Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vị Tư Lệnh Mong Muốn Vĩnh Hằng - Kresley Cole

Nhân vật Nikolai Wroth trong tựa tiểu thuyết full này là vị tướng quân ma cà rồng tàn nhẫn, sẽ không để thứ gì ngáng con đường tìm kiếm Cô Dâu của anh, người phụ nữ duy nhất có thể 'trao đổi máu' cùng anh, khiến trái tim anh đập, cũng đồng thời khiến sức mạnh tràn ngập thân thể anh. Chỉ lạnh lùng hứng thú với sức mạnh mà Cô Dâu ấy có thể mang đến, anh khó thể tin khi Myst Kẻ Được Khao Khát đánh thức cơ thể - và linh hồn của anh. Nổi danh trên khắp thể giới là con Valkyrie xinh đẹp nhất, Myst đã cống hiến cuộc đời mình để bảo vệ một món nữ trang ma thuật, và để chiến đấu chống lại bọn ma cà rồng. Với Wroth, cô thấy được cơ hội tuyệt vời để hành hạ kẻ thù không đội trời chung của mình - khi mỗi nhịp đập của trái tim hắn đi kèm với khát khao tình dục chỉ cô mới có thể thỏa mãn. Từ chối hắn, cô bỏ trốn, gắng sức quên đi nụ hôn cháy bỏng, đầy tính chiếm hữu ấy của hắn. Cô trốn tránh được anh trong năm năm, nhưng cuối cùng anh đã săn cô đến tận cùng trái đất rồi đoạt mất món nữ trang ma thuật của cô, món nữ trang trao tất cả quyết định của cô về tay anh. Giờ khi mà cô đã sẵn ở đấy trước mặt anh, anh định để cô tự mình trải nghiệm qua khát khao tình dục đau đớn không có điểm dừng cô đã khiến anh chịu dụng nửa thập kỉ qua. Thế nhưng khi Nikolai nhận ra điều anh muốn từ Myst còn hơn cả thù hận rồi thả tự do cho cô, liệu cô có quay trở về bên anh? *** Tất cả mọi sinh vật hay vật thể được suy nghĩ là trong truyền thuyết … không phải như thế. Họ tất cả đều tồn tại song song với loài người và tận hưởng món quà của sự bất tử.Có đến hàng trăm các loài khác nhau: từ Ma cà rồng đến Lykae, từ Furies đến Người biến hình, từ loài Yêu tinh đến loài Valkyrie. Những người bất tử đó gọi thế giới của họ là The Lore. Bạn đã có thể có một cuộc va chạm với một trong những loài Lore rồi. Vị tỉ phú kì quặc với một sự thu hút lôi cuốn – và một sự dị ứng với ánh nắng mặt trời. Một người qua đường trông nhẹ hều với vẻ đẹp không thể có – người mà móng tay nhìn giống như là vuốt hơn. Một người Cao Nguyên với âm giọng Scotland thế kỉ mười bảy và một lực hút thú vật – người mà không thể nào được vẽ lại trong một đêm trăng tròn. Họ bước đi trong chúng ta, nhưng họ lại đấu tranh trong nội bộ mình. Mỗi phần tử có sức mạnh, điểm yếu, và những định kiến nghìn năm củ nó đối với những phần tử khác. Cứ mỗi năm trăm năm, cuộc Accession, một cuộc chiến cho sự đứng đầu, nổi lên. Thời gian đó là bây giờ … Bộ Immortals After Dark gồm có: Book 1: The Warlord Wants Forever (Vị tư lệnh mong muốn sự vĩnh hằng) Book 2: A Hunger Like No Other (Cơn khao khát không như bất cứ gì) Book 3: No Rest For The Wicked (Không có sự yên nghỉ cho kẻ đen tối) Book 4: Wicked Deeds On A Winter’s Night (Những việc đen tối trong đêm đông) Book 5: Dark Needs At Night Edge (Những nhu cầu tối tăm tại một góc bóng đêm) Book 6: Dark Desire After Dusk (Nhưng khao khát đen tối sau hoàng hôn) Book 7: Kiss Of A Demon King (Nụ hôn của một vị vua demon) Book 8: Untouchable (Không thể chạm được) Book 9: Pleasure Of A Dark Prince (Sự thỏa mãn của một vị hoàng tử đêm tối) Book 10: Demon From The Dark (Quỷ dữ từ đêm tối) Book 11: Dreams Of A Dark Warrior (Giấc mơ của một chiến binh đêm tối) Book 12: Lothaire (published day: Jan 10, 2012) *** Nguồn gốc loài Valkyrie Giữa làn tuyết đẫm máu, một chiến binh đơn độc khuỵu gối, cơ thể yếu đuối run rẩy. Tuy nhiên, cánh tay nàng vẫn giương kiếm trước binh đoàn gần đến. Chiếc áo giáp bằng sắt móp méo nuốt trọn thân hình bé nhỏ của nàng. Gió gào rú từng cơn, khiến mái tóc nàng tung bay, nhưng nàng vẫn nghe được tiếng“tưng” khi một tên nhả dây cung. Nàng cất tiếng thét trong cơn thịnh nộ; mũi tên đâm thủng chính giữa áo giáp nàng, lực đánh hất người nàng ra sau. Mũi tên ấy đã đi xuyên qua lớp kim loại, chạm hờ được đến xương ức của nàng, đủ để mỗi nhịp tim là một lần trái tim nàng chạm đến đầu nhọn mũi tên. Nhịp tim đập dũng cảm của chính nàng đang khiến nàng chết dần chết mòn. Nhưng tiếng hét của nàng đã đánh thức hai vị thần đang chìm trong giấc ngủ cùng nhau suốt một thập kỉ lạnh lẽo khắc nghiệt gần đấy. Âm thanh ấy đã khuấy động họ, khiến họ nhìn xuống người thiếu nữ, thấy ngọn lửa can đảm rực rỡ cháy trong đôi mắt nàng. Cả đời nàng là quãng thời gian tràn đầy lòng dũng cảm và quyết tâm, nhưng ánh sáng ấy mờ dần khi cái chết cận kề, và họ thương tiếc nó. Freya (*), vị nữ thần, thì thầm rằng họ nên giữ sự can đảm ấy bất diệt bởi vì nó rất quý giá. Woden (*) đồng ý, và cùng nhau họ mang tia sét xuyên qua thinh không để đánh vào người trinh nữ đang dần chết. (*) Wóden, Freya: hai vị thần cai trị tất cả các thần trong thần thoại Bắc Âu. Tia sáng ấy dữ dội, rất lâu sau mới tan đi và làm cho cả binh đoàn kia run sợ. Khi bóng tối lại phủ lên một lần nữa, nàng trinh nữ tỉnh dậy không thương tích trong một nơi lạ lẫm. Thân thể nàng lành lặn, nhân kiếp hữu hạn của nàng không thay đổi. Nhưng không lâu sau, nàng sẽ hạ sinh một đứa con gái bất tử – người con gái mà sở hữu sự dũng cảm của nàng, trí thông minh ranh mãnh của Woden với bản tính vui vẻ với vẻ đẹp yêu tinh của Freya. Dù người con này hấp thụ năng lượng của tia sét để làm nguồn dinh dưỡng, cô cũng thừa kế tính kiêu ngạo từ Woden và niềm đam mê học hỏi từ Freya – những điều chỉ khiến họ cưng chiều nàng hơn. Hai vị thần thấy thỏa mãn còn người trinh nữ yêu quý đứa con đầu lòng của mình. Thế nhưng khi một thời đại lại thoăn thoắt trôi qua, các vị thần nghe thấy tiếng kêu can đảm của một người phụ nữ khác khi nàng chết trong cuộc chiến chống lại kẻ thù đen tối. Nàng không phải thuộc về loài người, mà nàng là Furie, một loài trong The Lore – một tầng lớp xã hội gồm các giống loài thông minh đã thuyết phục con người rằng họ chỉ là tồn tại trong trí tưởng tượng. Giây phút sơ hỡ đã khiến sinh vật ấy trả giá – trong đêm tối lạnh giá, hơi thở nàng đã không còn hiện hữu. “Sảnh của chúng ta rất rộng, tuy nhiên gia đình chúng ta lại nhỏ,” Freya nói, mắt nàng lấp lánh, ánh sáng rực rỡ đến mức một thủy thủ ở phương Bắc bị chói lòa bởi các vì sao trong phút chốc mà suýt nữa