếng nhất cuat Hector Malot và đã từng đoạt giải thưởng của viện hàng lâm văn học Pháp. *** Hector Malot (20 tháng 5, 1830 – 17 tháng 7, 1907) là nhà văn nổi tiếng người Pháp, các tiểu thuyết của ông được nhiều thế hệ độc giả trên thế giới yêu mến. Ông sinh năm 1830 tại La Bouille, miền Bắc nước Pháp. Tác phẩm đầu tay Những người tình (Les Amants) của ông xuất bản năm 1859 đã gây được tiếng vang lớn. Trong sự nghiệp của mình ông đă viết trên 70 tác phẩm. Các tác phẩm Romain Kalbris (1869), Trong gia đình (En Famille 1893) và đặc biệt là Không gia đình (Sans Famille 1878) được các độc giả nhỏ tuổi yêu thích. Ông mất năm 1907 tại Fontenay sous Bois.  *** - Phabry về đó! Ông Vunphran nói bằng một giọng khác thường, trong đó có sự lo ngại chen lẫn với sung sướng nữa. Đúng thế! Phabry đi nhanh vào trong buồng giấy. Ông ấy cũng thế, hình như đang ở trong một trạng thái lạ lùng! Ông ta đưa mắt nhìn Perin trước làm em bối rối, mà chẳng hiểu vì sao. - Xe hỏng máy nên tôi về chậm. – Ông nói. - Anh về, đó mới là cái chính! - Tôi đã đánh điện báo cho ông. - Bức điện của anh ngắn và lờ mờ quá. Khó đem hy vọng lại cho tôi. Cái tôi cần là những khẳng định chắc nịch kia! - Tôi có được phép báo cáo trước mặt cô? - Được chứ, nếu những tin ấy vẫn như anh đã nói. Đây là lần đầu, Phabry báo cáo một nhiệm vụ đặc biệt, mà lại hỏi ông chủ, có thể làm việc ấy khi có mặt Perin không? Em đang bối rối, thì câu chuyện giữa ông Vunphran và Phabry, qua giọng nói cảm động, dáng điệu khác thường của họ chỉ làm tăng thêm nỗi lo lắng cho em. - Như lời dự đoán của vị thám tử của ông, - Phabry nói, và không nhìn Perin. – Cái con người nhiều lần không để lại dấu vết, đã đến Paris. Tại đây, trong lúc đọc cái bản khai tử, người ta đã tìm thấy vào tháng sáu năm ngoái, một bản mang tên Mari Đôrétsany, quả phụ của Étmông Vunphran Panhđavoan. Đây là một bản sao. ... Mời các bạn đón đọc Trong Gia Đình của tác giả Hector Malot.
Một Đứa Con Đã Khôn Ngoan - Nguyễn Công Hoan
Trong truyện Một đứa con đã khôn ngoan, nhà văn giáo dục trẻ em đức tính yêu lấy tiếng Việt. "Ta có tiếng nói riêng. Bổn phận ta là phải giữ lấy tiếng ta, vì tiếng ta tức là tinh thần nước ta". Cậu bé Chỉ trong truyện này chỉ mê tiếng Pháp và cho rằng tiếng Việt không đủ để diễn tả hết mọi suy nghĩ và sự vật. Ngay cả lúc viết thư cho bạn, cậu cũng phải dùng thêm tiếng Pháp. Cậu (bố) của cậu bé Chỉ không đồng ý và phân tích cho cậu rằng: "Con thấy thiếu chứ tiếng ta không thiếu. Nếu thiếu chăng, thì nó thiếu ở ý mới, vật mới xưa kia không có. Còn những ý cũ vật cũ thì tiếng nước ta vẫn đủ như thường. Xem ngay như về gia đình, ta có biết bao nhiêu tiếng: kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, chắt, chút, bác, cậu, mợ, dì, cô, thím, âu yếm, thân, hiếu, đễ, từ và biết bao nhiêu tiếng nữa. Lại nói như cách mang đồ đạc, ta có đội, gánh, xách, vác, cầm, khênh, ôm, cõng, bẽ, tải, cắp, khuân, bế, mỗi tiếng một nghĩa riêng" và "Cậu dám đánh cược với ông cử, ông nghè Tây dùng tiếng Pháp mà dịch nổi tiếng "lôi