Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bão

Trong Bão, có một hòn đảo, biển và gió, cơ thể những người đàn bà, một đứa trẻ cô đơn không bố, một người đàn ông bị quá khứ gặm nhấm và cơn bão rửa sạch tất cả. Trong Bão, còn có cả Phi châu, Paris và một đứa trẻ lạc lối khác đi tìm danh tính của mình. Hai câu chuyện đầy chất thơ ấy được thổi đến bằng cơn bão của thế giới của tâm hồn. Trong Bão, những số phận kì lạ gặp đầy trắc trở của Le Clezio vẫn tìm thấy phép màu, tim thấy điều níu giữ họ lại với cuộc sống, bởi "kí ức không quan trọng,không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Trong Bão, độc giả vẫn tìm thấy chất thơ lãng mạn từ những câu văn giản dị nhưng đầy sức nặng của tác giả từng được nhận giải Nobel Văn chương 2008. Cuốn sách kể chuyện bằng cách đưa ra các hình ảnh, những gợi mở, niềm hy vọng ở phép màu và những điều hão huyển, và phải nhìn nó qua một tấm màn thi vị hóa. Từ đầu tới cuối, tính nhạc trong từng câu chữ giữ chân người đọc. *** Bão là tập truyện mới nhất của Le Clézio - nhà văn đoạt giải Nobel năm 2008. Tác phẩm được xuất bản tại Pháp năm 2014, vừa phát hành ở Việt Nam. Có thể ví hai truyện vừa Bão và Người đàn bà không danh tính trong cuốn sách như một file nén. Với dung lượng trang sách, số con chữ không lớn nhưng nén trong đó những câu chuyện đầy sức nặng và nhiều tầng cảm xúc, triết lý. Và bởi thế, mỗi độc giả có "mã giải nén" của riêng mình. Là hai câu chuyện độc lập song bằng những chủ đề chung, tác giả đã tạo cho nó một mạch ngầm kết nối: từ cô gái June sống ở một hòn đảo hẻo lánh của Nhật Bản đến Rachel của một vùng đất thuộc địa cũ của châu Phi, từ vùng trời nước hoang sơ đến những thành thị ngột ngạt, và từ một bé gái không cha đến một thiếu nữ không mẹ đi tìm nguồn cội của mình.  Câu chuyện của Bão đưa người đọc đến những vùng đất xa xôi, những xã hội như nằm bên kia nền văn minh, nơi con người đắm mình vào thiên nhiên hoang dã, sống trong nó và chết trong nó. Ở đó, những con người còn rất trẻ đang bước qua lằn ranh mỏng manh giữa ấu thơ và trưởng thành, tâm hồn còn trong sáng vô ngần, nhạy cảm vô ngần, hồ như căng mình ra trước mọi sóng gió cuộc đời, không có khả năng tự bảo vệ khỏi những nỗi đau. Thậm chí họ dấn mình vào nỗi đau: đi tìm nguồn cội, đi tìm danh tính. Trên hết, những cô gái luôn vươn mình tới một thứ tình yêu nguyên sơ, thánh thiện, bất chấp sự già cỗi của những thứ ranh giới, khoảng cách thường tình. Đó là thứ tình yêu từ cội nguồn sự sống có trong mỗi con người mà cô bé June cảm nhận được. Tình yêu ấy đôi khi làm thương tổn chính các cô gái. Bởi nó mạnh mẽ như bão, hủy diệt như bão, và cũng tái sinh sau bão. Hai cô gái trẻ của Bão mang trong mình một tâm hồn có thể bật lên, tự tái tạo, tự giải thoát mình khỏi nỗi đau và nỗi tuyệt vọng. Cũng nhờ sức sống tươi mới tiềm tàng ấy, Kyo - người đàn ông toan đến hòn đảo hoang vắng để kết thúc cuộc đời - được giải thoát khỏi "nhà tù" của quá khứ, khỏi sự ám ảnh của ký ức và những vết thương. Bão đã rửa sạch tất cả - "ký ức không quan trọng, không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Bão tiếp tục những chủ đề ưa thích của Le Clézio: những thế giới, vùng đất, con người bị bỏ quên, dường như sống bên lề thế giới và nền văn minh. Ông luôn dành một sự ưu ái, trìu mến cho người trẻ và phụ nữ. Có thể thấy trong câu chuyện của ông, họ là những đối tượng dễ dàng bị thế giới nuốt chửng hay làm tổn thương. Nhưng đó cũng chính là những tâm hồn tiềm tàng khả năng tái sinh mạnh mẽ, khơi dậy niềm thiết tha sống ở những con người khác. Bên cạnh đó, chủ đề đi tìm danh tính dường như chưa bao giờ là câu chuyện cũ trong sáng tác của Clézio, nhất là khi con người đang ngày càng đánh mất mình giữa sắt thép, bê tông, phương tiện hiện đại và những thành phố xa hoa, đồ sộ. Những câu chuyện không có những tình huống gay cấn, tình tiết hấp dẫn hay chi tiết mùi mẫn của Clézio dường như thách thức sự kiên nhẫn của độc giả. Thay vào đó, ông theo sát và xoáy sâu vào những biến động tâm lý bất ngờ của nhân vật: June (Bão) đã mạnh mẽ và quyết liệt ra sao trong niềm tin của riêng mình; Rachel (Người đàn bà không danh tính) đã để mình trôi dạt, lạc lối thế nào trong nỗi cô đơn của mình, trong những ngóc ngách thành phố. Mỗi câu chuyện đều mang đến một niềm xúc động sâu xa bằng lối văn phong giản dị, trong trẻo mà đa thanh. Những câu ngắn đầy chất thơ, chất nhạc. Và những mệnh đề, câu chữ, hình ảnh trở đi trở lại như một giai điệu ám ảnh. Song, giống như hành trình tự nhiên của một cơn bão, cấu tứ câu chuyện của Clézio nương theo đó đi về phía chân trời hừng sáng sau cơn biến động của đất trời. Ở phía đó, có sự đổi thay, sự tái sinh và có niềm tin không bao giờ lụi tắt. Đó cũng là chất thơ lãng mạn chảy len lách giữa khoảng trắng của những con chữ - là chất thơ của thiên nhiên vĩnh hằng và của từng khoảnh khắc sống. Clézio được ví như một "nhà văn đi bộ" với lối bút pháp "lãng du". Mỗi câu chuyện ông kể giống như cất lên một bản du ca u buồn, sâu lắng nhưng đẹp đẽ dành cho những nơi ông từng đi qua, những con người từng gặp gỡ. Đó còn là những lời an ủi dịu dàng, thiết tha dành cho bao tâm hồn cô độc và lạc lõng. *** Đêm buông trên đảo. Đêm lấp đầy những chỗ trũng, len lỏi giữa ruộng đồng, một đợt thủy triều bóng tối dần bao phủ vạn vật. Cũng vào thời khắc đó, đảo vắng bóng người. Sáng nào du khách cũng tới trên chuyến phà lúc tám giờ, họ làm đông đúc những không gian trống, họ lấp đầy những bãi biển, họ trôi như một thứ nước bẩn dọc theo cả những con lộ lớn lẫn những nẻo đường đất. Rồi khi đêm tới, họ lại rời khỏi những vũng vịnh, họ lùi ra xa, họ mất tăm. Những con tàu mang họ đi. Và đêm tới. Tôi tới đảo lần đầu cách đây đã ba mươi năm. Thời gian đã biến đổi mọi thứ. Tôi chỉ loáng thoáng nhận ra những nơi chốn, những ngọn đồi, những bãi biển, và dáng hình của miệng núi lửa sạt lở phía Đông. Tôi quay lại vì lẽ gì nhỉ? Phải chăng không còn nơi nào khác cho một nhà văn đang kiếm tìm lối viết? Một chốn nương náu khác, xa sự ồn ào của thế gian, đỡ om sòm hơn, đỡ ngạo ngược hơn, một chốn khác để ngồi vào bàn làm việc và gõ lên máy những dòng chữ, đối diện với bức tường chăng? Tôi đã muốn thăm lại hòn đảo này, nơi tận cùng thế giới này, nơi không lịch sử, không ký ức này, một mỏm đá bị dập vùi bởi sóng gió đại dương, rã rời vì du khách. Ba mươi năm, tuổi đời của một con bò. Tôi từng đến vì gió, vì biển, vì lũ ngựa bán hoang dã lang thang kéo theo dây buộc, vì lũ bò cái ban đêm giữa những nẻo đường, tiếng rống thê thiết của chúng nghe như tiếng tù và báo sương mù, vì những tiếng sủa ăng ẳng của lũ chó bị xích. Cách đây ba mươi năm trên đảo không có khách sạn, chỉ có các phòng ngủ cho thuê theo tuần gần đê chắn sóng, và những lán gỗ bán đồ ăn bên bờ biển. Chúng tôi đã thuê một ngôi nhà gỗ nhỏ trên đồi, không tiện nghi, ẩm ướt và lạnh giá, nhưng vậy là lý tưởng rồi. Mary Song hơn tôi một giáp, mái tóc tuyệt đẹp đen nhánh gần như ngả biếc, đôi mắt màu lá thu, nàng hát những tình khúc buồn trong một khách sạn dành cho du khách giàu có tại Bangkok. Cớ gì nàng lại muốn cùng tôi tới hòn đảo hoang vu này? Tôi chắc đây không phải ý tưởng của mình, chính nàng đã bàn đến chuyện này trước. Hoặc nàng đã nghe ai đó nhắc đến một đảo đá hoang sơ, mỗi khi có bão là hết đường tới. “Em cần tĩnh lặng.” Hoặc giả đó là ý của tôi, chính tôi đã nghĩ tới sự tĩnh lặng. Để viết, để lại bắt đầu viết sau nhiều năm uổng phí. Sự tĩnh lặng, khoảng cách. Sự tĩnh lặng, trong gió và biển. Những đêm lạnh, những đám sao. Giờ thì toàn bộ chuyện này chỉ còn là một kỷ niệm. Ký ức không quan trọng, không hậu quả. Duy có hiện tại là đáng kể. Tôi đã học được điều ấy qua những kinh nghiệm xương máu của mình. Gió là bạn tôi. Gió thổi không ngừng trên các mỏm đá, gió đến từ chân trời phía Đông rồi vấp phải bức vách gãy vỡ của núi lửa, ập xuống những ngọn đồi rồi luồn lách giữa những bức tường nham thạch thấp, lướt trên cát san hô và vỏ sò vỏ ốc vỡ. Ban đêm, trong phòng khách sạn nơi tôi ở (Happy Day*, làm cách nào cái tên này tới được tận đây, một cái tên không trọn vẹn trên chiếc thùng gỗ mắc cạn), gió lùa qua khe cửa sổ và cửa ra vào, xuyên qua căn phòng trống nơi chiếc giường sắt han gỉ cũng y hệt một mảnh tàu đắm. Không có lý do nào khác cho chuyến biệt xứ của tôi, cho nỗi cô đơn của tôi, duy có sắc xám của trời và biển, và tiếng gọi ám ảnh của những người đàn bà mò bào ngư, tiếng kêu của họ, tiếng huýt của họ, một dạng ngôn ngữ cổ, xa lạ, ngôn ngữ của những động vật biển đã từng lui tới thế giới rất lâu trước con người... Aouah, iya, ahi, ahi!... Những thiếu nữ làng chài đã ở đó khi Mary dẫn tôi đi thăm đảo. Bấy giờ mọi chuyện khác hẳn. Những thiếu nữ mò ốc tuổi chừng đôi mươi, họ lặn không trang phục, thắt lưng buộc đá, đeo những mặt nạ dưỡng khí lấy từ xác lính Nhật. Các cô không có bao tay cũng chẳng có giày. Giờ đây họ đã già đi, họ mặc bộ đồ lặn liền thân bằng cao su đen, họ đeo bao tay dệt bằng sợi hóa học, đi giày nhựa màu sắc sặc sỡ. Kết thúc ngày làm việc, họ bước đi dọc con đường ven biển, đẩy xe nôi chở những thứ thu hoạch được. Đôi khi họ có xe máy điện, xe ba bánh chạy xăng. Họ có dao inox giắt ở thắt lưng. Họ cởi bộ đồ lặn giữa những mỏm đá, gần một túp lều gạch nén xây riêng cho họ, họ giội rửa ở vòi nước lộ thiên rồi trở về nhà bước thấp bước cao, tiều tụy vì chứng thấp khớp. Gió đã cuốn theo những năm tháng của họ, những năm tháng của tôi cũng vậy. Bầu trời xám xịt, màu của hối hận. Biển động, nổi sóng lừng, biển xô vào đá ngầm, vào những chỏm nham thạch, biển quay cuồng và vỗ bập bềnh trong những vũng lớn, nơi lối vào những vịnh hẹp. Không có những phụ nữ ngày ngày mò hải sản này, biển có lẽ sẽ thù địch, khó gần. Mỗi sáng tôi lắng