Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Erwin

Vụ án Erwin (tựa nguyên bản Schlumpf Erwin Mord, sau đó là Wachtmeister Studer) là tác phẩm trinh thám đầu tiên của Friedrich Glauser. Nó cũng là một cột mốc đầu tiên của thể loại trinh thám hình sự phê phán xã hội. Thương gia Witschi bị bắn chết trong khu rừng ở rìa làng Gerzenstein ở Thụy Sĩ. Ông bị cướp tất cả tiền bạc mang theo người. Vào ngày hôm sau, người trong quán rượu “Bären” nhìn thấy Schlumpf Erwin, một anh chàng đã có tiền án trộm cắp, có rất nhiều tiền mang theo người. Schlumpf bỏ chạy trước khi cảnh sát đến tìm anh ta ở phòng trọ, nhưng rồi lại bị hạ sĩ Studer bắt được và đưa về trại tạm giam. Tại đây, Schlumpf toan treo cổ tự tử nhưng không thành vì Studer đã kịp thời cứu anh ta trong giây phút cuối cùng.   Trực giác cho Studer biết rằng anh chàng Schlumpf này vô tội. Nhưng khi về làng Gerzenstein để điều tra thì càng lúc vụ việc lại càng rối rắm hơn. Schlumpf lại yêu chính cô con gái của nạn nhân bị bắn chết. Người anh của cô và bà vợ của Witschi dường như giấu giếm điều gì đó. Không những thế mà cả ông già Ellenberger, ông chủ lao động của Schlumpf, ông trưởng làng, người thầy giáo làng, tất cả mọi người đều có dính líu như thế nào đó vào vụ việc này. Ai dường như cũng che giấu điều gì đó và đều muốn lái công cuộc điều tra của Studer đi theo một chiều hướng nhất định. Đây là một quyển tiểu thuyết trinh thám khiến cho độc giả phải cùng suy luận, đoán xem ai là thủ phạm. Người đọc bị lôi cuốn theo những dấu vết sai lầm, được mớm cho những chỉ dẫn nào đó, ngạc nhiên vì những bước ngoặc mới trong cuộc điều tra, và thế là lại phải quay lại từ đầu. Căng thẳng, thú vị vâng, buồn cười xuất phát từ công việc điều tra của Studer, chứ không phải từ máu me, bạo lực hay rùng rợn như những tiểu thuyết hình sự hiện đại. Tuy vậy, tác phẩm vẫn có một kết cuộc khó lòng đoán trước, nhưng hợp lý và nhất quán. “Vụ án Erwin” lôi cuốn người đọc cũng từ các tương phản trong nông thôn Thụy Sĩ những năm 30 của thế kỷ trước. Friedrich Glauser đã mang ít nhiều nét hiện thực của xã hội thời đó vào trong quyển tiểu thuyết, mô tả một ngôi làng với những người dân của nó, với nhiều mối quan hệ rối rắm phức tạp, những xung đột ngấm ngầm cũng như những số phận con người mà người ta không muốn hé lộ ra cho người ngoài biết. Không những là một quyển tiểu thuyết trinh thám đầy thú vị và nhiều bất ngờ, đây còn là một bức tranh hài hòa về tập tục và lối sống ở nông thôn Thụy Sĩ. Một quyển tiểu thuyết hình sự hay, với giọng văn miêu tả nổi bật, mang nhiều nét duyên dáng cũng như buồn cười bên cạnh câu hỏi gây đau đầu hầu như suốt cả tác phảm: Ai là thủ phạm? Ngay từ lúc mới ra đời, Vụ án Erwin đã nhận được nhiều lời khen ngợi. Ví dụ như nhật báo “Der Bund” vào ngày 10 tháng 12 năm 1936 đã viết rằng “Quyển tiểu thuyết này nổi bật lên trên mức trung bình của ‘văn học trinh thám’ quen thuộc, và không chỉ đơn giản là một vụ bí ẩn có sức lôi cuốn đến nghẹt thở theo một mô hình gương mẫu. Glauser còn nâng truyện của ông lên đến một mức nghệ thuật, mà người viết nhiều tác phẩm Edgar Wallace sẽ mãi mãi không sánh kịp và cả một Conan Doyle cũng chỉ ngang bằng trong những khoảnh khắc hiếm hoi. Là một bậc thầy trong phân tích, Glauser thêm vào đó còn là một nhà thơ có nhiều tình cảm nồng ấm và có tài quan sát tuyệt vời.” Vụ án Erwin đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đã