Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tử Tế Đáng Giá Bao Nhiêu?

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tử Tế Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Bernadette Russell & Thanh Thảo (dịch) Trước hết, tôi muốn kể về lý do khiến tôi viết quyển sách này. Tháng Tám năm 2011, tôi mang vở hài kịch Etherdome của mình đến dự Lễ hội Nghệ thuật Edinburgh. Vở kịch Etherdome xoay quanh sự phát triển của ngành gây mê ở Mỹ trong thế kỷ 19. (Tôi biết, nghe chẳng có vẻ gì là hài hước cả. Nhưng tin tôi đi, vở kịch ấy hài thật đấy.) Vào sáng ngày thứ bảy của lễ hội, tôi đến quán City Café trên phố Blair để ăn sáng và trò chuyện với mấy người bạn về kế hoạch trong ngày. Lúc đó chiếc ti-vi đằng sau chúng tôi đang phát chương trình thời sự. Đập vào mắt chúng tôi là những hình ảnh vô cùng gây sốc. Thủ đô Luân Đôn đang chìm trong hỗn loạn: một chiếc xe buýt hai tầng đang bốc cháy, hàng trăm người đạp vỡ kính cửa sổ của các cửa hàng và xông vào cướp bóc, cảnh sát chống bạo động có mặt tại hiện trường, mảnh kính vỡ vương vãi khắp nơi, nhiều nhóm người tràn xuống đường, vừa đi vừa đập phá mọi thứ trên đường và phóng hỏa đốt nhà. Bạo động lan rộng từ Tottenham đến Brixton, Peckham và những nơi thân thuộc, yêu quý đối với tôi, những nơi bạn bè tôi đang sinh sống. Sau đó, cuộc bạo động còn lan sang cả Birmingham, Manchester và Bristol, khiến người dân ở đó hoặc là sợ hãi khóa chặt cửa trốn trong nhà, hoặc tức giận đổ xuống đường. Cuộc bạo động kéo dài năm ngày. Chúng tôi không sao rời mắt khỏi màn hình ti-vi. Chúng tôi đã khóc vì quá đỗi kinh ngạc khi chứng kiến những gì đang diễn ra. Chúng tôi đã bàn xem nên làm gì, có thể làm gì và vì sao chuyện này lại xảy ra. Chúng tôi gọi điện về nhà để hỏi thăm người thân, bạn bè và những người chúng tôi quan tâm. Trong khi đó, Mark Duggan, người thanh niên bị giết ở Tottenham, người mà cái chết của anh đã châm ngòi cho cuộc bạo động này, gần như bị quên lãng khi các phóng viên tường thuật bản tin chuyển sang lý giải về những vụ việc này. Mọi việc sau đó còn diễn biến theo chiều hướng đáng sợ hơn. Một đám đông hoảng loạn yêu cầu nhà chức trách sử dụng vòi rồng để đàn áp cuộc bạo động. Một số nhà báo đề nghị những kẻ bạo động nên bị đập bằng dùi cui, những bình luận mang tính phân biệt chủng tộc tràn lan trên các chương trình phỏng vấn, hầu hết đều chĩa mũi dùi vào giới trẻ và người nghèo. Tuy nhiên, vẫn có những tia sáng lóe lên trong tình cảnh tăm tối ấy. Monika Konczyk, một cư dân mới chuyển tới Luân Đôn, người đang vô cùng sợ hãi vì bị mắc kẹt trên sân thượng của một tòa nhà đang cháy, đã nhảy xuống và được những người dưới đất đỡ an toàn. Mọi người đã chung tay gây quỹ cho Maurice Reeves ở Croydon để giúp anh gầy dựng lại việc kinh doanh sau khi cửa hiệu đồ nội thất của gia đình anh bị nhóm người bạo loạn phá hủy. Tại quận Peckham gần đó, người dân địa phương dán hàng ngàn mẩu giấy nhỏ lên tường để kêu gọi hòa bình, thể hiện tình yêu dành cho cộng đồng mình đang sống cũng như yêu cầu chấm dứt sự tàn phá đang diễn ra. Trên Twitter, Dan Thompson khởi xướng chiến dịch #riotcleanup kêu gọi mọi người góp sức dọn dẹp những đống đổ nát do cuộc bạo động gây ra. Kết quả là hàng trăm người đã mang theo chổi và túi đựng rác để tham gia chiến dịch. Chúng tôi cũng đã chứng kiến những hành động đẹp ấy. Tôi rời Edinburgh để trở về Luân Đôn, tự hỏi không biết điều gì đang chờ đợi mình ở đó. Mọi thứ trông thì vẫn vậy, nhưng tất cả không còn được như trước nữa. Tôi đến thăm ông Patel, ông chủ cửa hàng cạnh nhà tôi. Ông kể cửa hàng của em họ ông ở Croydon đã bị phá hủy. Tôi buồn cho ông và những người khác. Tôi cứ nghĩ mãi về sự hỗn loạn đang diễn ra trên thế giới này, từ vấn đề môi trường đến chiến tranh, xung đột, nạn đói, những loài động vật đang có nguy cơ tuyệt chủng, v.v. Tôi băn khoăn không biết trong khi thế giới còn quá nhiều nỗi bất an thế kia, thì tôi viết các vở kịch về mấy nha sĩ thời Nữ hoàng Victoria để làm gì? Tôi tự hỏi mình có thể làm gì khi đối diện với những việc này. Nhưng ngày hôm đó, câu trả lời của tôi là “Mình chẳng làm được gì cả” . Thật sự tôi không thể làm được gì để tạo nên sự khác biệt cho thế giới. Ai chỉ cần thử làm điều đó thôi cũng sẽ chẳng khác nào kẻ ngốc. Ngày hôm sau, ngày 18 tháng Tám năm 2011, tôi đứng xếp hàng tại bưu điện địa phương, và đứng trước tôi là một chàng trai trẻ. Anh bước đến quầy tính tiền, và tôi vô tình nghe anh nói anh muốn gửi hồ sơ xin cấp bằng lái xe nhưng lại để quên