Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhật Ký Bí Mật của Tiểu Thư Miranda - Julia Quinn

Tiểu thuyết lãng mạn lịch sử xuất sắc nhất - RITA Awards 2007 Hôm nay mình đã yêu. Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào của một Sắc đẹp Lộng lẫy. Cô bé đã học được cách chấp nhận những kỳ vọng của xã hội đối với mình… cho đến một buổi chiều, khi Nigel Bevelstoke - chàng Tử tước Turner đẹp trai, phong nhã – nghiêm trang hôn tay cô bé và hứa rằng: một ngày kia em sẽ trở thành chính mình, em sẽ thật xinh đẹp và thông minh. Ngày hôm ấy, Miranda đã biết mình sẽ yêu Turner mãi mãi. Mười năm sau, tất cả đều thay đổi, trừ tình yêu của Miranda dành cho Turner. Đi qua một cuộc hôn nhân đau khổ, Turner giờ trở thành một người đàn ông không còn niềm tin, cô độc và cay nghiệt. Còn Miranda, cô vừa tròn hai mươi, xinh đẹp theo cách của riêng mình, ngọt ngào vừa đủ, điềm tĩnh vừa đủ và mạnh mẽ vừa đủ. Đủ để không cho phép tình yêu kéo dài mười năm dành cho Turner một lần nữa trôi qua tầm tay… *** Ở tuổi lên mười, tiểu thư Miranda Cheever không hề bộc lộ dấu hiệu nào hứa hẹn một Sắc Đẹp Lộng Lẫy. Mái tóc nâu thảm hại đồng màu với đôi mắt; đôi chân dài khác thường từ chối bất cứ chuyển động nào có thể coi là duyên dáng dù mơ hồ nhất. Lúc nào mẹ cô bé cũng thấy cô nhảy loi choi khắp nhà. Thật không may cho Miranda, cái xã hội nơi cô bé sinh ra lại rất coi trọng vẻ bề ngoài của nữ giới. Và dù chỉ mới mười tuổi nhưng cô bé đã hiểu rằng về mặt này mình bị coi là thua kém so với hầu hết các bạn nữ khác trong vùng. Trẻ con thường có cách khám phá ra những điều như vậy, thường là từ những đứa trẻ khác. Chẳng hạn như sự cố không mấy vui vẻ xảy ra tại bữa tiệc sinh nhật lần thứ mười một của tiểu thư Olivia và công tử Winston Bevelstoke, cặp sinh đôi của vợ chồng ngài Bá tước xứ Rudland. Nhà Miranda khá gần Haverbreaks, điền sản của tổ tiên dòng họ Rudland gần Ambleside, quận Lake, Cumberland, và cô bé thường học bài cùng Olivia và Winston khi bọn trẻ về đây ở. Chúng trở thành bộ ba không thể tách rời và hiếm khi chơi với những đứa trẻ khác trong vùng, vì hầu hết đều sống cách đó khoảng một giờ đi ngựa. Khoảng chục lần mỗi năm, đặc biệt là những dịp sinh nhật, con cái tất cả các gia đình quý tộc và thượng lưu trong vùng lại tụ họp với nhau. Vì lý do này mà nữ Bá tước Rudland phải thốt ra một tiếng rền rĩ chẳng hề ra dáng quý bà; mười tám thằng nhóc tai quái đang hào hứng tha bùn đất khắp phòng khách nhà bà sau khi bữa tiệc của cặp sinh đôi tổ chức trong khu vườn bị trận mưa phá hỏng. “Má cậu dính bùn kìa, Livvy,” Miranda vừa nói vừa đưa tay lên lau vết bùn. Olivia thở hắt ra vẻ mệt mỏi đầy kịch tính. “Thế thì tốt hơn hết là mình nên vào phòng rửa mặt. Mình không muốn mẹ trông thấy mình thế này. Mẹ ghét bẩn, còn mình thì ghét phải nghe mẹ kêu ca bà ghét bẩn đến thế nào.” “Mình không hiểu bà lấy đâu ra thời gian để phàn nàn về vết bùn nhỏ trên mặt cậu trong khi cả tấm thảm của bà giờ toàn bùn đất thế kia cơ chứ.” Miranda liếc William Evans, thằng bé vừa mới hô “XUNG PHONGGGGGG” rồi phóng người lên trường kỷ. Cô bé phải bặm môi lại để khỏi cười. “Và cả đồ đạc nữa.” “Cũng thế cả thôi, tốt nhất là mình nên làm gì đó.” Nói rồi cô bé lẻn ra khỏi phòng, bỏ lại Miranda ở gần lối ra vào. Miranda quan sát cuộc bạo loạn chừng một vài phút rồi khá bằng lòng chấp nhận cái vị trí người-quan-sát thường lệ của mình, cho tới khi qua khóe mắt, cô bé thấy có ai đó đang đi tới. “Bạn tặng quà sinh nhật gì cho Olivia vậy Miranda?” Miranda quay sang thì thấy Fiona Bennet đang đứng trước mặt mình, xinh xắn trong chiếc váy yếm trắng kèm khăn quàng màu hồng. “Một cuốn sách,” cô bé đáp. “Olivia thích đọc sách. Còn bạn mang gì tới?” Fiona giơ ra một chiếc hộp có họa tiết vui mắt được thắt dây nơ màu bạc. “Một bộ sưu tập các dải ruy băng. Bằng lụa và xa tanh, thậm chí là bằng nhung nữa. Bạn có muốn xem không?” “Ôi, nhưng tớ không muốn làm hỏng lớp giấy gói đâu.” Fiona nhún vai. “Bạn chỉ cần tháo sợi dây buộc cho cẩn thận là được. Tớ vẫn làm thế với quà Giáng sinh mà.” Nói rồi cô bé kéo sợi nơ buộc và nâng cái nắp hộp lên. Miranda nín thở. Ít nhất có tới một tá ruy băng nằm trên lớp lót bằng nhung đen của chiếc hộp, mỗi sợi được thắt nơ bướm cực kỳ trang nhã. “Đẹp quá Fiona. Mình có thể xem một cái không?” Fiona nheo mắt. “Tay tớ không có tẹo bùn nào đâu. Thấy không?” Miranda giơ hai bàn tay lên để cô bạn kiểm tra. “Ừ, được rồi.” Miranda thò tay vào chọn một chiếc ruy băng màu tím. Chất xa tanh trơn mượt khủng khiếp và mềm mại trôi trong bàn tay cô bé. Cô bé đặt cái nơ bướm điệu đà ướm thử lên mái tóc mình. “Bạn nghĩ sao?” Fiona đảo tròn mắt. “Không phải màu tím, Miranda ạ. Ai cũng biết chúng dành cho tóc vàng cơ. Màu này thường bìm trên nền nâu. Bạn hiển nhiên không thể đeo nó rồi.” Miranda đưa trả dải ruy băng cho cô bạn. “Vậy màu nào thì hợp với tóc nâu? Xanh lá à? Mẹ mình có mái tóc màu nâu và mình đã thấy mẹ buộc những dải ruy băng màu xanh lá.” “Xanh lá cây có thể chấp nhận được, tớ nghĩ thế. Nhưng trên mái tóc vàng thì sẽ đẹp hơn. Mọi thứ đều đẹp hơn trên nền tóc vàng.” Miranda cảm thấy một thoáng phẫn nộ dâng lên trong lòng. “Vậy thì tớ không hiểu bạn sẽ làm gì hả, Fiona, bởi vì tóc bạn cũng nâu như tóc tớ mà.” Fiona giật lùi lại, nổi cáu. “Không phải!” “Đúng thế mà!” “Không phải!” Miranda nhoài người tới trước, hai mắt nheo lại vẻ đe dọa. “Bạn nên soi gương khi về nhà, Fiona ạ, bởi vì tóc bạn không phải màu vàng.” Fiona đặt dải ruy băng tím trở lại hộp và sập nắp đánh cạch một cái. “Vậy à, nó đã từng là màu vàng, còn tóc cậu chẳng bao giờ có màu đó cả. Và ngoài ra, tóc tôi có màu nâu nhạt, mà mọi người đều biết là nó đẹp hơn màu nâu sẫm. Sẫm như tóc bạn ấy.” “Tóc nâu sẫm chẳng có gì là sai trái cả!” Miranda đáp trả. Nhưng cô bé cũng biết rằng đa số người Anh đều không đồng tình với ý kiến của mình. “Và,” Fiona đắc thắng bổ sung, “bạn có đôi môi bự như con sên!” Bàn tay Miranda vụt đưa lên che miệng. Cô bé biết mình không đẹp; cô bé biết mình thậm chí còn không được coi là xinh xắn nữa cơ. Nhưng từ trước đến giờ cô bé chưa bao giờ thấy đôi môi của mình có gì không ổn cả. Cô bé ngước nhìn nhỏ bạn đang mỉm cười tự mãn. “Còn bạn thì có tàn nhang!” Cô la lên. Fiona giật lùi lại như vừa bị một cái tát. “Tàn nhang sẽ biến mất dần. Các nốt trên mặt tôi sẽ biến đi hết trước khi tôi bước sang tuổi mười tám. Tối nào mẹ tôi chẳng dặm nước chanh vắt lên.” Cô nàng cười khẩy vẻ khinh miệt. “Nhưng bạn thì vô phương cứu chữa, Miranda ạ. Bạn xấu xí.” “Bạn ấy không xấu!” Cả hai cô bé cùng quay sang nhìn Olivia - vừa mới từ phòng rửa mặt quay trở lại. “Ồ, Olivia,” Fiona nói. “Mình biết bạn kết thân với Miranda bởi vì cô ta sống gần nhà và cùng học bài với bạn, nhưng bạn phải thừa nhận là cô ta không xinh. Mẹ mình nói cô ta sẽ chẳng bao giờ lấy chồng được.” Đôi mắt xanh của Olivia lóe lên ánh nguy hiểm. Cô con gái độc nhất của Bá tước Rudland không bao giờ tha thứ một lỗi lầm nào, và Miranda lại là người bạn thân nhất của cô bé. “Miranda sẽ lấy được người chồng tốt hơn bạn đấy, Fiona Bennet ạ! Ba bạn ấy là một Tòng nam tước trong khi ba bạn chỉ là thường dân.” “Là con gái Tòng nam tước cũng chẳng có gì khác biệt