Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hẹn Hò Với Châu Âu

Cuốn sách viết về hành trình trải nghiệm của tác giả qua nhiều vùng miền của lục địa Âu châu. Nhưng bạn đọc sẽ không tìm thấy những bốc đồng, ồn ào thưởng thấy ở những cuộc du ký. Dù ở những miền đất nồng nhiệt, sôi động nhất vẫn bao phủ một màu sắc trong sáng và cảm xúc mỏng manh. Bị cuốn hút cho đến trang cuối cùng của cuốn sách, lúc này bạn sẽ nhận ra: thì ra chỉ cần có tình, nơi đâu cũng là xứ sở thần tiên. Như một khúc nhạc của miền đồng quê châu Âu yên tĩnh, những bỡ ngỡ như đứa trẻ học vỡ lòng khi được đắm chìm giữa những cung đường văn hóa châu Âu, “Hẹn hò với Châu Âu” của Bùi Mai Hương tái hiện một hành trình tình yêu khôn nguôi, những thổn trước trước cái hay cái đẹp và thôi thúc người đọc được khao khát đi để trải nghiệm. “Hẹn hò với Châu Âu” là cuốn sách mà bất kỳ ai thích “xê dịch” không nên bỏ qua. Những trải nghiệm chân thành, trong sáng và đầy hân hoan của tác giả sống động đến mức khiến bạn có cảm giác như chính mình đang đi du lịch giữa châu Âu vậy. Đặc biệt, cuốn sách là khối kiến thức thú vị về cuộc sống, con người, phong tục, tập quán của những vùng miền tác giả đi qua giúp bạn mở mang tầm hiểu biết của mình. *** Về tác giả: Bùi Mai Hương sinh năm 1978 tại Hà Nội, năm 27 tuổi bắt đầu làm nghiên cứu sinh tại Đại học Innsbruck, Cồng hòa Áo. Phần lớn những hành trình trong cuốn sách được thực hiện trong thời gian này. Hiện tại chị đang là giảng viên bộ môn Kỹ thuật dệt may, Khoa Cơ Khí, Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh. *** LỜI TỰA CỦA TÁC GIẢ Trong khoảng 5 năm của tuổi trẻ, do đi du học nên tôi đã rong ruổi ở châu Âu và một số nước khác khá nhiều. Có nơi ở vài ngày, vài tuần, có nơi tới tận vài năm. Vì chưa bao giờ xác định sẽ định cư ở nước ngoài nên đi đâu tôi cũng cảm thấy quá thiếu hụt thời gian. Lúc nào trong đầu tôi cũng có tư tưởng phải đi cho bằng hết, khám phá cho bằng hết, sợ rằng sẽ không có dịp nào quay lại. Thời gian ấy , tôi thiếu ngủ trầm trọng bởi ngay cả trong mùa đông tuyết rơi mịt mù, khoảng sáu giờ sáng tôi đã dậy, chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng để ra phố lang thang khi thành phố còn say ngủ. Tối muộn lại thì thầm cà phê hoặc đi dạo với bạn bè trên những con phố vắng. Khi về nước, sợ sẽ quên hết, tôi ghi chép lại tất cả rồi đăng lên blog của mình. Thật bất ngờ những người bạn quen và chưa quen đã đọc, chia sẻ với tôi bằng những cảm nhận sâu sắc, chân thành nhất. Điều đó càng thúc đẩy tôi cố gắng viết khi cảm xúc còn vẹn nguyên sau mỗi chuyến đi. Vài năm sau khi cuộc sống của tôi sang trang mới với những bận rộn gia đình, công việc, tôi đọc lại những trang viết của mình và ngỡ ngàng nhận ra điều mình lo sợ ngày xưa là đúng: tôi đã quên đi khá nhiều. Tôi thầm cảm ơn những người bạn ngày trước đã thúc giục tôi viết để giờ đây tôi có dịp hồi tưởng lại những trải nghiệm xưa trên những cung bậc cảm xúc mới. Tôi quyết định tập hợp những bản thảo rời rạc của mình lại thành cuốn sách này để lưu giữ cho tôi, cho người thân, bạn bè, cho cả những ai mang trong mình giấc mơ được trải nghiệm trên nhiều vùng đất và nhiều nền văn hóa khác nhau. Trang viết của tôi có thể không có những cảm xúc tươi mới, cuồng nhiệt như tuổi đôi mươi nhưng chắc chắn là có rất nhiều chiêm nghiệm, rất nhiều bâng khuâng hoài niệm và những tình cảm mà khi ở một sự trưởng thành nhất định, người ta mới có thể hiểu. Khi ngồi sắp xếp lại du ký của mình, tôi chợt nhận ra tất cả những chuyến đi thực hiện khi tôi đang… không yêu ai cả. Đó có thể là cái rủi của tôi khi không được chia sẻ những trải nghiệm tuyệt vời của cuộc sống bên người mình yêu thương, nhưng đó cũng có thể là cái may bởi khi cất tình riêng sang một bên, cảm nhận của tôi đã dành trọn vẹn cho mảnh đất dưới chân mình. Tôi có thời gian ngó nghiêng xem xét từng ngóc ngách mà không cần lên một kế hoạch cụ thể nào, tôi có những phút cô đơn để tư lự bên những góc nhỏ của nơi mà tôi đến, tôi có thể phiêu với những người bạn mới quen và tôi cũng có tâm trạng để nhìn ngắm người ta tay trong tay, để mỉm cười khi gặp biết bao mối tình hạnh phúc trên những nẻo đường tôi qua. Vì chưa dành tình riêng cho ai mà trái tim tôi còn chỗ để phải lòng những miền đất mới. Những miền đất ấy cũng trả lại cho tôi đầy đủ những cung bậc mà tình yêu có thể: có niềm hạnh phúc vô bờ khi được chạm đến những huyền thoại văn hóa, lịch sử, có nỗi chua xót trước những số phận cơ cực và đổi thay của nhân thế, có những phút giây dường như chỉ còn ta với ta bên những dòng sông trong xanh thơ mộng đang lững lờ trôi. Chính vì những lý do đó mà tôi muốn kể lại câu chuyện của mình như ghi lại cho tôi và cho bạn một thứ tình cảm luôn in sâu trong trái tim những kẻ lữ hành trên những cung đường đầy cảm xúc thứ tình mà khi cho đi, ta nhận lại về kỷ niệm, để mỗi khi nhìn lại, ta thầm cảm ơn số phận đã trao cho ta những phút giây quý báu ấy. Cảm ơn bố mẹ đã cho tôi ước mơ, cảm ơn các con đã cho tôi động lực để viết và cảm ơn các bạn, những người sẽ cùng tôi đi lại những nẻo đường tình yêu trong cuốn sách này. Tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị biên tập viên báo Sành Điệu, đặc biệt là chị Thu Ngần, những người đầu tiên đã hết lòng động viên tôi dấn thân vào con đường trải lòng với những con chữ. Hà Nội và Sài Gòn, mùa mưa năm 2013 Bùi Mai Hương *** CAIRO - NỖI THƯƠNG NHỚ KHÔN NGUÔI Sóng biển Alexandria Cairo là nơi luôn để lại ấn tượng mạnh mẽ, sâu đậm nhất trong tôi, vừa thương nhớ vô vàn vừa hờn giận trách cứ. Cũng chính Cairo thôi thúc tôi viết ký sự đầu tiên, bởi tôi biết rằng nếu không viết lại, tôi sẽ nợ tôi, nợ Cairo, nợ gia đình bạn bè mình. Cairo không phải là nơi đầu tiên tôi đến, tôi cũng