lạc lối. Woden nghiêm nghị nắm lấy tay nàng, không nỡ từ chối lời đề nghị ấy. Những kẻ xung quanh con Furie đang chết dần ấy lại nhìn thấy tia sét xé toạc bầu trời một lần nữa. Và nó sẽ giáng xuống lần nữa và nữa trong những năm sau đó, tiếp tục đến khi những nữ chiến binh – dù là con người, demon, tiên cá, người biến hình hay các sinh vật dũng cảm khác trong The Lore – biết cầu nguyện chúng đến khi họ chết. Từ đó, giống loài Valkyrie ra đời. ... Mời các bạn đón đọc Vị Tư Lệnh Mong Muốn Vĩnh Hằng của tác giả Kresley Cole.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trong Gia Đình - Hector Malot
Trong Gia Đình là một câu chuyện đẹp dành cho những em thiếu nhi và những ai đã trưởng thành. Đến với Trong Gia Đình chúng ta sẽ thấy được rằng nghịch cảnh có khó khăn đến mấy thì chỉ cần chúng ta có niềm lạc quan và biết lao động chăm chỉ thì cũng có thể vượt qua. Cách hành văn của Hector Malot có đôi chút hóm hỉnh, trong sáng, cách xây dựng nhân vật có cá tính rất riêng đã mang đến cho Trong Gia Đình một hơi thở độc đáo và tuyệt vời. Cùng với Không Gia Đình, Trong Gia Đình là một tròng hai tác phẩm nổi triếng nhất cuat Hector Malot và đã từng đoạt giải thưởng của viện hàng lâm văn học Pháp. *** Hector Malot (20 tháng 5, 1830 – 17 tháng 7, 1907) là nhà văn nổi tiếng người Pháp, các tiểu thuyết của ông được nhiều thế hệ độc giả trên thế giới yêu mến. Ông sinh năm 1830 tại La Bouille, miền Bắc nước Pháp. Tác phẩm đầu tay Những người tình (Les Amants) của ông xuất bản năm 1859 đã gây được tiếng vang lớn. Trong sự nghiệp của mình ông đă viết trên 70 tác phẩm. Các tác phẩm Romain Kalbris (1869), Trong gia đình (En Famille 1893) và đặc biệt là Không gia đình (Sans Famille 1878) được các độc giả nhỏ tuổi yêu thích. Ông mất năm 1907 tại Fontenay sous Bois.  *** - Phabry về đó! Ông Vunphran nói bằng một giọng khác thường, trong đó có sự lo ngại chen lẫn với sung sướng nữa. Đúng thế! Phabry đi nhanh vào trong buồng giấy. Ông ấy cũng thế, hình như đang ở trong một trạng thái lạ lùng! Ông ta đưa mắt nhìn Perin trước làm em bối rối, mà chẳng hiểu vì sao. - Xe hỏng máy nên tôi về chậm. – Ông nói. - Anh về, đó mới là cái chính! - Tôi đã đánh điện báo cho ông. - Bức điện của anh ngắn và lờ mờ quá. Khó đem hy vọng lại cho tôi. Cái tôi cần là những khẳng định chắc nịch kia! - Tôi có được phép báo cáo trước mặt cô? - Được chứ, nếu những tin ấy vẫn như anh đã nói. Đây là lần đầu, Phabry báo cáo một nhiệm vụ đặc biệt, mà lại hỏi ông chủ, có thể làm việc ấy khi có mặt Perin không? Em đang bối rối, thì câu chuyện giữa ông Vunphran và Phabry, qua giọng nói cảm động, dáng điệu khác thường của họ chỉ làm tăng thêm nỗi lo lắng cho em. - Như lời dự đoán của vị thám tử của ông, - Phabry nói, và không nhìn Perin. – Cái con người nhiều lần không để lại dấu vết, đã đến Paris. Tại đây, trong lúc đọc cái bản khai tử, người ta đã tìm thấy vào tháng sáu năm ngoái, một bản mang tên Mari Đôrétsany, quả phụ của Étmông Vunphran Panhđavoan. Đây là một bản sao. ... Mời các bạn đón đọc Trong Gia Đình của tác giả Hector Malot.