được chuyển thể phim ngay từ năm 1939. *** MỘT NGƯỜI  KHÔNG CÒN MUỐN SỐNG NỮA Người cai tù có cái cằm ba ngấn và cái mũi đỏ lầu bầu điều gì đó nghe giống như “lúc nào cũng gấp rút”, – vì Studer lôi ông ta ra khỏi bữa ăn trưa. Nhưng ít ra thì Studer cũng là một hạ sĩ điều tra của Cảnh sát Tiểu bang Bern, vì vậy không thể cứ xua đuổi ông ấy đi như xua tà đuổi ma được. Thế là cai tù Liechti đứng dậy, đổ đầy rượu vang đỏ vào ly uống nước, uống một hơi cạn cả ly, cầm lấy xâu chìa khóa và cùng đi đến chỗ tù nhân Schlumpf, người mà ông hạ sĩ vừa mới bàn giao cách đây chưa tới một giờ đồng hồ. Lối đi… Những lối đi dài tối tăm… Những bức tường thật dày. Lâu đài Thun dường như đã được xây cho sự vĩnh cửu. Cái giá lạnh của mùa đông ở khắp nơi. Thật khó tưởng tượng được, rằng ở ngoài kia đang có một ngày tháng Năm ấm áp ở trên hồ nước, rằng người ta đang đi dạo, thanh thản, rằng có những người khác đang nằm đong đưa trong những chiếc thuyền trên mặt nước, và phơi nắng để có được một làn da nâu. Cửa phòng giam mở ra. Studer dừng lại ở ngưỡng cửa một khoảnh khắc. Hai thanh sắt ngang, hai thanh sắt dọc băng ngang qua cái cửa sổ nằm ở trên cao. Có thể nhìn thấy mái của một ngôi nhà – với những viên gạch ngói đen, cũ kỹ – và bầu trời bay phấp phới ở trên như một mảnh vải xanh sáng chói mắt. Có một người bị treo lủng lẳng ở trên thanh sắt phía dưới! Chiếc thắt lưng da được cột chặt và tạo thành một nút thắt. Một thân thể tối tăm nổi bật trên bức tường được quét vôi trắng. Đôi chân nằm yên trên giường, vặn vẹo một cách khác thường. Và cái khóa thắt lưng sáng óng ánh ở sau gáy người bị treo cổ, vì có một tia nắng mặt trời chiếu vào nó từ ở trên cao. “Trời ơi!”, Studer kêu lên, lao tới trước, nhảy lên giường – người cai tù kinh ngạc trước sự nhanh nhẹn của người đàn ông đã lớn tuổi – ôm chặt lấy thân hình đó bằng cánh tay phải, trong khi bàn tay trái tháo cái nút thắt ra. Studer văng tục, vì bị gãy mất một cái móng tay. Rồi ông bước xuống giường và nhẹ nhàng đặt cái thân thể bất động đó xuống. “Nếu như các anh không quá lạc hậu đến như thế này”, Studer nói, “và ít nhất là gắn lưới trước cửa sổ, thì những việc như thế này đã không xảy ra. – Này! Bây giờ thì hãy chạy đi, Liechti, và gọi bác sĩ lại đây!” “Vâng, vâng”, người cai tù sợ sệt nói và khập khiễng đi ra. Đầu tiên, ông hạ sĩ điều tra tiến hành hô hấp nhân tạo. Việc đó giống như một phản xạ. Một cái gì đó xuất phát từ thời mà ông còn học khóa cấp cứu. Và mãi năm phút sau Studer mới sực nhớ ra, đặt tai lên ngực của con người đang nằm đó và lắng nghe xem tim có còn đập không. Có, nó còn đập. Chậm. Nghe giống như tiếng tích tắc của một cái đồng hồ mà người ta đã quên lên dây cót; Studer tiếp tục bơm với hai cánh tay của người đang nằm. Chạy ngang qua ở dưới cổ, từ tai này qua đến tai kia, là một cái vạch đỏ. “Schlumpf à!”, Studer nói nhỏ. Ông lấy cái khăn tay ra khỏi túi, lau trán mình trước, rồi lau qua gương mặt của anh chàng đó. Một gương mặt còn non nớt, trẻ, có hai nếp nhăn to trên sống mũi. Bướng bỉnh. Và trắng nhợt. Đó chính là Schlumpf Erwin, người mà hôm nay người ta đã bắt giữ trong một cái làng ở vùng Oberaargau. Schlumpf Erwin, bị cáo buộc giết chết Witschi Wendelin, một thương gia và người đi bán dạo ở Gerzenstein. Ngẫu nhiên mà người ta đã đến đúng lúc! Trước đây một giờ đồng hồ, người ta đã giao tên Schlumpf đúng theo quy định cho nhà giam, người cai tù với cái cằm ba ngấn đã ký tên – người ta có thể thong dong lên tàu hỏa trở về Bern và quên đi toàn bộ sự việc. Đó không phải là lần đầu tiên người ta bắt người, cũng sẽ không phải là lần cuối cùng. Tại sao người ta lại linh cảm là phải tới thăm Schlumpf Erwin thêm một lần nữa? Ngẫu nhiên? Có thể… Ngẫu nhiên là gì?