chỉ ở Cairo vỏn vẹn tám ngày nhưng tôi chọn Cairo để mở đầu cho hành trình tình yêu của mình, bởi đây là mảnh đất đã để lại cho tôi nhiều cảm xúc hỗn độn và thăng hoa nhất, mảnh đất khiến tôi phải thức mấy đêm trong cái lạnh mùa tuyết tan châu Âu để ghi chép lại cẩn thận từng chữ một về nó. Khi viết xong, tôi tưởng mình đã kiệt sức bởi ăm ắp những sự kiện, những cung bậc cảm xúc khiến tâm trí tôi xáo động vô cùng. Trước khi khởi hành đến Cairo, Mohammad –người bạn thân gốc Palestine và Anne – người gắn bó với tôi trong rất nhiều chuyến đi đã khẳng định chắc chắn rằng: “Em sẽ yêu Cairo lắm cho mà xem”. Tôi đã bướng bỉnh không tin. Thậm chí, nhiều lúc quá căng thẳng mệt mỏi, tôi đã nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ quay lại Cairo nữa. Tôi đã lầm. Với tôi, tám ngày ở Cairo là tám ngày đáng nhớ với rất nhiều sự kiện, rất nhiều cảm xúc, lúc yêu lúc ghét, lúc thư giãn, xúc động tột cùng, lúc căng thẳng, lo lắng đến hoảng sợ, lúc cười giòn tan bên sa mạc hoang cát, lúc ngậm ngùi trước nỗi khổ cực của con người. Và cuối cùng, thì ra có cả những lúc rơi lệ vì giờ phút chia xa. Cảm nhận của tôi về Cairo sẽ không giống như người anh mới quen đã sống sáu năm nơi đất này, không giống như Anne - người quay trở lại Cairo lần thứ hai với tất cả sự háo hức và tình yêu có được từ lần đến đầu tiên. Cairo của tôi hiện lên như một giấc mơ đủ để khi tỉnh lại, người ta cười vì hạnh phúc và khóc vì tiếc nuối. Những giấc mơ ở Cairo Giấc mơ đầu tiên của tôi là về Kim Tự Tháp. Tôi đến Giza huyền thoại lần đầu vào một đêm sa mạc lung linh trong buổi trình diễn có hiệu ứng âm thanh ánh sáng mang tên Light And Sound. Tôi không nhìn rõ Giza lắm từ khoảng cách khá xa, nhưng bầu trời sa mạc trong veo đầy sao cùng những âm thanh hiệu ứng khiến tôi chợt tan vào giấc mơ có tiếng ngựa hí từ ngàn xưa vọng về, tiếng những đoàn người rầm rập, tiếng trở mình mùa lũ của sông Nile để đưa những tảng đá lên đúng vị trí đã định xây thành Kim Tự Tháp. Ánh sáng chiếu lên Kim Tự Tháp mô tả lại công việc xây dựng hàng nghìn năm về trước, hơn hai triệu khối đá nặng cỡ một tấn rưỡi được ghép thành những hình khối chính xác đến chuẩn mực. Tôi vừa xem vừa nhớ bài học của thầy Sắn, thầy giáo dạy hình học nổi tiếng trường Bách Khoa khi xưa, người gợi cho tôi giấc mơ Ai Cập từ gần mười năm trước. Thầy nói với lũ học trò chúng tôi rằng: “Các đỉnh của Kim Tự Tháp nối thẳng với những chòm sao”. Qua nghìn năm vận đổi nhưng sao chẳng dời, vị trí những vì sao lấp lánh trên cao kia chắc không hề thay đổi, cuộc sống thì đã có bao biến động. Đêm ấy, quanh tôi khá đông người nhưng bầu trời đêm sa mạc cao rộng và gió cát bao la khiến tôi cảm thấy mình quá nhỏ bé trước thiên nhiên và lịch sử. Tấm áo khoác mỏng manh không đủ để che chở tôi khỏi run lên trước cảm xúc của chính mình. Tối hôm đó, tôi thực sự đắm chìm trong không gian nguyên sơ ấy một cách ngây thơ và mộng cảm nhất. Mấy ngày sau, tôi trở lại Kim Tự Tháp vào buổi chiều. Tôi còn nhớ rõ khi ấy tôi đã sững sờ thế nào. Trong ánh tà dương, nắng thong thả rót xuống đỉnh hình khối sừng sững và uy nghi ấy như đang múa vũ điệu lộng lẫy mà tĩnh lặng. Tượng nhân sư huyền thoại, những khối đá to lớn với đầy bề dày lịch sử khiến tôi choáng ngợp. Khả năng và sức sáng tạo của một nền văn minh cổ đại huy hoàng thật đáng ngưỡng mộ. Giấc mơ thứ hai của tôi là cưỡi lạc đà trên sa mạc. Dân ở đây thường cưỡi ngựa nhưng du khách thì đa phần cưỡi lạc đà để hiện thực hóa những gì họ từng tưởng tượng. Và tôi cũng không là ngoại lệ. Trước đó tôi đã được dặn dò rất cẩn thận nên cũng hơi lo lắng, nhưng cảm giác đó tan biến ngay lập tức khi tôi ngồi lên lưng một con lạc đà cao cỡ hai mét có điệu đi đu đưa giật nhịp rất đặc trưng. Nhận ra là tôi không sợ nên chỉ một lúc sau, ông chủ con lạc đà đã đưa cho tôi cầm cương nó. Do không biết đường đến Kim Tự Tháp nên cả quãng đường chinh phục sa mạc của tôi gắn liền với tiếng nhắc nhở: “Dear Mai, right, left, right, left” (Mai, đi trái, phải, trái, phải) của ông chủ lạc đà, tôi thì luống cuống giật dây miệng hét liên tục: “left, right...” (tên tôi ở Ai Cập là Mai vì không một người Ả Rập nào gọi được cái tên Hương trúc trắc của tôi cả). Suốt quãng đường chỉ có một “tai nạn” nho nhỏ, con gái muôn đời vẫn là con gái. Nửa chừng thấy tóc tai rối bời vì gió cát, tôi buông dây cương để buộc tóc, nhân cơ hội chú lạc đà bướng bỉnh tận hưởng tự do, quay tít mấy vòng và còn định lấy đà phi nhanh. May mà ngọn roi của ông chủ đã ghìm nó lại. Hú vía! Một giấc mơ nữa của tôi trên đất nước này cũng đã được thực hiện, đó là chạm tay vào làn nước biển của thủ phủ nơi có huyền thoại bất tử về Alexander Đại Đế. Chuyến đi Alexandria ngắn ngủi sau nhiều lần lỗi hẹn, nhưng bù lại, tôi được chiêm ngưỡng một buổi bình minh không thể quên với những ngôi nhà, những con thuyền soi bóng trên mặt nước. Chúng tĩnh lặng đến nỗi dù lướt đi mà dường như không chuyển động. Pháo đài cổ đại thấp thoáng phía xa khiến khung cảnh càng đẫm chất sử thi. Tôi cũng đặt chân đến thư viện Alexandria nổi tiếng nhất thế giới. Dù dấu tích của thư viện cổ không còn gì nhưng kiến trúc thư viện mới rất đẹp và quy củ. Bên trong thư viện, những cô gái đạo Hồi trùm khăn kín mít ngồi đọc sách và lướt internet. Bên ngoài, em nhỏ ngây ngô chưa biết ngại ngùng tránh ống kính máy ảnh mang lại cho tôi những nụ cười hồn nhiên nhất. Kỉ niệm đáng nhớ nhất của tôi ở đây là khi chuẩn bị chụp ảnh với bức tượng Alexander Đại Đế (Alexander the Great) thì cô bạn Anne của tôi dí dỏm trêu chọc: “Alexander the Great… and Huong the small” (Alexander vĩ đại và Hương nhỏ bé). Ở Cairo, những giấc mơ có từ thời thơ ấu của tôi dường như được kéo dài vô tận. Chúng tiếp nối nhau như thể một ngày nào