nghe tiếng kêu của những người đàn bà của biển, âm thanh rè rè từ hơi thở của họ khi họ ngoi đầu khỏi mặt nước, ahouiii, iya,tôi hình dung khoảng thời gian đã qua, tôi hình dung ra Mary, đã mất tích, tôi nghĩ đến giọng hát tình ca của nàng, đến tuổi thanh xuân của nàng, đến thời trai trẻ của tôi. Chiến tranh đã xóa đi tất cả, chiến tranh đã phá tan tất cả. Thời đó tôi thấy chiến tranh đẹp, tôi muốn viết về nó, trải nghiệm nó và rồi viết về nó. Chiến tranh là một cô gái đẹp với thân hình trong mộng, mái tóc dài đen nhánh, đôi mắt sáng, giọng nói mê hoặc, rồi nàng biến thành mụ già tóc tai bù xù và nanh nọc, thành ác phụ báo oán, bất nhân, tàn nhẫn. Đây là những hình ảnh trở lại trong tâm trí tôi, chúng dâng lên từ nơi sâu thẳm nhất. Những thân thể trật trẹo, những cái đầu bị cắt rời, rải khắp các đường phố bẩn thỉu, những vũng xăng, những vũng máu. Một vị hắc trong miệng, một thứ mồ hôi nặng mùi. Trong một căn nhà không cửa sổ, chỉ có một bóng đèn điện không chao duy nhất, bốn gã đàn ông giữ chặt một người đàn bà. Hai gã ngồi lên chân cô, một gã đã trói hai cổ tay cô bằng một dây đai, gã thứ tư mải miết với một vụ cưỡng hiếp bất tận. Không có tiếng động, như trong những cơn mơ. Ngoại trừ tiếng thở khàn khàn, tiếng thở của kẻ cưỡng hiếp, và một hơi thở khác, nhanh, dữ dội, của người phụ nữ, nghẹt lại vì sợ, có lẽ thoạt đầu cô đã kêu bởi dấu vết một cú đánh vẫn còn lưu trên môi dưới của cô, nó đã rách toạc, và máu chảy tạo thành một vết loang hình sao trên cằm. Hơi thở của kẻ cưỡng hiếp dần gấp gáp, một dạng thở khò khè sâu, nghẹt lại, một âm thanh trầm và giật cục của máy móc, một âm thanh gấp gáp và dường như sẽ không bao giờ ngưng. Mary là lâu sau đó, Mary uống rượu nhiều quá mức, và biển đã mang nàng đi. “Em có thể làm điều đó,” nàng đã nói khi chúng tôi băng qua eo biển ngăn cách đảo với đất liền. Nàng đi vào lòng biển lúc hoàng hôn. Thủy triều đã làm láng mượt những con sóng, những vòng tròn chậm rãi tiến lên, màu rượu vang. Những người đã nhìn thấy nàng đi vào lòng biển đều nói rằng nàng điềm tĩnh, rằng nàng mỉm cười. Nàng đã mặc đồ bơi, một bộ liền màu lam không tay, rồi nàng luồn lách giữa những mỏm đá đen, nàng bắt đầu bơi cho đến khi những con sóng, hoặc ánh mặt trời lặn che khuất nàng khỏi tầm mắt những người chứng kiến. Tôi đã không biết gì, không thấy gì, không dự đoán gì. Trong phòng ngủ ở căn lều của chúng tôi, quần áo của nàng được gấp và xếp sắp như thể nàng đi du lịch, thế thôi. Những chai rượu gạo rỗng không, những bao thuốc lá bóc dở. Một túi xách đựng vài vật dụng thân thuộc, lược và bàn chải tóc, nhíp, gương, phấn, son môi, khăn mùi soa, chìa khóa, ít tiền Mỹ và tiền Nhật, mọi thứ như thể hai tiếng nữa nàng sẽ quay lại. Viên cảnh sát duy nhất trên đảo này - một người đàn ông trẻ tuổi, tóc húi cua, trông như một thiếu niên - đã kiểm kê. Nhưng anh ta đã để lại cho tôi mọi thứ, như thể tôi là một người họ hàng, một người bạn. Tôi là người được yêu cầu tùy tâm xử lý những di vật, nếu họ tìm thấy, hỏa thiêu chúng, quăng chúng xuống biển. Nhưng không bao giờ có gì khác ngoài những đồ dùng không quan trọng kia. Bà chủ nhà trọ đã chọn trong đám quần áo, bà ta giữ lại đôi giày màu lam xinh xắn, chiếc mũ rơm, đôi tất dài, cặp kính râm, chiếc túi xách. Tôi đã mang các giấy tờ ra sân đốt. Những chiếc chìa khóa, những đồ vật riêng tư, tôi đã quăng chúng xuống biển, từ boong con tàu đưa tôi trở lại đất liền. Một ánh vàng rực lấp lánh giữa hai làn nước, tôi nghĩ một chú cá phàm ăn, một chú cá tráp hồng, một chú cá đối đã nuốt chửng chúng. Thi thể chưa bao giờ được tìm thấy. Mary, với làn da mềm mại, óng vàng sắc hổ phách, đôi chân chắc lẳn của vũ nữ, của vận động viên bơi lội, mái tóc đen dài. “Nhưng vì lý do gì?” viên cảnh sát đã hỏi. Đó là tất cả những gì anh ta đã nói. Như thể một ngày nào đó tôi có thể có câu trả lời. Như thể tôi có chìa khóa giải mã ẩn ngữ. Giờ đây khi bão nổi, khi gió thổi liên hồi từ chân trời phía Đông, Mary trở lại. Không phải tôi gặp ảo giác, cũng không phải chớm điên (nhưng tay bác sĩ của nhà tù, khi thảo báo cáo, hắn đã viết lên đầu hồ sơ của tôi chữ Y nguy hại), ngược lại là khác, mọi giác quan của tôi thành sắc bén, cảnh giác, nhạy cảm đến cực độ để thu nhận thứ mà biển và gió mang lại. Chẳng có gì rõ rệt, tuy nhiên đó là một cảm giác sống chứ không phải chết, nó tỏa vầng hào quang quanh da tôi, điều này đánh thức ký ức về những trò yêu đương của chúng tôi, của Mary và tôi, những mơn trớn dài từ dưới lên trên, trong bóng tối phòng ngủ, hơi thở, vị đôi môi, những nụ hôn sâu khiến tôi rùng mình, cho đến tận con sóng tình chậm rãi, cơ thể hai chúng tôi hòa quyện, bụng áp bụng, toàn bộ những chuyện này tôi đã bị cấm đoán từ lâu, là tôi tự cấm đoán, bởi tôi đang ở chốn ngục tù cho phần đời còn lại. Trong bão tôi nghe thấy giọng nàng, tôi cảm thấy trái tim nàng, tôi cảm thấy hơi thở nàng. Gió rít qua các khe của vách kính lớn, lùa vào qua phía mặt hẹp han gỉ, xuyên qua căn phòng và khiến cánh cửa đập đập. Bấy giờ trên đảo mọi thứ ngưng lại. Những con phà không băng qua lạch nữa, những chiếc xe máy và ô tô ngừng vũ điệu của chúng, ngày giống như đêm, âm u, có những tia chớp không kèm tiếng sấm xuyên qua. Mary đã ra đi vào một buổi chiều tĩnh mịch, trong mặt biển phẳng lặng như một tấm gương. Nàng trở về trong cơn bão, từng mảnh nhỏ li ti bị biển thẳm tống xuất. Ban đầu, tôi không muốn tin vào điều đó. Tôi từng ghê sợ, từng ép chặt thái dương giữa hai bàn tay để dập tắt những hình ảnh này. Giờ đây tôi nhớ đến một người chết đuối. Không phải một phụ nữ mà là một đứa trẻ lên bảy, một tối nọ thằng bé mất tích, Mary và tôi đã cùng dân làng tìm bé nhiều giờ trong đêm. Chúng tôi men dọc bờ biển, tay cầm đèn pin, chúng tôi gọi bé nhưng không biết tên nó, Mary hét gọi: “Này cưng ơi!” Nàng thảng thốt, nước mắt giàn giụa trên má. Bấy giờ có chính cơn gió này, những đợt sóng này, thứ mùi đáng nguyền rủa này của vực biển sâu thẳm. Rạng sáng có tin báo đã tìm thấy xác thằng bé. Trên một bãi cát lẫn sỏi giữa các mỏm đá, chúng tôi lại gần, nhờ một tiếng thở than giống như tiếng gió dẫn đường, nhưng đó là mẹ thằng bé. Chị ngồi trên cát đen, thằng bé đặt trong lòng. Thằng bé trần truồng, áo quần biển đã lột sạch, trừ chiếc áo phông bẩn tạo thành một chuỗi vòng xoắn vặn quanh thân trên. Gương mặt bé trắng bệch, nhưng điều tôi tức khắc nhìn thấy, đó là lũ cua và cá đã bắt đầu rỉa xác bé, gặm chớp mũi và cu của bé. Mary không muốn lại gần, nàng run lên vì sợ và vì lạnh, và tôi đã ôm nàng sát gần mình, chúng tôi ở lại trong phòng, nằm quấn lấy nhau trên giường, không vuốt ve nhau, chỉ miệng kề miệng thở. Giờ đây hình ảnh ấy ám ảnh tôi, thân thể người đàn bà ấy nằm dang chữ thập trong khi tụi lính hành sự, và dưới khuôn miệng bầm giập máu đã khô thành hình ngôi sao đen. Và đôi mắt cô đang nhìn tôi, trong khi tôi lùi lại gần cửa, đôi mắt cô nhìn thấy xuyên qua tôi, nhìn thấy cái chết. Tôi chưa bao giờ nói gì với Mary, vậy mà chính vì cảnh tượng tàn bạo ấy nàng đã ngụp xuống biển để không bao giờ trở lại. Biển rửa cái chết, biển gặm nhấm, phá hủy và không trả lại gì, hoặc trả một cái xác trẻ em đã bị róc rỉa. Thoạt đầu, tôi đã nghĩ rằng cả mình cũng trở lại hòn đảo này để chết. Tìm lại được dấu vết của Mary, đi vào lòng biển một tối rồi biến mất. Giờ đây trong cơn bão, nàng tới phòng tôi. Đó là một giấc mơ tỉnh thức. Tôi bị mùi thân thể nàng quyện với mùi biển thẳm đánh thức. Một mùi hương nồng và hắc, chua, gắt, u uất, xộc lên. Tôi ngửi thấy mùi rêu tảo trong tóc nàng. Tôi cảm thấy làn da nàng hết sức mịn màng, nhẵn mượt nhờ sóng bào mòn, lóng lánh ánh xà cừ vì muối. Thân hình nàng bồng bềnh trong ánh sáng lờ mờ buổi hoàng hôn, luồn vào trong chăn, và bộ phận sinh dục cương cứng của tôi đi vào nàng, tới rùng mình, quấn siết tôi trong niềm mê đắm lạnh băng của nàng, thân nàng trườn sát thân tôi, môi nàng kề trên dương vật tôi, tôi hoàn toàn quyện vào nàng, nàng quyện vào tôi, cho tới cơn cực khoái. Mary, chết từ ba mươi năm nay, chưa bao giờ tìm thấy xác. Mary trở về từ đáy đại dương, đang nói vào tai tôi bằng chất giọng hơi khàn, trở về để hát cho tôi nghe những ca khúc bị lãng quên, những ca khúc về những ngôi sao trời, mà nàng đã hát tôi nghe ở quán bar khách sạn Phương Đông, lần đầu tôi gặp nàng. Không hẳn là quán bar dành cho lính tráng, và nàng không hẳn là ca sĩ quán bar. Khi nhìn thấy nàng tôi đã không hình dung ra nàng là ai, con một lính Mỹ được một gia đình nhà quê vùng Arkansas nhận nuôi, sinh ra từ một vụ cưỡng hiếp, bị bỏ rơi và trở về để chiến thắng kẻ thù truyền kiếp của mình, để hoàn thành một cuộc báo oán, hay đơn giản chỉ do sự lại giống vốn hay xua loài người đi theo vết cũ cội nguồn một cách tất yếu. Nhưng tôi, tôi đâu phải một tên lính, nàng hiểu vậy, và chắc hẳn đó là lý do nàng chọn tôi, cái gã mặc đồ lao động và mái tóc húi cua, bám theo đám lính trong những cuộc hành quân, tay cầm máy ảnh để tường thuật mọi cuộc chiến tranh. Tôi còn nhớ lần đầu chúng tôi trò chuyện, sau lượt trình diễn của nàng, vào lúc đêm muộn, hoặc sáng sớm, trên khoảnh sân hiên nhô ra trên dòng Menam Chao Phraya, nàng đã cúi xuống để nhìn thứ gì đó trên mặt đất, một con bướm đêm màu đen đang đập cánh hấp hối, và qua phần cổ khoét của chiếc váy đỏ nàng mặc, tôi đã nhìn thấy bầu ngực nàng buông lơi, hết sức mịn màng, khêu gợi. Nàng không biết gì về tôi và tôi cũng không biết gì về nàng. Bấy giờ tôi đã mang vết thương nham nhở của tội ác, tôi cứ ngỡ chuyện đó sẽ qua đi. Tôi từng quên đi quá khứ, việc xử vụ khiếu kiện bốn tên lính đã cưỡng hiếp một phụ nữ ở Huế. Cái gã giữ tay cô gái quặt ra sau đã thụi vào môi cô để bắt cô im miệng, còn gã kia xâm nhập cô chẳng ngại ngần, thậm chí không cởi quần, và