Một Đứa Con Đã Khôn Ngoan - Nguyễn Công Hoan
Trong truyện Một đứa con đã khôn ngoan, nhà văn giáo dục trẻ em đức tính yêu lấy tiếng Việt. "Ta có tiếng nói riêng. Bổn phận ta là phải giữ lấy tiếng ta, vì tiếng ta tức là tinh thần nước ta". Cậu bé Chỉ trong truyện này chỉ mê tiếng Pháp và cho rằng tiếng Việt không đủ để diễn tả hết mọi suy nghĩ và sự vật. Ngay cả lúc viết thư cho bạn, cậu cũng phải dùng thêm tiếng Pháp. Cậu (bố) của cậu bé Chỉ không đồng ý và phân tích cho cậu rằng: "Con thấy thiếu chứ tiếng ta không thiếu. Nếu thiếu chăng, thì nó thiếu ở ý mới, vật mới xưa kia không có. Còn những ý cũ vật cũ thì tiếng nước ta vẫn đủ như thường. Xem ngay như về gia đình, ta có biết bao nhiêu tiếng: kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, chắt, chút, bác, cậu, mợ, dì, cô, thím, âu yếm, thân, hiếu, đễ, từ và biết bao nhiêu tiếng nữa. Lại nói như cách mang đồ đạc, ta có đội, gánh, xách, vác, cầm, khênh, ôm, cõng, bẽ, tải, cắp, khuân, bế, mỗi tiếng một nghĩa riêng" và "Cậu dám đánh cược với ông cử, ông nghè Tây dùng tiếng Pháp mà dịch nổi tiếng "lôi thôi" của ta đấy". Dù được phân tích thấu đáo như thế nhưng cậu bé Chỉ vẫn không tin. Và cậu chỉ thật sự tin khi mợ (mẹ) của cậu bị ốm và nhờ cậu đọc giùm tiểu thuyết tiếng Việt. Cậu bất ngờ là không ngờ nó lại hay đến thế! "Truyện Tây cũng đến thế là cùng". Thật bùi ngùi khi đọc lại những lời của người mẹ nói với con: "Mợ mua sách Quốc văn, được sách hay đã đành, dù phải sách dở mợ cũng vui lòng. Mình không có tài làm cho Quốc văn hay đẹp hơn lên, thì phải có chút khuyến khích những người có công quý hóa ấy vậy". *** Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là tỉnh Hải Hưng, trong một gia đình Nho học. Chính nơi sinh cũng là quê hương ông. Ông bắt đầu viết văn rất sớm, ngay từ khi còn đương học ở trường Bưởi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông là Kiếp hồng nhan xuất hiện năm 1923, khi ông tròn hai mươi tuổi. Từ đó ông viết nhiều truyện ngắn và truyện dài đăng trên các báo đương thời. Năm 1932 ông bắt đầu được bạn đọc chú ý khi cuốn truyện dài Những cảnh khốn nạn ra đời và nổi tiếng sau khi ra tập Kép Tư Bền (1935). Ông viết văn vừa dạy học cho đến Cách mạng tháng Tám. Do tham gia hoạt động trong phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học rồi Đảng xã hội Pháp, và bắt liên lạc được với những người cộng sản Đông Dương, ông luôn luôn bị Sở mật thám theo dõi. Hai lần ông bị bắt giữ rồi lại được thả vì không đủ chứng cớ kết tội. Lần cuối cùng, ông bị Nhật bắt giam cho đến ngày khởi nghĩa tháng Tám. *** Một buổi sáng, Tâm vừa ngủ dậy, chợt có hai người bịt mặt, lại gần Tâm. Một người giơ lưỡi dao sáng quắc, nói: — Hễ nói, ta đâm chết. Tâm sợ hết hồn, không dám nhúc nhích. Tức thì một người lại ôm lấy Tâm, lấy khăn buộc ngang mắt. Thế là Tâm không trông thấy gì nữa. Tâm hiểu biết rằng lần này ông Bẩy sai đem Tâm đi một nơi khác, mà không muốn cho Tâm biết đường. Tâm im lặng, thì thấy một người lấy cái gậy, gõ vào đầu Tâm, nghiến răng nói: — Bé mà bé hạt tiêu, liệu hồn! Đau nhưng Tâm không dám kêu. Một lát, Tâm ra dáng hiền lành, hỏi: — Các ông định đưa cháu đi đâu? Khốn nạn, Tâm chẳng được một câu trả lời; trái lại, một cái tay có năm ngón như năm quả chuối ngự đã tát mạnh vào má Tâm, khiến Tâm điếng người đi. Một người đắc chí, cười khanh khách, nói: — Rồi cháu đi đâu, cháu khắc biết. Cháu định đưa các ông đi chỗ nào, thì các ông cũng đưa cháu đi chỗ ấy. Tâm vơ vẩn nghĩ mãi câu ấy mà không hiểu. Nào Tâm có định đưa đảng Rổ Bẫy đi đâu đâu. Một người nói: — Kẻo rồi lại hiện làm ma về kêu oán nhé. Tâm giật nẩy mình. Rồi họ nói chuyện cùng nhau: — Tôi đã bảo cứ bẻ cổ nó đi có hơn là dìm xuống sông không? Tâm hết hồn. Đích là họ giết Tâm rồi. Tâm sực nhớ lại ngày trước ông Bẩy có