đó sẽ đưa tôi tới các vì sao từ đỉnh của Kim Tự Tháp. Tình cảm tôi dành cho mảnh đất này không chỉ bắt nguồn từ những huyền thoại được truyền tụng mà còn từ những căn nhà lụp xụp, xác xơ ngay gần Kim Tự Tháp, những góc phố bụi bặm, những con số kỳ quặc mà mất mấy ngày tôi mới học thuộc được, những ngọn đèn đường xiêu vẹo đổ nát trong đêm, đẹp như một khoảnh khắc thời gian, những ánh mắt châu Phi ám ảnh nét cổ xưa và cả những đêm mất ngủ triền miên. Đằng sau những giấc mơ Tám ngày ở Cairo là tám ngày tôi sống với ngập tràn cảm xúc. Thành phố này hấp dẫn như một tình yêu thời thơ bé, không để tôi tĩnh tại với một cảm xúc nào quá lâu. Tôi chưa kịp hết kinh ngạc với dấu tích của một nền văn minh cổ đại phát triển rực rỡ thì đã ngơ ngác khi so sánh với sự hỗn độn, nghèo nàn của Ai Cập hiện tại. Tôi chưa hết choáng ngợp vì sự giàu sang tột cùng của khu trung tâm thành phố thì đã phải nghẹn lòng trước những mảnh đời cơ cực quá sức tưởng tượng. Tôi chưa kịp sung sướng với một món đồ lưu niệm đẹp đẽ mới mua được thì đã phải bực bội vì biết mình bị hớ với cái giá gấp đôi, gấp ba. Và khi tôi chưa kịp hân hoan với bức ảnh chụp cảng biển Alexandria thì đã hoảng hốt vì đợt tắc đường kéo dài hàng tiếng đồng hồ làm lỡ chuyến tàu quay lại Cairo. Nếu chỉ ở khách sạn sang trọng và khám phá sông Nile bằng thuyền du lịch năm sao, tôi chắc đã thấy một Cairo rực rỡ sắc màu mà không biết rằng, ngoài kia, em bé đánh giày bên bờ sông Nile đang lần mò trong đêm trên những vỉa hè đầy khách du lịch, những khu nhà ổ chuột thiếu điện, thiếu nước, những niềm tự hào đang chìm vào quá khứ dưới bóng của những chứng tích bị xói mòn bởi thời gian... Sau ba ngày, tôi đã không uống suất nước cam buổi sáng của tôi nữa mà cố tình để lại trên bàn. Hôm trước, tôi vô tình nhìn thấy người phục vụ nam lặng lẽ cúi đầu uống chỗ nước cam còn thừa lại của tôi. Anne tóc vàng cao lớn và tôi - cô gái châu Á bé nhỏ với lỉnh kỉnh đồ đạc trong đó có cả máy ảnh đã vô tình được xếp vào hàng khách du lịch giàu có. Và thế là chúng tôi được các chàng trai tán tỉnh mọi chỗ để mời chào mua hàng và vòi tiền. Không ít lần tôi muốn than trời vì bị quấy rầy. Tôi quá mệt mỏi khi mỗi lần ra đường là mỗi lần chiến đấu với các cuộc mặc cả taxi mà tôi luôn luôn là người thua cuộc. Nhưng rồi, tôi lại động lòng. Tôi thấy mình có phần “nhẫn tâm” khi biết rằng “cuộc chiến” của tôi với ông lái taxi già chỉ đáng giá mười euro cent - số tiền không đủ để tôi mua bất cứ thứ gì ở Áo, nơi tôi sống lúc đó. Cairo cứ thế len lỏi vào trong trái tim rối bời cảm xúc của tôi. Những đôi mắt phụ nữ ám ảnh luôn theo tôi trên mọi ngõ ngách, theo tôi cả vào những giấc mơ. Lần đầu đến đây, tôi cứ thắc mắc: ở đâu cũng thấy bán váy ngắn mà không hiểu bán cho ai khi các cô gái ra đường đều kín bưng trong những tấm khăn choàng Hồi giáo rộng thùng thình. Để ý kỹ tôi mới biết họ mặc váy ngắn với quần jean hoặc quần dài bên trong. Trên cơ thể họ, thứ duy nhất họ có thể khoe ra là đôi mắt nên chúng thường được trang điểm rất kỹ và ấn tượng. Lúc ấy tôi mới hiểu tại sao trước đó và mãi về sau nữa, tôi luôn nhớ đến Cairo trước tiên là hình ảnh những đôi mắt ấn tượng ấy. Chúng vừa hoang dại, vừa bí ẩn lại đầy khát vọng. Tôi tôn trọng mọi tôn giáo, phong tục nhưng trong lòng luôn cảm thấy gợn buồn khi nhìn những người phụ nữ trong bộ đồ đen bịt bùng ấy. Với tôi, vẻ đẹp cơ thể của phụ nữ luôn là tài sản của tạo hóa, không phải là của riêng ai. Tuy nhiên ở một đất nước mà cứ đến giờ cầu nguyện là tiếng loa lại vang khắp nơi giục giã hàng ngàn người cúi rạp đầu, bất kể lúc nào bật TV cũng thấy các giáo chủ cầu nguyện thì tôn giáo mới chính là thước đo của cái đẹp. Thế mới biết cuộc sống thật bao la. Khách sạn cũng là một vấn đề đáng phải lưu tâm ở Cairo. Trước khi đến đây, tôi không thể đặt được khách sạn trực tuyến vì không tìm đâu ra hostel hay khách sạn ba sao. Không hiểu vì lý do gì mà ở Cairo chỉ toàn các resort bốn đến năm sao. Suy đi tính lại, tôi đành phải nhờ một người bạn sống ở Cairo đặt giúp phòng trong một nhà nghỉ ọp ẹp. Cái thang máy cơ trong nhà nghỉ này long ra như xương cốt người già, nhìn rõ cả xích và ròng rọc. Phòng tắm có bình nước nóng dùng gas to đùng như quả bom và vô vàn muỗi đêm vo ve. Khách sạn ở Alexandria cũng chẳng khá hơn ở Cairo bao nhiêu với cánh cửa chỉ có thể chốt từ bên ngoài khiến tôi cả đêm thấp thỏm, dù cuối cùng mọi thứ khá ổn. Tôi vô cùng hoang mang về “quyền làm việc hay xuất hiện ở nơi công cộng” của phụ nữ nơi đây khi tiếp tân, phục vụ phòng, đầu bếp đều là nam giới. Đến bán hàng ở chợ cũng hầu như toàn là đàn ông. Tìm đỏ mắt, cuối cùng tôi cũng gặp được một người phụ nữ hiếm hoi mặc đồ Âu, làm việc ở trung tâm nghiên cứu quốc gia Cairo, nơi tôi đến tham dự hội thảo. Lúc đó, tôi mới cảm nhận được rằng xã hội Cairo cũng chia làm nhiều tầng lớp, có tầng lớp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa châu Âu và đa phần còn lại giữ nguyên nề nếp của một quốc gia Hồi giáo khắt khe. Một vấn đề khác làm tôi bối rối là hệ thống giao thông chằng chịt và hỗn độn ở đây. Là người Việt Nam, quen với hệ thống giao thông nhiều bất cập vậy mà tôi cũng phải tái mặt mỗi khi sang đường ở Cairo. Mỗi lần xuống đường ở Cairo là một thử thách. Tôi thậm chí không biết phải theo chỉ dẫn của ai vì không thể phân biệt nổi công an, cảnh sát giao thông hay trật tự. Sau này tôi mới biết ở đây có đến hơn hai mươi lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ điều khiển giao thông trong nội thành. Tuy khá mệt mỏi nhưng hơn ai hết tôi biết rằng, đó là một đặc điểm rất riêng của Cairo, sự quyến rũ khác biệt của thành phố nghìn năm này. Phải chăng vì Cairo không dành cho bạn quyền được buồn tẻ? Vậy nên khi ở Cairo, hãy xác định bạn