tiền ở nhà. Bỗng nhiên lúc đó tôi nói không một chút do dự, “Để tôi trả tiền cho cậu. Giá một con tem cũng rẻ thôi, không thành vấn đề đâu”. Chàng trai rối rít cảm ơn tôi trước khi rời đi. Tôi suy nghĩ về việc vừa xảy ra. Có lẽ tôi đã làm chàng trai ấy phấn chấn lên một chút, và thật ra tôi cũng vui, vì tôi đã tạo được sự khác biệt nho nhỏ cho cuộc sống của người khác. Về đến nhà, tôi tâm sự với chồng, “Em biết mình phải làm gì rồi”. “Về chuyện gì vậy em?” “Về mọi chuyện.” “Ồ…” “Mỗi ngày em sẽ làm một việc tốt cho một người lạ. Em sẽ duy trì điều đó trong vòng 366 ngày (trừ hao cho năm nhuận), để xem sự tử tế có thể thay đổi thế giới này không nhé.” Mọi chuyện đã bắt đầu như vậy đó. Kết quả là “kẻ ngốc” này đã trải qua một năm đầy cảm hứng, tràn ngập niềm vui, đong đầy sức sống, tuy cũng có những lúc hồi hộp và căng thẳng, nhưng nhìn chung, đó là một năm đáng sống nhất đời tôi. Không hề quá lời khi nói một năm ấy đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời tôi. Trong suốt một năm đó, tôi đã học được rất nhiều bài học giá trị mà tôi sắp chia sẻ với bạn trong quyển sách này. Nhưng trước khi chúng ta bắt đầu, tôi xin nói một cách ngắn gọn rằng bạn hãy tin tôi, việc tận dụng cơ hội mỗi ngày để đối xử tử tế với bản thân, với những người xa lạ, với người bạn yêu thương và với cả thế giới sẽ làm bạn cảm thấy hạnh phúc và gắn kết với mọi người, mọi sự hơn bao giờ hết. Sống tử tế còn mang đến cho bạn cảm giác an yên, thoải mái và cả bánh ngọt nữa (bật mí với bạn là tôi từng được nhận nhiều bánh ngọt lắm đấy). Thời đại nào cũng cần sự tử tế. Nhưng tôi tin rằng ngay lúc này đây, sự tử tế quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta luôn cần sự tử tế. Nhưng tôi tin rằng ngay lúc này, khi chúng ta tuy kết nối chặt chẽ với nhau, nhưng lại xa cách nhau hơn bao giờ hết, khi xung quanh ta tràn ngập những hình ảnh và thông tin tiêu cực về con người, khi chúng ta đang rất cần lắng nghe nhau để tìm cách dàn xếp các mâu thuẫn, khi tất cả chúng ta đều muốn kết thúc chiến tranh và ngừng hủy hoại trái đất - ngôi nhà chung của chúng ta, khi chúng ta cần xây dựng tương lai tươi sáng hơn và tin vào bản thân cũng như người khác, thì sự tử tế còn quan trọng hơn bao giờ hết. Bạn có thể đọc quyển sách này tuần tự từ đầu đến cuối, hoặc ưu tiên đọc trước những chương bạn quan tâm. Đừng quên chia sẻ với tôi những gì bạn đã làm và khám phá được sau khi đọc quyển sách này. Bạn có thể nhắn tin cho tôi trên Twitter qua địa chỉ @betterrussel, hoặc gắn hashtag #bekind vào bài viết của mình. Nhưng trước khi đi vào nội dung chính của quyển sách, tôi xin nêu một số ví dụ về cách sự tử tế có thể khiến cuộc sống của bạn trở nên tốt đẹp hơn. Sống tử tế làm bạn hạnh phúc Nói một cách đơn giản, khi bạn làm một việc tử tế, nồng độ dopamine trong não bạn sẽ tăng lên, tạo cho bạn một cảm giác hưng phấn tự nhiên. Người ta gọi đó là “cảm giác ấm áp trong lòng”. Bạn có thể tự thử nghiệm điều này và để ý xem làm việc tốt khiến bạn cảm thấy thế nào. Bạn cảm thấy vui, một phần vì bạn có thể tự nhủ, “Mình đã làm được một việc tốt. Mình là một người tốt bụng” và cảm thấy tự hào về bản thân. Bạn sẽ thấy bản thân mình và người khác tốt đẹp hơn, vì bạn bắt đầu để ý xung quanh mình có rất nhiều điều tử tế. Bạn sẽ suy nghĩ tích cực hơn về con người nói chung, và bạn sẽ thấy như mình được tiếp thêm sức mạnh. Cuộc sống của bạn sẽ trở nên thú vị và vui tươi hơn. Sống tử tế có lợi cho trái tim của bạn Sự thật là vậy đấy. Sống tử tế góp phần tạo ra hoóc-môn oxytocin trong não và khắp cơ thể. Oxytocin giải phóng oxit nitric trong mạch máu, từ đó mở rộng các mạch máu, giảm huyết áp và bảo vệ trái tim của bạn. Sống tử tế giúp bạn luôn tươi trẻ Nghiên cứu cho thấy lượng oxytocin được sản sinh bởi cảm giác ấm áp khi chúng ta làm điều tử tế sẽ làm giảm mức độ các gốc tự do cũng như sự viêm nhiễm ảnh hưởng đến hệ tim mạch. Đây là hai thủ phạm chính đẩy nhanh quá trình lão hóa. Vì vậy, người tử tế thường rất tươi trẻ, cả về tâm hồn lẫn ngoại hình. Sự tử tế cần thiết cho tất cả mọi người Khi đối xử tốt với ai đó, bạn cảm thấy mình được kết nối với họ, giữa bạn và họ hình thành một mối quan hệ gắn bó. Tổ tiên của chúng ta đã học cách hợp tác với nhau để sống sót, và một nhóm người có mối quan hệ bền chặt có cơ hội sống sót cao hơn. Đó là chân lý tồn tại hàng ngàn năm nay. Con người chúng ta vốn đã tử tế từ trong gien rồi. Sự tử tế có thể lan tỏa đến người khác Khi sống tử tế, chúng ta truyền cảm hứng cho người khác làm