thôi" của ta đấy". Dù được phân tích thấu đáo như thế nhưng cậu bé Chỉ vẫn không tin. Và cậu chỉ thật sự tin khi mợ (mẹ) của cậu bị ốm và nhờ cậu đọc giùm tiểu thuyết tiếng Việt. Cậu bất ngờ là không ngờ nó lại hay đến thế! "Truyện Tây cũng đến thế là cùng". Thật bùi ngùi khi đọc lại những lời của người mẹ nói với con: "Mợ mua sách Quốc văn, được sách hay đã đành, dù phải sách dở mợ cũng vui lòng. Mình không có tài làm cho Quốc văn hay đẹp hơn lên, thì phải có chút khuyến khích những người có công quý hóa ấy vậy". *** Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là tỉnh Hải Hưng, trong một gia đình Nho học. Chính nơi sinh cũng là quê hương ông. Ông bắt đầu viết văn rất sớm, ngay từ khi còn đương học ở trường Bưởi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông là Kiếp hồng nhan xuất hiện năm 1923, khi ông tròn hai mươi tuổi. Từ đó ông viết nhiều truyện ngắn và truyện dài đăng trên các báo đương thời. Năm 1932 ông bắt đầu được bạn đọc chú ý khi cuốn truyện dài Những cảnh khốn nạn ra đời và nổi tiếng sau khi ra tập Kép Tư Bền (1935). Ông viết văn vừa dạy học cho đến Cách mạng tháng Tám. Do tham gia hoạt động trong phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học rồi Đảng xã hội Pháp, và bắt liên lạc được với những người cộng sản Đông Dương, ông luôn luôn bị Sở mật thám theo dõi. Hai lần ông bị bắt giữ rồi lại được thả vì không đủ chứng cớ kết tội. Lần cuối cùng, ông bị Nhật bắt giam cho đến ngày khởi nghĩa tháng Tám. *** Một buổi sáng, Tâm vừa ngủ dậy, chợt có hai người bịt mặt, lại gần Tâm. Một người giơ lưỡi dao sáng quắc, nói: — Hễ nói, ta đâm chết. Tâm sợ hết hồn, không dám nhúc nhích. Tức thì một người lại ôm lấy Tâm, lấy khăn buộc ngang mắt. Thế là Tâm không trông thấy gì nữa. Tâm hiểu biết rằng lần này ông Bẩy sai đem Tâm đi một nơi khác, mà không muốn cho Tâm biết đường. Tâm im lặng, thì thấy một người lấy cái gậy, gõ vào đầu Tâm, nghiến răng nói: — Bé mà bé hạt tiêu, liệu hồn! Đau nhưng Tâm không dám kêu. Một lát, Tâm ra dáng hiền lành, hỏi: — Các ông định đưa cháu đi đâu? Khốn nạn, Tâm chẳng được một câu trả lời; trái lại, một cái tay có năm ngón như năm quả chuối ngự đã tát mạnh vào má Tâm, khiến Tâm điếng người đi. Một người đắc chí, cười khanh khách, nói: — Rồi cháu đi đâu, cháu khắc biết. Cháu định đưa các ông đi chỗ nào, thì các ông cũng đưa cháu đi chỗ ấy. Tâm vơ vẩn nghĩ mãi câu ấy mà không hiểu. Nào Tâm có định đưa đảng Rổ Bẫy đi đâu đâu. Một người nói: — Kẻo rồi lại hiện làm ma về kêu oán nhé. Tâm giật nẩy mình. Rồi họ nói chuyện cùng nhau: — Tôi đã bảo cứ bẻ cổ nó đi có hơn là dìm xuống sông không? Tâm hết hồn. Đích là họ giết Tâm rồi. Tâm sực nhớ lại ngày trước ông Bẩy có giao hẹn với Tâm. Thì ra nay ông định cho Tâm chết, chứ không phải ông chỉ cho Tâm đi chỗ khác mà thôi. Bỗng Tâm rớt nước mắt, thút thít khóc, thì thình lình một cái bạt tai thật mạnh làm Tâm ngã dúi dụi. Nhưng may quá, Tâm đã nghe rõ ràng tiếng ông Bẩy quát: — Không được thế. Rồi ông Bẩy lại, nắm lấy tay Tâm, dắt đến ghế ngựa, bảo