lúc nào cũng ở trong tình trạng mọi việc đều có thể xảy ra nhé. Tuy nhiên, vấn đề an ninh ở Cairo làm tôi khá thích thú và ấn tượng. Dù tôi mang theo nhiều đồ đạc cầm tay nhưng chưa bao giờ cảm thấy lo lắng. Chuyện ăn cắp, cướp giật dường như quá hiếm ở quốc gia đạo Hồi này. Nghe nói đó là một tội nặng đến mức có thể bị bêu riếu công khai hoặc chặt tay. Cuộc sống đời thường ở Cairo Người ta vẫn nói muốn hiểu cuộc sống ở một thành phố thì hãy đến chợ. Ở Cairo, chợ nổi tiếng nhất là Khan Khalili. Chợ này bán nhiều đồ trang sức lóng lánh, lương thực, vải vóc, quần áo và nhiều thứ khác nữa. Bông Ai Cập bày bán khắp nơi. Các cửa hàng gia vị có đủ thứ gia vị, thậm chí có cả những thứ tôi chưa nhìn thấy bao giờ. Khác với nơi khác, tất cả gia vị ở đây đều đựng trong những thùng gỗ nho nhỏ. Cũng ở khu chợ này, lần đầu tiên tôi mua được vanilla khô, mùi thơm đậm đà, mặc dù từ bé đã ăn biết bao món có mùi vani. Ở đây, tôi lại bắt gặp nhiều ánh mắt ám ảnh của những người phụ nữ bán bánh, một bóng lưng còng của cụ già chở hàng, một cái nhìn tựa cửa của hai người đàn bà sống nơi ngõ nhỏ. Tất cả họ đều có gương mặt buồn bã, khắc khổ, hiếm khi thấy những nụ cười. Chúng tôi hẹn nhau ở quán cà phê El Fishawy – cái quán trứ danh đã hơn hai trăm năm tuổi của Cairo. Nghe tiểu sử vẻ vang là thế mà El Fishawy chỉ nằm lọt trong ngoằn ngoèo ngõ phố chằng chịt của khu chợ này. Đây cũng là lần đầu tiên tôi uống trà đen có thả vài lá bạc hà tươi và thử shisha. Cảm giác ngồi ở El Fishawy thật thú vị. Một chút tĩnh lặng giữa sôi động, một chút cũ kỹ, một chút nhếch nhác. Tất cả đều tỏa ra thứ cảm giác gần gũi khó tả. Sự thích thú lạ lẫm này khiến tôi “cả gan” để một người phụ nữ xa lạ vẽ hoa văn henna lên tay mình dù tôi chưa bao giờ thích xăm hình hay những thứ đại loại thế. Hình vẽ này như để tôi lưu lại một dấu ấn nhỏ của Cairo đa sắc màu trên cơ thể mình. Cairo làm tôi tò mò đến mức, dù có chút e ngại, tôi vẫn cùng mấy người bạn lang thang Cairo về đêm. Trong đêm, nhiều cảm giác được dung hòa khiến tôi thấy mình như cô gái nhỏ lang thang giữa sa mạc để hưởng thụ tự do một cách tuyệt đối nhất. Cairo với tôi là thành phố không ngủ. Suốt thời gian ở Cairo, mỗi ngày tôi chỉ ngủ khoảng bốn tiếng. Những đêm đầu là do tôi không quen với tiếng động ồn ã và muỗi, đêm sau nữa là do Anne và Yahya, một anh bạn của Mohammed, thuyết phục tôi đi chơi để thấy một Cairo khác, và đêm cuối thì tôi chính là người đòi được đi lang thang vòng quanh Cairo bằng được. Tôi và Anne đã được chứng kiến “Cairo by night” (Cairo về đêm) khi theo Yahya đến một quán vỉa hè trong một ngõ nhỏ ngoắt ngoéo. Ở đây mỗi khách đến phải tự kéo ghế nhựa ra ngồi như giống như ở Việt Nam. Cái quán nhìn đơn giản vô cùng nhưng trà pha rất đậm vị và âm nhạc thì dù không hiểu tiếng, tôi vẫn tin lời Mohammad nói: “Anh đã được sinh ra từ bài hát ấy”. Rồi Yahya đưa chúng tôi đi tiếp tới một quán bia xập xệ khác nằm ở cuối phố để thưởng thức vị bia Stella đặc trưng. Vị Stella này chỉ duy nhất Ai Cập mới có. Rời khỏi quán bia, chúng tôi tiếp tục ghé vào một quán bar đêm dưới tầng hầm một căn nhà cổ. Ngay khi Yahya bước vào, từ chủ quán đến nhân viên phục vụ và các cô gái múa bụng đều đồng thanh hô tên anh. Là bạn anh, chúng tôi được đón tiếp như khách ruột. Ngay đến bây giờ khi đã rời xa Cairo một thời gian rất dài, mỗi khi một điệu nhạc Ả Rập nổi lên, tôi lại nhớ cái dáng cao gầy lòng khòng của Yahya dậm chân xoay theo tiếng nhạc với ánh mắt say mê ngút lửa đắm đuối nhìn các cô gái múa bụng đang hòa nhịp cùng anh. Họ thật gần mà thật xa. Tôi nghe nói có một quy tắc là dù có gần đến mấy, hai vũ công cũng không được chạm vào nhau. Có lẽ giới hạn mong manh mà thiêng liêng này làm điệu nhảy trở nên vô cùng bí ẩn và quyến rũ. Cairo không của Kim Tự Tháp và lạc đà là thế đấy! Tôi vừa sợ sệt không dám đến gần, vừa tò mò muốn hòa vào dòng chảy phức tạp của cuộc sống dường như vận hành theo những quy luật ngầm khó hiểu nơi đây. Tôi vừa giận những phiền phức mà cái hệ thống không ổn định của thành phố ấy mang lại, vừa thương cái giàu nghèo pha trộn thật thà hiển hiện khắp nơi trên đất Cairo. Những nẻo đường kết bạn Trước khi đặt chân đến sân bay Cairo, tôi và Anne chưa từng quen biết một ai ở đây ngoài vài thông tin ngắn ngủi của Mohammed. Tôi không thể tưởng tượng rằng ở Cairo, mình lại được ăn cơm với hơn hai mươi người Brazil - đồng hương của Anne và uống cà phê cũng với chừng ấy anh em bạn bè Việt Nam của tôi. Đúng là mọi chuyện đều có thể xảy ra ở Cairo! Suốt thời gian ở đây, tôi được sống trong sự quan tâm chu đáo của cả những người mới quen và không quen, được nói tiếng Việt nhiều chưa từng thấy trong ba năm xa xứ với những câu chuyện thú vị bất tận, những cuộc điện thoại tưởng chừng không thể dứt. Anne cũng thế. Tình cờ trong một lần ngồi uống cà phê, nghe thấy bên cạnh vang lên tiếng Bồ Đào Nha giọng Brazil, Anne sung sướng đứng bật dậy đến chào hai người phụ nữ gần đó và thế là câu chuyện nối dài không dứt. Một người là phu nhân đại sứ, một người lấy chồng Ai Cập. Điều đầu tiên mà cả hai muốn nói và thuyết phục chúng tôi, đó là tình yêu Cairo trong họ cũng có thể trong trái tim nhiều người khác, trong đó nhất định có chúng tôi: “You should see it as it is,then you will love it” (Hãy nhìn Cairo như nó vốn thế rồi em sẽ yêu thành phố này). Không ngần ngại, chúng tôi đến thăm nhà họ trong một khu chung cư yên tĩnh và trong lành, khác hẳn không khí Cairo ồn ã ngoài kia. Chúng tôi nghe họ giới thiệu về một góc khác, yên bình và khuất nẻo của Cairo, nghe họ kể về những sáng thong dong cưỡi ngựa ngắm bình minh sa mạc và họ đãi chúng tôi ăn bữa cơm vội vàng nhưng thú vị với những món ăn Brazil. Anne hào hứng đến nỗi không ngớt lời giới