… Không thể chối cãi được là người ta đứng đối diện đầy cảm thông với số phận của Schlumpf Erwin. Nói cho đúng hơn, người ta đã yêu mến Schlumpf Erwin… Tại sao?… Trong phòng giam, Studer dùng tay vuốt gáy vài lần. Tại sao? Vì người ta không có con trai? Vì người bị bắt cứ quả quyết là mình vô tội trên suốt cả chuyến đi? Không. Tất cả họ đều vô tội. Nhưng những lời quả quyết của Schlumpf Erwin nghe có vẻ thành thật. Mặc dù… Mặc dù trường hợp này thật ra thì đã rõ hoàn toàn. Người ta tìm thấy thương gia kiêm người bán dạo Wendelin Witschi vào sáng ngày thứ Tư với vết đạn bắn ở phía sau tai phải, nằm sấp, trong một khu rừng ở gần Gerzenstein. Túi của nạn nhân trống rỗng… Vợ của người bị giết quả quyết rằng chồng bà có mang theo trên người ba trăm franc Thụy Sĩ. Thế rồi vào tối thứ Tư, Schlumpf đổi một tờ một trăm franc trong quán trọ “Bären”… Vào sáng ngày thứ Năm, cảnh sát muốn bắt anh ta, nhưng Schlumpf đã chạy trốn. Vì vậy mà ông đại úy cảnh sát đã tới gặp hạ sĩ Studer trong phòng làm việc của ông này vào chiều tối ngày thứ Năm: “Studer này, anh phải đi ra ngoài hít thở không khí trong lành. Sáng sớm ngày mai, anh đi bắt tên Schlumpf Erwin nhé. Sẽ tốt cho sức khỏe của anh thôi. Anh béo lên đấy…” Đúng là như vậy, rất đáng tiếc… Tất nhiên, ở những vụ bắt giữ như thế này thì thường người ta gửi binh nhì đi. Nhưng lần này thì ông hạ sĩ điều tra phải đi… Cũng là ngẫu nhiên?… Số mệnh?… Đủ rồi, người ta vướng vào anh chàng Schlumpf, và người ta đã yêu mến anh chàng này. Một sự thật! Người ta phải chấp nhận sự thật, ngay cả khi chúng chỉ liên quan đến cảm xúc. Tên Schlump! Chắc chắn không phải là một người có giá trị cao! Ở Sở Cảnh sát Tiểu bang, người ta quá quen thuộc với hắn. Một đứa con ngoài giá thú. Chính quyền hầu như phải liên tục làm việc với hắn. Hồ sơ trong Sở An sinh Xã hội chắc chắn phải nặng ít nhất là một ký rưỡi. Lý lịch? Mời bạn đón đọc Vụ Án Erwin của tác giả Friedrich Glauser & Phan Ba (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ôi Đàn Bà - James Hadley Chase
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh - Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước khi tập trung vào sự nghiệp viết lách với hơn 80 cuốn sách trinh thám. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong Thế chiến II, ông phục vụ trong Không quân Hoàng gia, cuối cùng đạt được thứ hạng lãnh đạo Đội tàu chiến. Chase đã biên tập Tạp chí Không quân Hoàng gia cùng với David Langdon với nhiều câu chuyện, nó được phát hành sau chiến tranh trong cuốn sách Slipstream. Chase chuyển đến Pháp năm 1956 và sau đó đến Thụy Sĩ vào năm 1961, sống một cuộc sống ẩn dật ở Corseaux-Sur-Vevey, phía bắc của hồ Geneva, từ năm 1974. Ông qua đời yên bình vào ngày 6/2/1985. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Tỉa Dần Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thu Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Thằng Khùng Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... Mời các bạn đón đọc Ôi Đàn Bà của tác giả James Hadley Chase.