cả trừ phi cô ta có nhan sắc hoặc có tiền,” Fiona ngân nga nhắc lại những lời mà cô bé hiển nhiên đã được nghe lúc ở nhà. “Mà cả hai thứ ấy Miranda đều chẳng có.” “Im đi, bạn là đồ bò già ngu ngốc!” Olivia giậm chân quát. “Đây là tiệc sinh nhật của tôi, nếu bạn không thể cư xử tử tế thì bạn có thể về!” Fiona nuốt giận. Cô bé biết tốt hơn là không nên làm cho Olivia - con gái của những người có đẳng cấp xã hội cao nhất vùng - xa lánh mình. “Mình xin lỗi, Olivia,” cô bé lẩm bẩm nói. “Đừng xin lỗi tôi. Xin lỗi Miranda ấy.” “Tôi xin lỗi, Miranda.” Miranda vẫn im lặng cho tới khi Olivia phải đá cô bé một cái. “Tôi chấp nhận lời xin lỗi của bạn,”miễn cưỡng nói. Fiona gật đầu rồi chạy biến. “Mình không thể tin được cậu lại gọi cậu ta là con bò già ngu ngốc,” Miranda nói. “Bạn cần phải học cách tự bảo vệ mình, Miranda ạ.” “Trước khi cậu tham gia vào, mình vẫn đang tự bảo vệ rất tuyệt đấy chứ, Livvy. Mình chỉ không muốn tự bảo vệ một cách quá ầm ĩ thôi.” Olivia thở dài. “Mẹ bảo mình không có chút xíu khả năng kiềm chế hay lương tri gì cả.” “Đúng là vậy,” Miranda tán thành. “Miranda!” “Đó là sự thật, cậu đúng là như thế mà. Nhưng dù thế nào mình vẫn yêu cậu.” “Mình cũng yêu cậu, Miranda. Và đừng để tâm đến Fiona già ngớ ngẩn. Khi nào lớn cậu có thể cưới Winston và rồi chúng mình sẽ thật sự là chị em.” Miranda liếc ngang qua phòng nhìn Winston vẻ hoài nghi. Cậu đang giật tóc một cô bé con. “Mình không biết nữa,” cô bé e dè nói. “Mình không chắc là mình muốn lấy Winston đâu.” “Vớ vẩn. Như thế thật hoàn hảo. Mà nhìn xem, anh ấy mới làm đổ rượu pân ra váy của Fiona kìa.” Miranda cười toe toét. “Đi với mình nào,” Olivia nói, cầm tay cô bạn. “Mình muốn mở quà. Mình hứa là sẽ reo to nhất khi nhận quà của cậu.” Hai cô bé trở lại phòng khách, rồi Olivia và Winston mở quà. Tạ ơn Chúa (theo ý kiến của Phu nhân Rudland), hoàn tất việc mở quà vào đúng bốn giờ, thời điểm những đứa trẻ phải về nhà. Đứa nào cũng được đích thân phụ huynh đến đón, ai cũng xem chuyện được mời tới nhà Haverbreaks là một niềm vinh dự, và không vị phụ huynh nào lại muốn bỏ lỡ cơ hội làm thân với ông bà Bá tước. Ngoại trừ bố mẹ của Miranda, đúng thế. Đến năm giờ, cô bé vẫn còn ở phòng khách nhà Bevelstoke, cùng Olivia xem xét các chiến lợi phẩm. “Ta không biết có chuyện gì với bố mẹ cháu thế, Miranda,” Phu nhân Rudland nói. “Ôi, cháu biết đấy ạ,” Miranda hào hứng đáp. “Mẹ cháu đã đến Scotland thăm bà ngoại, và cháu dám chắc là ba cháu đã quên béng cháu rồi. Ba cháu vẫn thường thế khi ông mải làm việc với một bản thảo nào đó. Ông dịch từ tiếng Hy Lạp.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland mỉm cười. “Hy Lạp cổ đại.” “Ta biết,” Phu nhân Rudland thở dài. Đây không phải lần đầu tiên ngài Rupert Cheever quên mất cô con gái của mình. “Chà, phải tìm cách đưa cháu về nhà thôi.” “Con sẽ đi với bạn ấy,” Olivia đề xuất. “Con và Winston cần phải cất đồ chơi mới và viết thiệp cảm ơn. Nếu không làm việc đó tối nay, con sẽ không nhớ được ai đã tặng con thứ gì.” “Nhưng mẹ không thể để một người hầu đưa Miranda về nhà được. Bạn ấy sẽ không có ai để trò chuyện cả.” “Tớ có thể nói chuyện với người hầu mà,” Miranda nói. “Tớ vẫn thường xuyên nói chuyện với bọn họ ở nhà.” “Không phải với người hầu nhà tớ,” Olivia thì thầm. “Bọn họ cứng nhắc và câm như hến, lại còn thường nhìn tớ vẻ không bằng lòng nữa chứ.” “Hầu như lúc nào con cũng đáng bị nhìn với vẻ không hài cả,” Phu nhân Rudland ngắt ngang, âu yếm vỗ đầu cô con gái. “Ta tìm ra giải pháp cho cháu rồi đây, Miranda. Tại sao chúng ta không nhờ Nigel đưa cháu về nhà nhỉ?” “Nigel ư!” Olivia kêu lên. “Miranda, cậu thật là chú vịt may mắn.” Miranda nhướn mày. Cô bé chưa bao giờ gặp anh trai lớn của Olivia. “Được thôi,” cô bé từ tốn nói. “Tớ mừng vì cuối cùng cũng được gặp anh ấy. Cậu vẫn luôn miệng kể về anh ấy mà, phải không Olivia.” Phu nhân Rudland ra lệnh cho một cô hầu gái đi tìm Nigel. “Cháu chưa bao giờ gặp Nigel sao Miranda? Kỳ lạ thật. À, ta cho là vì nó thường chỉ về nhà vào dịp Giáng sinh, mà Giáng sinh thì cháu lại hay đi Scotland. Ta đã phải dọa sẽ từ mặt nó để bắt nó về nhà vào ngày sinh nhật của hai đứa sinh đôi đấy. Nó không dự bữa tiệc vì sợ một trong mấy bà mẹ kia sẽ cố gắng gả một đứa trẻ mười tuổi cho nó.” “Nigel mười chín rồi, anh ấy là một đám rất sáng giá đấy,” Olivia thản nhiên nói. “Anh ấy là một Tử tước. Và cực kỳ đẹp trai. Trông anh ấy giống mình.” “Olivia!” bà Rudland nhắc nhở vẻ không hài lòng. “Thì đúng thế mà mẹ. Nếu là con trai thì con sẽ rất đẹp trai cho xem.” “Là con gái thì cậu cũng xinh xắn thế còn gì, Livvy,” Miranda thành thực nói, nhìn những lọn tóc vàng của cô bạn với vẻ hơi ghen tị. “Cậu cũng vậy. Này, cậu chọn một dải ruy băng của con bò Fiona đi. Dù gì mình cũng không cần toàn bộ chỗ ruy băng này.” Miranda mỉm cười trước lời nói dối của cô bạn. Olivia là người bạn tốt như thế đấy. Cô bé nhìn xuống hộp ruy băng và ngoan cố chọn sợi xa tanh màu tím. “Cảm ơn cậu, Livvy. Thứ Hai mình sẽ buộc nó đến trường.” “Mẹ gọi con ạ?” Nghe giọng nói trầm ấm, Miranda quay mặt về lối cửa ra vào và gần như há hốc vì kinh ngạc. Đang đứng ở đó là một sinh vật lộng lẫy tuyệt vời nhất mà cô bé từng trông thấy. Olivia đã nói rằng Nigel mười chín tuổi, nhưng Miranda ngay lập tức nhận thấy anh đã ra dáng đàn ông lắm rồi. Đôi vai rộng cân đối trông như vẽ, thân hình thanh thoát nhưng rắn chắc. Tóc anh đậm màu hơn tóc Olivia nhưng vẫn có ánh vàng kim, bằng chứng cho thấy anh thường xuyên ở ngoài trời. Nhưng phần đẹp nhất của anh, Miranda lập tức nghĩ ra, chính là đôi mắt. Nó sáng ngời, màu xanh lam rạng rỡ, giống đôi mắt của Olivia. Chúng cũng lấp lánh ánh tinh nghịch, láu lỉnh. Miranda mỉm cười. Mẹ cô bé vẫn thường bảo rằng có thể nhìn vào đôi mắt của một người mà nói về người đó, mà anh trai của Olivia thì có đôi mắt tuyệt đẹp. “Nigel, con hộ tống Miranda về nhà được không?” bà Rudland hỏi. “Ba của cô bé dường như bị cầm chân ở đâu đó mất rồi.” Miranda tự hỏi tại sao Nigel lại nhăn mặt khi nghe mẹ gọi tên mình. “Chắc chắn rồi, thưa mẹ. Olivia, em đã có một bữa tiệc vui vẻ chứ hả?” “Đập phá tanh bành.” “Winston đâu rồi?” Olivia nhún vai. “Anh ấy đi chơi với thanh kiếm Billy Evans tặng rồi.” “Anh hy vọng không phải là đồ thật.” “Chúa phù hộ chúng ta nếu nó là đồ thật,” bà Rudland xen vào. “Được rồi, Miranda, chúng ta sẽ đưa cháu về. Ta tin là áo choàng của cháu đang ở phòng bên.” Bà biến mất qua khung cửa và xuất hiện trở lại vài giây sau với chiếc áo choàng bền chắc màu nâu của Miranda. “Chúng ta lên đường chứ, Miranda?” Sinh vật đến từ thiên đường ấy đưa tay ra cho cô bé. Miranda khoác áo rồi đặt bàn tay mình vào tay anh. Thiên đường! “Mình sẽ gặp cậu vào thứ Hai nhé!” Olivia gọi với theo. “Và đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Cậu ta chỉ là con bò già ngớ ngẩn thôi.” “Olivia!” “Thì đúng thế mà mẹ. Con không muốn bạn ấy quay lại đây nữa.” Miranda mỉm cười khi để anh trai Olivia dẫn xuống tiền sảnh, giọng của Olivia và bà Rudland nhỏ dần, nhỏ dần. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đồng ý đưa em về nhà, Nigel,” cô bé khẽ nói. Anh lại nhăn mặt. “Em... em xin lỗi,” cô bé vội nói. “Đáng lẽ em nên nói ‘thưa ngài’, đúng không? Chỉ tại Olivia và Winston thường nhắc đến anh bằng tên riêng nên em...” Cô bé khổ sở nhìn xuống sàn nhà. Chỉ mới hai phút được đi cạnh anh mà cô bé đã mắc sai lầm ngớ ngẩn rồi. Anh dừng lại và cúi xuống để cô bé có thể nhìn thấy mặt mình. “Đừng lo lắng về cái từ ‘thưa ngài’ ấy, Miranda. Anh sẽ nói cho em một bí mật nhé.” Đôi mắt Miranda tròn xoe, cô bé quên cả thở. “Anh ghét tên thánh của mình.” “Đó không hẳn là một bí mật, Nig... ý em là, thưa ngài, mà mặc kệ anh muốn được gọi là gì cũng được. Cứ khi nào mẹ anh gọi anh bằng cái tên đó là anh lại nhăn mặt.” Nigel mỉm cười với Miranda. Có điều gì đó khiến trái tim anh nhói lên khi Nigel nhìn thấy cô gái bé nhỏ với nét mặt quá ư nghiêm nghị này chơi với đứa em gái ương bướng không thể khuất phục của anh. Cô bé là một sinh vật nhỏ nhắn trong cái vẻ ngoài thật buồn cười, nhưng đôi mắt nâu to tròn rất có hồn của cô lại ánh lên vẻ gì đó khá đáng yêu. “Thế anh được gọi là gì ạ?” Miranda hỏi. Anh mỉm cười với cô bé, không hề kiểu cách. “Turner.”[1] [1] Có nghĩa là Thợ tiện. Mất một lúc anh tưởng cô bé sẽ không nói gì. Miranda chỉ đứng đó, hoàn toàn bất động, chỉ có đôi mắt vẫn long lanh. Và rồi, như thể cuối cùng đã tìm ra kết luận, cô bé nói, “Cái tên hay thật. Hơi kỳ lạ một chút, nhưng em thích.” “Hay hơn Nigel nhiều, em không nghĩ thế à?” Miranda gật đầu. “Anh đã chọn nó à? Em vẫn nghĩ rằng người ta nên tự chọn tên cho mình. Em cũng biết hầu hết người ta sẽ chọn một cái tên nào đó khác với tên mình được đặt.” “Và em sẽ chọn tên gì?” “Em không chắc nữa, nhưng không phải là Miranda. Thứ gì đó mộc mạc hơn, em nghĩ thế. Người ta kỳ vọng một điều gì đó khác khi nghe đến cái tên Miranda và hầu như thường thất vọng khi họ gặp em.” “Vô lý,” Turner mạnh mẽ phản đối. “Em là một Miranda hoàn hảo.” Cô bé cười rạng rỡ. “Cảm ơn anh, Turner. Em có thể gọi anh như thế không?” “Dĩ nhiên rồi. Và anh e là không phải anh chọn cái tên này. Nó chỉ là một tước hiệu lịch thiệp. Tử tước Turner. Từ hồi tới Eton đến giờ anh vẫn dùng cái tên ấy thay cho Nigel.” “Ồ. Nó hợp với anh, em nghĩ thế.” “Cảm ơn em,” anh trang trọng đáp lại, hoàn toàn bị đứa trẻ nghiêm nghị này mê hoặc. “Giờ thì, đưa tay em cho anh lần nữa nào, chúng ta sẽ lên đường.” “Cái gì thế?” “Cái này ạ? Ồ, ruy băng ấy mà. Fiona Bennet tặng khoảng hai chục chiếc cho Olivia, và Olivia nói em có thể giữ mộtchiếc.” Mắt Turner hơi nheo lại rất khẽ khi anh nhớ lại Olivia đã nói gì lúc tạm biệt Miranda. Đừng lo lắng về những gì Fiona nói. Anh kéo dải ruy băng ra khỏi tay cô bé. “Anh nghĩ chỗ của ruy băng là ở trên mái tóc chứ nhỉ.” “Ờ, nhưng nó không hợp với váy của em,” Miranda yếu ớt phản đối. Lúc này anh đã buộc nó thật chặt lên đỉnh đầu của cô bé rồi. “Nó trông thế nào ạ?” cô bé thì thầm. “Tuyệt vời.” “Thật ạ?” Cô tròn xoe mắt vẻ hoài nghi. “Thật mà. Anh luôn nghĩ rằng ruy băng màu tím trông đặc biệt xinh xắn trên mái tóc nâu.” Miranda thấy mình phải lòng Tuner ngay tức khắc. Cảm xúc quá mãnh liệt đến nỗi cô bé quên cả cảm ơn lời khen của anh. “Chúng ta khởi hành chứ?” anh nói. Cô gật đầu, không tin tưởng chính giọng nói của mình nữa. Họ rời ngôi nhà đến tàu ngựa. “Anh nghĩ chúng mình có thể cưỡi ngựa,” Turner nói. “Một ngày quá đẹp để ngồi trong xe.” Miranda lại gật đầu. Thời tiết ấm áp khác thường đối với tháng Ba. “Em có thể lấy chú ngựa con của Olivia. Anh chắc chắn là con bé không thấy phiền đâu.” “Livvy không có ngựa con,” cuối cùng thì Miranda cũng tìm lại được giọng nói của mình. “Bây giờ cậu ấy có một con ngựa cái hẳn hoi. Em cũng có một con ở nhà. Bọn em không phải là trẻ con.” Turner nén cười. “Ừ, anh có thể thấy là bọn em không còn nhỏ nữa. Anh mới ngớ ngẩn làm sao chứ. Anh chẳng suy nghĩ gì cả.” Vài phút sau, yên ngựa đã thắng xong, và họ bắt đầu chặng đường mười lăm phút đi ngựa đến nhà Cheever. Miranda vẫn im lặng khoảng một phút đầu, quá hạnh phúc đến nỗi không muốn làm hỏng khoảnh khắc này bằng những lời nói. “Ở bữa tiệc em có vui không?” rốt cuộc Turner lên tiếng. “Ồ, vâng. Phần lớn thời gian rất vui ạ.” “Phần lớn thời gian thôi à?” Anh thấy Miranda nhăn mặt. Rõ ràng cô bé không định nói quá nhiều. “À,” cô bé chậm rãi đáp, cắn môi rồi lại nhả ra, “một cô gái đã nói những lời không tốt với em.” “Ồ?” Anh biết tốt hơn là không nên tò mò thái quá. Và quả nhiên anh đã đúng, bởi vì khi Miranda nói chuyện, cô bé gợi anh nhớ đến em gái mình - đang ngước nhìn anh chăm chú với ánh mắt thẳng thắn trong khi từ ngữ thì ào ào mạnh mẽ. “Đó là Fiona Bennet,” cô bé nói với vẻ cực kỳ chán ghét, “Olivia gọi cô ta là con bò già ngu ngốc, và em phải nói là em không thấy hối tiếc khi cậu ấy làm vậy.” Turner vẫn giữ thái độ trang nghiêm thích hợp. “Anh cũng không thấy tiếc vì con bé đã làm vậy, nếu Fiona đã nói những lời tàn nhẫn với em.” “Em biết mình không xinh đẹp,” Miranda bùng nổ. “Nhưng thật là thô lỗ bất lịch sự khi nói vậy, ấy là chưa kể còn ám chỉ thẳng thừng color="black">Turner nhìn Miranda một lúc lâu, không chắc mình phải an ủi cô gái bé nhỏ này như thế nào. Miranda không xinh đẹp, đó là sự thật, và nếu anh cố bảo rằng cô bé xinh xắn thì cô bé sẽ không tin anh. Nhưng cô bé không xấu xí. Chỉ... hơi vụng về. Tuy nhiên anh đã được giải thoát khỏi tình huống khó khăn này, không phải nói bất cứ điều gì nhờ câu bình luận tiếp theo của Miranda. “Đó là vì mái tóc màu nâu này, em nghĩ thế.” Anh nhướn mày. “Nó chẳng đúng mốt gì cả,” Miranda giải thích. “Và cả đôi mắt nâu nữa. Em cũng quá gầy và mặt em quá dài, em quá xanh xao nữa.” “Chà, những cái đó đều đúng cả,” Turner nói. Miranda quay sang đối diện với anh, đôi mắt cô bé mở to, nhòa lệ và gương mặt đượm vẻ buồn rầu. “Hiển nhiên em có mái tóc và đôi mắt màu nâu. Không có gì phải bàn cãi ở điểm đó cả.” Anh nghiêng đầu vờ săm soi nghiên cứu cô bé thật toàn diện. “Em khá gầy, và mặt em đúng là hơi dài một tí. Và em rõ ràng là trông xanh tái.” Môi Miranda run run, và Turner không thể trêu chọc cô bé thêm nữa. “Nhưng mà,” anh mỉm cười, “anh lại thích phụ nữ có tóc và mắt màu nâu hơn.” “Không phải thế!” “Đúng thế đấy. Lúc nào anh cũng thích như vậy. Anh cũng thích họ gầy và xanh xao nữa.” Miranda nhìn anh vẻ hoài nghi. “Thế còn mặt dài thì sao?” “À, anh phải công nhận anh chưa bao giờ nghĩ ngợi nhiều về vấn đề ấy, nhưng anh chắc chắn là không thấy phiền lòng với một khuôn mặt dài.">“Fiona Bennet nói em có đôi môi bự,” cô bé vẫn bướng bỉnh nói. Turner hơi mỉm cười đáp lại. Cô bé thở dài thườn thượt. “Trước đây em thậm chí chưa bao giờ nhận thấy là mình có đôi môi bự.” “Không quá bự đâu.” Cô bé ném cho anh ánh nhìn cảnh giác. “Anh đang nói thế để làm em thấy dễ chịu hơn thôi.” “Quả là anh muốn em cảm thấy khá hơn thật, nhưng đó không phải là do anh nói thế. Và lần tới Fiona Bennet mà nói em có đôi môi bự thì hãy bảo với nó là nó sai rồi. Em có đôi môi đầy đặn.” “Có gì khác nhau đâu?” Cô bé nhìn anh nôn nóng, đôi mắt tối sẫm hết sức nghiêm nghị. Turner hít vào một hơi. “Chà chà,” anh nói tránh. “Môi bự thì không hấp dẫn. Nhưng môi đầy đặn thì có đấy.” “Ồ.” Điều đó có vẻ làm cô bé hài lòng. “Môi Fiona mỏng dính.” “Môi đầy đặn thì tốt hơn nhiều, nhiều so với môi mỏng,” Turner nói dứt khoát. Anh khá thích cô gái bé nhỏ vui nhộn này và muốn cô bé vui hơn. “Tại sao?” Turner thầm cầu xin các vị thần của nghi thức xã giao và tính đúng đắn chừng mực tha lỗi trước khi trả lời: “Đôi môi đầy đặn thì hôn sẽ tuyệt hơn.” “Ồ.” Miranda đỏ mặt, và rồi cô bé mỉm cười. “Hay quá.” Turner cảm thấy hài lòng với bản thân một cách ngớ ngẩn. “Em có biết anh nghĩ gì không, tiểu thư Miranda Cheever? “Dạ?” “Anh nghĩ em chỉ cần trở thành chính mình thôi.”