thiệu cho tôi về các món ăn với ánh mắt xanh biếc lấp lánh mà lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy ở chị. Cả Yahya cũng vậy! Suy cho cùng, anh chỉ là bạn của Mohammad - bạn của tôi, nhưng anh đã giới thiệu Cairo của anh cho tôi với những tình cảm thân thương và trìu mến nhất. Chưa kể còn bao nhiêu cái tên mới quen mà tôi chưa kịp thuộc. Có thể vì thế, cả tôi và Anne đã khóc khi rời Cairo phút cuối - điều mà cuộc sống bận rộn với mật độ hai tháng lên máy bay đi xa một lần khiến chúng tôi ngỡ rằng mình đã chai sạn, rằng không còn chỗ cho những giọt nước mắt khi chia tay. Cairo đã trả lại cho chúng tôi những cảm xúc của cuộc sống, cảm xúc của tình người. Chúng tôi mang món nợ tình cảm với Cairo. Mohammad gọi tôi quay trở lại với công việc ở Áo. Sau khi nghe tôi huyên thuyên một hồi về những kỷ niệm “tích lũy” sau tám ngày, anh bảo tôi: “Now, you are back to your reality” (Giờ thì em quay lại với hiện thực nhé). Có thể anh nói đúng, tôi phải chia tay giấc mơ Cairo để trở về với cuộc sống thực tại của mình nhưng tôi biết mình đã, đang và sẽ nhớ Cairo, dù dấu vẽ henna trên tay tôi đã mờ chỉ sau vài ngày và cuộc sống lại rồi sẽ đưa tôi đến với những hành trình mới mẻ khác. Tôi luôn biết rằng, mình còn lỡ hẹn với Cairo nhiều lắm, còn bao nơi chưa ghé thăm, còn bao dự định vẫn dang dở, còn bao điều muốn nói. Nhưng thôi, như tôi tự an ủi mình, sự thiếu sót sẽ làm nên cái đủ đầy. Những vết khuyết trên hành trình đó sẽ khiến nỗi nhớ Cairo của tôi trở nên trọn vẹn hơn. Cho đến giờ, sau nhiều năm xa cách, nếu hỏi vì sao tôi yêu quý Cairo, tôi cam đoan rằng mình sẽ không trả lời hết được. Tình cảm đó là sự pha trộn của Cairo văn hóa và huyền bí, của Cairo bụi bặm hỗn độn và thử thách, của những điệu nhạc say đắm, bùng lên vỡ òa sau bao ẩn ức và dồn nén, của những tình cảm xây đắp trên hành trình mang tên Cairo của tôi.   Mời các bạn đón đọc Hẹn Hò Với Châu Âu của tác giả Bùi Mai Hương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sen Nở Trời Phương Ngoại
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) Sen Nở Trời Phương Ngoại của tác giả Thích Nhất Hạnh. Kinh Pháp Hoa là một kinh rất nổi tiếng, có thể nói là một kênh nổi tiếng nhất của đạo Bụt Đại Thừa. Tư tưởng tôn xưng kinh Pháp Hoa là vua của tất cả các kinh đã có từ lâu. Chính nhờ kinh Pháp Hoa mà đạo Bụt Đại Thừa trở thành một cơ sở có căn bản, có truyền thống và biến thành một Giáo hội thực sự với việc tuyên thuyết hai thông điệp chính: (1) Tất cả chúng sinh đều có thể thành Bụt, (2) Chỉ có một con đường tu học duy nhất là Phật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sinh buổi ban đầu. Chủ đích quan trọng nhất của chư Bụt là hướng dẫn chúng sinh đi vào con đường Phật thừa, tức là con đường Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến của Bụt. Vì vậy mà triết lý này được gọi là Khai tam hiển nhất, hay là Hội tam quy nhất, nghĩa là gom cả ba cái lại để đưa về một cái. Ðiều đó làm cho kinh Pháp Hoa trở thành Diệu Pháp. Với Sen nở trời phương ngoại, Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ không giảng từng đoạn kinh Pháp Hoa như nhiều người khác đã làm, mà chỉ đi vào từng Phẩm, tóm lược nghĩa chính của từng Phẩm, khai triển, và diễn dịch những điều căn bản trong từng Phẩm, để quý vị độc giả có được một cái thấy tuy khái quát nhưng rõ ràng về ý kinh. Riêng Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát tức là Phẩm Phổ Môn, Phẩm thứ 25, vì là Phẩm được nhiều người tụng đọc nhất trong toàn bộ kinh Pháp Hoa, nên Thiền sư sẽ giảng với nhiều chi tiết hơn. Thêm vào đó, Người cũng sẽ đưa ra một số đề nghị để đóng góp cho sự hoàn bích của đóa hoa đẹp nhất trong Vườn kinh điển Đại Thừa này. *** Tóm tắt Cuốn sách "Sen nở trời phương ngoại" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một tác phẩm giảng giải kinh Pháp Hoa, một trong những kinh điển quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa. Kinh Pháp Hoa được xem là "vua của tất cả các kinh" và chứa đựng những giáo lý cốt lõi của Phật giáo Đại thừa, bao gồm: Tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Chỉ có một con đường tu học duy nhất là Phật thừa. Cuốn sách được chia thành 25 chương, tương ứng với 25 phẩm của kinh Pháp Hoa. Mỗi chương sẽ tóm lược nghĩa chính của từng phẩm, khai triển và diễn dịch những điều căn bản trong từng phẩm, để giúp độc giả có một cái thấy tuy khái quát nhưng rõ ràng về ý kinh. Review Cuốn sách được viết theo một cách dễ hiểu, dễ tiếp cận, phù hợp với cả những người mới bắt đầu tìm hiểu Phật giáo và những người đã có kinh nghiệm. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã sử dụng nhiều ví dụ và hình ảnh minh họa để giúp người đọc dễ dàng hiểu được những khái niệm trừu tượng của giáo lý Phật giáo. Cuốn sách đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về kinh Pháp Hoa. Người đọc sẽ hiểu được những giáo lý cốt lõi của Phật giáo Đại thừa, cũng như cách áp dụng những giáo lý đó vào cuộc sống hàng ngày. Một số đánh giá của độc giả "Cuốn sách "Sen nở trời phương ngoại" đã giúp tôi hiểu được những giáo lý cao đẹp của kinh Pháp Hoa. Tôi đã áp dụng những giáo lý đó vào cuộc sống hàng ngày và thấy cuộc sống của mình trở nên ý nghĩa hơn."  "Cuốn sách giúp tôi hiểu được con đường tu học Phật giáo Đại thừa. Tôi đã quyết tâm đi theo con đường đó để đạt được giác ngộ."  "Cuốn sách là một tác phẩm tuyệt vời. Nó đã giúp tôi mở mang tầm hiểu biết về Phật giáo."  Kết luận Cuốn sách "Sen nở trời phương ngoại" là một tác phẩm đáng đọc đối với tất cả những ai quan tâm đến Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa. Mời bạn đón đọc Sen Nở Trời Phương Ngoại của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Châu Âu Có Gì Lạ Không Em?