tôi nhìn, không nói gì, không làm gì hoặc gần như thế, chỉ chớm cương cứng, nhưng nhìn và làm thinh, đó là hành động. Có lẽ tôi sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để khi ấy đã ở nơi nào khác, để không từng chứng kiến. Trước tòa, tôi đã không tự biện hộ. Thiếu phụ có mặt tại đó, ngồi hàng ghế đầu. Tôi đã liếc trộm và không nhận ra cô. Cô có vẻ trẻ hơn, gần như một đứa trẻ. Cô ngồi trên ghế băng, bất động, gương mặt được ống đèn nê ông của phòng xử án chiếu sáng. Khuôn miệng nhỏ, mím chặt, da mặt kéo căng ra vì búi tóc đen. Ai đó đã đọc lời chứng của cô bằng tiếng Anh, còn cô vẫn không nhúc nhích. Bốn gã nhà binh ngồi trên một ghế băng khác, cách cô vài mét, và chúng cũng không nhúc nhích. Chúng không nhìn ai, chỉ nhìn bức tường đối diện, cái bục nơi thẩm phán ngồi. Chúng thì ngược lại, tôi thấy chúng già hơn, đã phị ra vì mỡ, với nước da nhợt nhạt của những kẻ tù phạm. Tôi chưa từng kể chuyện này với Mary. Khi tôi gặp nàng tại khách sạn Phương Đông ấy, nàng hỏi tôi đã làm gì lúc rời quân ngũ. Tôi trả lời: “Không làm gì hết... Anh đi đây đi đó, vậy thôi.” Nàng không căn vặn, vả chăng tôi có lẽ chẳng bao giờ đủ can đảm để nói với nàng sự thật: “Anh đã bị kết án tù vì đã chứng kiến một tội ác, và đã không làm gì để ngăn cản tội ác đó.” Tôi muốn sống cùng Mary, đi đây đi đó cùng nàng, nghe nàng hát, san sẻ tấm thân nàng và cuộc đời nàng. Nếu tôi kể với nàng toàn bộ chuyện kia, hẳn là nàng sẽ xua đuổi tôi. Tôi đã sống cùng nàng một năm, cho tới khi đến hòn đảo này. Rồi một ngày nọ nàng đã quyết định đi vào lòng biển. Tôi chưa bao giờ hiểu được. Chúng tôi ẩn mình. Không ai quen biết chúng tôi, không ai có thể kể cho nàng nghe. Có lẽ nàng điên, chỉ vậy thôi, có lẽ chẳng có lời giải thích nào cho hành động của nàng. Nàng đã tự để sóng cuốn đi. Nàng vốn là tay bơi giỏi khác thường. Ngày còn ở Mỹ, năm mười sáu tuổi, nàng được chọn đi dự Olympic Melbourne. Nàng mang họ Farrell, Mary Song Farrell. Song bởi nàng được bố mẹ nuôi nhận về dưới cái tên này. Mẹ đẻ nàng tên là Song cũng nên. Hoặc giả bà ấy hay hát*, tôi không biết nữa. Có lẽ chính tôi về sau này đã suy diễn ra toàn bộ câu chuyện đó. Tôi không suy diễn cho những người khác, họ không khiến tôi bận tâm. Tôi không phải kiểu người kể chuyện đời mình trong những quán bar. Tôi không quen những người gốc Arkansas này, những người nhà Farrell này. Những chủ trang trại. Mary học cách chăm sóc gia súc, cách sửa xe máy, cách lái máy kéo tại nhà họ. Rồi một ngày nọ, năm mười tám tuổi, nàng bay đi để tới nơi khác sống, để hát. Đó là thiên hướng của nàng. Nàng đã có một cuộc sống khác, nàng chưa bao giờ trở lại trang trại. Khi nàng mất tích trên biển, tôi đã cố gắng liên lạc với bố mẹ nàng, tôi đã viết vài lá thư gửi đến quận, để biết địa chỉ của họ. Tuyệt không thấy hồi âm. Khi tôi quen Mary, nàng gần bốn mươi, nhưng có vẻ trẻ hơn tuổi nhiều. Bấy giờ tôi hai mươi tám. Tôi vừa mãn hạn tù. Bão truyền sang tôi cơn thịnh nộ. Tôi cần những tiếng ó biển của bão, những ống bễ lò rèn của bão. Chính vì bão mà tôi quay trở lại hòn đảo này. Bấy giờ, mọi thứ khép kín, mọi người mất hút trong nhà của họ, họ đóng cửa chớp và chặn cửa ra vào, họ thu lu trong vỏ ốc, trong lớp mai của mình. Họ cũng đã biến mất, những du khách mặt bự phấn, những kiểu tạo dáng, những điệu bộ, những trò õng ẹo của họ. Những cô gái mặc quần soóc cực ngắn đạp xe, những cậu trai cưỡi mô tô địa hình, những cặp kính Polaroid, những ba lô, máy ảnh, họ đã quay về thành phố, về những tòa chung cư, về xứ sở không bao giờ có bão của họ. Người dân đảo này đã tự chôn mình. Họ chơi bài, họ ngồi bệt trong những căn hầm với cửa kính mờ hơi nước mà uống bia. Ánh điện chập chờn, chẳng mấy chốc sẽ cắt điện trên diện rộng. Tủ cấp đông của các cửa hàng sẽ rỉ thứ nước vàng như nước tiểu, những con cá ướp muối sẽ chảy nước và long mắt, những thanh sô cô la đông lạnh sẽ mềm nhũn trong bao bì. Chính vì bão mà tôi quay trở lại. Tôi lại cảm thấy mình đang trong thời chiến, trong rủi may, theo cuộc bỏ chạy tán loạn của các đoàn quân, nghe những chiếc loa thét lác những mệnh lệnh khó hiểu. Tôi ngược dòng thời gian, dựng lại đời mình. Tôi những muốn quay trở lại ngưỡng cửa ngôi nhà ở Huế, nhìn, và cái nhìn của tôi sẽ ngưng thời gian lại, sẽ gieo mơ hồ lẫn lộn, sẽ giải thoát người đàn bà khỏi những kẻ hành hạ cô. Nhưng trong những điều tôi biết sẽ không có điều gì nhạt nhòa đi. Hòn đảo là sự đoan chắc về nỗi vô phương cứu chuộc. Bằng chứng của sự bất lực. Hòn đảo là ụ nổi cuối cùng, bến đỗ cuối cùng trước hư không. Chính vì điều này mà tôi trở lại. Không phải để tìm lại quá khứ, không phải để đánh hơi tìm lối như một con chó. Mà để chắc chắn rằng mình sẽ không nhận ra điều gì. Để bão xóa đi tất cả, vĩnh viễn, bởi biển là chân lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Bão của tác giả J. M. G. Le Clézio.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chết Trong Ngày Chúa Nhật
Trong tháng vừa rồi có một sự kiện, đó là một cuốn tiểu thuyết gần chục năm nay lăn lóc chu du qua cửa các nhà xuất bản nhưng chưa từng được nơi nào đón nhận, đã đến tay người đọc bằng câu thần chú “lưu hành nội bộ”.                Mấy năm trước tôi nghe có nhà phê bình nói rằng văn học Việt Nam những năm gần đây “không có tác phẩm”, họ cũng phủ nhận sự tồn tại của “văn học ngăn kéo”. Tôi thì lười nên vẫn cứ trông chờ những người đọc chuyên nghiệp và chăm chỉ. Thông tin ra sách vẫn ào ào và trong đó rất nhiều tác phẩm “gan ruột” của các cây bút, nhưng tôi vẫn chưa thể quan tâm. Tôi không đọc. Các nhà phê bình hình như đã rút vào “cổ mộ” thì phải, âm thanh từ phía họ không vang đến tôi.                Tôi không nghiên cứu phê bình văn học cũng không làm nghề xuất bản, chuyện nước nhà có hay không có tác phẩm văn học “ra hồn” không phải chuyện của tôi. Tôi không cần vội.                Thế mà tôi đã vội vã đọc “Chết trong ngày Chúa Nhật” ngay khi sách vừa lưu hành. Có mấy động cơ đồng thời. Thứ nhất là cơ hội tìm hiểu khung thẩm mỹ văn chương và mức độ kiểm duyệt (bị phàn nàn bất bình quá nhiều) của các nhà xuất bản hiện tại. Thứ hai là tò mò muốn biết với nhịp văn (đều đều chán ngắt) như ở vài trang hé lộ trước thì người viết chuyển nhịp kiểu gì, còn trong trường hợp cả sáu trăm trang (nghe nói là không hề xuống dòng) vẫn giữ nguyên nhịp như vậy thì thần kinh của tôi có tiếp nhận được suôn sẻ không, trong khi có những người chỉ xem một trang đã bỏ cuộc vì họ sợ đọc một thứ như vậy có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cảm hứng đọc văn chương của họ. Thứ ba là… Có động cơ thứ ba nữa không nhỉ? Có chứ! Nhưng động cơ này mơ hồ khó gọi tên ra được, có lẽ đó là linh cảm. *        Vội đọc nhưng không đọc vội. Sau năm ngày tôi mới đọc hết cuốn sách.                Trái với lo ngại của tôi, hóa ra là truyện dễ đọc hơn tôi tưởng rất nhiều, mặc dù đúng là không hề xuống dòng chia đoạn cũng không hề đổi nhịp. Không thiếu những dấu chấm dấu phẩy, tuy vậy tôi không chắc lắm về ảnh hưởng của những dấu câu này tới nhịp văn, bởi vì “đội quân” này thậm chí lơ đễnh ngay cả trong việc giữ gìn trật tự ngữ pháp vốn là nhiệm vụ đầu tiên then chốt của chúng. Dù các dấu chấm dấu phẩy lúc thưa thớt lúc dày đặc thì nhịp văn vẫn thế, vẫn cứ đều đều mà không có chỗ nào khác biệt hoặc nếu có thì cũng không đủ để tôi kịp nhận ra vì tôi đã bị cuốn đi theo nhịp suy tưởng của nhân vật mà không còn đủ sức để tâm đến nhịp văn nữa. Và cứ như thế từ đầu đến cuối. Nhưng bù lại mỗi khi tôi muốn tôi đều có thể dừng lại nghỉ, chỉ cần ghi nhớ trang mình đang đọc dở là trang thứ bao nhiêu, không cần tiếc nuối vì mình đã bỏ không theo kịp cao trào nào đó của truyện. Bởi vì trước sau như nhất cũng chỉ có một thằng cha lải nha lải nhải trong óc hắn ngày này qua tháng khác không có dấu hiệu kết thúc, chỉ có cuốn sách là kết thúc sau hơn sáu trăm trang.                Những người muốn giữ gìn cảm xúc trong trẻo tươi sáng lạc quan yêu đời hoàn toàn đúng khi chọn bỏ qua không đọc truyện này. Ngay từ mở đầu, thằng cha nhân vật đã trưng chộ mớ lý sự lằng nhằng câu từ rối rắm, một trong những dấu hiệu điển hình khiến người ta lập tức nghĩ tới những kẻ nốc lắm sách vở chữ nghĩa nhưng không làm ra chuyện gì có kết quả, như khi nhìn đám dây khoai mọc bò tràn lan rậm rạp thì ta biết là không thể mong thu hoạch được củ vậy. Vâng nhưng khoai không phải khi nào trồng cũng để lấy củ, nếu ta được mời xơi lá xơi ngọn thì cũng hãy cứ thưởng thức vì rau khoai dù sao cũng lành. Ái dà cái gì nữa này, giữa rau có sâu? Giữa mớ chữ nghĩa điệu bộ loằng ngoằng bỗng chồi ra những hồi tưởng hoặc mơ tưởng dâm dục cùng những từ bậy bạ tục tĩu. Vậy là bản năng của con thú vẫn còn trong hắn mà chưa bị những khái niệm nuốt chửng. Thôi vậy thì cũng chẳng tệ quá! Mới chỉ chưa đầy chục trang đã vậy, cứ theo dõi tiếp xem hắn thế nào…                Ô hô ai tai nào đâu phải chỉ có khát dục, thằng nhân vật này, à không, bốn thằng này (thì ra là có tới bốn thằng cơ) đã giẫm qua một lằn ranh đạo đức. Bọn chúng thuê chung một cô gái điếm. Ngủ với gái điếm thì chưa có gì đặc biệt, nhưng đây bọn chúng đem cô vào ở chung cùng một nhà và chia phiên hưởng thụ, thế này thì đày ải nhau quá! Ơ nhưng gì thế? Mỗi thằng mỗi tháng chi cho cô điếm nửa tháng lương của mình à, tử tế nhỉ? Giờ thì chả biết là gái điếm hay nàng Bạch Tuyết nữa. Bọn chúng giàu lòng thương xót vậy ư? Thậm chí bọn chúng còn sợ chúng sẽ yêu nàng…                Ô không hóa ra chỉ là trò tự lừa đảo bản thân của thằng “tôi” ấy thôi. Trong tầng tầng lớp lớp ký ức nhập nhoạng của hắn đã hiện ra tội ác kinh hoàng: Cô gái điếm tên Hạnh kia hóa ra không phải là gái điếm được bốn thằng Tùng-Lâm-Hưng-Vũ ấy thuê về, cô ta cũng chưa từng là gái điếm, cô ta bị bọn chúng hiếp dâm tập thể và bắt mang theo làm nô lệ tình dục cho chúng. Cô gái non tội nghiệp chẳng làm sao thoát được…                Thật quái quỷ! Thì ra tôi đã bị thằng “tôi” kia với lải-nhải-tràng-thiên của hắn lừa một vố thật to. Giờ thì tôi không làm sao còn biết được tội ác kia có thật đã từng xảy ra hay không, rốt cục cô Hạnh kia là gái điếm hay nô lệ tình dục sau khi bị hiếp dâm, và cô tên Hạnh là chị gái hay em gái hay bạn gái hay mẹ của một thằng “tôi” nào, cô Hạnh này chỉ là một cô hay là có nhiều cô đều trùng tên Hạnh…                Đã bao giờ quý vị gặp một kẻ mà ngay từ phút đầu tiên y đã cho quý vị cái ấn tượng rằng y là một nhân vật đặc biệt xuất chúng với khả năng tư duy logic cùng lập luận sắc bén đến nỗi dù y có khác lạ sao đó thì quý vị vẫn mở lòng chấp nhận lắng nghe rồi sau vài tiếng đồng hồ hoặc sau một số ngày quý vị mới ngã ngửa ra rằng y là một bệnh nhân tâm thần? Vâng tôi đã từng. Ấy thế mà kinh nghiệm đó chẳng giúp gì cho tôi khi đọc tiểu thuyết này, đến khi vỡ lẽ cái thằng cha nhân vật chỉ là thằng điên đa nhân cách thì tôi đã ngốn hết nửa cuốn sách chứ ít gì đâu!                