giao hẹn với Tâm. Thì ra nay ông định cho Tâm chết, chứ không phải ông chỉ cho Tâm đi chỗ khác mà thôi. Bỗng Tâm rớt nước mắt, thút thít khóc, thì thình lình một cái bạt tai thật mạnh làm Tâm ngã dúi dụi. Nhưng may quá, Tâm đã nghe rõ ràng tiếng ông Bẩy quát: — Không được thế. Rồi ông Bẩy lại, nắm lấy tay Tâm, dắt đến ghế ngựa, bảo Tâm ngồi đó, rồi hỏi: — Con có oán gì thày không? Tâm không đáp, vì cho là đáp cũng vô ích. — Bất đắc dĩ thày mới xử con tàn nhẫn, con đừng oán thày nhé. Tâm cũng chẳng đáp, bởi vì Tâm cho rằng đến nông nỗi này thì còn mong gì sống nữa. Tâm có mỗi một mình, lại là trẻ con. Đảng Rổ Bẫy làm gì chẳng nổi. Thôi đành vậy, biết làm thế nào? Một lát, Tâm ngửi thấy mùi đồ ăn thơm ngào ngạt. Rồi dễ đến năm bảy người kéo nhau tới. Họ mời nhau ăn uống no say. ... Mời các bạn đón đọc Một Đứa Con Đã Khôn Ngoan của tác giả Nguyễn Công Hoan.
Địa Ngục hay Thiên Đường - Mark Twain
Gia đình bà góa Margaret, đứa con gái Helen, cùng hai người dì Hester và Hannah Gray luôn tôn sùng sự trung thực. Dù chỉ một lần nói dối rồi thú nhận ngay lập tức của Helen cũng đủ khiến hai người dì thấy hổ thẹn. Nhưng để Margaret khỏi chịu thêm đau khổ vì bệnh tật đau đớn, hai người dì đã nói dối Margaret về tình trạng sức khỏe của con gái bà - Helen. Và sau sự ra đi của hai mẹ con Margaret, một thiên thần đã xuất hiện hỏi tội hai người dì. Thiên đường hay địa ngục đang chờ đợi cả hai? *** Samuel Langhorne Clemens, thường được biết tới với bút danh Mark Twain (30/11/1835 – 21/4/1910) được vinh danh là nhà văn khôi hài vĩ đại nhất nước Mĩ – từ lời khuyên bỗ bã dành cho các bé gái, lập trường quái gở về sự sáng tạo và kiệt tác của ông xoay quanh vấn đề thủ dâm. Nhưng đằng sau sự hài hước đầy quyến rũ ấy là sự chiêm nghiệm sâu sắc về tinh thần con người cùng với những rối rắm của nó. Trong The Autobiography of Mark Twain: Volume 1 (tạm dịch: Cuốn tự truyện của Mark Twain: tập 1) (public library) – nơi Twain bàn về sự tương phản, kiềm hãm lẫn nhau của hai khía cạnh đạo đức và trí tuệ – ta bắt gặp câu chuyện cảm động về cách mà mẹ ông đã dạy ông về tầm quan trọng của lòng vị tha. Nếu bạn chưa từng đọc The Autobiography of Mark Twain (tạm dịch: Cuốn tự chuyện của Mark Twain), thì xin hãy cân nhắc – Twain đã dành nhiều thập kỷ để viết nó, nhưng tác phẩm chưa bao giờ được hoàn tất và ông đã cấm con cháu của mình xuất bản bản thảo cho đến 100 năm sau ngày ông mất. Một thế kỉ chờ đợi cũng đáng lắm cho một tác phẩm như vây. *** N ửa đêm, hai bà lão còn ngồi bên nhau, than khóc thì họ tưởng chừng trông thấy một thiên thần hiện ra giữa vầng hào quang chói loà. Thiên thần bảo hai bà: — Những kẻ nói dối sẽ bị đày xuống hoả ngục đời đời. Hai người hãy hối cải đi! Hai bà lão quỳ xuống dưới chân thiên thần và cúi đầu, tỏ lòng tôn kính. Nhưng lưỡi của hai bà cứng lại nên họ đành ngậm câm. — Nói đi, - thiên thần bảo, - nói lên để cho ta có thể mang lời giải đáp ra trước toà án của Thiên Chúa và mang lại cho hai người phán quyết tối hậu. Hai bà vẫn quỳ, hai mái đầu bạc vẫn cúi rập xuống, một người nói — Tội chúng tôi lớn lắm, và chúng tôi rất nhục nhã, tủi hổ. Chỉ có một sự ăn năn, hối cải triệt để mới cứu rỗi được chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ khốn khổ đã biết rõ sự yếu đuối của loài người là vô hạn và chúng tôi biết nếu chúng tôi còn bị đẩy vào những tình thế nghiệt ngã thì chúng tôi cũng sẽ phạm tội như trước. Những người cương nghị có thể chống chọi và được cứu rỗi, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ sa ngã và đánh mất linh hồn. Hai bà lão ngẩng đầu lên để van xin. Nhưng thiên thần đã biến mất. Trong lúc họ ngạc nhiên và than khóc, thiên thần trở lại và cúi xuống hai bà, nói nhỏ phán quyết. Mời các bạn đón đọc Địa Ngục hay Thiên Đường của tác giả Mark Twain.