Tâm ngồi đó, rồi hỏi: — Con có oán gì thày không? Tâm không đáp, vì cho là đáp cũng vô ích. — Bất đắc dĩ thày mới xử con tàn nhẫn, con đừng oán thày nhé. Tâm cũng chẳng đáp, bởi vì Tâm cho rằng đến nông nỗi này thì còn mong gì sống nữa. Tâm có mỗi một mình, lại là trẻ con. Đảng Rổ Bẫy làm gì chẳng nổi. Thôi đành vậy, biết làm thế nào? Một lát, Tâm ngửi thấy mùi đồ ăn thơm ngào ngạt. Rồi dễ đến năm bảy người kéo nhau tới. Họ mời nhau ăn uống no say. ... Mời các bạn đón đọc Một Đứa Con Đã Khôn Ngoan của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Địa Ngục hay Thiên Đường - Mark Twain
Gia đình bà góa Margaret, đứa con gái Helen, cùng hai người dì Hester và Hannah Gray luôn tôn sùng sự trung thực. Dù chỉ một lần nói dối rồi thú nhận ngay lập tức của Helen cũng đủ khiến hai người dì thấy hổ thẹn. Nhưng để Margaret khỏi chịu thêm đau khổ vì bệnh tật đau đớn, hai người dì đã nói dối Margaret về tình trạng sức khỏe của con gái bà - Helen. Và sau sự ra đi của hai mẹ con Margaret, một thiên thần đã xuất hiện hỏi tội hai người dì. Thiên đường hay địa ngục đang chờ đợi cả hai? *** Samuel Langhorne Clemens, thường được biết tới với bút danh Mark Twain (30/11/1835 – 21/4/1910) được vinh danh là nhà văn khôi hài vĩ đại nhất nước Mĩ – từ lời khuyên bỗ bã dành cho các bé gái, lập trường quái gở về sự sáng tạo và kiệt tác của ông xoay quanh vấn đề thủ dâm. Nhưng đằng sau sự hài hước đầy quyến rũ ấy là sự chiêm nghiệm sâu sắc về tinh thần con người cùng với những rối rắm của nó. Trong The Autobiography of Mark Twain: Volume 1 (tạm dịch: Cuốn tự truyện của Mark Twain: tập 1) (public library) – nơi Twain bàn về sự tương phản, kiềm hãm lẫn nhau của hai khía cạnh đạo đức và trí tuệ – ta bắt gặp câu chuyện cảm động về cách mà mẹ ông đã dạy ông về tầm quan trọng của lòng vị tha. Nếu bạn chưa từng đọc The Autobiography of Mark Twain (tạm dịch: Cuốn tự chuyện của Mark Twain), thì xin hãy cân nhắc – Twain đã dành nhiều thập kỷ để viết nó, nhưng tác phẩm chưa bao giờ được hoàn tất và ông đã cấm con cháu của mình xuất bản bản thảo cho đến 100 năm sau ngày ông mất. Một thế kỉ chờ đợi cũng đáng lắm cho một tác phẩm như vây. *** N ửa đêm, hai bà lão còn ngồi bên nhau, than khóc thì họ tưởng chừng trông thấy một thiên thần hiện ra giữa vầng hào quang chói loà. Thiên thần bảo hai bà: — Những kẻ nói dối sẽ bị đày xuống hoả ngục đời đời. Hai người hãy hối cải đi! Hai bà lão quỳ xuống dưới chân thiên thần và cúi đầu, tỏ lòng tôn kính. Nhưng lưỡi của hai bà cứng lại nên họ đành ngậm câm. — Nói đi, - thiên thần bảo, - nói lên để cho ta có thể mang lời giải đáp ra trước toà án của Thiên Chúa và mang lại cho hai người phán quyết tối hậu. Hai bà vẫn quỳ, hai mái đầu bạc vẫn cúi rập xuống, một người nói — Tội chúng tôi lớn lắm, và chúng tôi rất nhục nhã, tủi hổ. Chỉ có một sự ăn năn, hối cải triệt để mới cứu rỗi được chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ khốn khổ đã biết rõ sự yếu đuối của loài người là vô hạn và chúng tôi biết nếu chúng tôi còn bị đẩy vào những tình thế nghiệt ngã thì chúng tôi cũng sẽ phạm tội như trước. Những người cương nghị có thể chống chọi và được cứu rỗi, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ sa ngã và đánh mất linh hồn. Hai bà lão ngẩng đầu lên để van xin. Nhưng thiên thần đã biến mất. Trong lúc họ ngạc nhiên và than khóc, thiên thần trở lại và cúi xuống hai bà, nói nhỏ phán quyết. Mời các bạn đón đọc Địa Ngục hay Thiên Đường của tác giả Mark Twain.