Bản Thông Báo Tử Vong: Sự Trừng Phạt - Chu Hạo Huy
Vị bác sĩ chuyên khao Thận của bệnh viện Nhân Dân - Lý Tuần Tùng mất tích, ông bị cắt một một ngón tay cái bên bàn tay phải và kẻ bắt cóc đòi tiền chuộc bằng kim cương trị giá mọt triệu nhân dân tệ. Mặc dù cảnh sát đã bủa vây thiên la địa võng, nhưng số kim cương vẫn biến mất còn Lý Tuấn Tùng thì mất mạng.  Đội cảnh sát hình sự dốc toàn lực quyết tâm phá an, bao nhiêu manh mối tìm được lại lần lượt bị cắt đứt, các nhân vật liên quan đến lý Tuấn Tùng đều được điều tra tỉ mỉ, nhưng cái chết của bác sĩ Lý vẫn là một ẩn số.  Liệu La Phi - đội trưởng đội cảnh sát hình sự có nhìn được ra điểm mù vốn được dàn dựng công phu chặt chẽ để phá án thành công hay không? Và rột cuộc , ai là kẻ đã sát hại Lý Tuấn Tùng? Liệu tất cả những kẻ có tọi đều bị trừng phạt *** Ngày 30 tháng 10 " sao không kéo rèm cửa sổ ra? tối om om thế." Vừa bước vào phòng, Dư Tĩnh đã kêu toáng lên. Cô chạy thẳng đến bên cửa sổ, kéo toang rèm ra, ánh nắng chiều rực rỡ tràn vào khiến vẻ âm u nặng nề của bầu không khí trong căn phòng hoàn toàn thay đổi. Mấy anh chàng đang ngồi trong phòng đều không nói gì, xem ra họ đã quen với lối hành động theo ý mình của Dư Tĩnh. Cô gái vùng phương nam trông nhẹ nhàng đằm thắm này lại có tính cách thẳng thắn bộc trực như người phương Bắc. Đợi cô gái ngồi vào bàn họp, một cậu thanh niên đeo kính bên cạnh mới nhắc: Lát nữa phải bật máy chiếu đấy, sáng quá sẽ không nhìn rõ được." "Đợi đến lúc bật máy lên rồi tính". Dư Tĩnh đáp lời rồi nhìn cậu thanh niên hỏi "Sư huynh, anh ngửi xem trên người em có mùi không?" Cậu thanh niên đeo kính trên ghế sát lại ngửi, sau đó nói to xuýt xoa, vẻ mặt ngây ngất: " thơm quá" Tất cả mọi người trong phòng đều cười theo. " Đáng ghét!" Dư Tĩnh giơ nắm tay thon lên đấm một nhát vào đối phương, lại hỏi lần nữa: " Nói thật đấy trên người em có mùi của người chết không?" "Mùi người chết gì? Đấy là mùi formalin." Cậu thanh niên đeo kính sửa lời và vặn lại, "Cái mùi này thì trên người bọn mình ai mà không có hả?" Dư Tĩnh chau mày nhấn mạnh: "Em khác các anh." Cậu thanh niên đeo kính hiểu ra điều gì đó, cậu nhìn cô bằng ánh mắt thông cảm:"Mấy hôm nay em mệt lắm hả?" "Chứ còn gì nữa? Vùi trong đống người chết." Dư Tĩnh nhe răng cười ngao ngán, "Con gái mà bị phân vào khoa Bệnh lý, anh bảo có phải là bi thảm nhất thế giới không cơ chứ?" "Đừng kêu ca nữa, chẳng phải là tự em chuốc lấy còn gì?" Một anh chàng khác ngồi phía đối diện khuyên bảo, "Cô chịu đi. Thường cũng chỉ hai ba tháng thôi, qua được là ổn cả thôi." Cậu thanh niên vừa nói dứt lời thì ngoài hành lang vang lên tiếng gót giày nện xuống mặt sàn. Mọi người trong phòng như thể bất được tín hiệu gì đó, lập tức trở nên im lặng, không dám nói thêm lời nào. Giây lát sau một bóng người bước vào phòng, tất cả sinh viên nam nữ đều đứng lên, kính cẩn chào: "chúng em chào cô Trang" Giáo viên là một người phụ nữ có khí chất đặc biệt, dáng người cao ráo, gương mặt đoan trang. Sau khi vào phòng, bà liền ngồi vào vị trí đầu bàn họp, đồng thời quay đầu nhìn về phía cửa sổ, ánh nắng chiếu