Thật ra tôi cũng chẳng nhớ tôi phát hiện “tôi” là thằng điên từ đoạn nào từ trang nào, nhưng thôi truy cứu chuyện ấy chẳng ích gì còn làm mất thêm thời gian của quý vị. Tóm lại, có thể gọi cái thằng Vũ-Hưng-Lâm-Tùng ấy là nhân vật Một-Chẻ-Tư Hoặc Bốn-Trong-Một, tức là tính thành một thằng hay bốn thằng đều được. Tại sao lại là bốn mà không phải là ba hay năm? Cụ thể thì trong truyện có vài cách “liệt kê”. Cách thứ nhất: một nhà lãnh đạo cách mạng, một thầy tu, một nhà thơ và một đao phủ. Cách thứ hai: một kẻ độc ác luôn tỏ ra độc ác, một kẻ độc ác luôn tỏ ra tử tế, một kẻ tử tế luôn tỏ ra độc ác và một kẻ tử tế luôn tỏ ra tử tế. Hình như có vài cách nữa mà không rõ ràng chính xác lắm nên tôi quên rồi.                Đã chấp nhận nhân vật đang kể chuyện là kẻ mang bệnh tâm thần với những cơn hoang tưởng thì độc giả không cần phải lo lắng về chuyện mình không sao nắm nổi đầu đuôi câu chuyện mà hắn kể cũng như những nhân vật trong câu chuyện là ai với ai nữa, và cứ thoải mái yên lòng mà nghe hắn tường thuật những hành vi đê tiện phi nhân mà hắn và đồng bọn thực hiện, vì kẻ điên không phải chịu trách nhiệm gì dù tội ác có thật hay tưởng tượng. Cũng chính từ lúc tôi vừa kịp nhận ra Tùng-Lâm-Hưng-Vũ là một thằng hoặc một bọn tâm thần thì mức độ điên rồ, đau đớn, ác độc, kinh tởm, tàn khốc, tuyệt vọng trong câu chuyện cũng tăng dần… Người đọc không còn lo cho nhân vật mà có lẽ cần lo cho chính mình. *        Tôi đã nhận ra cái nhịp văn nhanh đều đều suốt từ đầu đến cuối truyện ấy chính là nhịp mưa. Một trận mưa ngôn từ xối xả trút xuống, mới đầu tưởng không nguy hiểm gì mà ngờ đâu không dừng không tạnh, mây đen cứ tiếp tục kéo đến ngày càng dày càng nặng, nước dâng lên dần thành một cơn lũ làm xói lở và cuốn trôi những gì với ta là cần thiết quý giá, đồng thời làm nổi dềnh lên những thứ bẩn thỉu hôi thối mà không bao giờ ta muốn nhìn muốn ngửi, rồi dần dần đồ quý hay rác rưởi cũng không còn quan trọng nữa vì ngay cả nơi trú ẩn cuối cùng của ta cũng bị cuốn đi…                Những nhân vật trong truyện từ chối mọi hy vọng và mơ ước thanh cao, vì những gì đẹp đẽ không hề có trong đời thực của họ mà chỉ có trong Kinh Thánh. Những biểu tượng ẩn dụ trong Kinh Thánh khi đem ghép vào những tình tiết trong câu chuyện của họ trở thành lố lăng kệch cỡm hoặc chua xót tức cười. Một cơn mưa không đủ dài để nhấn chìm những kẻ chờ chết, một con tàu được làm để phòng ngày tận thế mà dang dở không bao giờ xong, một đường hầm tiêu tốn cả phần dài ngoẵng của cuộc đời đến ngày đào xong thì hóa ra chẳng còn cần dùng vào việc gì, một kẻ rao tin mừng lại là thằng tâm thần làm bạn bè người thân xấu hổ…                Tam Yên, “miền đất hứa” của những thằng “tôi” ấy không có bằng chứng gì về sự tồn tại của nó, nhưng dù bốn thằng Tùng-Lâm-Hưng-Vũ có cãi nhau thế nào thì bọn họ vẫn luôn thống nhất trong việc phải tìm đến Tam Yên, dù không ai trong số họ biết Tam Yên có gì chờ họ ở đó. Đến sẽ biết. Họ tìm hoài không thấy, hoặc không ai chịu chỉ đường hoặc có kẻ chỉ đường nhưng lại là lừa dối. Với những kẻ cho là họ biết Tam Yên ở đâu (những người không tìm Tam Yên) thì Tam Yên khi là một trại cai nghiện, khi là một nhà tù, có khi lại là một trại tâm thần. Khi bọn “tôi” đến Tam Yên thì Tam Yên là một nơi hoang phế chết chóc, nhưng họ đều nhận đó chính là Tam Yên của họ. Điều gì chờ họ ở đó? Một tiếng nói thì thầm bên tai nhận là Đấng Phán Truyền thôi thúc “tôi” hãy giết người mình yêu dấu nhất để hiến tế. “Tôi” hoàn tất việc đó, rồi điều gì xảy ra? “Tôi” nhận ra mình đã bị lừa. Chỉ có thể là ma quỷ chứ không phải Đấng Hằng Hữu nào cả.                Thằng “tôi” ấy có bị điên thật không? Tất cả là do người đọc tự suy đoán chứ tác giả không hề kết luận điều gì. Nhưng chắc chắn là trong mọi câu chuyện của “tôi” có quá nhiều điều dối trá. “Tôi” đã tưởng thế là thật trong cơn điên hay là ngay cả trong cơn điên hắn cũng cố tình né tránh sự thật? Tất cả đều có thể. *        Những độc giả mong đọc văn chương để thưởng thức sự bóng bẩy của ngôn từ hay những cảm xúc đẹp đẽ dịu ngọt thảy đều nên tránh xa tác phẩm này. Những từ ngữ thô lỗ, những triết lý sống sượng nhai lại, những câu thoại cụt lủn đơn điệu… được thằng Một-Chẻ-Tư Hoặc Bốn-Trong-Một thổ ra tràn lan ngập ngụa. Có những khi chẳng thể nào tránh khỏi, hồi ức về người mẹ, người chị, người em gái… với tình thương rất đỗi tha thiết rất đỗi dịu dàng sống dậy nhưng liền ngay đó bị vùi dập trong nỗi xót xa. Đôi chỗ hiếm hoi, khi thằng “tôi” mơ màng nhớ về một người con gái nào đó với cảm xúc trong trẻo, hắn đột nhiên quên mất giọng điệu thô thiển và lúc đó độc giả được thấy những hồi ức tuyệt đẹp, giống như giữa cả màn mây dày xám xịt bỗng hé ra một khoảng trời trong xanh nhưng chỉ trong phút chốc đã bị lấp kín như cũ.                Những câu chuyện không đầu không đuôi đột ngột thay đổi nối tiếp nhau với nhịp văn đều đều hối hả đã gợi lên cho người đọc những trường liên tưởng chồng chất, những nỗi ám ảnh mà tôi không thể phủ nhận rằng chúng rất thật. *        Có lẽ sẽ không nhiều người đọc tiểu thuyết này, bởi vì tuy nó không khó đọc nhưng đọc nó rất khó chịu. Một tác phẩm không chiều chuộng độc giả, không khoan nhượng, không né tránh. Một tác phẩm không dễ viết.                Trước đây tôi chưa từng đọc truyện nào của Nguyễn Nguyên Phước và thậm chí chưa từng biết tới tên anh. Tôi cảm thấy may mắn đã đọc “Chết trong ngày Chúa Nhật”, vì với tôi đó là bằng chứng xác thực rằng trên mảnh đất này những nhà văn vẫn còn đang sống.                Một tác phẩm tự vấn nghiêm khắc, đủ sức nặng để đối thoại.                Tôi không nghĩ tiểu thuyết này của Nguyễn Nguyên Phước sẽ ảnh hưởng đến hình thức hay nội dung chuyện kể của những nhà văn khác, nhưng nó góp phần ảnh hưởng đến việc những câu chuyện có thể không bao giờ kể ra sẽ được kể ra. Một mình nó không đủ là một cơn hồng thủy, nhưng rất có thể nó là tín hiệu mở đầu cho “cơn hồng thủy”.                Tôi tin “Tam Yên” của Nguyễn Nguyên Phước là nơi các nhà văn cất lên tiếng nói bằng những tác phẩm sâu sắc, họ ý thức rõ rằng trên thế giới này họ luôn là những người được tự do nhiều nhất trong công việc của mình, và vì thế họ chỉ có thể đòi tự do từ chính bản thân mình mà thôi.                                                                                                                                                                     03 – 12 – 2019. *** Miên man không chương đoạn, vắng dấu phảy, chuyện-chuyện-chuyện rối đan chồng chéo. Đối thoại. Triết lý. Độc thoại. Triết lý. Chửi thề. Triết lý. Bài bạc. Triết lý. Hút chích. Triết lý. Đĩ điếm. Triết lý. Giết chóc. Triết lý. Hồi ức. Triết lý. Mơ mộng. Triết lý. Hoang tưởng. Triết lý. Điên dở. Triết lý. Mắc kẹt. Chạy trốn. Đào thoát. Có hiện thực Việt Nam những năm 90. Có mê cung Kafka. Có viễn tưởng. Có giết chóc kinh dị. Chết trong ngày Chúa nhật của Nguyễn Nguyên Phước là lời mời gọi tôi vào cuộc phiêu lưu trong điệp trùng câu chữ. Tác phẩm đặt tôi bên rìa vực giữa quen thuộc-xa lạ, dễ hiểu-khó lý giải, thô lậu-tinh tế, hời hợt-thâm sâu, nghiêm túc-hài hước, phá cách-chỉn chu, hiện thực-hoang tưởng. Đây là cuộc chơi ngôn từ đầy thách thức. Có lúc tôi trầm trồ, có lúc tôi dừng lại hoài nghi, nhưng đó là sự hoài nghi mang tín hiệu tích cực, hé lộ về con đường tìm đến tự do của viết. Tự do, tự do và tự do. Có lẽ đó là tất cả những gì cuốn sách này, ngôn ngữ cùng nhân vật, đã quăng mình vào một cuộc vặn xoắn, giã nát và vượt thoát để chạm đến tự do. Chết trong ngày Chúa nhật là cuộc đào thoát khỏi bản thể để tự do. Vì sao phải chạy trốn khỏi mình để tự do? Có bao nhiêu lớp khóa vô hình khóa chặt tâm hồn một con người? Những thủ pháp nghệ thuật nào nổi bật trong cuốn tiểu thuyết này, để ta có thể băng qua như băng qua những ngọn núi, dòng sông và cánh đồng, vừa đi vừa ngẫm, để chân ta được neo lại trong những khoảng thời gian đủ dài, để từ từ lật mở, khi khẽ khàng, lúc dữ dội, vừa lạc vào mênh mông, vừa xoáy hút chốn thẳm sâu…? Người đăng: daotieuvu
Chuồn Chuồn Hổ Phách - Tập 1