điều tương tự. Trải nghiệm của tôi chính là minh chứng cho điều này. Từ khi tôi bắt đầu dự án này cho đến nay, ngày nào cũng có người liên hệ với tôi và kể cho tôi nghe về một điều tử tế họ đã làm hoặc nhận được. Vì vậy, hãy sống tử tế, chia sẻ câu chuyện của bạn và quan sát xem bạn đã khơi nguồn cảm hứng ở người khác như thế nào. Hãy bắt đầu làm điều tử tế ngay bây giờ. Chúc bạn nhiều niềm vui. Bernadette Russell *** Tóm tắt Cuốn sách "Tử tế đáng giá bao nhiêu?" của tác giả Bernadette Russell là một câu chuyện kể về hành trình thực hiện 365 ngày làm việc tử tế cho người lạ của tác giả. Từ trải nghiệm của bản thân, tác giả đã rút ra nhiều bài học quý giá về sự tử tế, và chia sẻ những điều đó với người đọc. Review Cuốn sách được viết với giọng văn nhẹ nhàng, dễ hiểu, giàu cảm xúc. Tác giả sử dụng nhiều câu chuyện và ví dụ thực tế để minh họa cho những luận điểm của mình. Nội dung cuốn sách được chia thành 10 chương, mỗi chương sẽ đề cập đến một khía cạnh khác nhau của sự tử tế. Trong chương đầu tiên, tác giả giới thiệu khái niệm về sự tử tế và giải thích tầm quan trọng của nó trong cuộc sống. Các chương tiếp theo sẽ đi sâu vào phân tích những lợi ích của sự tử tế đối với bản thân, đối với cộng đồng và đối với thế giới. Tác giả cũng chia sẻ những cách thức cụ thể để thực hiện sự tử tế trong cuộc sống hàng ngày. Những nội dung chính của cuốn sách bao gồm: Sự tử tế là một hành động đơn giản nhưng có sức mạnh to lớn. Nó có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta, của người khác và của cả thế giới. Sống tử tế mang lại nhiều lợi ích cho bản thân, bao gồm: hạnh phúc, sức khỏe, sự tươi trẻ, và các mối quan hệ tốt đẹp. Sự tử tế cần thiết cho tất cả mọi người, bởi nó giúp chúng ta kết nối với nhau và tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn. Sự tử tế có thể lan tỏa đến người khác, truyền cảm hứng cho họ làm điều tương tự. Đánh giá chung Cuốn sách "Tử tế đáng giá bao nhiêu?" là một cuốn sách hay và bổ ích, đặc biệt là đối với những người đang tìm kiếm cách để sống một cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa hơn. Cuốn sách sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về sự tử tế, và truyền cảm hứng cho bạn bắt đầu thực hiện những hành động tử tế trong cuộc sống hàng ngày. Mời các bạn mượn đọc sách Tử Tế Đáng Giá Bao Nhiêu? của tác giả Bernadette Russell & Thanh Thảo (dịch)

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn - Anthony Robbins
Khi thấy một ai đó thành đạt ta thường tự hỏi “làm thế nào để anh ta có được thành quả ấy?”, mặc dù xét về xuất phát điểm có thể họ không đủ tư chất bằng ta, thế nhưng sao họ lại sớm đạt được sự thành công như ý... Sự khác biệt này thường đơn giản là vì bạn luôn có những nỗi sợ hãi tiềm ẩn trong tư tưởng, nhận thức của mình - Nó được tích lũy và phát triển, đôi lúc lại dâng cao để tự bảo vệ, ngăn chặn những rủi ro có thể xảy đến, dần dần biến thành một lớp vỏ bọc - đó chính là trở lực của thành công. Vận dụng được nguồn năng lực vô hạn, không những loại bỏ được sự sợ hãi mà còn cho ta một thái độ sống tích cực, tự tin, dám nghĩ dám làm. Đó là nguồn nhiên liệu không bao giờ cạn kiệt đang chờ sự khởi động đúng lúc, nhịp nhàng để mọi người có thể đạt đến đỉnh điểm của thành công. Con người chỉ có thể chuyển đổi cuộc sống của mình một cách ngoạn mục, thần kỳ khi biết tìm cách khai thông, giải phóng nguồn năng lực tiềm ẩn đó. Nội dung sách sẽ là hồi chuông Đánh thức nguồn năng lực vô hạn trong mỗi chúng ta. *** Nếu bạn chưa bao giờ mơ tưởng mình sẽ có được cuộc sống tốt hơn, Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn (Unlimited Power) sẽ chỉ cho bạn cách để có cuộc sống như ý muốn và xứng đáng thụ hưởng, thông qua một lĩnh vực khoa học mới giúp phát huy thành tựu xuất sắc của cá nhân. Tác giả sẽ giúp bạn: - Nhận ra bạn thật sự mong muốn điều gì - Khám phá 7 giả phỏng về thành công - Tái lập trình cho trí não để vượt qua nỗi sợ và nỗi ám ảnh - Tạo ra sự hòa hợp ngay tức thì với những người lần đầu tiên gặp gỡ - Sở hữu 5 chìa khóa mang lại hạnh phúc và thịnh vượng Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn (Unlimited Power) là một quyển sách mang tính “cách mạng” dành cho trí não, từng bước hướng dẫn bạn phát huy tối đa năng lực của bản thân trong khi vẫn cảm thấy thoải mái và an tâm về tài chính, rèn khả năng lãnh đạo và nuôi dưỡng lòng tự tin, đắc nhân tâm và có được sự hợp tác của mọi người. Mời các bạn đón đọc Đánh Thức Năng Lực Vô Hạn của tác giả Anthony Robbins.