[2] Vừa nói ra điều đó, anh lập tức cảm thấy hối tiếc. Chắc chắn cô bé sẽ hỏi ý anh là gì, và anh chẳng biết phải trả lời cô ra sao nữa. [2] Nguyên văn là “I think you just need to grow into yourself” và Miranda hiểu lầm ý của anh nói cô bé cần phải lớn hơn để cơ thể cân đối với đôi chân quá dài của mình. Nhưng cô bé lớn trước tuổi này chỉ nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ về tuyên bố của anh. “Em mong là anh đúng,” cuối cùng cô nói. “Hãy nhìn chân em mà xem.” Một tiếng ho kín đáo lấp liếm nụ cười nén vội trong họng Turner. “Ý em là gì?” “Thế đấy, chân quá dài. Mẹ em thường nói rằng chân dài đến nách vậy.” “Có vẻ như chân em bắt đầu từ phần hông của em đấy chứ.” Miranda cười rúc rích. “Em đang nói ẩn dụ mà.” Turner nháy mắt. Cô bé mười tuổi này quả là thích lý sự. “Ý em là,” cô tiếp tục, “đôi chân của em có kích thước không cân đối so với phần còn lại của cơ thể. Em nghĩ đó là lý do em không thể học khiêu vũ được. Em cứ giẫm vào ngón chân của Olivia hoài.” “Giẫm lên ngón chân của Olivia?” “Chúng em tập khiêu vũ cùng nhau,” Miranda mau lẹ giải thích. “Em nghĩ nếu các bộ phận trên cơ thể em ăn khớp với đôi chân thì em sẽ không quá lóng ngóng vụng về. Vì vậy em cho là anh đúng đấy. Em đúng là phải lớn hơn để cho vừa với chính mình.”[3] [3] Nguyên văn là “I do have to grow into myself.” “Tuyệt vời,” Turner nói, vui mừng nhận ra chẳng hiểu xoay xở thế nào mà anh đã nói trúng điều cần nói. “À, có vẻ như chúng ta đến nơi rồi.” Miranda ngước nhìn ngôi nhà đá xám xịt của mình. Nó tọa lạc ngay trên một trong những dòng suối ăn thông với các hồ trong vùng, và dòng suối này chảy qua cây cầu nhỏ bằng đá cuội dẫn đến cửa trước của ngôi nhà. “Cảm ơn anh rất nhiều vì đã đưa em về, Turner. Em hứa sẽ không bao giờ gọi anh là Nigel.” “Em cũng hứa là sẽ véo Olivia nếu nó gọi anh là Nigel chứ?” Miranda khẽ bật ra tiếng cười khúc khích và bụm tay che miệng. Cô bé gật đầu. Turner xuống ngựa rồi quay sang giúp cô bé xuống. “Em có biết anh nghĩ em nên làm gì không hả Miranda?” anh đột nhiên hỏi. “Gì ạ?” “Anh nghĩ em nên viết nhật ký.” Cô bé chớp mắt ngạc nhiên. “Tại sao? Ai muốn đọc nó chứ?” “Không ai cả. Em giữ riêng nó cho mình thôi. Và có thể một ngày nào đó sau khi em qua đời, con cháu của em sẽ muốn đọc nó để biết được hồi còn trẻ em sống như thế nào.” Cô nghiêng nghiêng đầu. “Ngộ nhỡ em không có con cháu thì sao?” Turner bất giác đưa tay vò tóc cô bé. “Em hỏi nhiều quá đấy, mèo con ạ.” “Nhưng nhỡ em không có con cháu thì sao?” Chúa ơi, cô bé thật cứng đầu. “Có lẽ em sẽ nổi tiếng.” Anh thở dài. “Và bọn trẻ học ở trường sẽ muốn được biết về em.” Miranda ném cho anh ánh mắt hoài nghi. “Ôi, thôi được rồi, em muốn biết tại sao anh thật sự nghĩ em nên viết nhật ký không?” Cô bé gật đầu. “Bởi vì một ngày nào đấy em sẽ lớn lên và trở thành chính mình, em sẽ xinh đẹp và thông minh. Rồi em có thể đọc lại nhật ký và nhận ra những đứa con gái như Fiona Bennet mới ngốc nghếch làm sao. Và em sẽ cười khi nhớ lại rằng mẹ em đã nói chân em dài tới tận nách. Và có thể em sẽ dành cho anh một nụ cười tủm tỉm khi nhớ lại buổi trò chuyện tuyệt vời giữa chúng ta hôm nay.” Miranda ngước nhìn anh, nghĩ rằng anh chắc hẳn phải là một trong những vị thần Hy Lạp mà ba vẫn thường đọc cho mình nghe. “Anh biết em nghĩ gì không?” cô bé thì thầm. “Em nghĩ Olivia rất may mắn vì có anh là anh trai.” “Anh nghĩ nó rất may mắn vì có em là bạn.” Môi Miranda run run. “Em sẽ dành cho anh một nụ cười rạng rỡ, Turner ạ,” cô bé thì thầm. Anh cúi xuống ân cần hôn lên mu bàn tay của cô bé đúng như anh hẳn sẽ làm với một tiểu thư xinh đẹp nhất London. “Hãy chờ xem nhé, mèo con.” Anh mỉm cười và gật đầu chào trước khi lên ngựa, dắt con ngựa cái của Olivia đi đằng sau. Miranda dõi theo cho tới khi anh biến mất ở đường chân trời, rồi cô bé cứ nhìn đăm đăm thế thêm mười phút tuyệt vời nữa. Khuya hôm đó Miranda thơ thẩn đi vào phòng làm việc của ba. Ông đang cắm cúi vào một văn bản, quên bẵng cây nến sáp đang nhỏ giọt trên bàn làm việc. “Ba, đã bao nhiêu lần con phải nhắc ba để ý đến mấy cây nến rồi ạ?” Cô bé thở dài đặt cây nến vào giá cắm. “Gì cơ? Ồ, con yêu.” “Và ba cần nhiều hơn một cây nến. Ở đây tối quá không thể đọc được.” “Thế à? Ba không để ý.” Ông chớp mắt và rồi nheo lại. “Không phải đã quá giờ đi ngủ của con rồi à?” “Vú nói đêm nay con có thể thức thêm ba mươi phút nữa.” “Vú nói vậy à? Ờ ờ, miễn là bà ấy đồng ý.” Ông lại cắm cúi trở lại bản thảo, tỏ ý không muốn nói chuyện nữa. “Ba à.” Ông thở dài. “Gì nữa thế, Miranda?” “Ba có quyển sổ thừa nào không? Giống như những cuốn ba dùng khi đang dịch ấy, nhưng là trước khi ba chép ra bản nháp cuối cùng cơ?” “Chắc là có đấy.” Ông mở ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc ra lục tìm trong đó. “Đây rồi. Nhưng con muốn làm gì với nó thế? Đây là một cuốn sổ rất tốt, con biết đấy, và không rẻ đâu.” “Con sẽ viết nhật ký.” “Bây giờ ư? À, thế thì ba cho là cuốn sổ này xứng đáng đấy.” Ông đưa cuốn sổ cho Miranda. Cô bé cười rạng rỡ trước lời tán dương của ba. “Cảm ơn ba. Con sẽ cho ba biết khi nào hết chỗ viết và cần một cuốn khác.” “Được rồi. Chúc ngủ ngon, con yêu.” Ông quay trở lại với đống giấy tờ của mình. Miranda ôm cuốn sổ vào ngực chạy lên lầu về phòng ngủ. Cô bé lấy ra một lọ mực và cây bút lông rồi mở cuốn sổ ra. Ở trang đầu tiên, cô bé ghi ngày tháng, và rồi, sau một hồi cân nhắc, cô viết một dòng duy nhất. Dường như đó là tất cả những gì cần viết. 2 THÁNG BA 1810 Hôm nay mình đã yêu. Nigel Bevelstoke, vốn được tất cả những kẻ muốn lấy lòng anh biết đến nhiều hơn với cái tên Turner, biết rất nhiều thứ. Anh biết đọc tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Anh biết tán tỉnh phụ nữ bằng tiếng Pháp và tiếng Ý. Anh biết vừa cưỡi ngựa vừa nhắm bắn một mục tiêu di động, và biết chính xác phải uống bao nhiêu ly thì không đánh mất phẩm giá địa vị của mình. Anh biết tung một nắm đấm hoặc một đường gươm với phong thái bậc thầy, và cũng có thể làm cả hai việc đó trong khi vẫn ngâm nga Shakespeare hay Donne đầy duyên dáng. Tóm lại, anh biết mọi thứ mà một quý ông nên biết, và theo những thông tin thu được thì anh xuất sắc trong mọi lĩnh vực. Người ta nhìn ngắm anh. Người ta tôn kính anh. Nhưng không có gì - không một giây nào trong cuộc đời xuất chúng và vinh quang của anh - giúp anh chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với thời khắc này. Và chưa bao giờ anh cảm thấy sức nặng của những ánh mắt soi xét dè chừng nhiều như lúc này, khi anh bước tới trước và ném nắm đất lên quan tài của vợ mình. Tôi rất lấy làm tiếc, người ta cứ nói đi nói lại mãi. Tôi rất lấy làm tiếc. Chúng tôi rất lấy làm tiếc. Và trong lúc đó, Turner không thể ngăn được cái ý nghĩ rằng không biết có phải đang cười anh không, bởi vì tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là... Tôi không thấy tiếc. À, Leticia. Anh cảm ơn cô ta rất nhiều về điều đó. Hãy xem nên bắt đầu từ đâu thì hợp lý? Danh tiếng của anh bị tổn hại, dĩ nhiên rồi. Chỉ quỷ sứ mới biết có bao nhiêu người tường tận rằng anh là kẻ bị cắm sừng. Một lần, hai lần, ba lần,... Thế rồi đến bản tính trong sáng của anh cũng mất. Giờ đây, thật khó lòng hồi tưởng lại, nhưng anh đã từng không hề nghi ngờ bất cứ ai. Anh đã từng tuyệt đối tin vào những gì tốt đẹp nhất của con người - rằng nếu anh đối xử với người khác bằng danh dự và sự kính trọng thì họ sẽ làm như vậy với anh. Và cuối cùng, linh hồn anh cũng mất. Bởi vì trong khi anh bước lùi lại, chắp hai tay cứng nhắc phía sau lắng nghe vị linh mục chuyển thân xác Leticia vào lòng đất, anh không thể trốn chạy cái thực tế là anh đã ao ước điều này xảy ra. Anh muốn thoát khỏi cô ta. Anh đã và sẽ không than khóc cho cô ta. “Thật đáng tiếc,” ai đó phía sau anh thì thào nói. Quai hàm Turner giần giật. Không có gì đáng tiếc ở đây. Nó là một trò hề. Và bây giờ anh sẽ dùng một năm sắp tới để tang cho một người phụ nữ đến với anh mà lại mang thai đứa con của kẻ khác. Cô ta làm anh mê mẩn, bỡn cợt anh cho tới khi anh không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài việc chiếm cho được cô ta. Cô ta nói rằng cô ta yêu anh, và cô ta mỉm cười với vẻ ngây thơ dịu dàng đầy vui sướng khi anh tuyên thệ lòng tận tâm và cam kết bằng cả linh hồn mình. Cô ta đã từng là giấc mơ ngọt ngào của anh. Và rồi cô ta trở thành ác mng của anh. Cô ta mất đứa bé đó, đứa trẻ đã dẫn đến cuộc hôn nhân của họ. Bố nó là một vị Bá tước người Ý nào đó, ít nhất là cô ta nói thế. Gã đã có vợ, hoặc không phù hợp, hoặc có lẽ cả hai. Turner đã sẵn sàng tha thứ cho cô ta, ai cũng phạm sai lầm, và cả anh cũng vậy còn gì, chẳng phải anh muốn dụ dỗ cô ta trước đêm tân hôn đó sao? Nhưng Leticia không muốn tình yêu của gã. Anh không biết cô ta muốn cái quái quỷ gì nữa - quyền lực, có lẽ thế, cơn say thỏa mãn khi hãy còn người đàn ông khác đổ nhào xuống vì bùa mê của cô ta. Turner tự hỏi liệu cô ta có cảm thấy thế khi gã chết không. Hay có lẽ nó chỉ là một sự giải thoát. Tính đến khi Turner và cô ta cưới nhau, cô ta đã mang thai được ba tháng. Cô ta không có nhiều thời gian rảnh. Và giờ thì cô ta đây. Hay đúng hơn là, cô ta kia. Turner không biết chính xác dùng từ nào là thích đáng hơn cả cho cái thân xác không còn sự sống trong lòng đất ấy. Mà từ nào cũng được. Anh chỉ thấy tiếc rằng cô ta sẽ chia sẻ sự vĩnh hằng trong mảnh đất của anh, yên nghỉ giữa những người nhà Bevelstoke mãi mãi. Bia đá của cô ta sẽ mang tên anh, và rồi một trăm năm nữa người nào đó sẽ nhìn vào dòng chữ khắc trên tấm đá granit kia mà nghĩ cô ta chắc hẳn là một phu nhân đáng kính, và tự hỏi bi kịch gì đã khiến cô ta ra đi khi còn quá trẻ như vậy. Turner ngước nhìn vị linh mục. Ông ta trẻ nhất trong các đồng đạo, mới đến giáo xứ, và theo anh biết thì vị linh mục này vẫn còn niềm tin rằng có thể biến thế gian này thành một nơi tốt đẹp hơn. “Tro tàn trở về với tro tàn,” linh mục vừa nói vừa nhìn lên người đàn ông giờ đã trở thành góa vợ. À phải, Turner chua chát nghĩ, đó là mình. “Cát bụi trở về với cát bụi.” Phía sau anh, có ai đó sụt sịt. Và vị linh mục, với đôi mắt xanh sáng ngời ánh lên niềm cảm thông được đặt hoàn toàn không đúng chỗ, tiếp tục nói... “Trong niềm hy vọng chắc chắn và vững vàng vào sự hồi sinh...” Chúa nhân từ. “... tới cuộc sống vĩnh hằng.” Vị linh mục nhìn Turner và thực sự nao núng. Turner thắc mắc không rõ chính xác thì ông ta nhìn thấy gì trên gương mặt anh. Chẳng có gì tốt đẹp, điều đó hẳn quá rõ ràng rồi. Ai nấy đồng thanh “Amen!”, và rồi buổi lễ kết thúc. Mọi người nhìn vị linh mục, rồi nhìn Turner, sau đó lại nhìn vị linh mục siết chặt hai bàn tay của Turner mà nói: “Mọi người sẽ nhớ cô ấy.” “Tôi,” Turner nén lại, “thì không.” Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. Miranda nhìn xuống những dòng cô đã viết. Cô đang ở trang thứ bốn mươi hai của cuốn nhật ký thứ mười ba, nhưng đây là lần đầu tiên - lần đầu tiên kể từ sau cái ngày định mệnh chín năm về trước - cô không biết viết gì cả. Ngay cả trong những tháng ngày xám xịt ảm đạm (mà chúng thường xuyên xuất hiện), cô cũng xoay xở để viết được một đoạn dài. Tháng Năm năm cô mười bốn tuổi... Thức dậy. Mặc quần áo. Ăn sáng: bánh mì nướng, trứng, thịt lợn muối. Đọc Lý trí và Tình cảm; được sáng tác bởi một tiểu thư vô danh. Giấu Lý trí và Tình cảm. Ăn tối: thịt gà, bánh mì, pho mát. Chia động từ tiếng Pháp. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bò bít tết, xúp, bánh pudding. Đọc tiếp Lý trí và Tình cảm, nhận diện về tác giả vẫn chưa biết. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Còn đây là những điều cô ghi vào ngày 12 tháng Mười một cùng năm đó... Thức dậy. Ăn sáng: Trứng, bánh mì nướng, giăm bông. Thực hiện một cuộc biểu dương vĩ đại đọc bi kịch Hy Lạp. Không có kết quả. Dành nhiều thời gian nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ. Ăn trưa: cá, bánh mì, đậu Hà Lan. Chia động từ Latin. Viết thư cho bà ngoại. Ăn khuya: bánh mì nướng, khoai tây, bánh pudding. Mang bi kịch đến bàn (sách, không phải sự kiện). Ba không. Lui về nghỉ ngơi. Ngủ. Mơ về anh. Nhưng bây giờ - khi một sự kiện trọng đại đã thực sự xảy ra (điều chưa bao giờ xảy ra) thì cô lại chẳng có gì để viết ngoại trừ... Mình không thể tin anh ấy lại nói thế. “Than ôi, Miranda,” cô lầm bầm, nhìn mực khô đi trên đầu cây viết lông, “mày sẽ không nổi danh được với tư cách là một người viết nhật ký đâu.” “Cậu vừa nói g&igrav

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Công Ty - Phan Hồn Nhiên
"Công Ty" Câu chuyện xoay quanh các mối quan hệ trong một công ty chuyên về thiết kế. Hầu hết các nhân vật đều còn rất trẻ, mới bước vào đời, bươn chải, với những mục tiêu và khát vọng riêng. Những cô gái chàng trai đã hớn hở sống và trải qua các biến cố lớn với cảm giác tự tin, tuyệt vọng, hy vọng…, những bài học về sự đánh đổi, trả giá và cảm nhận hạnh phúc. *** Peter không biết tôi rất tỉnh ngủ. Mọi hành động ông ta làm đều được tôi quan sát qua đôi mắt khép hờ. Bóng người mặc quần áo hằn lên trong đêm tối. Cách ông ta hút vội điếu thuốc cho tỉnh táo. Cặp kính trắng loé sáng khi phản chiếu thoáng qua bóng đèn hắt ra từ phòng tắm. Rồi ông ta rút ví, kiểm tra lại số tiền xem có lấy trộm hay không… Nhiều lần như thế mà tôi vẫn không sao quen được. Tôi nín thở, lặng đi vì bị sỉ nhục. Hệt như một kẻ bị ma ám, tôi luôn tự ngủ phải tẩy xoá những hình ảnh ấy ra khỏi óc càng sớm càng tốt. … Đôi ba lần, tung sợi dây thăm dò, tôi thử vòng tay ôm chặt, hoặc tựa sát vào ông ta một cách âu yếm. Peter chấp nhận hành động của tôi, nhưng rõ ràng, ông ta quan sát và tìm cách giải mã chúng theo con mắt nhìn đầy quái quỷ. Dần dần, tôi nhận ra tình thế mỉa mai đến mức kinh tởm mà mình rơi vào. Peter và tôi là hai đối thủ đầy cảnh giác, hỗ trợ nhau trong công ty nhưng sẵn sàng thọc dao vào ngực nhau bất cứ lúc nào. Hai kẻ dè chừng nhau vậy mà vẫn gắn kết những giây phút riêng tư nhất trên giường. Mỗi người theo đuổi mối lợi, không thể dễ dàng rũ bỏ. ... Mời các bạn đón đọc Công Ty của tác giả Phan Hồn Nhiên.