Cuốn sách là những ghi chép và mô tả của tác giả về hành trình du lịch của bản thân qua một số quốc gia châu Âu, từ đó chia sẻ những trải nghiệm chân thực và mới mẻ về văn hóa, lịch sử, ẩm thực và con người nơi xứ lạ.  Châu Âu có gì lạ qua đôi mắt của Misa Gjone? Đó là một châu Âu cổ kính với những công trình kiến trúc lâu đời. Đó là một châu Âu đáng yêu với những sắc màu rực rỡ của chậu phong lữ, trái rừng chín mọng. Đó là một châu Âu sôi động với hội hè miên man; những lần đi hytte, những buổi fika cùng gia đình và bạn bè. Đó còn là một châu Âu đầy “tội lỗi” với những cô nàng mang ánh mắt khắc khoải trên phố đèn đỏ, những mảng sáng – tối đối lập chan chát của cuộc sống hiện đại… *** Review của #RinBaBa về sách Châu Âu Có Gì Lạ Không Em:   Cuốn sách này ngọt ngào hơn mình tưởng. Làm mình nhớ tới bộ phim "Me before you". Tự dưng thế thôi! Mình đã đi Châu Âu bao giờ đâu, nhưng xem phim ảnh thì cũng thấy vài nơi. Tuy vậy, xem và trải nghiệm khác nhau lắm. Qua đôi mắt của tác giả thì Châu Âu trong cảm nhận của mình không còn mang vẻ lạnh lùng và xa lạ nữa. Châu Âu lạ lắm, lãng mạn, êm đềm và say say lòng như những cơn gió thu. Mới đọc vài bước trong hành trình của tác giả thôi. Yêu lắm! Tối nay ôm đọc hết. *** Đã từng có một thời, tôi mê mẩn những cuốn sách du ký của các tác giả hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này. Thế giới hiện lên một cách sống động, chân thực và đầy góc cạnh sáng tối qua ngòi bút của họ. Bây giờ, tôi vẫn đọc những cuốn sách như thế, của các cây bút trẻ hơn và tôi cũng bắt đầu dành sự quan tâm lớn hơn cho các tác giả Việt. Sách của họ bắt đầu dày lên, chiếm nhiều diện tích hơn trong những thư viện, hiệu sách, ở khu mà tại các hiệu sách lớn của nước ngoài luôn là khu rất lớn, phía trên có gắn dòng chữ “travel”. Không nghi ngờ gì nữa, người Việt ngày càng đi nhiều ra thế giới. Họ không chỉ đi, ngắm nghía, trải nghiệm, thu nhận những điều hay ho, tích cực (và cảm nhận cả những điều tiêu cực), họ còn viết nữa. Đương nhiên, không phải ai trong số họ cũng là nhà văn. Nhiều trong số họ là du học sinh hoặc người Việt sống ở nước ngoài và họ viết rất khác với những tác giả du ký phương Tây. Bởi họ là người Việt, họ nhìn thế giới qua góc nhìn, văn hóa, ngôn ngữ và cảm nhận của người Việt. Đấy không phải là những cuốn sách nghiên cứu về thế giới mà là tập hợp các ghi chép lại về những nơi họ đã đi qua, những gì họ đã ăn, những người họ đã yêu hoặc ghét, những kỷ niệm họ đã có. Họ chính là cầu nối giữa người Việt ở trong nước với thế giới, đưa độc giả theo chân họ ra nước ngoài và truyền cho độc giả cảm hứng đi. Lê Thị Ngọc Quyên hay Misa Gjone, cũng không phải là một nhà văn. Nhưng cô gái trẻ này từ lâu đã được nhiều người biết đến qua blog mang biệt danh của cô. Đấy không phải là một nơi post ảnh đẹp và những dòng văn hay mà là một cửa sổ đưa độc giả ra thế giới, cũng là một kênh để cô trải lòng mình sau những chuyến đi. Tôi đã có lần vào đọc blog của cô và nghĩ: Thật tiếc nếu Quyên không in những câu chuyện của mình thành sách nhỉ? Bây giờ thì câu hỏi ấy đã có lời đáp. Quyên đã in sách và đó chính là cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay, viết về những hành trình mà cô đã đi trong nhiều năm, qua rất nhiều nơi ở châu Âu - nơi hiện cô đang sống cùng với gia đình nhỏ của mình. Tôi, người cũng đã sống và làm việc ở châu Âu nhiều năm và phải thừa nhận rằng: Quyên không thể có những ghi chép sâu sắc đến thế về châu Âu, nếu không yêu nơi này bằng cả trái tim. Đấy là những thành phố ở Đức; là ngày hội ở Ý, trong những thành phố nhỏ; là đêm không ngủ ở Budapest; là thành phố ánh sáng Paris; là dòng Vltava ở Czech; là Na Uy, quê hương thứ hai của cô... Rất, rất nhiều những hành trình đã được viết ra, được kể một cách chi tiết, để độc giả có thể thấy, có thể cảm nhận được những hơi thở của cuộc sống ở đó, thông qua hình ảnh về những con người, những hoạt động văn hóa nghệ thuật. Điều ấy cho thấy tác giả không chỉ là người yêu thích cuộc sống ở khắp nẻo châu Âu mà còn khá am hiểu về những nơi cô đã đi qua. Không phải ai cũng làm được điều ấy. Không phải tác giả Việt nào, kể cả các nhà văn đã từng viết về châu Âu, cũng có được cái nhìn sâu sắc đến thế. Nếu bạn tìm kiếm trong cuốn sách này những chỉ dẫn du lịch, chắc chắn bạn sẽ không thấy. Những chỉ dẫn đó bạn có thể thấy trong blog Misa Gjone của cô. Quyên là một người thích chia sẻ kinh nghiệm du lịch cho người Việt trên blog cá nhân, nhưng cuốn sách này là một tập hợp những bài viết thể hiện cảm nhận của tác giả về những nơi cô đã đi qua, đã in đậm các cảm xúc trong trái tim cô, một người đã đi trên những cung đường châu Âu từ những năm còn rất trẻ. Tôi cũng đi từ khi còn trẻ, nhưng tôi đến châu Âu vẫn còn sau Quyên và tôi cũng hơi ghen tị với Quyên về những cung đường và cảm nhận mà cô đã có ở đó, khi mới tuổi 20...   - TRƯƠNG ANH NGỌC Nhà báo, tác giả du ký   *** Một ngày cuối tháng 10 năm 2007, tôi lúc đó đang học năm nhất đại học, được mẹ chở đến nhà sách Xuân Thu trên đường Đồng Khởi, Quận 1 để mua hai quyển sách: Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương và Oxford thương yêu. Những chuyến đi ngang dọc châu Âu của cô sinh viên Giáng Uyên cùng câu chuyện tình lãng mạn của Kim và anh chàng Fernando “bạn trai nhà người ta” đã nuôi lớn giấc mơ du học của tôi từ lúc đó. Suốt những năm đại học, tôi vùi đầu vào sách giáo khoa cùng các đầu sách tiếng Đức vừa hiếm vừa đắt đỏ để nâng cao kiến thức và vốn từ vựng chuyên ngành. Công sức học hành cuối cùng cũng được đền đáp. Tôi lần lượt tham dự các khóa học trao đổi ngắn hạn ở Đức và Ý, đều là học bổng toàn phần do chính phủ các nước cấp cho sinh viên nước ngoài. 