Giữa Lòng Tăm Tối
Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Joseph Conrad (1857 - 1924) là một trong những tác gia vĩ đại nhất của nền văn học Anh quốc. Ông là bậc thầy của nghệ thuật tạo tổng thể văn xuôi, phong cách tự sự, xây dựng nhân vật và mô tả tâm lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều cây bút khác sau này như TS Eliot, F. Scott Fitzgerald, Ernest Hemingway hay George Orwell. Thế nhưng tác giả của những áng văn đầy chất thơ Shakespeare này lại là một người gốc Ba Lan tới định cư tại xứ sở sương mù, và đến tận năm hai mươi tuổi mới nói trôi chảy tiếng Anh. Là người ngoại quốc, từng trải qua những năm tháng lênh đênh trên những con tàu thương gia của Anh và Pháp, Conrad đã truyền tải được xúc cảm của những miền đất khác vào nền văn học Anh, phản ánh một thế giới hoàn toàn bị thống trị bởi người châu Âu. Giữa lòng tăm tối là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Joseph Conrad, là kiệt tác văn học mà giới mộ điệu văn chương đều đã quen thuộc. Cuốn tiểu thuyết bao trọn câu chuyện phiêu lưu hải hồ của Marlow dựa trên hành trình có thật của chính tác giả vào năm 1890. Là người của biển cả, Marlow nghe theo tiếng sóng vẫy gọi, khao khát đi tới những miền đất chưa định danh trên địa đồ - “những khoảng trống của niềm hân hoan”, “một vạt trắng cho giấc mơ huy hoàng”, dấn thân vào “vùng tăm tối vô phương thấu hiểu”, cùng với tính hiếu kỳ thản nhiên của một trí óc tế nhị và trạng thái điềm tĩnh của một con tim sắt đá. Trên một con tàu hơi nước vá víu xập xệ thiếu thốn đủ đường, cùng thủy thủ đoàn là mấy tay da đen của bộ tộc ăn thịt người lúc nào cũng bốc mùi thịt hà mã thiu, Marlow ngược dòng con sông Congo hùng vĩ, bí hiểm mà mê hoặc để hoàn thành một nhiệm vụ tưởng chừng như bất khả thi. Ông phải đi cứu Kurtz - người được ca tụng khắp nơi là “thiên tài toàn năng”, kiếm được nhiều ngà voi nhất Công ty, được cả dân da đen yêu kính hết mực và đang ốm thập tử nhất sinh ở vùng thượng nguồn - về với văn minh, trước khi gã lìa đời. Sau bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy của chốn rừng thiêng nước độc, Marlow tới được nơi, gặp được người, nhưng chỉ trở về với một tập tài liệu và lời tuyệt mệnh: “Nỗi kinh hoàng! Nỗi kinh hoàng!” Miền hoang dã Phi châu tạo ra bao nhiêu trở ngại cho con tàu của Marlow thì Giữa lòng tăm tối cũng gây ra bấy nhiêu sóng gió trong giới văn chương thậm chí cả giới phân tâm học, hoạt động nhân quyền hay nghiên cứu châu Phi cũng nhảy vào cuộc. Người ta bàn ra tán vào, khẩu chiến rồi cả bút chiến với nhau về cách hành văn của tác giả, cấu trúc, ý nghĩa của tác phẩm và vô vàn những thứ khác. Một trong những chủ đề được tranh cãi quyết liệt nhất chính là vấn đề phân biệt chủng tộc. Chinua Achebe - nhà văn, nhà thơ người Nigeria từng chỉ trích tác phẩm này là “phân biệt chủng tộc một cách khủng khiếp” với những hình ảnh miêu tả người da đen như những kẻ mọi rợ ngu đần, như những con vật chịu đòn roi. Những tình cảnh đáng thương, những vụ tra tấn kinh hoàng đều được kể lại bằng chất giọng lạnh lùng, vô cảm. Thế nhưng những lập luận khác lại cho rằng tại thời