thẳng vào khiến bà hơi nhíu mày. Dư Tĩnh ở gần đó hiểu ý, vội ra cửa sổ kéo rèm lại rồi ngồi vào cùng các sinh viên khác. Cô Trang đặt một tập tài liệu và điện thoại di động lên bàn họp, sau đó nói ngắn gọn: "Bắt đầu đi" Thứ tự báo cáo đã được xếp lịch sẵn từ trước. Cậu thanh niên đeo kính khi nãy báo cáo đầu tiên, cậu điều khiển máy chiếu mở file ppt đã chuẩn bị, slide đầu tiên hiện ra tên của cậu: Dương Triết. Trong quá trình Dương Triết báo cáo không khí trong phòng họp vô cùng yên lăng, chỉ có chiếc điện thoại của di động của cô Trang vang lên một tiếng giữa chừng. Có điều bà không hề xem ngay. Khoảng mười phút sau, phần báo cáo của Dương Triết kết thúc. Cô giáo Trang lập tức đưa ra lời nhận xét, đám sinh viên của bà vừa nghe vừa chăm chỉ ghi chép. Cuối cùng cô nói "Được rồi". Dương Triết liền thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng. Cô giáo Trang nhớ ra hình như điện thoại có tin nhắn liền mở ra xem, sau đó phân công Dương Triết :" Tôi có một gói bưu phẩm ở trạm chuyển nhận, cậu đi lấy giúp tôi." Dương Triết cầm chứng minh thư của cô giáo Trang rời phòng họp đi lấy bưu phẩm chuyển phát nhanh. Khi quay lại phòng họp cậu thấy sinh viên báo cáo thứ hai đang cúi đầu nghe cô giáo Trang phê bình. Dương Triết có chút đắc ý, nhưng không thể hiện ra mặt, chỉ lặng lẽ đặt hộp bưu phẩm chuyển phát nhanh vừa lấy về và chứng minh thư trước mặt cô giáo rồi ngồi vào chỗ của mình. Cô giáo Trang cầm chiếc hộp giấy lên xem. Trên chiếc hộp đó dán đầy băng dính, không thể mở ngay ra được. Bà cầm chiếc hộp rời khỏi phòng họp, một lúc sau đã thấy quay lại ngay, trên thay cầm theo một con dao dọc giấy. Vì thời gian có hạn, bà không trao đổi tiếp với sinh viên trước đó nữa. " Chúng ta đừng làm mất thời gian của mọi người vấn đề của bạn hết buổi tôi sẽ tiếp tục trao đổi riêng với bạn." Cô giáo Trang nghiêm khắc nói với cậu sinh viên sau đó bà quay về phía cô gái duy nhất trong phòng họp " Dư Tĩnh, em bắt đầu đi." Dư Tĩnh căng thẳng nuốt nước bọt, mở file ppt. Cô giáo Trang vừa nghe Dư Tĩnh trình bày, vừa bắt đầu dùng chiếc dao nhỏ cắt băng dính trên chiếc hộp giấy. Dư Tĩnh vừa nói vừa liếc nhìn cô giáo Trang, có vẻ không tư tin về bài báo cáo của mình. Và tình hình có vẻ đúng như cô lo lắng, vẻ mặt của cô giáo Trang mỗi lúc một năng nề hơn. Dư Tĩnh lại càng phấp phỏng bất an, giọng nói cũng bắt đầu run. Cuối cùng cô giáo Trang giơ tay chặn lại: "Em đừng nói nữa" Dư Tĩnh nín thở, luống cuống không biết làm gì. Cô cúi đầu chờ đợi trận phong ba bão táp sắp sửa giáng xuống. Nhưng cô giáo Trang không nói gì thêm nữa. Giây lát sau, Dư Tĩnh ngẩng đầu quan sát phản ứng của cô giáo Trang, cô thấy sắc mặt cô tái nhợt, mặt cắt không còn giọt máu. Trong ấn tượng của Dư Tĩnh cô chưa bao giờ thấy sắc thái như vậy trên gương mặt người phụ nữ này, cô biết chắc chắn mình không phải nguyên nhân khiến sắc mặt bà trở nên như vậy. Lúc này, đối tượng mà bà đang chăm chú lại là chiếc hộp chuyển phát nhanh vừa được mở ra ... Mời các bạn đón đọc Bản Thông Báo Tử Vong Ngoại truyện: Sự Trừng Phạt của tác giả Chu Hạo Huy.