Không Khoan Nhượng - Brad Thor
Biệt tài của Brad Thor là im lặng và “lạnh lùng” miêu tả, không đưa ra bình luận. Nhưng mọi tình tiết ly kỳ tới mức kinh dị của ông đã nói lên tất cả. Có một bài ca được cất lên. Đó là nét đẹp của tình yêu và lẽ sống, nét đẹp của trí thông minh và lòng dũng cảm. Thật khó có thể nói hết được tình yêu của Harvath với Tracy. Từ đó, thật mà khó nói hết nỗi đau của anh khi chứng kiến cô người yêu của mình rơi vào cảnh “sống mà như chết”. Tuy đơn độc trong cuộc chiến, nhưng Harvath được hậu thuẫn bởi nhiều đồng nghiệp, người thân, sự hiểu biết và tình yêu đối với công việc. Anh bỏ qua sự lạnh nhạt của tổ chức, sự tiếp tay vô tình của nhiều người với kẻ địch (như thằng Lùn chẳng hạn)… để hướng tới mục tiêu duy nhất: Truy đuổi đến cùng để triệt hạ đối phương. Với 124 chương, kéo dài suốt 551 trang sách, bạn đọc sẽ trải qua một cuộc “đọc marathon” mệt nghỉ với nhiều tâm trạng. Nhưng cảm xúc từ tiểu thuyết này thật lớn. Có quá nhiều sự kiện ly kỳ “hơn cả trinh thám”. Cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn thêm nhiều tri thức về sự xung đột ý thức hệ thời hiện đại với nhiều sắc thái biểu hiện. ở đó, ta sẽ thấy âm mưu và tình yêu bộc lộ rõ rệt. Và ta cũng thấy ở đó, nghị lực sống, nghị lực vượt qua thử thách cao hơn tất cả. *** Câu chuyện bắt đầu từ “trại 5” Delta, tại căn cứ của hải quân Mỹ ở vịnh Guantanamo (Cuba). Ai cũng biết đây là trại giam khét tiếng, chuyên giam giữ tù nhân là bọn khủng bố. Đó là những kẻ Hồi giáo cực đoan ở rải rác khắp nơi (như Afghanistan, Palestine, Ảrập Xêút, Iran, Iraq...). Cả thế giới đều phải e ngại trước những kẻ mà “bom cảm tử mạnh hơn cả bom nguyên tử”. Dĩ nhiên, chuyện Al Qaeda tác oai tác quái là điều quá rõ. Điều mà bạn đọc tự hỏi là, vấn đề chính trị như vậy sẽ được khai thác như thế nào dưới góc độ tiểu thuyết? Các nhân vật trong truyện “lưỡng phân” thành 2 nhóm. Đó là thế lực ngầm (những kẻ khủng bố, giấu mặt) và thế lực nổi (mật vụ Mỹ, FBI và lực lượng chống khủng bố, cũng giấu mặt). Đây là sự đối đầu gian nan, khốc liệt nhất. Bởi trong sự đối chọi này, có cái thiện và cái ác, có âm mưu và tình yêu, có sự sống và cái chết, và có niềm tin bắt nguồn từ hai phía... *** TRẠI DELTA CĂN CỨ HẢI QUÂN MỸ VỊNH GUANTANAMO, CUBA Khi trời nóng ấm, ở Cuba, cuộc sống của con người ta đâu đó lơ lửng giữa hai thái cực, giữa nỗi khổ cùng cực và sự chịu đựng cái nóng nực, bức bối, chen chúc chờ đợi được tắm cho bớt khó chịu, để rồi, khi đến lượt mình thì, “Có bồn tắm rồi đấy, có ai có dao lam không?”. Còn khi mưa lạnh, ở Cuba quả là không thể chịu nổi. Đêm nay là một đêm như vậy. Lúc những người lính gác đễn chỗ xà lim đặc biệt thuộc “Trại 5” Delta, khu giam giữ những kẻ tình nghi nguy hiểm nhất và có giá trị tình báo cao nhất, nơi đây tồi tệ hơn ngày thường rất nhiều. Và đó không phải vì thời tiết. Có cái gì đó không ổn. Nó hiển hiện trên nét mặt họ khi đẩy năm tù nhân ra khỏi xà lim và giơ súng yêu cầu chúng cởi quần áo. Thời gian Philippe Roussard ở Guantanamo không phải là dài nhất, nhưng hắn đã trải qua những cuộc lấy cung khó khăn nhất. Một người Châu Âu mang dòng máu Ả-rập, hắn là tay bắn tỉa cừ khôi với những kỳ tích đi vào huyền thoại. Những cuốn băng video về tài nghệ bắn súng của hắn được đẩy lên liên tiếp trên khắp các trang web của các tín đồ Hồi giáo thánh chiến. Đối với những tín đồ Hồi giáo, hắn là một siêu anh hùng trong các danh nhân đạo Hồi cấp tiến. Đối với nước Mỹ, hắn là cỗ máy giết người kinh hoàng, kẻ đã gây ra cái chết của trên một trăm lính Mỹ. Nhìn vào gã cai ngục, hắn nhận thấy ánh mắt ấy hơn cả nỗi thù hận đơn thuần. Đêm nay, ánh mắt ất còn có cả sự ghê tởm tột độ. Có điều gì đó mách bảo, cho dù lính của Lực lượng Liên quân Guantanamo có chiến thuật hỏi cung nửa đêm đối với Roussard và bốn đồng nghiệp của hắn như thế nào đi nữa, đêm nay, sẽ hoàn toàn khác những gì chúng đã từng trải qua. Những người lính gác có vẻ bắt đầu bối rối. Liệu có phải đã có cuộc tấn công thành công vào nước Mỹ? Còn điều gì khác có thể khiến những người lính kia rơi vào trạng thái như thế? Nếu vậy, Roussard cảm nhận rõ ràng rằng người Mỹ sẽ bắt các tù nhân phải trả giá. Không nghi ngờ gì nữa, hẳn là chúng đã có một kiểu đê tiện khác để xúc phạm sự nhạy cảm kiểu đạo Hồi của các tù nhân. Riêng mình, Roussard hy vọng cuộc tra tấn có người lính tóc vàng tham gia và rằng cô sẽ cởi quần áo cho tới khi chỉ còn bộ đồ lót đen bằng ren và cọ sát thân hình quyến rũ ấy vào người hắn. Dù biết mình đoán sai, nhưng những suy nghĩ thích thú về những gì hắn muốn với người đàn bà ấy đã giúp hắn dễ dàng trải qua những giờ đồng hồ cách ly dài đằng đẵng và cô đơn mà hắn phải chịu đựng. Hắn vẫn còn đang tiên đoán về số phận của mình khi nghe tiếng khóa cửa ở tận đầu kia xà lim. Roussard nhìn lên, hy vọng đó là người lính tóc vàng, nhưng không. Một người lính khác bước vào mang theo năm cái túi giấy. Cứ ngang qua mỗi tù nhân, anh ta lại vứt cho một cái. “Mặc vào!” Anh ta ra lệnh bằng thứ tiếng Ả-rập vụng về. Tất cả tù nhân, kể cả Philippe, đều bối rối lấy quần áo dân sự ra khỏi túi và mặc vào người. Chúng kín đáo nhìn nhau trong khi cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Roussard nhớ lại những câu chuyện đã từng nghe về các tù nhân trong trại tập trung người Do Thái, chúng nói rằng đưa họ đi tắm, nhưng thực chất là đưa đến các phòng gas. Hắn ngờ rằng những người Mỹ này đang cho cả bọn mặc quần áo mới chỉ để hành quyết họ, tuy nhiên, hắn hơi lo lắng một chút vì không biết chắc sẽ phải đối mặt với cái gì. “Sao chúng không chạy nhỉ?” Một trong số những người lính gác thì thầm vào tai đồng bọn khi anh ta đánh vào cái vòng cản của khẩu M16 của mình. “Tao chỉ muốn một trong số những thằng khốn này nói dông dài với chúng ta.” “Nhảm nhí,” người lính kia trả lời. “Chúng ta đang làm cái quái gì vậy?” “Hai thằng, câm ngay!” Chỉ huy của họ quát lên, rồi ra một loạt lệnh qua điện đài. Hẳn có chuyện gì đó không ổn. Ngay khi vừa mặc xong quần áo, chúng bị còng tay chân và bắt đứng xếp hàng quay mặt vào bức tường phía xa. Thế đấy, Roussard nghĩ bụng khi hắn bắt gặp cái nhìn chằm chằm của gã lính gác đang hy vọng một trong những tù nhân sẽ chạy chọt. Ngón tay anh lính bắt đầu lần từ cái vòng cản xuống chỗ cò súng và có vẻ muốn nói gì đó khi có một loạt xe dừng lại phía bên ngoài. “Đón chúng ta đấy.” Vị chỉ huy Lực lượng Liên quân hết lên. “Lên thôi!” Đám tù nhân bị đẩy về phía cửa. Roussard hy vọng khi ra ngoài, hắn có thể nhìn thấy là họ đang đi đâu, như vậy sẽ rõ ràng hơn. Không được rồi, từng tù nhân một bị trùm đầu trước khi được đưa ra một đoàn xe đa năng màu xanh đang chờ bên ngoài. Mười phút sau, đoàn xe dừng lại. Trước khi cái mũ chụp đầu nặng nề ấy được gỡ bỏ, Roussard có thể nhận ra tiếng động cơ phản lực gào xé. Trên mặt nhựa đường đẫm nước mưa, trước khi được tháo còng, đám tù nhân nhìn lên, thấy một chiếc Boeing 727 khổng lồ. Một cái thang cuộn lên một bên chiếc phi cơ và khoang cửa mở rộng. Chẳng ai nói một lời, nhưng dựa vào thái độ của những người lính – dường như họ được lệnh đứng cách xa chiếc máy bay – Roussard đi đến một kết luận sáng suốt. Dù không được lệnh, Roussard cứ tiến một bước về phía trước. Không thấy người lính nào ngăn cản, hắn tiến lên bước