Thay Đổi Tư Duy - Nghệ Thuật Và Khoa Học Thay Đổi Tư Duy Của Bản Thân Và Những Người Khác
CẦN LÀM GÌ ĐỂ THAY ĐỔI TƯ DUY? Hãy nhớ lại lần gần nhất bạn muốn thay đổi tư duy của người nào đó về vấn đề quan trọng, như: niềm tin chính trị của một cử tri; nhãn hàng yêu thích của một khách hàng; sở thích trang trí của người bạn đời; thái độ học tập của một trẻ vị thành niên. Khả năng nhiều là bạn không thể thay đổi niềm tin của người đó một cách đáng kể. Chúng ta hay cố thay đổi tư duy nhưng vẫn thường thất bại, tại sao hiện tượng này lại bí ẩn đến vậy? Tư duy được thiết lập như thế nào? Và chính xác là cái gì có thể thay đổi cách suy nghĩ đó? Cuốn sách đột phá của nhà tâm lý học nổi tiếng thế giới từ Đại học Harvard Howard Gardner đã đưa ra những quan điểm sâu sắc về vấn đề nan giải nhưng thú vị này. Qua đó thay đổi cách mọi người tác động lẫn nhau trong công việc, gia đình và mọi lĩnh vực cuộc sống. Với công trình nghiên cứu mang tính cách mạng về trí thông minh, sáng tạo và lãnh đạo hơn 30 năm qua, Gardner cho rằng tư tưởng truyền thống xem thay đổi tư duy là một "hiện tượng" đột ngột xảy ra hoàn toàn sai lầm. Thay vào đó, Gardner chỉ rõ tư duy của chúng ta thay đổi dần dần dưới một số tác động tích cực và mạnh mẽ. Trên cơ sở nghiên cứu về nhận thức hàng thập kỷ, Gardner xác định có 7 yếu tố đòn bẩy hỗ trợ hoặc cản trở quá trình thay đổi tư duy, trong đó có: lý luận, nghiên cứu, các sự kiện trong hoàn cảnh thực tế, và sự chống đối. Thông qua các câu chuyện minh họa về những "đối tượng thay đổi" nổi tiếng hay đời thường trong lĩnh vực chính trị, kinh doanh, nghệ thuật, cũng như trong cuộc sống hàng ngày, cuốn Thay đổi tư duy đưa ra một quy chuẩn vận dụng những yếu tố đòn bẩy để tạo ra sự thay đổi to lớn trong quan điểm và hành động. Dù là việc tái định hướng nước Anh của bà Margaret Thatcher hay là việc chuyển hóa BP của Ngài John Browne, hay cuộc cách mạng về tiến hóa của Charles Darwi, dù là quá trình tác động lẫn nhau giữa vợ chồng, bạn bè, hay những quyết định thay đổi tư duy bản thân, ở đó Garner vẫn khám phá ra những nét tương đồng đáng ngạc nhiên bên cạnh những nét khác biệt cần học hỏi của các yếu tố tác động đến quá trình thay đổi tư duy trong những hoàn cảnh khác nhau.  Giải mã hiện tượng đã ăn sâu vào tâm lý hành xử của con người, Thay đổi tư duy chia sẻ một số ý kiến sâu sắc, qua đó mở rộng tầm hiểu biết và làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn. *** Thông qua “Thay đổi tư duy”, Gardner mô tả bảy nhân tố, hoặc bảy mức độ, có thể được một cá nhân sử dụng để thay đổi tư duy thành công: •    Lý luận. Một sự tiếp cận dựa trên lý trí bao gồm nhận biết các yếu tố có liên quan, cân nhắc từng yếu tố và đi đến đánh giá toàn diện. Lý do có thể bao gồm tính logic tuyệt đối, việc vận dụng phép loại suy hay sự sáng tạo của các nguyên tắc phân loại. •    Nghiên cứu. Bổ sung cho vai trò của lý luận là thu thập những dữ liệu có liên quan. Tuy vậy, việc nghiên cứu không phải lúc nào cũng mang tính chất chính quy; mà chỉ cần xác định những trường hợp có liên quan và đánh giá xem chúng có tác động đến việc thay đổi tư duy hay không. •    Sự cộng hưởng. Một quan điểm, một ý tưởng, hay một cách nhìn phải tạo sự cộng hưởng khiến người ta cảm thấy nó đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, và thuyết phục người đó không cần phải xem xét gì thêm. Gardner cũng chỉ ra rằng thuật hùng biện là phương tiện cốt yếu cho sự thay đổi tư duy. Ông giải thích rằng thuật hùng biện có hiệu quả nhất khi chứa đựng logic chặt chẽ, rút ra từ những nghiên cứu có liên quan, và có tác động cộng hưởng với người nghe. •    Tiếp cận ý tưởng theo nhiều cách khác nhau (hay còn gọi là Tái diễn giải). Sự thay đổi tư duy trở nên thuyết phục hơn khi nó được thể