Giữa Lòng Tăm Tối
Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Joseph Conrad (1857 - 1924) là một trong những tác gia vĩ đại nhất của nền văn học Anh quốc. Ông là bậc thầy của nghệ thuật tạo tổng thể văn xuôi, phong cách tự sự, xây dựng nhân vật và mô tả tâm lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều cây bút khác sau này như TS Eliot, F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway hay George Orwell. Thế nhưng tác giả của những áng văn đầy chất thơ Shakespeare này lại là một người gốc Ba Lan tới định cư tại xứ sở sương mù, và đến tận năm hai mươi tuổi mới nói trôi chảy tiếng Anh. Là người ngoại quốc, từng trải qua những năm tháng lênh đênh trên những con tàu thương gia của Anh và Pháp, Conrad đã truyền tải được xúc cảm của những miền đất khác vào nền văn học Anh, phản ánh một thế giới hoàn toàn bị thống trị bởi người châu Âu. Giữa lòng tăm tối là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Joseph Conrad, là kiệt tác văn học mà giới mộ điệu văn chương đều đã quen thuộc. Cuốn tiểu thuyết bao trọn câu chuyện phiêu lưu hải hồ của Marlow dựa trên hành trình có thật của chính tác giả vào năm 1890. Là người của biển cả, Marlow nghe theo tiếng sóng vẫy gọi, khao khát đi tới những miền đất chưa định danh trên địa đồ - “những khoảng trống của niềm hân hoan”, “một vạt trắng cho giấc mơ huy hoàng”, dấn thân vào “vùng tăm tối vô phương thấu hiểu”, cùng với tính hiếu kỳ thản nhiên của một trí óc tế nhị và trạng thái điềm tĩnh của một con tim sắt đá. Trên một con tàu hơi nước vá víu xập xệ thiếu thốn đủ đường, cùng thủy thủ đoàn là mấy tay da đen của bộ tộc ăn thịt người lúc nào cũng bốc mùi thịt hà mã thiu, Marlow ngược dòng con sông Congo hùng vĩ, bí hiểm mà mê hoặc để hoàn thành một nhiệm vụ tưởng chừng như bất khả thi. Ông phải đi cứu Kurtz - người được ca tụng khắp nơi là “thiên tài toàn năng”, kiếm được nhiều ngà voi nhất Công ty, được cả dân da đen yêu kính hết mực và đang ốm thập tử nhất sinh ở vùng thượng nguồn - về với văn minh, trước khi gã lìa đời. Sau bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy của chốn rừng thiêng nước độc, Marlow tới được nơi, gặp được người, nhưng chỉ trở về với một tập tài liệu và lời tuyệt mệnh: “Nỗi kinh hoàng! Nỗi kinh hoàng!” Miền hoang dã Phi châu tạo ra bao nhiêu trở ngại cho con tàu của Marlow thì Giữa lòng tăm tối cũng gây ra bấy nhiêu sóng gió trong giới văn chương thậm chí cả giới phân tâm học, hoạt động nhân quyền hay nghiên cứu châu Phi cũng nhảy vào cuộc. Người ta bàn ra tán vào, khẩu chiến rồi cả bút chiến với nhau về