điểm Conrad viết cuốn tiểu thuyết này, khái niệm “phân biệt chủng tộc” vẫn chưa thành hình, quan niệm về khác biệt chủng tộc vẫn còn in đậm. Đó là thời người da đen bị trưng bày như thú lạ tại những nước đế quốc, và bị đối xử như súc vật, nô lệ tại những vùng thuộc địa. Vì thế, không thể trách cứ Conrad được. Tuy vậy, chính nhà văn cũng từng khẳng định rằng Giữa lòng tăm tối ngầm ý chỉ ra “tội ác của sự kém hiệu quả và ích kỷ thuần túy khi khai hóa văn minh ở châu Phi”. Thật vậy, hãy đọc những dòng này trong truyện: “Tôi ngờ rằng với họ cai trị chỉ đơn thuần là bóp nghẹt, không hơn. Họ là kẻ chinh phục, mà chinh phục thì chỉ cần vũ lực - vốn chả có gì đáng huênh hoang, vì sức mạnh của anh chỉ là ngẫu nhiên phát sinh từ cái yếu của kẻ khác. Họ vơ vét được bao nhiêu hay bấy nhiêu, vơ vét để mà vơ vét. Đó chẳng qua là cưỡng đoạt bằng bạo lực, sát nhân có tình tiết tăng nặng trên diện rộng...” Như thế, Giữa lòng tăm tối, ở một chừng mực nào đó, có thể coi là một bản cáo trạng về lòng tham, thói ưa hủy diệt và quyền lực chuyên chế của chủ nghĩa thực dân, “một bài phân tích về sự suy nhụt nhuệ khí của người da trắng, khi anh ra thoát khỏi vòng kiềm tỏa của châu Âu, bám rễ ở miền nhiệt đới với vũ khí trang bị đến tận chân răng, để thu lợi từ tầng lớp bị trị”. Và con sông dẫn tới “trái tim của một vùng tăm tối khôn cùng” không phải là con sông Congo cuộn xoáy ở lục địa Đen mà là con sông Thames êm đềm, dưới bầu trời hôn ám của “đế chế nơi mặt trời không bao giờ lặn”. Khép lại những tranh cãi, Giữa lòng tăm tối vẫn luôn và sẽ mãi là tuyệt phẩm văn chương đáng đọc của mọi thời đại. Bằng ngôn từ mơ hồ mà dứt khoát, huyền bí mà hữu hình, Joseph Conrad đã viết nên một áng văn đậm chất thơ, hấp dẫn, ám ảnh và đầy tính biểu tượng - một kiệt tác của của nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy, của phiêu lưu, của thiên nhiên hoang dại, hùng vĩ, và ảo tưởng của cả thời đại. *** Nellie, chiếc thuyền hai buồm, buông neo không một tiếng buồm lật phật, lặng lẽ nghỉ ngơi. Nước đã xuống, gió cơ hồ đã lặng; được buộc dưới sông, nó chỉ còn một việc là đậu đó đợi triều lên. Cửa sông Thames trải dài trước mắt chúng tôi, như khởi đầu của một thủy lộ dài bất tận. Ngoài khơi xa biển và trời liền thành một tấm áo không thấy đường may, và trong không gian lung linh này, những cánh buồm rám nắng vẫn dập dờn trên ngọn thủy triều như đứng yên thành từng cụm vải bạt đỏ chóp nhọn, lấp lánh ánh vécni từ những cột buồm. Sương lan trên những bãi bồi phẳng lì chạy dài tít tắp về phía biển. Bầu trời trên Gravesend[1] tăm tối, còn phía xa dường như vẫn ngưng tụ thành một quầng u ám thảm sầu, âm trầm bất động trùm lên đô thành lớn nhất và vĩ đại nhất trên trái đất. Tay Giám đốc Công ty là thuyền trưởng và chủ nhà của chúng tôi. Bốn người bọn tôi[2] trìu mến nhìn bóng lưng gã đứng trên mũi thuyền, nhìn về phía biển. Cả sông không có hình ảnh nào đại dương bằng nửa gã. Nhìn gã như một hoa tiêu, niềm tin của người đi biển được nhân cách hóa. Khó mà nhận ra, nghề của gã không phải ngoài kia, nơi giang khẩu lung linh, mà ở sau lưng, giữa vùng âm trầm u ám