hiện ở những hình thức khác nhau, bổ sung lẫn nhau. Từ cái nhìn tâm lý học, việc cung cấp nguồn hậu thuẫn là một trường hợp tăng cường mang tính tích cực. Tuy nhiên, rốt cuộc nếu cách suy nghĩ mới không phù hợp với những tiêu chí khác – như lý luận, nghiên cứu, sự cộng hưởng – thì nó sẽ không thể tồn tại khi không còn nguồn hậu thuẫn. •    Những biến cố trên thế giới. Đôi khi, một sự kiện lớn diễn ra trong xã hội có ảnh hưởng đến nhiều người, không chỉ những cá nhân muốn thay đổi tư duy. Những sự kiện này bao gồm chiến tranh, bão tố, khủng bố, hay sự suy thoái kinh tế. •    Những sự phản kháng. Không phải mọi yếu tố đều giúp thay đổi tư duy. Muốn tìm hiểu về thay đổi tư duy phải xét đến sức mạnh của những ý nghĩ phản kháng khác nhau.   Mời các bạn đón đọc Thay Đổi Tư Duy Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và những người khác của tác giả Howard Gardner.
Tư Duy Như Một Hệ Thống - David Bohm
Cuốn sách Tư duy như một hệ thống được tập hợp từ những trao đổi của David Bohm trong seminar ba ngày từ 31.11.1990 đến 2.12.1990 tại Ojai, California. Trong ba ngày trò chuyện với năm mươi người tham gia seminar, David Bohm đã đưa ra một cách nhìn triệt để về những nguồn gốc tiềm ẩn bên trong những xung đột giữa người với người, và tìm hiểu những khả năng cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể. Ông đã đưa ra chủ đề về vai trò của tư duy và tri thức ở mọi cấp độ của đời sống con người, từ những suy nghĩ riêng tư về căn tính của cá nhân đến những nỗ lực tập thể nhằm vươn tới một nền văn minh tốt đẹp hơn. Bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn Wholeness and Implicate Order (Cái toàn thể và Trật tự ẩn), David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hậu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Cùng với Cái toàn thể và Trật tự ẩn, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả những tư tưởng đặc sắc của David Bohm qua bản dịch Tư duy như một hệ thống với một văn phong tiếng Việt sáng rõ và khoa học của các dịch giả Tiết Hùng Thái, Chu Trung Can. *** David Joseph Bohm sinh ngày 20.12.1917 tại Wilkes-Barre, Pennsylvania, trong một gia đình Do Thái. Tuổi thơ của ông trôi qua không êm đềm. Nhận được ít sự chia sẻ từ cha mẹ, ông đã tìm cảm hứng trong thế giới của riêng mình, và ngay từ những năm đầu đời ông đã bộc lộ tính cách của một người thiết tha kiếm tìm chân lí. Là một nhân vật hàng đầu trong thế giới vật lí lượng tử, và là giáo sư Vật lí lí thuyết tại Trường Birkbeck, Đại học London các năm 1961-1983, từ khi bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình, Bohm đã đặt niềm tin vào trực giác nhiều hơn là vào con đường toán học thông thường. Ông tin rằng bằng cách chú ý đến cảm xúc và trực giác của mình, ông có thể đi đến một sự hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của vũ trụ mà con người là một phần trong đó. Tốt nghiệp Đại học Pennsylvania năm 1939, và hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ tại Berkeley dưới sự hương dẫn của Robert Oppenheimer, công việc của ông ban đầu liên quan tới sự tán xạ neutron-proton và các vấn đề nguyên lí thiết kế của máy gia tốc hạt. Ông chuyển tới Phòng thí nghiệm Bức xạ nơi ông làm việc trong Dự án Manhattan. Từ đây ông đã phát triển công cụ lí thuyết mới để mô tả dao động plasma và trở nên nổi tiếng với vai trò một nhà vật lí lí thuyết. Năm 1947, Bohm chuyển đến Đại học Princeton. Ở đây ông đã áp dụng những ý tưởng của mình về plasma để nghiên cứu hành vi của các electron trong kim loại. Những nghiên cứu này của ông cùng các cộng sự đã được quốc tế công nhận. Cũng tại Princeton, mối quan tâm đặc biệt của Bohm về những nền tảng của cơ học lượng tử đã bén rễ. Để hiểu hơn về chủ đề này, ông đã quyết định viết một cuốn