cách hành văn của tác giả, cấu trúc, ý nghĩa của tác phẩm và vô vàn những thứ khác. Một trong những chủ đề được tranh cãi quyết liệt nhất chính là vấn đề phân biệt chủng tộc. Chinua Achebe - nhà văn, nhà thơ người Nigeria từng chỉ trích tác phẩm này là “phân biệt chủng tộc một cách khủng khiếp” với những hình ảnh miêu tả người da đen như những kẻ mọi rợ ngu đần, như những con vật chịu đòn roi. Những tình cảnh đáng thương, những vụ tra tấn kinh hoàng đều được kể lại bằng chất giọng lạnh lùng, vô cảm. Thế nhưng những lập luận khác lại cho rằng tại thời điểm Conrad viết cuốn tiểu thuyết này, khái niệm “phân biệt chủng tộc” vẫn chưa thành hình, quan niệm về khác biệt chủng tộc vẫn còn in đậm. Đó là thời người da đen bị trưng bày như thú lạ tại những nước đế quốc, và bị đối xử như súc vật, nô lệ tại những vùng thuộc địa. Vì thế, không thể trách cứ Conrad được. Tuy vậy, chính nhà văn cũng từng khẳng định rằng Giữa lòng tăm tối ngầm ý chỉ ra “tội ác của sự kém hiệu quả và ích kỷ thuần túy khi khai hóa văn minh ở châu Phi”. Thật vậy, hãy đọc những dòng này trong truyện: “Tôi ngờ rằng với họ cai trị chỉ đơn thuần là bóp nghẹt, không hơn. Họ là kẻ chinh phục, mà chinh phục thì chỉ cần vũ lực - vốn chả có gì đáng huênh hoang, vì sức mạnh của anh chỉ là ngẫu nhiên phát sinh từ cái yếu của kẻ khác. Họ vơ vét được bao nhiêu hay bấy nhiêu, vơ vét để mà vơ vét. Đó chẳng qua là cưỡng đoạt bằng bạo lực, sát nhân có tình tiết tăng nặng trên diện rộng...” Như thế, Giữa lòng tăm tối, ở một chừng mực nào đó, có thể coi là một bản cáo trạng về lòng tham, thói ưa hủy diệt và quyền lực chuyên chế của chủ nghĩa thực dân, “một bài phân tích về sự suy nhụt nhuệ khí của người da trắng, khi anh ra thoát khỏi vòng kiềm tỏa của châu Âu, bám rễ ở miền nhiệt đới với vũ khí trang bị đến tận chân răng, để thu lợi từ tầng lớp bị trị”. Và con sông dẫn tới “trái tim của một vùng tăm tối khôn cùng” không phải là con sông Congo cuộn xoáy ở lục địa Đen mà là con sông Thames êm đềm, dưới bầu trời hôn ám của “đế chế nơi mặt trời không bao giờ lặn”. Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Bằng ngôn từ mơ hồ mà dứt khoát, huyền bí mà hữu hình, Joseph Conrad đã viết nên một áng văn đậm chất thơ, hấp dẫn, ám ảnh và đầy tính biểu tượng - một kiệt tác của của nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy, của phiêu lưu, của thiên nhiên hoang dại, hùng vĩ, và ảo tưởng của cả thời đại. *** Nellie, chiếc thuyền hai buồm, buông neo không một tiếng buồm lật phật, lặng lẽ nghỉ ngơi. Nước đã xuống, gió cơ hồ đã lặng; được buộc dưới sông, nó chỉ còn một việc là đậu đó đợi triều lên. Cửa sông Thames trải dài trước mắt chúng tôi, như khởi đầu của một thủy lộ dài bất tận. Ngoài khơi xa biển và trời liền thành một tấm áo không thấy đường may, và trong không gian lung linh này, những cánh buồm rám nắng vẫn dập dờn trên ngọn thủy triều như đứng yên thành từng cụm vải bạt đỏ chóp nhọn, lấp lánh ánh vécni từ những cột buồm. Sương lan trên những bãi bồi phẳng lì chạy dài tít tắp về