nữa, rồi bước nữa, cho tới khi chân chạm vào bậc thang kim loại đầu tiên và hắn bắt đầu trèo lên. Hắn sắp có cơ hội được cứu. Chỉ đến cuối cùng hắn mới biết. Thấy tiếng các tù nhân khác chạy rầm rập ở lối đi phía sau mình, Roussard thận trọng bước vào cabin. Người hắn gặp đầu tiên trên máy bay là một sĩ quan, anh ta so sánh hắn với một tấm ảnh trên bìa kẹp hồ sơ, rồi rút ra một cái phong bì đen nặng nề, anh ta nói, “Chúng tôi được lệnh đưa anh cái này”. Trước đó, Roussard đã từng nhận được những phong bì giống thế này. Dù không mở ra, hắn cũng biết ai gửi nó tới. “Mời anh ngồi vào chỗ,” viên sĩ quan đầu tiên tiếp lời. “Cơ trưởng đang nóng lòng muốn cất cánh.” Roussard tìm thấy một chỗ trống gần cửa sổ và thả mình vào đó. Khi cánh cửa khoang chính đóng lại, một số thành viên phi hành đoàn biến mất về phía đuôi máy bay và quay lại mang theo những thiết bị y tế kì cục cùng một số đồ làm lạnh bằng nhựa to. Chẳng điều gì có ý nghĩa với Roussard cho tới khi hắn mở chiwwcs phong bì và đọc nội dung bên trong. Một nụ cười từ từ hiện lên trên khuôn mặt. Thế alf xong. Không những đã được tự do, mà người Mỹ còn không thể theo đuổi được hắn nữa. Hắn sắp được trả thù – và nhanh hơn rất nhiều so với hắn tưởng. Mở cánh cửa sổ ra, Roussard có thể nhìn thấy đám lính đang trèo trở lại những chiếc xe đa năng và lái ra khỏi đường bay, một số giơ tay ra ngoài cửa sổ và giơ ngón giữa ra chào một cách mỉa mai. Khi động cơ của chiếc máy bay bắt đầu rú lên và con thú to lớn bỗng chồm mình về phía trước, phía mũi máy bay vang lên những tiếng vui mừng “Allahu Akbar”, thánh Ala vĩ đại. Thánh Ala vĩ đại thật đấy, nhưng Roussard biết chẳng phải Người đã thu xếp vụ phóng thích này. Và khi nhìn vào chiếc phong bì màu đen, hắn biết rằng họ phải cảm ơn một người nào đó ít nhân từ hơn Người nhiều. Tập trung chú ý về phía cửa sổ nơi những người lính đang nhanh chóng khuất khỏi tầm nhìn, Roussard gõ gõ ngón trỏ và ngón cái, lấy mục tiêu và đẩy cò súng tưởng tượng. Giờ đây, khi đã được tự do, hắn biết rằng, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi người quản lý để hắn tự do trong lòng nước Mỹ để báo thù. ... Mời các bạn đón đọc Không Khoan Nhượng của tác giả Brad Thor.
Địa Đồ Di Cốt - James Rollins
Là bậc thầy của loại tiểu thuyết bán chạy, James Rollins đã cho ra mắt một cuốn sách hấp dẫn đến nghẹt thở trong từng trang viết – một tác phẩm văn học độc đáo mô tả âm mưu làm sống lại một kế hoạch từ thuở xa xưa, hòng tạo ra một trật tự thế giới mới khủng khiếp từ tro tàn của nền văn minh hiện đại. Tội ác này thật tàn độc mà những hệ quả khủng khiếp của nó con người chưa từng nghĩ đến và cũng không thể tránh được. Trong một buổi hành lễ tại nhà thờ Cologne, nước Đức, một nhóm vũ trang khoác áo thầy tu đã dựng nên một cơn ác mộng bằng máu cùng nỗi sợ hãi, chúng lạnh lùng xả súng bắn chết tất cả người đi lễ và ling mục. Những kẻ sát nhân đến không phải để cướp đi một tác phẩm nghệ thuật độc đáo bằng vàng mà là một báu vật vô giá cất giấu bên trong: Di cốt của ba vị Tiên tri, những người đã từng đến viếng đức chúa Hài đồng. Khi tẩu thoát khỏi nơi gây ra tội ác, bọn chúng đã mang đi thứ báu vật có thể định hình lại cả thế giới. Vatican ở trong cơn hoảng loạn. Không tổ chức cảnh sát nào một mình có thể xử lý được vụ cướp và thảm sát kỳ quặc này… Rồi, với sự tham gia của lực lượng Sigma – một nhánh công khai gồm các chuyên gia tinh nhuệ Mỹ – đã được điều động dưới sự chỉ huy của Grayson Pierce. Dù là người mới gia nhập Sigma, nhưng Pierce đã tập hợp được quanh mình một ê-kíp gồm các điệp viên khoa học và lực lượng đặc biệt để gỡ bỏ màn bí mật về chỗ di cốt bị đánh cắp, cùng nhau đi suốt một chặng đường quanh co đầy chông gai với tầng tầng lớp lớp dấu vết và sự thật đen tối để cuối cùng đưa họ tới bảy kỳ quan thế giới… Tập hợp các đệ của thuyết giả kim và các tên sát nhân, những kẻ vạch chiến lược bậc thầy của Long Đình đã lập ra kế hoạch để biến chỗ di cốt thiêng liêng đó hòng thay đổi tương lai của cả nhân loại vốn chỉ có những đầu óc bẩn thỉu và điên rồ nhất mới có thể nghĩ ra… bọn chúng không từ bỏ điều gì, sẵn sàng loại bỏ bất cứ ai ngăn đường chúng. Rồi bỗng nhiên, Pierce, Verona và cả nhóm Sigma từ những người đi săn trở thành kẻ bị săn đuổi, buộc phải sử dụng mọi năng lực vốn có để có thể sống sót trong khi bám đuổi dấu vết chỗ di cốt hòng đến được cuộc đối đầu cùng giữa bóng tối và ánh sáng ở một nơi bị lịch sử quên lãng, nơi mà khoa học và tôn giáo hợp lại để gieo rắc nỗi kinh hoàng chưa từng có trong kỷ nguyên loài người. Một tiểu thuyết bậc thầy gồm cả sự huyền bí đầy hấp dẫn của Mật mã Da Vinci với lối hành văn hấp dẫn của tiểu thuyết gia trinh thám kiểu Tom Clancy, “Địa đồ di cốt” của James Rollins được đánh giá là một cuốn tiểu thuyết kinh điển. *** Lời Tác Giả Thân tặng Alexandra và Alexander,cầu chúc cho cuộc sống của họ sáng lấp lánh-như những vì sao Trong khuôn khổ cuốn sách này, tôi đã được rất nhiều người giúp đỡ từ bạn bè, gia đình, nhà phê bình, thủ thư, linh mục, nhân viên du lịch đến các cô bảo mẫu. Lời đầu tiên, tôi xin được cảm ơn Carolyn McCray, người đã đọc mỗi trang sách tôi viết ra trước tất cả mọi người và Steve Prey vì những ý tưởng và những điều phâ tích của ông đã hình thành nên một tác phẩm qua những trang viết này. Và tất nhiên, tôi hân hạnh được ghi danh những người bạn vẫn gặp nhau hàng tuần ở khách sạn Rocco như Jury Prey. Chris Crowe, Michael Gollowglas, David Murray, Dennis Grayson, Dave Meek, Royal Adams, Jane O’Riva, Dan Needles, Zach Watkins và Caroline Williams. Về những giúp đỡ liên lạc đến ngôn từ, tôi xin được chân thành cảm ơn người bạn tốt từ Great White North, Diane Daigle. Xin đặc biệt cảm ơn David Sylvian vì năng lực, nhiệt tình cũng như sự ủng hộ vô tận của ông và Suzan Tunis, người đã giúp tôi kiểm chứng mọi điều với sự nhẫn nại. Để có được niềm hứng khởi viết cuốn sách này, tôi đặc biệt đánh giá cao các tác phẩm của ngài Laurence Gardner và những khảo sát sơ đồ của David Hudson. Cuối cùng là bốn người mà tôi kính trọng vì tình bạn cũng như sự tư vấn của họ. Đó là người chủ biên của tôi, Lyssa Keusch và đồng nghiệp của bà. May Chen, người đại diện của tôi. Russ Galen và Danny Baror. Cũng như mọi lần, tôi thấy cần nhấn mạnh rằng nếu có bất kỳ hoặc tất cả mọi sai lệch về sự kiện hay chi tiết đều do tôi gánh chịu. Độ chính xác của bất cứ sự hư cấu nào cũng chỉ phản ảnh những sự việc được nêu ra. Do vậy, sự thật có thể đôi khi còn kỳ lạ hơn cả hư cấu lại phải có cơ sở của sự thật. Về điểm này, tất cả tác phẩm mỹ thuật, di tích và báu vật được mô tả trong cuốn sách này là thật. Con đường lịch sử được mô tả ở các trang dưới đây là chính xác. Khoa học là tâm điểm của cuốn tiểu thuyết được dựa trên những nghiên cứu và phát hiện đương thời James Rollins Di vật lịch sử được trao cho Rainald von Dassel, Tổng giám mục địa phận Cologne (1159 -67), sau khi vua Barbarossa cướp bóc thành phố Milan. Báu vật vô giá đó được ban cho vị Tổng giám mục người Đức do ngài đã giúp đỡ và dìu dắt nhà vua đang trị vì. Chả có ai vui lòng khi thấy báu vật này rời khỏi đất nước Italy … mà không có sự giành giựt nào Trích từ cuốn Lịch sử Vương triều La mã, 1845 Mời các bạn đón đọc Địa Đồ Di Cốt của tác giả James Rollins.