Outlander - Chuồn Chuồn Hổ Phách 1 là cuốn thứ hai trong bộ tiểu thuyết lịch sử xuyên thời gian của Diana Gabaldon. Bà đã dệt nên một câu chuyện đầy ma lực đan xen giữa lịch sử và thần thoại, nó chứa đầy những đam mê mãnh liệt và sự táo bạo. Vô tình bị kéo về quá khứ, Claire - một nữ y tá quân đội người Anh - đã gặp gỡ và kết duyên với Jamie, một chàng chiến binh trẻ người Scot dũng mãnh, hào sảng. Sau nhiều biến cố, họ buộc phải rời nước Anh để sang Pháp. Tại đây, khi biết cuộc nổi dậy của phái Jacobite bắt đầu nhen nhóm, Jamie và Claire quyết định tìm mọi cách để ngăn chặn trận chiến Culloden đẫm máu xảy ra, nhằm bảo vệ sinh mạng của hàng nghìn người Scot vô tội. Thế nhưng thay đổi lịch sử có phải là chuyện dễ dàng? Liệu họ có thể cải biến vận mệnh của cả một dân tộc hay đành chịu cúi đầu khuất phục trước bàn tay tàn nhẫn của số phận? *** Ở nơi bờ Tây Scotland năm 1945, khi Thế chiến thứ hai kết thúc, đôi vợ chồng Frank và Claire gặp nhau sau bao năm xa cách, trao nhau những lời ân ái ngọt ngào. Nhưng 200 năm trước, chính tại nơi đây, trên ngọn đồi Craigh na Dun, những chiến binh dũng mãnh nhất đấu đá nhau trong cuộc chiến tranh giành vương quyền. Trong một lần dạo chơi quanh những vòng tròn đá thiêng cổ xưa tọa lạc trên đồi, Claire đã bị kéo từ hiện tại ngược dòng quá khứ về với Scotland thế kỉ 18. Từ một nữ y tá quân đội, giờ đây Claire trở thành kẻ ngoại tộc – Sassenach, như cái cách đầy yêu thương mà chàng chiến binh Jamie dùng để gọi cô. Chính nơi đây, thời đại này, với chút kiến thức y học về thảo dược của mình, cô đã tìm cách ngăn cản cuộc chiến đẫm máu nơi đầm lầy Culloden mà sử sách ghi chép, để bảo vệ người đàn ông của đời mình. Liệu một cô gái đến từ tương lai có thể thay đổi quá khứ? Hay chính cô là tác nhân khiến cho dòng chảy lịch sử được khơi thông? Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn nằm trong top 10 bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất mọi thời đại. Là người hiện đại, nhưng Claire lại thích nghi nhanh chóng với cuộc sống rong ruổi trên lưng ngựa. Nhưng điều quan trọng hơn, cô đã rơi vào tình yêu mãnh liệt, nồng cháy với Jamie dẫu cho trong trái tim vẫn luôn khắc khoải và day dứt về Frank. Nếu ở trong tình cảnh của Claire, bạn sẽ lựa chọn bên nào, một quá khứ bấp bênh hay hiện tại rạn vỡ? Claire có thể đeo hai chiếc nhẫn, một vàng của Frank, một bạc của Jamie. Cô cũng có thể bảo vệ cả hai, như cái cách cô đặt bàn tay trái nơi có chiếc nhẫn vàng lên che chở chiếc nhẫn bạc nơi bàn tay phải. Hay cách cô cầu xin Jamie, khiến anh chấp nhận hy sinh linh hồn mình cho sự sống của Frank. Và cách cô dùng những hiểu biết và kiến thức lịch sử của Frank để giúp đỡ và giữ mạng sống cho Jamie. Thế nhưng với ngăn cách thời gian và không gian, cô không thể nào có được cả hai người đàn ông, dẫu cho họ đều yêu cô với một trái tim chân thành và thuần khiết. Như một quy luật tất yếu của tự nhiên, khi ánh vàng rực rỡ mặt trời lùi về phía bờ tây, ánh bạc dịu dàng và huyền bí mặt trăng sẽ chiếm ngự bóng tối. Và ngược lại. Cũng như con người ta không thể khiến bản thân mình vừa có thể sống với hiện tại rạn vỡ nhưng thực tế, lại vừa có thể sống ở quá khứ bấp bênh nhưng tươi đẹp. Định mệnh trớ trêu bắt buộc Claire phải lựa chọn. Và dù lựa chọn thế nào, đau đớn vẫn là một kết quả chắc chắn. Bóng hình của người đàn ông còn lại vẫn mãi khắc ghi nơi tận cùng linh hồn, thỉnh thoảng lại cứa vào lòng cô những vết cắt khiến trái tim rỉ máu. Nếu ở trong tình cảnh của Claire, bạn sẽ lựa chọn bên nào, một quá khứ bấp bênh hay hiện tại rạn vỡ? Có một truyền thuyết kể rằng, hổ phách được hình thành nên từ nước mắt của mẹ và chị gái của Phaethon - con trai thần Mặt trời - khi Phaethon bị thần Zeus đánh chết. Còn chuồn chuồn, loài côn trùng nhỏ bé với đôi cánh mỏng manh yếu ớt nhưng lại có sức hút diệu kì, ẩn chứa nguồn sức mạnh phi thường để phá kén, chuyển cuộc sống trong bọc kén thành cuộc sống tự do nơi bầu trời cao rộng- hệt như một sự thoát khỏi quá khứ và hướng đến tương lai. Sống trong tình yêu của Jamie, Claire như con chuồn chuồn nhỏ đang tung cánh giữa thiên nhiên tươi đẹp và trời xanh rộng lớn. Nhưng khi cô buộc phải bước qua những vòng tròn đá lần nữa để trở về thực tại, những giọt nước mắt thấm đẫm bờ mi và khuôn mặt cô, như những giọt hổ phách kia. Con chuồn chuồn Claire vẫn mãi bị giữ chặt và giam cầm trong chính miếng hổ phách đã được kết tinh ấy, mãi chẳng thể nào bay xa được. Claire đã lựa chọn. Tôi cũng đã có quyết định cho riêng mình. Vậy, sao bạn không thử lựa chọn? Giữa Frank với Jamie, giữa quá khứ và hiện tại. Outlander là bộ tiểu thuyết về du hành xuyên thời gian lãng mạn bậc nhất do Goodreads bình chọn. Kể từ lần đầu xuất bản năm 1991, 8 tập truyện Outlander của tác giả Diana Gabaldon đã dịch ra hơn 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bộ phim chuyển thể từ tác phẩm cũng đã được kênh truyền hình Starz (Mỹ) phát sóng từ năm 2014. Chỉ trong vòng 1 năm sau khi phim ra mắt, ước tính doanh thu sách đã thu về 6 triệu USD - gấp 2 lần con số mà quyển thứ 8 của Outlander bán được từ năm 2010. Tú Văn - vietnamnet.vn *** Tôi tỉnh dậy ba lần trong đêm. Lần đầu tiên là trong nỗi đau buồn, thất vọng, kế đó là trong niềm vui sướng, và cuối cùng là trong sự cô độc. Những giọt nước mắt tuôn rơi vì cảm giác mất mát sâu sắc thấm vào xương tủy khiến tôi từ từ thức giấc, chúng tắm ướt đẫm khuôn mặt tôi như sự vuốt ve an ủi đến từ những bàn tay dịu dàng. Tôi vùi mặt vào chiếc gối ẩm ướt và dể tâm trí mình trôi theo dòng sông mặn chát, tiến vào những hang động nơi nỗi nhớ nhung sầu khổ ngự trị, tiến vào từng tầng sâu của giấc ngủ. Rồi tôi tỉnh giấc trong niềm vui sướng điên cuồng, người uốn cong lên như chiếc cầu vồng giữa những cơn đau dữ dội đến từ khoái cảm của sự hòa hợp thể xác, cảm giác mơn trớn vẫn còn hiển hiện trên da thịt, cảm giác chết lặng lan tỏa dọc theo từng thớ thần kinh. Tôi khước từ sự tỉnh táo, trở lại lần nữa, kiếm tìm mùi hương ấm áp của sự khát khao được thỏa mãn từ một người đàn ông, trong vòng tay an ủi của người tôi yêu, giấc ngủ. Lần thứ ba, tôi thức dậy trong nỗi cô độc, rời xa những xúc cảm yêu đương hay đau đớn. Hình ảnh những tảng đá vẫn còn hiển hiện trong tâm trí tôi. Một vòng tròn nhỏ, những tảng đá dựng đứng trên đỉnh đồi xanh dốc đứng. Tên của ngọn đồi đó là Craigh na Dun; ngọn đồi tiên. Có người nói ngọn đồi đó bị bỏ bùa, những người khác nói nó bị nguyền rủa. Cả hai đều đúng. Nhưng không ai biết cơ chế hoạt động hay mục đích của những hòn đá đó. Ngoại trừ tôi. *** Tập hợp danh sách Roger Wakefield đứng giữa phòng, cảm thấy như bị bao vây tứ phía. Anh nghĩ cảm giác đó là hiển nhiên khi xung quanh là những chiếc bàn chất kín các món đồ cổ và vật lưu niệm, bộ đồ nội thất nặng nề theo phong cách thời Victoria, hàng đống vải bọc ghế, vải lông và khăn trải giường bằng len, những tấm thảm trải sàn được bện sợi nhỏ xíu trải trên sàn gỗ bóng loáng chờ đợi cơ hội trượt đi ngay khi có một bàn chân hớ hênh bước lên. Bị mười hai căn phòng đầy đồ đạc, vải vóc, quần áo và giấy tờ bao quanh. Rồi còn những cuốn sách nữa - Chúa ơi, những cuốn sách! Ba mặt của căn phòng làm việc nơi anh đứng kê kín những giá sách thẳng hàng tăm tắp, mỗi cái giá đều bị nhồi chật ních. Những cuốn tiểu thuyết kỳ bí bìa mềm nằm trong đống sách sáng màu rách nát trước mặt những bộ sách nghiên cứu bằng da bê, chen vai thích cánh với những cuốn được hội những người yêu sách lựa chọn, các cuốn cổ thư được chôm chỉa từ những thư viện nay đã không còn tồn tại, và hàng trăm hàng ngàn cuốn sách mỏng, tờ rơi, và bản sách cổ được khâu tay. Tình trạng tương tự xảy ra ở khắp nơi trong nhà. Sách và giấy tờ nằm la liệt trên mọi bề mặt nằm ngang, và bản lề của mọi chiếc tủ xép đều kêu kẽo kẹt. Ông bố nuôi quá cố của anh đã sống một cuộc đời dài lâu và trọn vẹn, sáu mươi lẻ hai chục tuổi[1]. Và trong tám mươi năm có lẻ đó, mục sư Reginald Wakefield chưa bao giờ vứt đi bất cứ thứ gì. Roger áp chế nỗi thôi thúc muốn chạy ngay ra ngoài, nhảy lên chiếc xe Morris Minor của anh và phóng thẳng về Oxford, kệ xác ngôi nhà mục sư này cùng với những thứ bên trong nó, mặc cho thời tiết và lũ phá hoại xử lý nó. Bình tĩnh lại nào, anh tự nhủ, hít thở thật sâu! Mày có thể giải quyết việc này mà. Sách là phần dễ nhất rồi; chỉ việc phân loại chúng rồi gọi người đến khuân đi là xong. Cứ cho là sẽ cần đến một chiếc xe tải cỡ lớn đi nữa thì chí ít việc này cũng có thể thực hiện được. Quần áo vải vóc - không vấn đề gì! Oxfam[2] sẽ bao hết cả lố. Anh không biết Oxfam sẽ làm gì với cả mớ com lê vải xẹc màu đen từ năm 1948, nhưng có lẽ những người nghèo thực sự sẽ không kén cá chọn canh. Anh bắt đầu hít thở dễ dàng hơn một chút. Anh đã xin nghỉ phép một tháng ở khoa Lịch sử trường Oxford để dọn dẹp tư gia của mục sư. Xem ra từng đó thời gian là đủ. Trong một thoáng tuyệt vọng, anh đã tưởng như nhiệm vụ này phải mất tới vài năm mới xong. Anh tiến đến một chiếc bàn, nhấc lên một cái đĩa sứ. Nó đựng đầy những mẩu kim loại nhỏ hình chữ nhật; những chiếc gaberlunzie bằng chì, thứ huy hiệu mà các linh mục cấp cho những tên ăn mày ở thế kỷ mười tám và được coi như một dạng giấy phép hành nghề. Một bộ sưu tập chai lọ bằng sành đứng bên cây đèn bàn, và cạnh chúng là một chiếc sừng đựng thuốc lá khảm bạc. Tặng chúng cho viện bảo tàng ư? Anh đắn đo. Ngôi nhà này đầy những món đồ tạo tác thời Jacobite[3]; mục sư vốn là một sử gia nghiệp dư, và thế kỷ mười tám là mảnh đất săn lùng tư liệu yêu thích của ông. Các ngón tay anh vô thức mơn trớn bề mặt chiếc sừng đựng thuốc lá, men theo những dòng chữ khắc thẳng tắp - bao gồm tên và ngày tháng của người trợ tế và người giữ quỹ trong Liên đoàn Thợ may của Canongate, Edinburgh năm 1726. Có lẽ anh nên giữ lại vài món đồ mà mục sư kiếm được… nhưng rồi anh rụt tay lại và lắc đầu quả quyết. “Chẳng để làm gì, đồ ngốc,” anh nói to, “cách sống này thật điên rồ.” Hoặc ít nhất giống cuộc đời của một bầy chuột. Khởi đầu bằng việc tích cóp những món đồ này, và kết thúc cuộc đời trong một ngôi nhà kỳ quái ngập ngụa rác rến. “Lại còn tự nói chuyện với bản thân nữa chứ!” Anh lẩm bẩm. Mời các bạn đón đọc Chuồn Chuồn Hổ Phách - Tập 1 của tác giả Diana Gabaldon & Diệu Hằng (dịch).
Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 2
Thoạt đầu nhìn tên của cuốn sách Outlander, được để nguyên không dịch ra tiếng Việt, cứ nghĩ cuốn sách thuộc dòng sách khoa học viễn tưởng, du hành ngoài không gian gì đó. Hóa ra không phải. Cuốn sách không mới - tác phẩm của Diana Gabaldon xuất bản lần đầu năm 1991, suốt 26 năm qua luôn là một trong những bộ tiểu thuyết lãng mạn hấp dẫn nhất của thời hiện đại, được dịch ra 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bản dịch tiếng Việt mới xuất hiện năm 2017. Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn là một trong những  bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất Trong một thời buổi hễ cứ nhìn thấy nhiều chữ là nhức đầu, cuốn sách phần nào làm người ta ngại: nó dày lắm, nặng trịch, dịch chưa hết nhưng đã tới tập 4 rồi, mỗi tập đều gần 500 trang, chữ không là chữ!   Nhưng đọc rồi, nhận ra cuốn sách cũng như một vòng tròn đá thiêng bí ẩn, người đọc mở trang đầu tiên là như đã ngã vào trong cánh cửa đá ấy, bị cuốn vào một không gian hun hút, mê đắm, dữ dội, và không muốn quay về. Outlander là một thông điệp nữ quyền ở dạng quyến rũ nhất, đàn bà nhất, thực tế trần trụi nhất, và do đó, cũng đẹp đẽ khó quên nhất.  Sau chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1945, một nữ y tá người Anh đang cùng chồng hưởng lại tuần trăng mật sau thời gian vợ chồng bị chiến tranh chia cắt, tại một vùng nông thôn cao nguyên Scotland. Một buổi bình minh trên ngọn đồi có một vòng tròn đá cổ xưa, cô được chứng kiến một nghi lễ ngợi ca mặt trời của những người đàn bà trong vùng. Ngày hôm sau, cô quay lại đó, khi chạm tay vào một phiến đá, cô bất ngờ bị hút vào quá khứ, rơi thẳng xuống thế kỷ XVIII với nghèo đói, lạc hậu, bệnh tật, chiến tranh và tình yêu. Cuộc hành trình bắt đầu, giữa hai cuộc sống là khoảng cách 200 năm, cô vẫn phải sống tiếp vì không thể quay trở về thời hiện đại. Với cuộc hôn nhân đầu tiên ở thế kỷ XX, cô là người vợ mất tích một cách bí ẩn; với thế kỷ XVIII và lãnh địa của dòng Mackenzie, cô mãi mãi là một người ngoài.  Những cuộc chinh phục của nhân loại thường được tiến hành về phía tương lai, phía những vùng đất mới, cùng với nam tính mạnh mẽ, thống trị. Trong khi cuộc du hành này được thực hiện ngược chiều kim đồng hồ, một cuộc trở về quá khứ, chuyến đi bất đắc dĩ của một người đàn bà mỏng manh. Kỳ lạ thay, cuộc trở về ấy giúp người ta hiểu rõ hơn bao giờ hết lịch sử và con người, tình yêu và thù hận, từ khởi đầu thụ động của chuyến đi, người đàn bà ngoại tộc ấy - mà xét cho cùng, người đàn bà nào chẳng là “người ngoại tộc”, đã chủ động, quyết liệt trong chọn lựa của mình, tồn tại, chữa lành, yêu và sống, tranh đấu và chiến thắng. Cô gái có tên Claire, nhưng cái tên ấy không ấn tượng bằng cái tên “Sassenach”, cũng là “Outlander”, chữ được dùng để gọi một người “ngoại tộc”. Chẳng phải không có dụng ý gì khi để cho một người ngoại tộc làm người xới lật lại lịch sử gia tộc và hơn thế nữa, đi ngược chiều phả hệ để hiểu và trải nghiệm: những kẻ ngoại tộc có con mắt quan sát và bản năng tìm hiểu để thích nghi, tồn tại. Đây là hành trình mang tính biểu tượng của một người đàn bà. Đây cũng chính là ý nghĩa sâu xa của thông điệp mang màu sắc nữ quyền ở tầm bản chất: chính người ngoại tộc ấy đã kết nối những thế hệ tổ tiên với con cháu của mình, chẳng phải thế sao? Nếu không có người đàn bà ngoại tộc ấy, những người đàn ông gieo hạt giống của mình ở đâu để có những vụ mùa kế tiếp? Sassenach có cuộc hôn nhân thứ nhất, và ở cuộc đời thứ hai này, cô có một người chồng nữa. Cô yêu cả hai. Một người đàn bà có thể yêu cả hai người đàn ông, một cách nào đó chung thủy với cả hai người, không phải chọn lựa, được không? Câu trả lời của cuốn sách này là: được. Cô đã đeo trên hai bàn tay mình hai chiếc nhẫn, chiếc nhẫn vàng từ người chồng trong cuộc hôn nhân thứ nhất, và chiếc nhẫn bạc của người chồng trong cuộc hôn nhân thứ hai. Không thể loại bỏ cái nào. Hai chiếc nhẫn, một vàng một bạc, là bí ẩn của nguồn cội sức mạnh của cô. Nó nhắc rằng phải có quá khứ, quá khứ phải diễn ra theo cách của nó, thì mới có hiện tại. Hiện tại ấy được quyết định từ trong quá khứ, và cho dẫu biết trước những đau thương, mất mát, cũng không thể tùy tiện thay đổi quá khứ để mong xếp đặt một hiện tại khác.  Claire, với khát vọng ban đầu cháy bỏng là trốn thoát khỏi thế kỷ XVIII để trở về với thế kỷ XX, trở về với cuộc đời hiện đại của cô, đã dần thay đổi: cô chọn ở lại với thế kỷ XVIII, với cuộc sống thiếu tiện nghi và lạc hậu, với sự mông muội hoang dã. Cô dùng khả năng của một nữ y tá để trị thương, để giúp đỡ mọi người, giảm thiểu những thiệt hại trong cái thất bại của tương lai mà cô biết trước. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái.  Cô ở lại vì tình yêu của mình, thứ tình yêu hoang dã, bản năng, gắn chặt với cuộc tồn sinh khó nhọc. Trách nhiệm với quá khứ, với lịch sử đã được chuyển thành ý thức cá nhân. Cô góp sức lực nhỏ bé của mình để phần nào làm cho cuộc sống của những người tốt xung quanh cô tốt hơn, thanh thản nhẹ nhàng hơn. Quyết định cuối cùng của Sassenach, một lần nữa dấn thân xuyên qua vòng tròn đá, trở lại thế kỷ XX, là một quyết định không vì cô, mà vì đứa con trong bụng. Đứa trẻ đã thay đổi ý nghĩa cuộc sinh tồn của cô, thay đổi quyết định của cô. Thiên chức làm mẹ chiến thắng. Thông điệp của tính mẫu, của nguyên lý mẹ có thể nhìn thấy ở đây. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái. Câu chuyện về hổ phách lại là một ẩn dụ mang tính biểu tượng nữa: những giọt nhựa cây ứa ra trong veo, nước mắt của loài thông, qua hàng ngàn năm kết tinh thành hổ phách. Con chuồn chuồn nhỏ bé, mỏng manh đông cứng trong mảnh hổ phách ấy, không hiểu sao cứ gợi người ta nghĩ đến những thân phận đàn bà. Chuồn chuồn hổ phách và sự bất tử mong manh mà nó chọn cũng chính là nước mắt của người phụ nữ, gói giấc mơ của mình - được bay lượn tự do giữa trời, trong sự hy sinh đã gần như là định mệnh.  Cuốn sách nói với người ta rằng: hiện tại là quan trọng, nhưng quá khứ chưa bao giờ là thứ chỉ ngủ yên, chỉ là những dòng lịch sử sách vở vô hồn. Quan trọng hơn, cuộc sống hiện tại của mỗi người thực ra đã được quyết định bằng chính quá khứ của họ, dù có khi họ không hay biết. Con đường để mình hiểu và đến với những người khác quanh mình nằm ở bên trong mỗi một con người, ở tầm bản lai diện mục, là sự chia sẻ mạnh mẽ của những tình cảm nguyên thủy cổ xưa, mà đôi khi, những thứ màu sắc hiện đại của ngày hôm nay vô tình che lấp. Thế giới đang toàn cầu hóa. Lúc nào đó, cách nào đó, mỗi con người đều có thể là một người ngoại tộc. Những cánh cửa mở ra không ngừng. Thế giới thay đổi mỗi ngày, công nghệ vùn vụt phát triển, nhưng nỗi băn khoăn tìm hiểu về chính bản thân mình, hiểu được người thương yêu của mình, hiểu để chia sẻ và sống cùng nhau trong tình yêu dưới một mái nhà… luôn luôn là nỗi băn khoăn hiện hữu. Con người chưa bao giờ thôi tự nhìn vào nguồn cội của mình, bản chất của mình. Theo cách đó, Outlander không viết về quá khứ theo kiểu tiểu thuyết lịch sử. Outlander viết về quá khứ như một cuộc du hành viễn tưởng, lãng mạn, thú vị, gai góc. Con người hiện tại muốn thực sự hiểu về quá khứ cần phải dấn thân vào cuộc du hành ấy. Lịch sử nằm trong chính trải nghiệm của mỗi con người. Hoàng Mai - phunuonline.com.vn *** Linh tính Sự xôn xao do chuyến trở về bất ngờ và lời thông báo về cuộc hôn nhân của chúng tôi bị át đi gần như ngay lập tức bởi một sự kiện quan trọng hơn. Ngày hôm sau, chúng tôi ngồi ăn tối ở đại sảnh và nhận những lời chúc tụng. “Buidheachas, mo caraid”[1]. Jamie cúi đầu duyên dáng với người chúc tụng cuối cùng rồi ngồi xuống giữa tiếng vỗ tay đang dần thưa thớt. Băng ghế gỗ lung lay dưới sức nặng của anh và anh thoáng nhắm mắt. “Anh uống hơi quá chén rồi phải không?” Tôi thì thầm. Trong khi anh phải gánh trọng trách đáp lễ những lời chúc tụng, uống cạn từng cốc rượu, thì tôi chỉ phải nhấp môi lấy lệ và nở nụ cười rạng rỡ trước những lời chúc bằng tiếng Gaelic mà tôi không tài nào hiểu nổi. Anh mở mắt nhìn tôi, mỉm cười. “Ý em là anh có say không hả? Không, anh có thể uống thứ này suốt đêm.” “Anh gần như đã uống suốt đêm rồi,” tôi nói, nhìn những chai rượu và bia rỗng xếp thành hàng trên tấm ván trước mặt. “Khuya lắm rồi.” Những ngọn nến trên bàn của Colum chỉ còn ngắn ngủn, lớp sáp lỏng ánh lên màu vàng kim, ánh nến hắt lên người anh em nhà MacKenzie những cái bóng kỳ lạ và khiến da thịt họ lấp lánh khi họ ghé lại gần nhau, thì thầm trò chuyện. Trông họ giống như những cái đầu tượng được chạm khắc quanh viền chiếc lò sưởi khổng lồ, và tôi tự hỏi bao nhiêu trong số những cái đầu tượng biếm họa đó được lấy hình mẫu từ những đường nét đầy vẻ trịch thượng của những vị lãnh chúa MacKenzie