phía biển. Bầu trời trên Gravesend[1] tăm tối, còn phía xa dường như vẫn ngưng tụ thành một quầng u ám thảm sầu, âm trầm bất động trùm lên đô thành lớn nhất và vĩ đại nhất trên trái đất. Tay Giám đốc Công ty là thuyền trưởng và chủ nhà của chúng tôi. Bốn người bọn tôi[2] trìu mến nhìn bóng lưng gã đứng trên mũi thuyền, nhìn về phía biển. Cả sông không có hình ảnh nào đại dương bằng nửa gã. Nhìn gã như một hoa tiêu, niềm tin của người đi biển được nhân cách hóa. Khó mà nhận ra, nghề của gã không phải ngoài kia, nơi giang khẩu lung linh, mà ở sau lưng, giữa vùng âm trầm u ám nọ. Giữa chúng tôi, như đã có lần tôi từng nói[3], có sự gắn bó của biển khơi. Ngoài việc neo đậu lòng nhau sau những quãng dài xa cách, nó còn giúp chúng tôi chịu đựng được những huyên thuyên, thậm chí là định kiến, của nhau. Tay Luật sư - loại bạn già chơi rất được - bởi tuổi cao đức trọng nhất hội, sở hữu cái đệm duy nhất trên boong, và nằm trên tấm thảm duy nhất. Tay Kế toán ôm theo hộp domino và đang lẩn mẩn xây nhà với những mảnh ngà. Marlow ngồi xếp bằng ở đuôi tàu, lưng dựa vào cột buồm lái. Má hóp, da vàng, lưng thẳng, dung mạo khắc khổ, đôi tay buông xuôi, lòng bàn tay ngửa ra trước, gã nhìn như một bức ngẫu tượng. Tay giám đốc, yên tâm là neo đã chắc, xuống đuôi tàu nhập bọn với chúng tôi. Cả bọn uể oải trò chuyện đôi lời. Rồi boong tàu chìm trong im lặng. Bởi lẽ gì đó, chúng tôi không bắt đầu ván domino ấy. Chúng tôi thấy trầm tư, chẳng có hứng làm gì ngoài tĩnh tâm quan sát. Ngày tàn dần trong cái bình lặng của ánh quang huy thanh tĩnh và tú lệ. Nước tỏa sáng một cách bình yên; vòm trời, không một gợn mây, như một khoảng mênh mông ôn nhuận ngập tràn thứ ánh sáng vô nhiễm; màn sương trên đầm lầy miền Essex[4] giống một tấm sa mỏng phát quang, rủ xuống từ những triền cao cây phủ trong nội địa, buông từng lớp trong mờ lên những bãi bồi. Chỉ riêng vùng ảm đạm phía tầy, vần vũ trên thượng lưu, là mỗi lúc một thêm u ám, như thể phẫn nộ trước sự lấn tới của mặt trời. Và cuối cùng, trong một đường lặn hình cung không thể cảm nhận được, mặt trời chìm dần, và từ màu trắng rực đổi sang sắc đỏ đục không phát quang và tỏa nhiệt, như thể sắp đột ngột tắt lịm, bị hạ sát khi chạm phải quầng u ám đang vần vũ trên một vùng người. Lập tức mặt nước bắt đầu thay đổi, và vẻ bình lặng kia bớt xán lạn nhưng lại nồng đậm hơn. Con sông lâu đời an tĩnh nghỉ ngơi giữa dòng nước mênh mang lúc ngày tàn, sau bao thuở phục vụ đắc lực chủng tộc định cư hai bên bờ, trải rộng trong vẻ tôn nghiêm bình đạm của một thủy lộ dẫn đến những chốn tận cùng trái đất. Bọn tôi quan sát dòng chảy khả kính này, không phải dưới hồng quang rực rỡ của một ngày ngắn ngủi một đến rồi đi không trở lại, mà trong ánh sáng uy nghi của ký ức trường tồn. Và quả thực, với kẻ từng, như người ta vẫn nói, “đi theo tiếng gọi biển khơi” với niềm đam mê và sùng kính, không gì dễ dàng hơn việc triệu hoán những anh linh quá khứ trên hạ lưu sông Thames. Con nước thủy triều vẫn miệt mài, tận tụy xuống lên, tràn ngập ký ức về