Hóa Thân - Franz Kafka
Hóa Thân chính là một tập sách mỏng hiếm hoi mang đậm những suy tư, đau đáu của tác giả Franz Kafka về thân phận con người trong xã hội hiện đại đầy phi lý, vô thường thời ấy. Nó tạo nên trong độc giả nỗi ám ảnh sâu sắc qua nhiều tầng ý nghĩa quá đỗi bất ngờ mà vô cùng tinh tế. Và, cho phép tôi, gọi đây là một kiệt tác! Dù ra đời vào năm 1915, hơn một thế kỉ trước, nhưng tác phẩm Hoá Thân của nhà văn nổi tiếng Franz Kafka vẫn giữ một vị thế quan trọng, được nhiều độc giả hiện đại đón nhận và yêu mến. Bằng giọng văn bình thản đến lạnh lùng, câu từ ngắn gọn đến sắc lẹm, Franz Kafka đã khéo léo gợi nên những cảm xúc một cách tinh tế, không màu mè, không gắng gượng. Ngay cái cách bỏ qua việc miêu tả tâm lí nhân vật cũng là một chủ ý thiên tài của ông trong việc nói lên cái thực tại của một xã hội mà đồng tiền lên ngôi, con người ta chỉ cần đến nhau vì tiền bạc mà không hề bận tâm đến những cảm xúc, những tổn thương của người khác. *** Một sáng tỉnh giấc băn khoăn, Gregor Samsa nằm trên giường thấy mình biến thành một côn trùng khổng lồ. Lưng anh rắn như thể được bọc kín bằng giáp sát, anh nằm ngửa dợm nhấc đầu lên và nhìn thấy bụng mình khum tròn, nâu bóng, phân chia làm nhiều đốt cong cứng đờ; tấm chăn bông đắp trên bụng đã bị xô lệch, gần tuột hẳn. Chân anh nhiều ra, mảnh khảnh đến thảm hại so với phần còn lại của thân hình to đùng, vung vẩy bất lực trước mắt anh. “Mình làm sao thế này? - anh nghĩ thầm. - Đây đâu phải chiêm bao. Vẫn là gian phòng yên tĩnh của anh giữa bốn bức tường quen thuộc; một phòng ngủ bình thường trong thế giới loài người, chỉ có điều hơi nhỏ hẹp mà thôi. Bên trên chiếc bàn bày đầy những mẩu vải vóc quảng cáo đủ loại - Samsa làm nghề chào hàng - vẫn còn treo bức tranh mà gần đây anh đã cắt ra t một tờ họa báo và đem chưng trong một chiếc khung mạ vàng xinh xắn. Tranh vẽ một người đàn bà đội mũ lông thú, quàng khăn lông thú, ngồi thẳng người và phô ra cho khách chiêm ngưỡng một chiếc bao tay to tướng bằng lông thú phủ kín đến tận khuỷu.” Rồi Gregor đưa mắt nhìn qua vuông cửa sô; những giọt mưa lộp độp rơi trên máng xối; và bầu trời âm u vần vũ ngoài kia khơi dậy trong anh một nỗi sầu khắc khoải. “Chắc mình nên ngủ nán thêm tí nữa cho quên luôn cái chuyện vô lí này đi”, anh ngẫm nghĩ, nhưng không sao ngủ được, vì anh vốn quen nằm nghiêng bên phải khi ngủ và trong tình cảnh hiện giờ anh không thể nào trở mình được. Tha hồ cho anh ráng hết sức xoay nghiêng sang phải, lần nào anh cũng bật ngửa trở lại. Nhắm nghiền mắt để khỏi nhìn thấy những cặp chân đang vùng vẫy, anh thử đi thử lại cả trăm lần và chỉ bỏ cuộc khi anh bắt đầu cảm thấy ở mạng sườn cơn đau âm ỉ, mơ hồ chưa từng nếm trải. “Lay chúa, - anh nghĩ. - Mình chọn chi cái nghề quá đỗi nhọc nhằn này! Chạy rông hết ngày này sang ngày khác. Một công việc thật còn khó chịu hơn cả chuyện bán buôn ở cửa hàng và bực mình nhất đời là cứ phải liên tục di chuyển, cứ phải lo lắng chuyện đổi tàu, chuyển ga, ăn uống thất thường, gặp đâu ngủ đấy, lúc nào cũng phải làm quen với những kẻ tình cờ gặp gỡ để rồi không bao giờ thấy mặt lần thứ hai, không bao giờ trở thành bạn hữu thân tình. Quỷ bắt cái nghề này đi! Anh cảm thấy hơi ngứa ở bụng, vẫn nằm ngửa, anh từ từ nhích lại gần đầu giường để có thể nhấc cao đầu dễ dàng hơn, anh xác định được chỗ ngứa bao quanh bởi nhiều đốm trắng nho nhỏ mà anh không hiểu là gì. Anh vươn một chân thử chạm vào đó nhưng rụt phắt lại ngay vi sự tiếp xúc ấy khiến toàn thân anh rùng mình ớn lạnh. Anh lại tụt về vị trí ban đầu. “Dậy sớm như thế này làm cho người ta đâm ra đần độn, - anh nghĩ thầm. - Con người cần phải ngủ đẫy giấc chứ. Mấy tay chào hàng ở hãng khác thì sống như cung tần mĩ nữ. Chẳng hạn mình chạy suốt sáng, quay lại khách sạn để ghi sổ các đơn đặtấy chúng mới ngồi vào bàn điểm tâm. Mình mà thử giở cái cung cách như chúng xem? Lão chủ sẽ tống cổ mình ra khỏi hãng ngay lập tức! Nhưng biết đâu điều đó lại tốt cho mình thì sao? Nếu không vì bố mẹ mà chịu nhịn nhục thì mình đã bỏ việc luôn từ lâu rồi: đã đi thẳng đến lão chủ, nói toạc vào mặt cho lão biết mình nghĩ gì về lão. Thế thì lão ắt ngã lộn đầu từ trên bàn xuống đất! A, còn cái lối lão ngồi thượng trên bàn giấy mà phán lệnh xuống cho nhân viên cũng thật là dị hợm quá chừng, nhất là khi các nhân viên phải xán lại thật gần lão để trả lời bởi vì ông chủ này lãng tai! Hừ, dù sao cũng còn hi vọng; một khi mình đã dành dụm đủ trả hết món tiền bố mẹ mình thiếu nợ lão ta - chắc cùng phải mất năm, sáu năm nữa -  nhất định mình sẽ làm thế. Lúc đó mình sẽ hoàn toàn cắt mọi dây dợ ràng buộc. Còn bây giờ, ôi chao, mình phải dậy ngay, kẻo trễ chuyến tàu năm giờ.” Anh nhìn chiếc đồng hồ báo thức đang tích tắc trên đầu tủ. “Trời đất ơi! - anh hốt hoảng. - Đã sáu giờ rưỡi rồi, và những chiếc kim đồng hồ vẫn lầm lì chuyển động; thậm chí đã gần bảy giờ kém mười lăm rồi chứ có phải sáu rưỡi nữa đâu. Chẳng lẽ đồng hồ không réo chuông ư? Nằm trên giường anh vẫn nhìn rõ chiếc kim báo thức đã được vặn đúng vào số bốn trên mặt đồng hồ: dĩ nhiên là chuông có reo chứ. Đúng, nhưng nếu vậy thì làm sao anh có thế ngủ yên với hồi chuông inh tai nhức óc ấy? Chà, anh nào có được ngủ yên đâu, chỉ là một giấc mơ mệt quá đấy thôi. Còn bây giờ anh phải làm sao đây? Chuyến tàu kế tiếp sẽ khởi hành lúc bảy giờ, muốn đón kịp chuyến tàu ắt hẳn anh phải vội như điên, thế mà các mẫu hàng chưa được gói ghém còn bản thân anh thì chẳng thấy mình sảng khoái, hoạt bát gì mấy. Và cho dù có đón kịp chuyến tàu, anh cũng không thể nào tránh khỏi lôi thôi với lão chủ, bởi vì tên loong toong ở cửa hàng ắt đã tính đợi anh đến bằng chuyến tàu năm giờ và từ lâu hẳn là đã báo cho lão chủ biết sự vắng mặt của anh rồi. Cái tên loong toong ngu xuẩn và chán ngắt này là tay sai của lão chủ. À, hay là anh sẽ viện cớ ốm đau nhỉ? Không được, đó là một cáớ phiền toái nhất hạng, lại đáng nghi ngờ nữa vì suốt năm năm làm việc anh chẳng hề đau yếu lấy một ngày. Lão chủ chắc chắn sẽ đích thân đến tận nhà anh cùng với bác sĩ của quỹ tương tế bệnh viện, sẽ trách cứ bố mẹ anh vì thằng con lười biếng, và sẽ cắt đứt mọi lí do bào chữa bằng cách viện đến sự giám định của bác sĩ bảo hiểm đau bệnh, cha này tất nhiên coi toàn thể nhân loại là những tên lười nhác hoàn toàn khỏe mạnh giở quẻ đổ bệnh mà thôi. Và giá hắn có nói thế trong trường hợp này thì phỏng có sai gì lắm?” Thực tế, Gregor cảm thấy rất khỏe khoắn, chỉ hơi buồn ngủ, một điều quả thực là hơi lạ sau một giấc ngủ dài đến thế, và thậm chí anh lại còn đói bụng khác thường nữa chứ. Trong lúc tất cả những ý nghĩ đó vùn vụt lướt qua tâm trí mà anh còn phân vân chưa quyết định rời khỏi giường - đồng hồ vừa điểm bảy giờ kém mười lăm - thì có người thận trọng gõ vào cánh cửa phía đầu giường anh nằm. ... Mời các bạn đón đọc Hóa Thân của tác giả Franz Kafka.