22 tuổi, lần đầu tiên tôi biết đến châu Âu, biết đến những thành phố cổ kính, làng mạc thanh bình và những chuyến xe lửa cao tốc chạy êm như ru xuyên qua biên giới các nước. Ở Đức, tôi sống ở ngoại ô thành phố Düsseldorf, trong căn phòng nhỏ cùng hai cô bạn - một Thái Lan, một Phần Lan. Hằng ngày, tôi cùng một anh chàng Phần Lan cao lêu nghêu ở phòng bên cạnh chạy đua với chuyến xe lửa luôn đến trễ đúng năm phút để đến lớp học. Ở Ý, tôi sống ba tháng với một cô bạn người Ấn Độ trên căn gác xép một ngôi nhà cũ ở Porta Pesa, trải đủ mọi vui buồn hờn giận với cô bạn khác màu da và bất đồng ngôn ngữ. Ngày chia tay, tôi đi trước vào buổi sáng, bỏ lại cô nàng ngồi ôm gối khóc hu hu như đứa trẻ. Trở về Việt Nam vào tháng 9 năm 2011, tôi bắt đầu cuộc sống của một cô gái văn phòng sáng xách túi đi, chiều tối muộn xách túi về. Một buổi trưa nọ, lúc đang ngồi ăn cơm, mẹ tôi bỗng kể: “Hồi trước lúc con còn ở Ý, bà bán tàu hũ ngày nào cũng đi ngang qua đây, có bữa hỏi mẹ sao không thấy con cháu đâu, chỉ có hai ông bà già ngồi ăn cơm một mình như vầy”. Bữa trưa hôm đó, tôi ăn cơm mà lòng buồn rười rượi. Giấc mơ du học vẫn chưa nguôi ngoai, phần vì bốn tháng ngắn ngủi ở châu Âu chưa thể gọi là đủ để tôi trải nghiệm cựu lục địa, phần nữa vì tôi có ý định học tiếp cao học để củng cố kiến thức và chuẩn bị cho con đường tương lai. Tôi âm thầm tìm kiếm thông tin học bổng toàn phần của các nước châu Âu để tìm được khóa học thích hợp nhất với mình. Tháng 4 năm 2014, tôi là một trong tám sinh viên Việt Nam nhận học bổng toàn phần cho khóa học cao học tại Thụy Điển. Vậy là tôi lại khăn gói lên đường. Cuộc sống sinh viên ở nước ngoài không hề dễ dàng như tôi tưởng dù không phải lo toan về vấn đề tài chính. Cách học thụ động ở Việt Nam khiến tôi mất một khoảng thời gian mới có thể đuổi kịp phong cách năng động và dân chủ ở châu Âu. Tôi kết thân với vài người bạn: chị H. là đồng hương Việt Nam cũng là bạn chung nhà với tôi suốt thời gian ở Gothenburg, M. là người Palestine lấy chồng cũng là đồng hương ở Thụy Điển và một số bạn bè người Đức, Thụy Điển khác. Những tháng ngày sinh viên vô âu vô lo cộng với túi tiền rủng rỉnh giúp tôi có cơ hội du lịch một số nước trong khu vực Schengen. Sau mỗi chuyến đi, tôi gom góp thông tin và hình ảnh rồi viết bài đăng báo ở Việt Nam. Trước khi sang Thụy Điển, tôi từng làm biên tập viên mục Du lịch cho tòa soạn báo Thế giới văn hóa online. Vì vừa là người biên tập vừa viết bài nên tôi thấu hiểu tâm trạng của các cộng tác viên báo giấy: Người viết thì đầu tư nội dung thật nhiều, viết thật dài nhưng khi tới tay biên tập thì bài bị cắt cho... thật ngắn để vừa với “đất” của chuyên mục. Sau bao nhiêu năm vừa làm “kẻ cắt” vừa làm “người bị cắt”, tôi quyết định lập một trang web du lịch cho chính mình, nơi tôi có thể viết thoải mái mà không lo bị cắt chữ. Website ban đầu chỉ là nơi đăng lại những bài du ký, sau trở thành nơi tôi chia sẻ kinh nghiệm du lịch đây đó, các hàng quán ngon hay những típ hay ho mà tôi học được trên đường thiên lý. Khi nhận được lời mời hợp tác xuất bản từ Sống, tôi mới có dịp để xem lại hết toàn bộ gia tài viết lách của mình từ năm 2012 đến nay. Khi biên tập lại những bài viết này, tôi ngỡ ngàng bởi sự thay đổi trong cuộc sống của chính mình được thể hiện qua nhiều chi tiết rải rác và câu chữ trong các bài viết ấy. Từ một cô sinh viên mới ra trường “chân ướt chân ráo” đến châu Âu lần đầu cho đến khi tôi lập gia đình và trở thành mẹ, từ những ngày ngơ ngác đi sai trạm xe lửa ở Đức cả nửa tháng trời cho đến khi trở thành blogger du lịch rong ruổi khắp châu Âu với chiếc ba lô tím sờn và chiếc máy ảnh Olympus cũ mèm. Để lưu lại hành trình ấy, các bài viết trong du ký Châu Âu có gì lạ không em? sẽ được sắp xếp theo trình tự thời gian được viết thay vì theo quốc gia. Mời bạn, cùng tôi đi qua những miền đất lạ.   - MISA GJIONE Na Uy, 4/4/2019   
Hồi Ký Chiến Tranh - Charles de Gaulle
Charles de Gaulle là một vị tướng kiêm chính trị gia người Pháp; ông là người lãnh đạo phong trào Nước Pháp Tự Do trong Thế chiến II và là nhà kiến trúc đại tài, người đã xây dựng nên Đệ ngũ Cộng hòa. Tư tưởng chính trị của ông – được gọi là “Gaullism”(chủ nghĩa De Gaulle) – đã và vẫn có những ảnh hưởng to lớn lên chính trường Pháp. Charles de Gaulle sinh ngày 22 tháng Mười một năm 1890 tại Lille và lớn lên tại Paris, nơi cha ông làm giáo sư sử học. Tuy nhiên, de Gaulle không nối nghiệp cha mà lựa chọn binh nghiệp. Ông đã chiến đấu can trường trong Thế chiến I. Trong thập kỷ 1930, de Gaulle viết sách và báo về các chủ đề quân sự, qua đó ông phê phán việc nước Pháp quá phụ thuộc vào Phòng tuyến Maginot để phòng thủ trước quân Đức và kêu gọi thành lập các quân đoàn thiết giáp cơ giới hóa. Nhưng những lời kêu gọi của ông đều rơi vào chân không. Tháng Sáu năm 1940, các lực lượng Đức Quốc xã đã đánh bại Pháp một cách dễ dàng. Không cam chịu chấp nhận thỏa thuận đình chiến của chính phủ với Đức, de Gaulle chạy sang London. Tại đây, ông đọc lời kêu gọi nhân dân Pháp đứng lên đánh đuổi quân xâm lược và tuyên bố thành lập chính phủ Pháp lưu vong. Ông trở thành người lãnh đạo phong trào Nước Pháp Tự Do. Sau khi Paris được tự do vào tháng Tám năm 1944, de Gaulle trở về và được chào đón như một vị anh hùng dân tộc. Trong những năm tháng tiếp theo, ông là trụ cột trong công cuộc khôi phục vị thế nước Pháp trên trường quốc tế cả về mặt kinh tế và quân sự. Bộ ba cuốn Hồi ký chiến tranh là những tâm sự chân thành của Tướng Charles de Gaulle về con đường ông đã trải qua để vực dậy nước Pháp. Qua ngòi bút bậc thầy, hiện thân của nền văn học hiện đại Pháp, chúng ta cảm nhận được lòng yêu nước sắt son của de Gaulle, sự đơn độc mà ông đã trải qua khi những dự đoán, phân tích và đề xuất thống thiết của ông với nhà nước đều bị chối bỏ, nỗi gian truân và cả sự thất vọng trong những ngày tháng tha hương. Với những ảnh hưởng lớn về tư tưởng mà ông đã để lại trên chính trường nước Pháp cho đến ngày nay, cuốn sách này là một kho tư liệu quý nhằm diễn giải những lý do đằng sau những hành động của vị tướng đồng thời cũng là một vị chính khách tài ba này. Không giống với những nhân vật của công chúng khác, de Gaulle tự tay viết nên cuốn hồi ký này. Và lối viết tao nhã đầy tính văn chương của một vị tướng từng vào sinh ra tử đã lập tức khiến Hồi ký chiến tranh được công nhận là cuốn sách kinh điển trong nền văn học hiện đại Pháp; không những thế, cuốn sách còn được đề cử giải thưởng Nobel Văn học năm 1963. Alpha Books trân trọng giới thiệu! *** Trọn đời tôi, tôi luôn nghĩ về nước Pháp với một niềm đinh ninh được vun bồi bằng cả tình cảm lẫn lý trí. Một cách tự nhiên, con người tình cảm trong tôi hình dung rằng nước Pháp, giống như nàng công chúa trong những câu chuyện cổ tích hay Đức Mẹ trên những bức bích họa, đã được định sẵn một số phận cao quý và phi thường. Bằng trực giác, tôi có cảm tưởng rằng Đấng Sáng Thế đã tạo nên Người cho những thành công tuyệt đích hoặc những nghịch cảnh tận cùng. Nếu trong hành động