Vị Bá Tước Thứ Năm Của Giòng Họ Hauberk - Aldous Leonard Huxley
Aldous Leonard Huxley sinh năm 1894 trong một gia đình nhiều đời làm công tác khoa học: ông nội và bố là những nhà sinh học lớn của nước Anh. "Tuổi trẻ thất trận" (The Defaith of Youth - 1918) mở đầu sáng tác của ông, cũng là mở đầu cho "Thế kỷ đen" ở Anh. Loạt sáng tác kế tiếp trong nhiều năm vẫn nằm trong dòng tư tưởng bi quan: liệu những người tự cho là có trách nhiệm bảo vệ giá trị tinh thần và vật chất của loài người, họ có làm tròn nhiệm vụ không, hay ngược lại họ đang phá hỏng cái gia tài chung ấy? Ông không tin ở những món quà thế kỷ 20 mang tới. "Vàng mạ kền" (Crome Yellow - 1921) "Phản bác" (Point Counter Point -1928): những bức tranh châm biếm cái xã hội tứ chiếng, phè phỡn của châu Ảu những năm 20. "Thế giới mới dũng cảm" (Brave New World - 1932) chỉ giễu tham vọng Mỹ hóa thế giới của các trùm tài phiệt và trùm văn hóa Mỹ. "Bình yên dưới đáy sâu" (1945) phê phán nếp sống gấp... (Jouvence - tên tác phẩm của tập này) ra đời năm 1954. Bằng nhận thức sắc sảo, trí tuệ Aldous Huxley nhìn ra cái thế giới của Con Bò Vàng, ông mất năm 1963 ở California - Mỹ. *** Tại vùng ngoại ô một thành phố miền Nam California, có một tòa lâu đài kỳ dị, cao đến 24 tầng, xây dựng trên đỉnh đồi. Bao quanh khu nhà là hai lớp tường, rồi một hào nước sâu, ra vào bằng một cái cầu treo kiểu trung cổ. Đó là trụ sở một siêu công ty kinh doanh từ xăng dầu, hầm mỏ, ngân hàng tới nghĩa trang, mồ mả. Tòa nhà có đủ cơ quan và phương tiện tối tân, có cả nhà thương làm phúc cho trẻ, thảo cầm viên, một viện nghiên cứu khoa học với các chuyên viên cực giỏi. Phần trên dành riêng cho chủ nhàn và cô nhân tình với một bể bơi hiện đại cách một đất trên 200 mét. Nơi đây đã xảy ra một vụ án tình, kẻ giết người chính là Stoyte. Tỷ phú Stoyte có quá nhiều thú vui nên chỉ có một mơ ước: tìm ra phương thuốc trường sinh. Một học giả Anh có trong tay tài liệu của dòng họ Hauberk ở Anh từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17 về phương thuốc. Vị Bá tước thứ năm của dòng họ này, cách đây trên trăm năm đã ứng dụng và ghi chép kỹ diễn biến trên cơ thể ông và một người tình cùng dùng thuốc với ông cho đến năm ông gần trăm tuổi. Có chứng cứ nói rằng hai người cho đến nay vẫn còn sống dưới hầm bí mật của một tòa lâu đài cổ đâu đó ở Bắc Anh. Stoyte đang thất tình, đang bê bối trong vụ án bèn cùng với cô nhân tình và nhà khoa học tới nước Anh truy tìm hai con người bất tử kia. Họ còn sống hay đã chết? Câu trả lời phải dành cho ngòi bút trào lộng mà cay đắng của Huxley. Mời các bạn đón đọc Vị Bá Tước Thứ Năm Của Giòng Họ Hauberk của tác giả Aldous Leonard Huxley.