sách giáo khoa, Quantum Theory (Lí thuyết lượng tử - 1951‖. Cuốn sách được đón nhận rộng rãi, và đến nay đã trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của vật lí lượng tử. Nhưng sau khi hoàn thành Quantum Theory, Bohm cho rằng cuốn sách này chưa thật thỏa đáng. Và ngay sau đó, ông đã đăng hai bài báo cho thấy một cách tiếp cận khả dĩ khác, và cách tiếp cận này dường như đã hiện thực hóa những điều mà quan điểm chính thống coi là không thể. Sau những hiểu nhầm và rắc rối về chính trị, Bohm chuyển đến Brazil và Israel, rồi tới Đại học Bristol năm 1957. Tại đây, cùng với Yakir Aharanov, ông đã đăng một bài báo quan trọng vạch rõ những hệ quả quan sát đáng ngạc nhiên về vector trường thế. Lúc đầu, ý tưởng của họ không được đó nhận, nhưng nó đã sớm được xác nhận qua thí nghiệm. Ý tưởng này được John Maddox, biên tập viên của tạp chí Nature uy tín, gợi ý đến một giải Nobel. Trong những năm 1970-1980, Bohm lần lượt gặp Krishnamurti và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Và hai con người này đã mở cho Bohm những cánh cửa khác nhau nhìn vào vũ trụ tự nhiên và tâm linh. Bohm mất tại London ngày 27.10.1992. Cuốn sách Tư duy như một hệ thống được tập hợp từ những trao đổi của David Bohm trong seminar ba ngày từ 31.11.1990 đến 2.12.1990 tại Ojai, California. Trong ba ngày trò chuyện với năm mươi người tham gia, David Bohm đã đưa ra một cách nhìn triệt để về những nguồn gốc tiềm ẩn bên trong những xung đột giữa người với người, và tìm hiểu những khả năng cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể. Ông đã đưa ra chủ đề về vai trò của tư duy và tri thức ở mọi cấp độ của đời sống con người, từ những suy nghĩ riêng tư về căn tính của cá nhân đến những nỗ lực tập thể nhằm vươn tới một nền văn minh tốt đẹp hơn. Bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn Wholeness and Implicate Order ― Cái toàn thể và Trật tự ẩn, David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hấu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Là một ứng viên hoàn toàn xứng đáng cho giải Nobel Vật lí nhưng ông không bao giờ có được giải thưởng này. Luôn khiêm nhường, Bohm cho rằng công việc của mình không "quan trọng đến thế". Ông nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ một nhà vật lí vĩ đại khác là Albert Einstein, người luôn tin tưởng ông với vai trò một nhà khoa học, và một con người. Cùng với Cái toàn thể và Trật tự ẩn, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả những tư tưởng đặc sắc của David Bohm qua bản dịch Tư duy như một hệ thống với một văn phong tiếng Việt sáng rõ và khoa học của các dịch giả Tiết Hùng Thái, Chu Trung Can. *** Joseph David Bohm là một nhà vật lí lượng tử người Anh. Ông nguyên là giáo sư danh dự Đại học Birkbeck thuộc Đại học Tổng hợp London. Ông là tác giả nhiều cuốn sách và bài báo, trong đó có Thuyết nhân quả và Ngẫu nhiên trong Vật lý hiện đại, Cái toàn thể và Trật tự ẩn, Vũ trụ không phân chia (viết cùng với Basil Hiley). David Bohm là một trong những người có nhiều ảnh hưởng tới mô hình lí thuyết hiện đại. Sự thách thức của Bohm với những hiểu biết thông thường về lí thuyết lượng tử đã khiến các nhà khoa học suy nghĩ lại về những việc họ đang làm, đặt câu hỏi về bản chất của lí thuyết mà họ đang theo đuổi và xác định phương pháp luận khoa học của họ. Là một ứng viên hoàn toàn xứng đáng cho giải Nobel Vật lý nhưng ông không bao giờ có được giải thưởng này. Luôn khiêm nhường, Bohm cho rằng công việc của mình không "quan trọng đến thế". Ông nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ một nhà vật lý vĩ đại khác là Albert Einstein, người luôn tin tưởng ông với vai trò một nhà khoa học, và một con người. Mời các bạn đón Tư Duy Như Một Hệ Thống của tác giả David Bohm.
Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn - Jamies Holmes
“MỘT CÁI NHÌN SÂU SẮC, SOI THẤU KHÍA CẠNH ĐẦY NGẠC NHIÊN CỦA SỰ MƠ  HỒ VÀ BÍ ẨN. MỘT CUỐN SÁCH CÓ THỂ TRUYỀN CẢM HỨNG CHO VIỆC HỌC TẬP, SÁNG TẠO VÀ THẬM CHÍ LÀ CẢ SỰ ĐỒNG CẢM.” Như Jamie Holmes chỉ ra trong cuốn sách này, sự mơ hồ và bí ẩn, sự nhập nhằng,… khiến chúng ta không thoải mái, do đó chúng ta có xu hướng trốn tránh nó và thường bám riết lấy phương án giải quyết an toàn (nhưng không phải lúc nào cũng là tốt nhất), đặc biệt là trong những tình huống nguy hiểm. Nhưng cũng chính vì thế, chúng ta tước đi của chính mình cơ hội quan trọng để tìm hiểu cách giải quyết vấn đề theo hướng mới hoặc quan sát thế giới từ một góc độ khác. Bằng những hiểu biết về tâm lý học xã hội và khoa học nhận thức của tác giả và thông qua những câu chuyện thú vị - từ trò chơi gián điệp và các giáo phái ngày tận thế cho chiến dịch quảng cáo của Absolut Vodka hay sự sáng tạo của Mad Libs – cuốn sách của Jamie Holmes hứa hẹn sẽ làm thay đổi cách chúng ta tiến hành kinh doanh, giáo dục và đưa ra quyết định. Mọi khía cạnh tích cực của “sự mơ hồ và bí ẩn” và cách tận dụng nó đều nằm trong cuốn sách này! *** N ăm 1996, Đại học City & Islington ở London tổ chức một khóa học tiếng Pháp cấp tốc cho những người mới học và sinh viên dưới trung bình. Paula, một cô bé thiếu niên nghiêm chỉnh đeo một cặp kính gọng mảnh, chưa bao giờ nói được một từ tiếng Pháp nào. Darminder, người có một bộ râu dê và đeo khuyên tai, không chỉ mới học tiếng Pháp mà còn thất bại trong kỳ thi chứng chỉ tiếng Tây Ban Nha tổng quát của bậc giáo dục trung học (GCSE). Abdul đã rớt kỳ thi GCSE tiếng Đức. Satvinder và Maria đều rớt kỳ thi GCSE tiếng Pháp và giáo viên tiếng Pháp của Emily khuyên cô nên bỏ ý định học thứ tiếng này. Tuy nhiên, thay vì từ bỏ tất cả hy vọng, những học viên này đã đăng ký tham gia một khóa học độc nhất vô nhị. Trong năm ngày học toàn thời gian, họ sẽ áp dụng phương pháp kỳ lạ của một nhà ngôn ngữ học tên là Michel Thomas. Trong chiếc áo khoác màu xanh và với mái tóc muối tiêu, trông Thomas toát lên vẻ nhã nhặn. Ông nói với những học viên mới rằng: “Tôi rất mong chờ buổi dạy ngày hôm nay nhưng dưới những điều kiện tốt hơn, vì tôi không nghĩ rằng các em đang ngồi thoải mái. Tôi muốn các em cảm thấy thoải mái, do đó chúng ta sẽ sắp xếp lại mọi thứ.” Trong một chiếc xe tải ở bên ngoài, Thomas đã chuẩn bị sẵn một số vật dụng thay thế không ai ngờ tới cho một lớp học tiêu chuẩn: ghế bành, gối, bàn cà phê, cây cối, thảm, một cái quạt và thậm chí là những tấm đệm gấp làm bằng liễu gai. Chỉ với chút ít thời gian và công sức, các học viên đã hoàn tất việc thay đổi căn phòng. Những chiếc ghế bành lưng cao bọc vải nhung xếp thành một nửa hình ô van, những chiếc rèm xanh được kéo lại, chỉ để lọt ánh sáng mờ trong căn phòng, và những tấm đệm liễu gai bao quanh những chiếc ghế bành mang lại một cảm giác ấm áp và thân mật hơn. Không có những bàn học, bảng đen, giấy, bút hay chì. Thomas không muốn các học viên viết hay đọc bất kỳ thứ gì. Ông không muốn họ nhớ bất cứ điều gì được học, kể cả việc xem lại chúng vào cuối ngày. Nếu trong thời gian học, các sinh viên không nhớ được điều gì đó, ông nói rằng đó không phải vấn đề của họ. Đó là vấn đề của ông. Emily tỏ vẻ hoài nghi. Darminder và Abdul thậm chí còn không giấu được nụ cười tinh quái. Nhưng không ai trong số những sinh viên này có thể ngăn nổi sự tò mò thực sự về người đàn ông đứng tuổi đang đứng trước mặt mình. Ông ta có nghiêm túc không? Không cố gắng nhớ những gì được dạy trên lớp ư? “Tôi muốn các em thoải mái.” Cảnh tượng này, phương pháp của Thomas và các kết quả sau năm ngày học xuất hiện trong một bộ phim phóng sự của đài BBC mang tên Chuyên gia Ngôn ngữ. Margaret Thompson, Trưởng khoa tiếng Pháp của trường được giao nhiệm vụ đánh giá kết quả của Thomas. Vào cuối tuần, bà theo dõi các sinh viên – trong đó rất nhiều người chưa từng nói được một từ tiếng Pháp nào trước đây – đã dịch được những câu hoàn chỉnh sử dụng các dạng ngữ pháp nâng cao. Emily đã có thể dịch được một cụm từ vốn thường mất nhiều tháng để giải quyết: “Tôi muốn biết liệu anh có muốn đến gặp tôi tối nay hay không?” Paula ca ngợi cách Thomas nhấn mạnh sự bình tĩnh và kiên nhẫn. Các sinh viên nói rằng họ cảm thấy như thể đã học được năm năm tiếng Pháp chỉ trong năm ngày. Khá kinh ngạc với kết quả, Thompson rụt rè chấp nhận đánh giá của những học viên này. Michel Thomas biết rằng việc khám phá một ngôn ngữ mới quả thực rất đáng sợ. Các học viên phải đối mặt với cách phát âm mới cho những từ ngữ quen thuộc, các từ vựng mang ý nghĩa kỳ lạ, những phần thiếu của lời nói hay những cấu trúc ngữ pháp lạ lẫm. Đó là lý do vì sao những sinh viên của Đại học City & Islington dù được học trong một môi trường thoải mái vẫn thể hiện sự bối rối: cười lớn căng thẳng, cười nhẹ ngượng ngùng, xin lỗi thầm, nói lắp, lưỡng lự và những cái liếc mắt lúng túng. Học một ngôn ngữ mới đòi hỏi bạn phải đi vào một vùng đất xa lạ. Thomas mô tả ngôn ngữ mới “là thứ xa lạ nhất” mà một người có thể học. Để bảo vệ bản thân trước sự xâm lấn “xa lạ” này, tâm trí sẽ dựng lên những rào cản theo bản năng, vì vậy thách thức đầu tiên và cũng là khó khăn nhất với giáo viên là giúp các học viên kéo đổ những rào cản này. Thomas đã thay đổi môi trường giảng dạy ở Đại học City & Islington từ đáng sợ, đầy căng thẳng thành tò mò, đầy bình tĩnh. Bằng cách nào đó, ông đã khiến tâm trí của các học viên cởi mở hơn. Các học viên vốn có thói quen gạt bỏ những gì chưa hiểu đột nhiên sẵn sàng dấn thân vào những lãnh thổ xa lạ hơn. Vào thời điểm BBC quay phóng sự này (sau đó được phát sóng năm 1997), Thomas đã là một huyền thoại. Ông thành thạo 11 ngôn ngữ, mở ra những trung tâm gia sư ở Los Angeles, New York và xây dựng một thứ gì đó như một “tôn giáo” nhờ vào một danh sách khách hàng bao gồm Grace Kelly, Bob Dylan, Alfred Hitchcock, Coca-Cola, Procter & Gamble và American Express. Nigel Levy, người đã tham gia lớp học của Thomas trước khi sản xuất ra bộ phim phóng sự của BBC, mô tả những bài học của ông là rất “đáng kinh ngạc”. Emma Thompson mô tả thời gian làm việc với ông là “một trải nghiệm học tập đặc biệt nhất trong đời”. Cựu đại sứ Israel ở Liên Hợp Quốc gọi ông là “người lao động thần kỳ”. Và Herbert Morris, cựu Trưởng khoa Nhân văn của UCLA, tiết lộ rằng ông đã học được cả năm tiếng Tây Ban Nha chỉ trong vài ngày học cùng Thomas và vẫn còn nhớ những kiến thức đó mãi tới chín tháng sau. Thomas cho rằng “điều quan trọng nhất là loại bỏ mọi căng thẳng và áp lực”. Ông đặc biệt quan tâm đến trạng thái tâm lý, thậm chí quan tâm đến cực độ. Ví dụ, ông thường bắt đầu dạy tiếng Pháp bằng cách nói với các học viên rằng tiếng Pháp và tiếng Anh có chung hàng nghìn từ vựng, chỉ là chúng nghe có hơi khác nhau một chút. Ông từng nói đùa: “Tiếng Anh chính là tiếng Pháp được phát âm sai.” Ông giải thích rằng những từ ngữ kết thúc với -ible như possible và -able như table đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Nhờ việc biến những điều xa lạ thành thân quen, ngay từ đầu Thomas đã trao cho các sinh viên những nền tảng vững chắc. Các sinh viên ghép kiến thức mới vào kiến thức hiện hữu từng chút một, thể hiện tư duy riêng và không bao giờ lặp lại những cụm từ theo lối học vẹt. Thomas dạy họ cách tự học và hiếm khi phải uốn nắn các học viên một cách trực tiếp. Đến năm 2004, những đĩa CD, băng dạy tiếng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha của Thomas – ghi lại quá trình Thomas dạy từng loại ngôn ngữ cho các nhóm hai học viên – là những khóa học bán chạy nhất ở Anh. Nhưng Michel Thomas không đơn thuần là một nhà ngôn ngữ học. Ông cũng là một anh hùng thời chiến. Cùng năm đó, ông được vinh danh ở Lễ Tưởng niệm Thế chiến II tại Washington D.C, nơi ông nhận được Huy chương Sao Bạc. Ông mất năm 2005 ở New York, là một công dân Hoa Kỳ nhưng sinh ra ở thành phố công nghiệp Lodz, Ba Lan với tên gọi Moniek Kroskof. Ông sống sót qua những trại tập trung, trở thành chỉ huy quân đội, điệp viên và chuyên gia thẩm vấn của phe Đồng Minh. Sau cuộc chiến, ông đã bắt hơn 2.000 tội phạm chiến tranh Đảng Quốc Xã. “Michel Thomas” là nhân dạng giả thứ năm và cũng là bí danh của ông. Kinh nghiệm tuyên truyền chuyên chế và sự nghiệp nằm vùng sau chiến tranh không phải là những điểm đáng chú ý trong lý lịch của Thomas. Những khám phá của ông về cách tâm trí đóng sập cánh cửa hay mở khóa trước sự mơ hồ – trọng tâm chính của cuốn sách này – xuất phát từ những trải nghiệm của ông ở Đức. Ông đã chứng kiến việc Đảng Quốc Xã đã nuôi dưỡng một cách tiếp cận thô bạo, thậm chí khinh bỉ trước sự bất định và phức tạp về đạo đức trong những đảng viên nồng nhiệt nhất như thế nào. Và sau đó ông dành ra nhiều thập kỷ phát triển các phương pháp để nuôi dưỡng một thái độ đối lập tuyệt đối ở những người học ngôn ngữ. Trên thực tế, 50 năm trước khi bộ phim phóng sự của BBC được ghi hình, Thomas đã kiểm tra các ý tưởng đầu tiên của mình trong một phiên bản hoàn toàn đối lập với buổi trình diễn sư phạm của mình ở Đại học City & Islington. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn của tác giả Jamies Holmes.