trước đây - có lẽ người thợ chạm khắc phải có khiếu hài hước lắm... hoặc phải là một người vô cùng thân thiết với gia đinh họ. Jamie khẽ vươn vai, nhăn mặt, tỏ vẻ không thoải mái. “Tuy nhiên,” anh nói, “bàng quang của anh sắp nổ tung rồi. Anh sẽ quay lại ngay.” Anh chống hai tay lên mặt ghế, lanh lẹ nhảy qua nó và biến mất qua cái cửa tò vò ở đầu thấp hơn của đại sảnh. Tôi chuyển sự chú ý sang Geillis Duncan đang ngồi từ tốn nhấm nháp một cốc bia ở bên còn lại của tôi. Chồng cô ta, Arthur, ngồi ở bàn kế bên bàn Colum, phù hợp với địa vị biện lý của vùng, nhưng Geilie khăng khăng ngồi cạnh tôi với cái cớ là cô ta không muốn mệt mỏi vì phải nghe những câu chuyện của đàn ông suốt bữa tối. Arthur đang lim dim, đôi mắt thâm quầng trũng sâu vì rượu và sự mệt mỏi. Ông ta nặng nề chống tay lên cằm, khuôn mặt uể oải, chẳng buồn đoái hoài đến cuộc trò chuyện của anh em nhà MacKenzie ở bên cạnh mình. Trong khi ánh nến làm cho những đường nét sắc sảo của lãnh chúa và em trai trở nên thanh thoát hơn thì nó chỉ khiến cho Arthur Duncan trông càng béo ị và ốm yếu. “Chồng chị trông không được khỏe lắm,” tôi nhận xét. “Chứng bệnh về dạ dày của ông ấy đã tệ hơn à?” Những triệu chứng của ông ta khá khó hiểu; không giống như bị loét, cũng không phải ung thư - khi mà ông ta vẫn còn núng nính thế kia - có lẽ chỉ là viêm dạ dày kinh niên, như Geilie khẳng định. Geilie liếc qua chồng mình trước khi quay lại nhìn tôi và nhún vai. “Ồ, ông ấy vẫn khỏe,” cô ta nói. “Ít nhất cũng không tệ hơn. Còn chồng cô thì sao?” “Ơ, chuyện gì về anh ấy cơ?” Tôi thận trọng đáp. Cô ta hích mạnh cùi chỏ vào mạng sườn tôi với vẻ thân thiết, và tôi nhận ra ở đầu bàn của cô ta có khá nhiều cái chai rỗng. “Chà, cô nghĩ thế nào? Khi không mặc quần áo, trông anh ta có tuyệt như lúc có mặc quần áo không?” “Ừm...” Tôi tìm câu trả lời khi cô ta nghển cổ về phía cửa. “Vậy mà cô dám tuyên bố mình chẳng quan tâm tới anh ta chút nào! Thông minh lắm! Một nửa số con gái trong lâu đài sẽ muốn giật trụi tóc cô đấy - nếu tôi là cô, tôi sẽ cẩn thận với những gì mình ăn.” “Những gì tôi ăn ư?” Tôi hoang mang nhìn xuống cái đĩa lớn bằng gỗ hiện trống trơn ngoài một vệt mỡ và một miếng hành luộc trơ trọi. “Thuốc độc,” cô ta rít lên vẻ kịch tính bên tai tôi, phả ra mùi brandy. “Vớ vẩn,” tôi lạnh lùng nói, rụt người lại. “Sẽ chẳng có ai muốn đầu độc tôi chỉ đơn giản vì tôi... ờ, vì...” Tôi hơi lúng túng, và chợt nghĩ ra rằng có thể tôi đã uống nhiều hơn tôi tưởng. “Chà, thực sự thì, Geilie, cuộc hôn nhân này... tôi đã không lường trước. Tôi không hề muốn nó!” Tôi không nói dối. “Đó chỉ là một... sự... thu xếp cần thiết,” tôi nói, hy vọng ánh nến che giấu được khuôn mặt đỏ lựng của mình. “Ha,” cô ta nói, vẻ chế nhạo. “Chỉ cần nhìn là tôi nhận ra ngay cô gái nào có đời sống chăn gối mãn nguyện.” Cô ta liếc về phía cửa tò vò nơi Jamie đã đi qua. “Và tôi không ngốc đến nỗi nghĩ rằng những dấu vết trên cổ chồng cô là vết muỗi đốt.” Cô ta nhướng một bên lông mày màu bạc. “Nếu đây chỉ là một cuộc hôn nhân sắp đặt thì cô đã vớ được một món bở rồi đây.” Cô ta lại ghé sát tôi. “Chuyện đó có đúng không?” Cô ta thì thầm. “Chuyện về hai ngón tay cái ấy?” “Hai ngón tay cái? Geilie, nhân danh Chúa, chị đang nói linh tinh gì vậy?” Cô ta nhìn tôi, nhíu mày vẻ tập trung. Đôi mắt xám xinh đẹp hơi lờ đờ, và tôi hy vọng cô ta sẽ không ngã nhào. “Cô hẳn phải biết chứ? Ai cũng biết mà! Hai ngón tay cái của một người đàn ông sẽ cho cô biết kích cỡ “cái đó” của anh ta. Đương nhiên là cả những ngón chân cái nữa,” cô ta thận trọng nói thêm, “nhưng thường thì chúng khó đánh giá hơn vì đã bị giày che mất. Con cáo con đằng kia,” cô ta hất đầu về phía cửa tò vò, nơi Jamie vừa xuất hiện trở lại, “hai bàn tay anh ta có thể ôm trọn một quả bí xanh cỡ to. Hoặc một cái mông to, nhỉ?” Cô ta nói thêm, lại hích tôi cái nữa. “Geillis Duncan, chị... im... miệng... được không?” Tôi rít lên, mặt đỏ bừng. “Ai đó sẽ nghe thấy lời chị nói đấy!” “Ồ, không ai là...” Cô ta ngừng lại nửa chừng, nhìn chằm chằm. Jamie đã đi thẳng qua bàn chúng tôi như thể không trông thấy chúng tôi. Khuôn mặt anh tái nhợt, môi mím chặt, vẻ như đang quyết tâm làm nhiệm vụ gì khó chịu lắm. “Có chuyện gì thế nhỉ?” Geilie hỏi. “Trông anh ta giống như Arthur sau khi ăn củ cải sống vậy.” “Tôi không biết.” Tôi đây ghế lại, ngập ngừng. Jamie đang tiến về phía bàn của Colum. Tôi có nên đi theo anh không? Rõ ràng đã xảy ra chuyện gì đó. Geilie nhìn xuôi theo căn phòng, đột nhiên kéo tay áo tôi, chỉ về chỗ Jamie xuất hiện lúc nãy. Một người đàn ông đứng ngay ở cửa tò vò, cũng ngập ngừng như tôi. Quần áo anh ta lấm lem bùn đất và bụi đường; có lẽ anh ta vừa từ xa tới. Một người đưa tin. Dù tin tức đó là gì thì anh ta cũng đã truyền nó cho Jamie, và giờ đến lượt Jamie cúi người thì thầm vào tai Colum. Không, không phải là Colum. Là Dougal. Mái đầu đỏ cúi thấp giữa hai mái đầu tối sẫm, những đường nét đẹp đẽ của cả ba khuôn mặt trông giống nhau đến ngỡ ngàng trong ánh nến dần tàn lụi. Tôi nhận ra rằng trông họ giống nhau đến vậy là do cả ba người đang cùng mang vẻ mặt đau đớn, bàng hoàng. Bàn tay Geilie bấu chặt cánh tay tôi. “Tin xấu,” cô ta nói một câu thừa thãi. ••• “Hai mươi tư năm,” tôi khẽ nói. “Có vẻ là một cuộc hôn nhân lâu dài.” “Ừ, đúng vậy,” Jamie đồng ý. Một làn gió ấm áp khuấy động những nhành cây trên đầu chúng tôi, thổi mái tóc tôi tung bay, khiến những sợi tóc lòa xòa cọ vào mặt tôi nhột nhạt. “Còn dài hơn cả tuổi đời của anh nữa.” Anh đang dựa vào hàng rào của bãi giữ ngựa, cao ráo và chắc khỏe. Tôi thường quên mất anh còn rất trẻ; anh luôn có vẻ quá tự tin và giỏi giang. “Tuy nhiên,” anh nói, búng một cọng rơm vào đống bùn nhão ở bãi giữ ngựa, “anh nghĩ Dougal ở với mợ ấy không quá ba năm. Ông ấy thường ở Leoch hoặc đi đây đi đó quanh lãnh địa, làm việc cho Colum.” Vợ của Dougal, Maura, đã mất ở điền trang Beannachd của họ vì một cơn sốt bất ngờ. Dougal đã rời khỏi lâu đài từ lúc bình minh cùng với Ned Gowan và người đưa tin đêm qua để lo liệu tang ma và giải quyết vấn đề tài sản của vợ ông ta. “Vậy ra đó không phải là một cuộc hôn nhân khăng khít?” Tôi tò mò hỏi. Jamie nhún vai. “Anh nghĩ nó cũng khăng khít như hầu hết các cuộc hôn nhân khác. Mợ ấy còn bận rộn với con cái và việc trông nom nhà cửa; có lẽ mợ ấy cũng không nhớ Dougal nhiều lắm, dù mợ ấy có vẻ vui mừng mỗi khi Dougal về nhà.” “Phải rồi, anh đã sống với họ một thời gian, đúng không?” Tôi im lặng suy nghĩ. Liệu đây có phải là quan niệm của Jamie về hôn nhân không? Bình thường thì sống riêng, chỉ thi thoảng mới ở với nhau để sinh con. Tuy nhiên, từ những câu chuyện vụn vặt anh đã kể, cha mẹ anh rất gần gũi và yêu thương nhau. Như thể có một mánh lới thần bí nào đó để đọc được những ý nghĩ của tôi, anh nói: “Với gia đình anh thì khác. Cuộc hôn nhân của Dougal là một cuộc hôn nhân sắp đặt, giống như cuộc hôn nhân của Colum vậy, họ kết hôn vì đất đai và những lợi ích khác chứ không phải vì ham muốn nhau. Nhưng cha mẹ anh - ờ, họ lấy nhau vì tình yêu, trái với ý muốn của cả hai bên gia đình, vì vậy nhà anh... không hẳn là bị cắt đứt quan hệ; nhưng hầu như không giao thiệp với ai khi ở Lallybroch. Cha mẹ anh không hay đi thăm người thân hoặc đi làm việc ở bên ngoài, vì thế anh nghĩ họ gắn bó với nhau nhiều hơn những cặp vợ chồng thông thường.” Anh đặt tay lên eo lưng tôi, kéo tôi lại gần, rồi cúi đầu, lướt môi qua vành tai tôi. “Cuộc hôn nhân của chúng ta là một sự sắp đặt,” anh khẽ nói. “Tuy nhiên, anh mong... có lẽ một ngày nào đó...” Anh vụng về ngừng lời, nở nụ cười nửa miệng và xua tay như muốn gạt đi câu nói ấy. Không muốn khuyến khích anh tiếp tục, tôi mỉm cười đáp lại với vẻ bình thản nhất có thể và quay mặt về phía bãi giữ ngựa. Không cần chạm vào nhau, tôi vẫn có thể cảm nhận được anh đang ở bên cạnh tôi, bàn tay to lớn của anh nắm lấy thanh chắn trên cùng của hàng rào. Tôi cũng nắm lấy thanh chắn để ngăn mình không cầm lấy tay anh. Tôi rất muốn quay sang để an ủi, trấn an anh bằng cả cơ thể và lời nói rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi không chỉ dừng lại ở mức độ của một cuộc hôn nhân sắp đặt. Nhưng chính sự thật ấy đã ngăn tôi lại. Cảm xúc giữa hai chúng ta, anh đã nói, khi anh chạm vào em, khi em nằm bên anh. Không, nó không bình thường chút nào. Nó cũng không phải là một sự say nắng đơn thuần, như tôi đã nghĩ ban đầu. Tuy nhiên, tôi đã bị trói buộc với một người đàn ông khác bởi những lời thề, lòng chung thủy và luật pháp. Và cả tình yêu nữa. Tôi không thể, không thể nói với Jamie tình cảm tôi dành cho anh. Nói ra rồi sau đó lại bỏ đi, như thế sẽ là sự độc ác tột cùng. Tôi cũng không thể nói dối anh. ... Mời các bạn đón đọc Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 của tác giả Diana Gabaldon & Khánh Vân (dịch).
Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1
Outlander - Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 Outlander - Vòng Tròn Đá Thiêng 1 là cuốn đầu tiên trong bộ tiểu thuyết lịch sử xuyên thời gian của Diana Gabaldon. Bà đã dệt nên một câu chuyện đầy ma lực đan xen giữa lịch sử và thần thoại, nó chứa đầy những đam mê mãnh liệt và sự táo bạo. Năm 1945, sau khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Claire - một nữ y tá quân đội - vừa được trở về đoàn tụ cùng chồng là Frank Randall sau tám năm xa cách vì chiến tranh. Họ quyết định hưởng tuần trăng mật thứ hai tại vùng cao nguyên Scotland huyền bí. Một lần tình cờ, Claire dạo chơi lên ngọn đồi tiên nơi có vòng tròn đá cổ xưa và bị kéo về quá khứ tới năm 1743. Ở đó, cô bị các phe phái nghi ngờ là gián điệp, bị mắc kẹt trong những âm mưu ngấm ngầm và cuộc chiến giữa các lãnh chúa vùng cao nguyên với quân Anh. Claire bị ép buộc kết hôn với một chiến binh trẻ người Scot để có được sự bảo vệ và an toàn. Claire bị giằng xé giữa hai cuộc hôn nhân, giữa lòng chungthủy và những khao khát đam mê, giữa hai người đàn ông khác xa nhau về mọi mặt trong hai cuộc đời không thể dung hòa… *** Thoạt đầu nhìn tên của cuốn sách Outlander, được để nguyên không dịch ra tiếng Việt, cứ nghĩ cuốn sách thuộc dòng sách khoa học viễn tưởng, du hành ngoài không gian gì đó. Hóa ra không phải. Cuốn sách không mới - tác phẩm của Diana Gabaldon xuất bản lần đầu năm 1991, suốt 26 năm qua luôn là một trong những bộ tiểu thuyết lãng mạn hấp dẫn nhất của thời hiện đại, được dịch ra 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bản dịch tiếng Việt mới xuất hiện năm 2017. Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn là một trong những  bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất Trong một thời buổi hễ cứ nhìn thấy nhiều chữ là nhức đầu, cuốn sách phần nào làm người ta ngại: nó dày lắm, nặng trịch, dịch chưa hết nhưng đã tới tập 4 rồi, mỗi tập đều gần 500 trang, chữ không là chữ!   Nhưng đọc rồi, nhận ra cuốn sách cũng như một vòng tròn đá thiêng bí ẩn, người đọc mở trang đầu tiên là như đã ngã vào trong cánh cửa đá ấy, bị cuốn vào một không gian hun hút, mê đắm, dữ dội, và không muốn quay về. Outlander là một thông điệp nữ quyền ở dạng quyến rũ nhất, đàn bà nhất, thực tế trần trụi nhất, và do đó, cũng đẹp đẽ khó quên nhất.  Sau chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1945, một nữ y tá người Anh đang cùng chồng hưởng lại tuần trăng mật sau thời gian vợ chồng bị chiến tranh chia cắt, tại một vùng nông thôn cao nguyên Scotland. Một buổi bình minh trên ngọn đồi có một vòng tròn đá cổ xưa, cô được chứng kiến một nghi lễ ngợi ca mặt trời của những người đàn bà trong vùng. Ngày hôm sau, cô quay lại đó, khi chạm tay vào một phiến đá, cô bất ngờ bị hút vào quá khứ, rơi thẳng xuống thế kỷ XVIII với nghèo đói, lạc hậu, bệnh tật, chiến tranh và tình yêu. Cuộc hành trình bắt đầu, giữa hai cuộc sống là khoảng cách 200 năm, cô vẫn phải sống tiếp vì không thể quay trở về thời hiện đại. Với cuộc hôn nhân đầu tiên ở thế kỷ XX, cô là người vợ mất tích một cách bí ẩn; với thế kỷ XVIII và lãnh địa của dòng Mackenzie, cô mãi mãi là một người ngoài.  Những cuộc chinh phục của nhân loại thường được tiến hành về phía tương lai, phía những vùng đất mới, cùng với nam tính mạnh mẽ, thống trị. Trong khi cuộc du hành này được thực hiện ngược chiều kim đồng hồ, một cuộc trở về quá khứ, chuyến đi bất đắc dĩ của một người đàn bà mỏng manh. Kỳ lạ thay, cuộc trở về ấy giúp người ta hiểu rõ hơn bao giờ hết lịch sử và con người, tình yêu và thù hận, từ khởi đầu thụ động của chuyến đi, người đàn bà ngoại tộc ấy - mà xét cho cùng, người đàn bà nào chẳng là “người ngoại tộc”, đã chủ động, quyết liệt trong chọn lựa của mình, tồn tại, chữa lành, yêu và sống, tranh đấu và chiến thắng. Cô gái có tên Claire, nhưng cái tên ấy không ấn tượng bằng cái tên “Sassenach”, cũng là “Outlander”, chữ được dùng để gọi một người “ngoại tộc”. Chẳng phải không có dụng ý gì khi để cho một người ngoại tộc làm người xới lật lại lịch sử gia tộc và hơn thế nữa, đi ngược chiều phả hệ để hiểu và trải nghiệm: những kẻ ngoại tộc có con mắt quan sát và bản năng tìm hiểu để thích nghi, tồn tại. Đây là hành trình mang tính biểu tượng của một người đàn bà. Đây cũng chính là ý nghĩa sâu xa của thông điệp mang màu sắc nữ quyền ở tầm bản chất: chính người ngoại tộc ấy đã kết nối những thế hệ tổ tiên với con cháu của mình, chẳng phải thế sao? Nếu không có người đàn bà ngoại tộc ấy, những người đàn ông gieo hạt giống của mình ở đâu để có những vụ mùa kế tiếp? Sassenach có cuộc hôn nhân thứ nhất, và ở cuộc đời thứ hai này, cô có một người chồng nữa. Cô yêu cả hai. Một người đàn bà có thể yêu cả hai người đàn ông, một cách nào đó chung thủy với cả hai người, không phải chọn lựa, được không? Câu trả lời của cuốn sách này là: được. Cô đã đeo trên hai bàn tay mình hai chiếc nhẫn, chiếc nhẫn vàng từ người chồng trong cuộc hôn nhân thứ nhất, và chiếc nhẫn bạc của người chồng trong cuộc hôn nhân thứ hai. Không thể loại bỏ cái nào. Hai chiếc nhẫn, một vàng một bạc, là bí ẩn của nguồn cội sức mạnh của cô. Nó nhắc rằng phải có quá khứ, quá khứ phải diễn ra theo cách của nó, thì mới có hiện tại. Hiện tại ấy được quyết định từ trong quá khứ, và cho dẫu biết trước những đau thương, mất mát, cũng không thể tùy tiện thay đổi quá khứ để mong xếp đặt một hiện tại khác.  Claire, với khát vọng ban đầu cháy bỏng là trốn thoát khỏi thế kỷ XVIII để trở về với thế kỷ XX, trở về với cuộc đời hiện đại của cô, đã dần thay đổi: cô chọn ở lại với thế kỷ XVIII, với cuộc sống thiếu tiện nghi và lạc hậu, với sự mông muội hoang dã. Cô dùng khả năng của một nữ y tá để trị thương, để giúp đỡ mọi người, giảm thiểu những thiệt hại trong cái thất bại của tương lai mà cô biết trước. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái.  Cô ở lại vì tình yêu của mình, thứ tình yêu hoang dã, bản năng, gắn chặt với cuộc tồn sinh khó nhọc. Trách nhiệm với quá khứ, với lịch sử đã được chuyển thành ý thức cá nhân. Cô góp sức lực nhỏ bé của mình để phần nào làm cho cuộc sống của những người tốt xung quanh cô tốt hơn, thanh thản nhẹ nhàng hơn. Quyết định cuối cùng của Sassenach, một lần nữa dấn thân xuyên qua vòng tròn đá, trở lại thế kỷ XX, là một quyết định không vì cô, mà vì đứa con trong bụng. Đứa trẻ đã thay đổi ý nghĩa cuộc sinh tồn của cô, thay đổi quyết định của cô. Thiên chức làm mẹ chiến thắng. Thông điệp của tính mẫu, của nguyên lý mẹ có thể nhìn thấy ở đây. Đứa bé là món quà từ quá khứ gửi vào hiện tại, là dấu hiệu bất tử của tình yêu, kết nối những thế hệ ruột rà máu mủ khác nhau thông qua xương thịt của một người ngoại tộc. Và đứa bé là con gái. Câu chuyện về hổ phách lại là một ẩn dụ mang tính biểu tượng nữa: những giọt nhựa cây ứa ra trong veo, nước mắt của loài thông, qua hàng ngàn năm kết tinh thành hổ phách. Con chuồn chuồn nhỏ bé, mỏng manh đông cứng trong mảnh hổ phách ấy, không hiểu sao cứ gợi người ta nghĩ đến những thân phận đàn bà. Chuồn chuồn hổ phách và sự bất tử mong manh mà nó chọn cũng chính là nước mắt của người phụ nữ, gói giấc mơ của mình - được bay lượn tự do giữa trời, trong sự hy sinh đã gần như là định mệnh.  Cuốn sách nói với người ta rằng: hiện tại là quan trọng, nhưng quá khứ chưa bao giờ là thứ chỉ ngủ yên, chỉ là những dòng lịch sử sách vở vô hồn. Quan trọng hơn, cuộc sống hiện tại của mỗi người thực ra đã được quyết định bằng chính quá khứ của họ, dù có khi họ không hay biết. Con đường để mình hiểu và đến với những người khác quanh mình nằm ở bên trong mỗi một con người, ở tầm bản lai diện mục, là sự chia sẻ mạnh mẽ của những tình cảm nguyên thủy cổ xưa, mà đôi khi, những thứ màu sắc hiện đại của ngày hôm nay vô tình che lấp. Thế giới đang toàn cầu hóa. Lúc nào đó, cách nào đó, mỗi con người đều có thể là một người ngoại tộc. Những cánh cửa mở ra không ngừng. Thế giới thay đổi mỗi ngày, công nghệ vùn vụt phát triển, nhưng nỗi băn khoăn tìm hiểu về chính bản thân mình, hiểu được người thương yêu của mình, hiểu để chia sẻ và sống cùng nhau trong tình yêu dưới một mái nhà… luôn luôn là nỗi băn khoăn hiện hữu. Con người chưa bao giờ thôi tự nhìn vào nguồn cội của mình, bản chất của mình. Theo cách đó, Outlander không viết về quá khứ theo kiểu tiểu thuyết lịch sử. Outlander viết về quá khứ như một cuộc du hành viễn tưởng, lãng mạn, thú vị, gai góc. Con người hiện tại muốn thực sự hiểu về quá khứ cần phải dấn thân vào cuộc du hành ấy. Lịch sử nằm trong chính trải nghiệm của mỗi con người. Hoàng Mai - phunuonline.com.vn *** Ở nơi bờ Tây Scotland năm 1945, khi Thế chiến thứ hai kết thúc, đôi vợ chồng Frank và Claire gặp nhau sau bao năm xa cách, trao nhau những lời ân ái ngọt ngào. Nhưng 200 năm trước, chính tại nơi đây, trên ngọn đồi Craigh na Dun, những chiến binh dũng mãnh nhất đấu đá nhau trong cuộc chiến tranh giành vương quyền. Trong một lần dạo chơi quanh những vòng tròn đá thiêng cổ xưa tọa lạc trên đồi, Claire đã bị kéo từ hiện tại ngược dòng quá khứ về với Scotland thế kỉ 18. Từ một nữ y tá quân đội, giờ đây Claire trở thành kẻ ngoại tộc – Sassenach, như cái cách đầy yêu thương mà chàng chiến binh Jamie dùng để gọi cô. Chính nơi đây, thời đại này, với chút kiến thức y học về thảo dược của mình, cô đã tìm cách ngăn cản cuộc chiến đẫm máu nơi đầm lầy Culloden mà sử sách ghi chép, để bảo vệ người đàn ông của đời mình. Liệu một cô gái đến từ tương lai có thể thay đổi quá khứ? Hay chính cô là tác nhân khiến cho dòng chảy lịch sử được khơi thông? Sau 26 năm kể từ khi ra đời, Outlander luôn nằm trong top 10 bộ tiểu thuyết lãng mạn nhất mọi thời đại. Là người hiện đại, nhưng Claire lại thích nghi nhanh chóng với cuộc sống rong ruổi trên lưng ngựa. Nhưng điều quan trọng hơn, cô đã rơi vào tình yêu mãnh liệt, nồng cháy với Jamie dẫu cho trong trái tim vẫn luôn khắc khoải và day dứt về Frank. Nếu ở trong tình cảnh của Claire, bạn sẽ lựa chọn bên nào, một quá khứ bấp bênh hay hiện tại rạn vỡ? Claire có thể đeo hai chiếc nhẫn, một vàng của Frank, một bạc của Jamie. Cô cũng có thể bảo vệ cả hai, như cái cách cô đặt bàn tay trái nơi có chiếc nhẫn vàng lên che chở chiếc nhẫn bạc nơi bàn tay phải. Hay cách cô cầu xin Jamie, khiến anh chấp nhận hy sinh linh hồn mình cho sự sống của Frank. Và cách cô dùng những hiểu biết và kiến thức lịch sử của Frank để giúp đỡ và giữ mạng sống cho Jamie. Thế nhưng với ngăn cách thời gian và không gian, cô không thể nào có được cả hai người đàn ông, dẫu cho họ đều yêu cô với một trái tim chân thành và thuần khiết. Như một quy luật tất yếu của tự nhiên, khi ánh vàng rực rỡ mặt trời lùi về phía bờ tây, ánh bạc dịu dàng và huyền bí mặt trăng sẽ chiếm ngự bóng tối. Và ngược lại. Cũng như con người ta không thể khiến bản thân mình vừa có thể sống với hiện tại rạn vỡ nhưng thực tế, lại vừa có thể sống ở quá khứ bấp bênh nhưng tươi đẹp. Định mệnh trớ trêu bắt buộc Claire phải lựa chọn. Và dù lựa chọn thế nào, đau đớn vẫn là một kết quả chắc chắn. Bóng hình của người đàn ông còn lại vẫn mãi khắc ghi nơi tận cùng linh hồn, thỉnh thoảng lại cứa vào lòng cô những vết cắt khiến trái tim rỉ máu. Nếu ở trong tình cảnh của Claire, bạn sẽ lựa chọn bên nào, một quá khứ bấp bênh hay hiện tại rạn vỡ? Có một truyền thuyết kể rằng, hổ phách được hình thành nên từ nước mắt của mẹ và chị gái của Phaethon - con trai thần Mặt trời - khi Phaethon bị thần Zeus đánh chết. Còn chuồn chuồn, loài côn trùng nhỏ bé với đôi cánh mỏng manh yếu ớt nhưng lại có sức hút diệu kì, ẩn chứa nguồn sức mạnh phi thường để phá kén, chuyển cuộc sống trong bọc kén thành cuộc sống tự do nơi bầu trời cao rộng- hệt như một sự thoát khỏi quá khứ và hướng đến tương lai. Sống trong tình yêu của Jamie, Claire như con chuồn chuồn nhỏ đang tung cánh giữa thiên nhiên tươi đẹp và trời xanh rộng lớn. Nhưng khi cô buộc phải bước qua những vòng tròn đá lần nữa để trở về thực tại, những giọt nước mắt thấm đẫm bờ mi và khuôn mặt cô, như những giọt hổ phách kia. Con chuồn chuồn Claire vẫn mãi bị giữ chặt và giam cầm trong chính miếng hổ phách đã được kết tinh ấy, mãi chẳng thể nào bay xa được. Claire đã lựa chọn. Tôi cũng đã có quyết định cho riêng mình. Vậy, sao bạn không thử lựa chọn? Giữa Frank với Jamie, giữa quá khứ và hiện tại. Outlander là bộ tiểu thuyết về du hành xuyên thời gian lãng mạn bậc nhất do Goodreads bình chọn. Kể từ lần đầu xuất bản năm 1991, 8 tập truyện Outlander của tác giả Diana Gabaldon đã dịch ra hơn 40 ngôn ngữ với hơn 25 triệu bản in. Bộ phim chuyển thể từ tác phẩm cũng đã được kênh truyền hình Starz (Mỹ) phát sóng từ năm 2014. Chỉ trong vòng 1 năm sau khi phim ra mắt, ước tính doanh thu sách đã thu về 6 triệu USD - gấp 2 lần con số mà quyển thứ 8 của Outlander bán được từ năm 2010. Tú Văn - vietnamnet.vn Mời các bạn đón đọc Vòng Tròn Đá Thiêng - Tập 1 của tác giả Diana Gabaldon & Khánh Vân (dịch).