người và thuyền từng được nó đưa về lại cố hương hoặc đem vào hải chiến. Nó từng quen biết và phục vụ tất cả những con người mà dân tộc này hằng tự hào, từ Sir Francis Drake tới Sir John Franklin, đều là Hiệp sĩ, có tước hiệu và không tước hiệu[5] - những hiệp khách giang hồ của biển cả. Nó từng vận chuyển những con tàu với cái tên lấp lánh như ngọc trong đêm tối thời gian, từ chiếc Golden Hind trở về với hai mạn tròn chất đầy châu báu và được ngự giá Nữ hoàng đến thăm, rồi từ ấy rời xa dòng chảy huyền thoại này[6], đến chiếc Erebus và Terror, theo đuổi những cuộc chinh phục khác - và không bao giờ quay lại[7]. Nó biết rõ cả hải thuyền và hải khách. Họ giong buồm từ Deptford, Greenwich và Erith[8] - kẻ phiêu lưu lẫn người lập nghiệp; tàu Hoàng gia cùng thuyền thương khách; thuyền trưởng, đô đốc, đám hắc thương[9] vùng Viễn Đông, các “tướng lĩnh tự phong của Hải đội Đông Ấn. Săn vàng hay cầu danh, ai nấy đều khởi hành theo dòng chảy ấy, mang gươm, và thường là cầm đuốc, sứ giả của quyền uy từ lục địa, hộ tống một điểm tinh hỏa từ ngọn lửa thiêng. Có sự vĩ đại nào không từng theo con nước của dòng sông ấy đến với bí ẩn của một miền đất lạ!... Giấc mơ của con người, hạt giống của thịnh vượng chung, mầm mống của đế quốc. Mặt trời lặn; hoàng hôn trùm lên dòng sông, và ánh đèn bắt đầu xuất hiện ven bờ. Hải đăng Chapman, một vật thể ba chân mọc lên từ bãi lầy, chiếu sáng rực rỡ. Ánh đèn từ những con tàu di chuyển trên thủy đạo - một dòng ngược xuôi tấp nập của những ngọn đèn. Và xa hơn về tây, trên thượng lưu, vùng trời phía trên thành phố khổng lồ kia vẫn mang dấu hiệu bất tường, một vầng âm trầm u ám trong ánh tịch dương, một tia nhìn giận dữ chói gắt dưới trời sao. “Nơi đây,” Marlow đột ngột lên tiếng, “cũng từng là một trong những chốn tối tăm trên trái đất.”[10] Gã là người duy nhất trong cả hội còn “đi theo tiếng gọi biển khơi.” Nếu có nói xấu được gã điểm gì thì đó là gã không đại diện cho tầng lớp của mình. Gã là hải khách nhưng cũng là lãng khách, trong khi phần lớn những người đi biển khác sống một cuộc đời, ta tạm gọi là, yên vị. Đầu óc họ mang tâm thức tại gia, và nhà của họ luôn đi cùng họ - con tàu; và tổ quốc của họ cũng vậy - biển cả. Tàu nào cũng giống tàu nào, và biển cả thì muôn đời vẫn thế. Trong sự bất biến của môi trường quanh họ, những duyên hải xa xôi, những mặt người xứ lạ, những bao la biến động của cuộc đời, tất cả lướt qua, được che phủ không phải bởi cảm giác huyền bí mà dưới một thái độ vô tri ít nhiều khinh thị; bởi đối với người đi biển, chẳng có gì huyền bí trừ bản thân biển cả, người tình của sự hiện tồn của y, và khó nhìn thấu như chính số mệnh. Với họ, sau giờ lao động, một cuộc dạo chơi hoặc truy hoan tùy tiện trên bờ là đủ khám phá bí mật của cả một lục địa, và nhìn chung họ thấy bí mật này chả có gì đáng biết. Chuyện của dân đi biển có một sự giản đơn trực diện, toàn bộ ý nghĩa của nó chỉ gói gọn trong một cái vỏ lạc vỡ[11]. Nhưng Marlow không phải dân đi biển điển hình (không kể xu hướng huyên thuyên ở