của Người có dấu vết của sự tầm thường thì với tôi, đó là một ngoại lệ kỳ quặc do lỗi của người Pháp gây nên chứ không nằm ở linh hồn Tổ quốc. Nhưng con người lý trí trong tôi cũng lại cho tôi thấy rằng nước Pháp chỉ thật sự là chính mình khi ở hàng đầu; rằng chỉ có những sự nghiệp lớn lao mới có thể bù đắp cho những mầm mống chia rẽ nơi bản thân dân tộc; rằng đất nước tôi, như Người vẫn thế, ở giữa những quốc gia khác, như họ vẫn vậy, trước những hiểm nguy chết người vẫn phải hiên ngang đứng thẳng và vươn cao. Tóm lại theo tôi, nước Pháp không thể là nước Pháp thiếu sự vĩ đại. Niềm tin này đã theo tôi lớn lên trong môi trường tôi ra đời. Cha tôi, con người của tư duy, của văn hóa, của truyền thống, đã thấm nhuần ý thức về phẩm cách của nước Pháp. Ông đã mở ra cho tôi lịch sử của tổ quốc. Mẹ tôi dành cho tổ quốc một niềm đam mê không gì lay chuyển nổi, sánh ngang với lòng sùng đạo. Đối với ba anh em trai của tôi, chị gái tôi, và bản thân tôi, lòng tự hào rộn ràng đối với tổ quốc tồn tại như một bản năng thứ hai vậy. Là chú bé gốc tỉnh Lille sống tại Paris, không gì gây ấn tượng cho tôi bằng những biểu tượng vinh quang của dân tộc chúng tôi: đêm xuống trên nhà thờ Đức Bà, vẻ huy hoàng của buổi chiều Versailles, Khải Hoàn Môn dưới ánh mặt trời, những lá cờ thuộc địa run rẩy trên vòm điện Invalides. Không gì khiến tôi xúc động hơn những bằng chứng về thành công của dân tộc chúng tôi: sự nhiệt tình của dân chúng lúc sa hoàng nước Nga đi qua, cuộc duyệt binh ở Trường đua Longchamp, những kỳ quan trong cuộc Triển lãm Quốc tế, những chuyến bay đầu tiên của các phi công của chúng tôi. Không gì khiến tôi buồn sâu sắc hơn những yếu đuối và sai lầm của dân tộc mà tuổi thơ tôi cảm nhận được qua những khuôn mặt và những câu chuyện của người lớn: sự kiện Fashoda [1], sự kiện Dreyfus [2], những xung đột xã hội, những bất đồng về tôn giáo. Không gì làm tôi xúc động bằng câu chuyện về những nỗi bất hạnh của chúng tôi trong quá khứ: cha tôi kể về cuộc phá vây vô vọng ở Le Bourget và Stains [3], nơi ông bị thương; mẹ tôi nhớ về nỗi thất vọng của bà khi còn là một đứa trẻ đứng nhìn cha mẹ nghẹn ngào: “Bazaine đã đầu hàng rồi [4]!” Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Chiến Tranh của tác giả Charles de Gaulle.
Napoleon Đại Đế - Andrew Roberts
NAPOLEON Đại Đế là sách đứng đầu bảng xếp hạng bán chạy nhất của New York Times nhiều tuần liên tiếp.The Telegraph (Anh) gọi cuốn sách là "số ít tác phẩm toát lên khí chất Napoleon" Napoleon là một nhân vật đặc biệt vĩ đại và hấp dẫn trong lịch sử Pháp cũng như lịch sửthế giới. Cuộc đời, sự nghiệp, quan điểm, tài năng của ông đã là chủ đề của hàng nghìncuốn sách trong suốt hai thế kỉ qua, và có lẽ sẽ còn được nghiên cứu tiếp trong nhiều thế kỉ sau nữa.Thuở nhỏ, cậu bé ham mê đọc sách, nhưng trình độ học vấn không cao. Pháp văn của ông rất tệ, ông thường bị trêu chọc ở trường vì chất giọng khôi hài. Napoleon chỉ tìm thấy mình khi vào quân đội, sau khi tốt nghiệp Trường Quân sự ở Paris và tìm được vị trí sĩ quan pháo binh. Tới năm 1793 Napoleon đóng vai trò nổi bật trong cuộc đánh bật quân Anh khỏi cảng Toulon và chiếm được thành phố này cho các lực lượng cộng hòa, nhờ đó ông được thăng cấp tướng. Khi cuộc cách mạng bao trùm nước Pháp, tài năng của Napoleon trên cương vị một người lính lên đến tột đỉnh. Ông từng gây tai tiếng khi dọn sạch các đường phố ở Paris bằng cách bắn đạn chùm vào quân nổi loạn. Ông đưa quân vào Italy và Ai Cập, nổi bật với một chuỗi những thành công ấn tượng cùng với uy danh về một thiên tài quân sự vô song. Ông trở thành người cai trị nước Pháp năm 1799. Năm 1804, ông tự phong mình làm Hoàng đế và vợ ông, Josephine lên ngôi Hoàng hậu. Napoleon được tôn sùng khi mới vừa qua độ tuổi hai mươi. *** Nói tới Napoleon đa số mọi người đều nghĩ tới một vị tướng, một Hoàng đế, những trận đánh. Nhưng không chỉ có thế. Trong bộ sách đồ sộ của mình về lịch sử văn minh phương Tây, sử gia, triết gia người Mỹ Will Durant cùng vợ ông, bà Anne Durant đã đặt tên cho tập cuối của bộ sách, viết về thời kỳ lịch sử đầy biến động 1789-1815 ở châu Âu là “Thời đại Napoleon”. Có lẽ đó là cách ghi nhận ngắn gọn và chính xác nhất vai trò của Napoleon Bonaparte trong việc định hình nên tiến trình lịch sử châu Âu của giai đoạn này, cũng như tạo ra tiền đề cho cơn bão cách mạng 1830-1848 sau đó. Chẳng vậy mà bất cứ ai ham tìm hiểu về lịch sử cũng sẽ thích tìm hiểu về con người đặc biệt này. Trong gần 200 năm qua, kể từ sau khi cuốn tiểu sử dài hơi đầu tiên về trọn vẹn cuộc đời, sự nghiệp của Napoleon được Walter Scott xuất bản năm 1827, thật khó lòng thống kê hết những cuốn sách đã viết về ông, và chắc chắn sẽ không có năm nào trôi qua trong một thời gian dài nữa mà lại không có thêm ít nhất một cuốn sách mới ra đời ở đâu đó trên thế giới bàn về một khía cạnh nào đó của cuộc đời, sự nghiệp Napoleon. Đọc hết cả “núi” sách theo đúng nghĩa đen này là việc bất khả thi, tuy nhiên chỉ cần một cuốn tiểu sử tóm lược khá toàn diện như Napoleon Đại đế của Andrew Roberts là đủ để những ai muốn tìm hiểu về nhân vật lịch sử có một không hai này, cho dù xuất phát từ bất cứ lý do nào, cũng tìm được cho mình một bức tranh tương đối ưng ý từ mọi góc độ, khía cạnh của một cuộc đời sôi nổi, phong phú và nhiều cung bậc thăng trầm đến mức chính chủ nhân của cuộc đời ấy đã phải thốt lên: “Đời ta quả là một cuốn tiểu thuyết.” Napoleon từng thích trở thành nhà văn, thích trở thành tác giả của những thiên tiểu thuyết khi còn trẻ. Ông đã không làm được điều đó bằng ngòi bút trên trang giấy, song đã viết được một cuốn tiểu thuyết trường thiên bi tráng qua chính cuộc đời mình. Mỗi trang của cuốn sách đó là một ngày đầy bận rộn ông đã trải qua từ khi là viên tướng trẻ 27 tuổi lên đường sang Italy bắt đầu chiến dịch đầu tiên của sự nghiệp cho tới khi ông ê chề rời khỏi chiến trường Waterloo ngổn ngang xác chết 19 năm sau để khép lại sự nghiệp đó. Nói tới Napoleon đa số mọi người đều nghĩ tới một vị tướng, một Hoàng đế, những trận đánh. Nhưng không chỉ có thế. Cuộc đời của Napoleon được Andrew Roberts lần lại qua từng giai đoạn trước hết là cuộc đời của một con người luôn muốn thách thức tất cả, luôn muốn tiến lên phía trước, không dừng lại trước bất cứ trở ngại nào cho tới khi kiệt sức.   Mời các bạn đón đọc Napoleon Đại Đế của tác giả Andrew Roberts.