Ông Cố Vấn: Hồ Sơ Một Điệp Viên - Hữu Mai
Ông cố vấn: Hồ sơ một điệp viên là một tiểu thuyết của nhà văn Hữu Mai, viết về cuộc đời hoạt động của nhà tình báo Việt Nam Vũ Ngọc Nhạ trong khoảng thời gian từ năm 1958 đến năm 1975. Tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1987, bao gồm 3 tập, và được tái bản nhiều lần. Lần tái bản gần nhất vào năm 2002, khi đó tác phẩm đã được chỉnh, hiệu đính và gom lại thành 2 tập. Tiểu thuyết kể về cuộc đời hoạt động của nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ và mạng lưới tình báo A.22. Bằng tài năng của mình, Vũ Ngọc Nhạ đã trở thành “Ông Cố vấn” đáng tin cậy trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa, cung cấp cho Hà Nội những thông tin tình báo quan trọng, góp phần vào chiến thắng cuối cùng giải phóng đất nước. *** CUỐI năm 1969, cả Sài Gòn xôn xao vì mới tìm ra một lưới tình báo quân sự của Việt Cộng nằm ngay trong những cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam cộng hòa. Báo chí đưa tin bằng những hàng tít lớn: “Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại”[1], “Vụ án chính trị của thế kỷ”[2]. Các bị cáo đều là những nhân vật quan yếu trong chính phủ Sài Gòn: người là cố vấn đặc biệt của tổng thống, người là cấp bộ trưởng, người là tham chánh văn phòng bộ chiêu hồi... Có nhà bình luận còn nói trong số những người bị đưa ra xét xử, có người được coi là ứng cử viên tổng thống nhiệm kỳ sắp tới. Những cơ quan thông tin đại chúng nước ngoài, đặc biệt là của Mỹ, đã đưa nhiều tin tức về vụ án. Năm 1983 trong cuốn hồi ký của mình[3], Ralph McGehee, một nhân vật CIA kỳ cựu, đã nhận chính CIA dã làm áp lực mạnh mẽ với tổng thống Thiệu để tiến hành chiến dịch phá lưới gián điệp này. Vì nội vụ đề cập tới những nhân vật quan yếu trong chính phủ, những nhà hoạt động chính trị xã hội có uy tín rộng rãi trong quần chúng, nên người phúc trình tin tức đã được chính Dale Waites kiểm tra bằng máy dò sự thật (Polygraph Tost). Cuối cùng, ngày 28-11-1969, chính quyền Sài Gòn đã cho mở phiên tòa quân sự tại Sài Gòn để xét xử những bị can. Trên một trăm ký giả trong và ngoài nước đã có mặt tại Nha Quân pháp ở đại lộ Bạch Đằng chật ních người đến theo dõi vụ án. Bản cáo trạng dài 23 trang, đọc hết một tiếng rưỡi đồng hồ. Theo tường thuật trên báo chí, “Vụ án này rất căng thẳng và quan trọng, vì qua hồ sơ không có một đảng phái chính trị nào, một nhân vật chính trị nào mà không có liên quan ít nhiều đến vụ án. Xếp hồ sơ đó nặng gấp 200 lần so với bản cáo trạng đã đọc...”[4]. Sau ngày giải phóng Sài Gòn, chúng ta đã tìm được toàn bộ những hồ sơ đó tại Nha Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia của chính quyền Sài Gòn. Trong tập 1 của hồ sơ, có thể trích ra vài nhận xét sau đây: “Từ trước đến nay, ngoại trừ những giai thoại giả tưởng trong tiểu thuyết trinh thám, chưa bao giờ có những tổ điệp báo thành công đến như thế. (...) Cụm A.22 hoạt động và phát triển đều đặn và đã thi thố nhiều thủ đoạn mà chúng ta phải nhìn nhận là huyền diệu và xuất sắc... Cụm đã phát triển một hệ thống diệp vụ vô cùng quan trọng và đã len lỏi vào được nhiều cơ quan đầu não của Việt Nam cộng hòa (...) Những tin tức chiến lược mà Cảnh sát Quốc gia biết họ đã cung cấp, đều có giá trị giúp cho Hà Nội có được những dữ kiện chắc chắn khi ấn định chính sách của họ đối với cuộc chiến tranh hiện nay. (...) Các dự án quốc gia đều được Cụm A.22 thu thập và phúc trình và nhờ cụm tình báo chiến lược mà các cấp lãnh đạo Hà Nội biết nhiều điều cơ mật mà chính các Tổng Bộ trưởng Sài Gòn không biết. (...) Họ đã tiếp xúc được với các yếu nhân Việt Nam và cũng gặp gỡ đàm luận dễ dàng với các yếu nhân Mỹ như CONLON, HEAVNER, SMITH, COLBY, BURGER...”