gã), và với gã, ý nghĩa của sự kiện không nằm trong hạt lạc, mà ở ngoài, bao quanh sự tích phát sinh ra nó giống như nguồn sáng nhiệt phát sinh hồng quang, tương tự như những quầng sáng đôi khi ta vẫn quan sát thấy nhờ quang phổ của ánh trăng. Bình luận của gã không làm ai ngạc nhiên. Marlow là như thế. Phát ngôn ấy được đón nhận trong im lặng. Thậm chí chẳng ai buồn lầm bầm; và lúc này gã đang nói, rất chậm rãi... “Tôi đang nghĩ về thời xa xưa, khi quân La Mã lần đầu đặt chân đến đây, một ngàn chín trăm năm trước[12] - như mới hôm qua... Ánh sáng đã phát xuất từ dòng sông này từ... thời các Hiệp sĩ, nhỉ? Phải; nhưng nó như một lưỡi lửa chạy trên đồng cỏ, một vệt chớp giữa trùng mây. Chúng ta sống dưới ánh sáng bập bùng ấy - cầu cho nó bền lâu như vòng quay của trái đất này! Nhưng hôm qua bóng tối vẫn ở đây. Thử tưởng tượng, cảm giác của viên chỉ huy một chiếc... gọi là gì nhể? – Trireme[13] ưu tú trên Địa Trung Hải, đột nhiên bị điều lên phương bắc; vội vàng đi đường bộ băng qua Gauls; và được giao một con thuyền, loại vẫn được các quân đoàn La Mã - hẳn toàn những kẻ khéo tay ghê gớm - đóng cả trăm chiếc trong một, hai tháng, nếu những gì ta vẫn đọc là đáng tin. Thử hình dung ra gã ở đây - nơi tận cùng thế giới, biển màu chì, trời màu khói, kiểu thuyền vững chãi như cây đàn concertina[14] - bơi ngược sông đem theo quân nhu, hoặc mệnh lệnh, hoặc gì cũng được. Bờ cát, đầm lầy, rừng rú, man dân - cơ hồ không có gì vừa miệng người văn minh, không có gì để uống ngoài nước sông Thames. Ở đây chẳng có rượu Falernian[15], và cũng chẳng có chuyện lên bờ. Thi thoảng lại thấy một doanh trại thất tung trong hoang dã, như cây kim mất tích giữa đụn rơm - giá, sương, bão táp, bệnh dịch, lưu đày và chết chóc - cái chết lởn vởn trong không khí, dưới nước, trong bụi rậm. Binh sĩ chắc hẳn chết ở đây như ngả rạ. Phải rồi - gã sống sót. sống tốt là đằng khác, sống mà không nghĩ ngợi gì nhiều, có chăng chỉ đủ để sau này khoác lác về những gì đã trải qua. Họ đủ nam nhi để đối mặt với bóng tối. Mà có lẽ gã đã phấn chấn hơn khi tơ tưởng đến cơ hội được đề bạt lên hải đội ở Ravenna[16] trong ngày một ngày hai, nếu gã có bạn bè thân cận ở Rome và sống sót qua mùa lam chướng này. Hoặc hãy nghĩ tới một công dân trẻ tử tế, khoác toga - chắc hẳn cháy túi vì cờ bạc - theo gót thái thú, hoặc thuế quan, thậm chí thương gia, đến đây mong kiếm chác được chút gì. Đặt chân lên đầm lầy, cuốc bộ xuyên rừng, và khi đến dịch trạm trong nội địa, thì cảm thấy cái man di, man di cùng cực, vây bủa lấy mình, - tất cả sự sống hoang dã bí hiểm sục sôi trong rừng rậm, trong rừng già, trong tim đám man dân. Chẳng có thời gian để làm quen với những bí ẩn ấy. Gã phải sống giữa chốn vô minh, vốn dĩ là điều đáng hận. Song nó cũng tỏa ra sức dụ hoặc, tác động lên gã. Thứ dụ hoặc nảy sinh từ oán hận - hãy tưởng tượng nỗi hối hận, cơn khát khao đào tẩu, sự ghê tởm trong bất lực, tâm lý buông xuôi, cảm giác căm ghét ngày một dâng cao.” Mời các bạn đón đọc Giữa Lòng Tăm Tối của tác giả Joseph Conrad.