[5]. Các báo chí Sài Gòn đều ghi nhận “tất cả bị can đều có nét mặt tươi cười và rất tự nhiên”, “như đi dự đám cưới”, “tất cả cũng vẫn có vẻ đẹp trai”... Hơn hai mươi luật sư biện bộ, trong đó có những người danh tiếng nhất, đứng sau lưng họ. Phiên tòa trở thành diễn đàn vạch rõ những mâu thuẫn trầm trọng của chế độ Sài Gòn, giữa chính quyền với các đảng phái, tôn giáo, đồng minh chiến lược Hoa Kỳ, giữa những cá nhân trong những tổ chức nảy, với những bằng chứng cụ thể không thể bác bỏ, và công khai tuyên truyền cho đường lối hòa bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Một luật sư đã nói: “Là người biện hộ trong vụ án, tôi như ếch ngồi đáy giếng mà miệng giếng đã bị tổng thống Thiệu đậy lại rồi...”. Vũ Ngọc Nhạ, người bị tố cáo cầm đầu lưới gián điệp, xuất hiện trước tòa với bộ áo trắng, quần đen, cravat nâu, ung dung cầm một xấp giấy trắng, miệng luôn luôn tươi cười. Riêng anh từ chối nhờ luật sư biện hộ cho mình và cũng không tự bào chữa. Anh tuyên bố những việc mình đã làm chỉ có lịch sử phán xét. Tất cả những bị can không ai có một lời đề nghị được khoan hồng. Nhạ và hai đồng đội chính của anh đã bị án chung thân khổ sai. “Lần đầu trong một vụ án quan trọng và trước những bản án nặng nề, người ta không hề ghi nhận một tiếng khóc nào và chỉ thấy những gương mặt vui thân và nghe những tiếng cười...”[6]. Trước rất đông công chúng tụ tập ở cửa tòa án, vây quanh chiếc xe bịt bùng đưa những người vừa bị kết án về trại giam, Nhạ nói với mọi người: “Các bạn cứ chờ xem, một trang sử mới sắp lật qua. Không còn bao lâu nữa đâu!”. Anh và các bạn hướng về những máy ghi âm, ống kính truyền hình, máy ảnh của những ký giả nước ngoài chõ về phía họ, nói bằng tiếng Pháp và tiếng Anh: “Cuộc đấu tranh chưa kết thúc, đến đây chỉ mới tạm dừng. Chúng tôi ra đi nhưng nhất định chúng tôi sẽ trở về...” Họ đã giữ đúng lời hứa. Ba năm sau đó, họ lại xuất hiện ở Sài Gòn, tiếp tục cuộc chiến đấu trên mặt trận thầm lặng cùng với bao nhiêu đồng chí khác, trong đó có nhiều người dã lập nên những kỳ tích mà chúng ta còn chưa biết tới. Vụ án trở thành một vấn đề thời sự sôi nổi. Dư luận cho là nó còn chứa đựng nhiều nghi vấn. Theo nguồn tin từ dinh Độc Lập, tổng thống Thiệu trong những cuộc trao đổi riêng tư đã nói đây là một việc làm xấu xa của CIA nhằm bôi nhọ uy tín cá nhân mình. Sau đó lại có tin tỉnh trưởng Côn Sơn (Côn Đảo) đã bị thay. Người ta nói tổng thống đưa người của mình ra nắm quyền hành ở Côn Sơn, để chăm sóc ông cố vấn vừa ra đó bắt đầu cuộc sống lưu đày. Giáo hoàng Paul VI cũng gửi tới Côn Sơn tặng ông nguyên cố vấn huy chương “Vì Hòa bình” với một bức thư tỏ lòng ngưỡng mộ người chiến sĩ Công giáo đã cống hiến nhiều cho hòa bình vì lý tưởng thiêng liêng của Chúa. Cho đến những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn tháng 4-1975, Nguyễn Văn Thiệu vẫn giữ quan hệ với người cố vấn cũ của mình, coi đây là một mối quan hệ tốt đẹp trong suốt cuộc đời chấp chính. Tập hồ sơ sau đây sẽ đưa ra ánh sáng những vấn đề đến nay còn chưa rõ ràng chung quanh vụ nghi án. Nó được trình bày dưới dạng tiểu thuyết để cho về hình thức đỡ khô khan. Tuy nhiên, điều mong mỏi chủ yếu của tác giả là được chuyển tới bạn đọc những sự kiện, những chi tiết chân xác, với những con người thật. Bạn đọc có thể gặp nhiều nhân vật của cuốn sách này đang tiếp tục cuộc sống bình dị của họ sau những biến cố lịch sử ở nước ta, cũng như ở đâu đó một số nước ngoài. Nếu có những điều sai sót về họ, tác giả rất mong sẽ được chính họ góp ý kiến để bổ cứu cho lần in sau nếu cuốn sách có được may mắn đó. HỮU MAI Mời các bạn đón đọc Ông Cố Vấn: Hồ Sơ Một Điệp Viên của tác giả Hữu Mai.