nọ. Giữa chúng tôi, như đã có lần tôi từng nói[3], có sự gắn bó của biển khơi. Ngoài việc neo đậu lòng nhau sau những quãng dài xa cách, nó còn giúp chúng tôi chịu đựng được những huyên thuyên, thậm chí là định kiến, của nhau. Tay Luật sư - loại bạn già chơi rất được - bởi tuổi cao đức trọng nhất hội, sở hữu cái đệm duy nhất trên boong, và nằm trên tấm thảm duy nhất. Tay Kế toán ôm theo hộp domino và đang lẩn mẩn xây nhà với những mảnh ngà. Marlow ngồi xếp bằng ở đuôi tàu, lưng dựa vào cột buồm lái. Má hóp, da vàng, lưng thẳng, dung mạo khắc khổ, đôi tay buông xuôi, lòng bàn tay ngửa ra trước, gã nhìn như một bức ngẫu tượng. Tay giám đốc, yên tâm là neo đã chắc, xuống đuôi tàu nhập bọn với chúng tôi. Cả bọn uể oải trò chuyện đôi lời. Rồi boong tàu chìm trong im lặng. Bởi lẽ gì đó, chúng tôi không bắt đầu ván domino ấy. Chúng tôi thấy trầm tư, chẳng có hứng làm gì ngoài tĩnh tâm quan sát. Ngày tàn dần trong cái bình lặng của ánh quang huy thanh tĩnh và tú lệ. Nước tỏa sáng một cách bình yên; vòm trời, không một gợn mây, như một khoảng mênh mông ôn nhuận ngập tràn thứ ánh sáng vô nhiễm; màn sương trên đầm lầy miền Essex[4] giống một tấm sa mỏng phát quang, rủ xuống từ những triền cao cây phủ trong nội địa, buông từng lớp trong mờ lên những bãi bồi. Chỉ riêng vùng ảm đạm phía tầy, vần vũ trên thượng lưu, là mỗi lúc một thêm u ám, như thể phẫn nộ trước sự lấn tới của mặt trời. Và cuối cùng, trong một đường lặn hình cung không thể cảm nhận được, mặt trời chìm dần, và từ màu trắng rực đổi sang sắc đỏ đục không phát quang và tỏa nhiệt, như thể sắp đột ngột tắt lịm, bị hạ sát khi chạm phải quầng u ám đang vần vũ trên một vùng người. Lập tức mặt nước bắt đầu thay đổi, và vẻ bình lặng kia bớt xán lạn nhưng lại nồng đậm hơn. Con sông lâu đời an tĩnh nghỉ ngơi giữa dòng nước mênh mang lúc ngày tàn, sau bao thuở phục vụ đắc lực chủng tộc định cư hai bên bờ, trải rộng trong vẻ tôn nghiêm bình đạm của một thủy lộ dẫn đến những chốn tận cùng trái đất. Bọn tôi quan sát dòng chảy khả kính này, không phải dưới hồng quang rực rỡ của một ngày ngắn ngủi một đến rồi đi không trở lại, mà trong ánh sáng uy nghi của ký ức trường tồn. Và quả thực, với kẻ từng, như người ta vẫn nói, “đi theo tiếng gọi biển khơi” với niềm đam mê và sùng kính, không gì dễ dàng hơn việc triệu hoán những anh linh quá khứ trên hạ lưu sông Thames. Con nước thủy triều vẫn miệt mài, tận tụy xuống lên, tràn ngập ký ức về người và thuyền từng được nó đưa về lại cố hương hoặc đem vào hải chiến. Nó từng quen biết và phục vụ tất cả những con người mà dân tộc này hằng tự hào, từ Sir Francis Drake tới Sir John Franklin, đều là Hiệp sĩ, có tước hiệu và không tước hiệu[5] - những hiệp khách giang hồ của biển cả. Nó từng vận chuyển những con tàu với cái tên lấp lánh như ngọc trong đêm tối thời gian, từ chiếc Golden Hind trở về với hai mạn tròn chất đầy châu báu và được ngự giá Nữ hoàng đến thăm, rồi từ ấy rời xa dòng chảy huyền thoại này[6], đến chiếc Erebus và Terror, theo đuổi những cuộc chinh phục khác - và không bao giờ quay lại[7]. Nó biết rõ cả hải thuyền và hải khách. Họ giong buồm từ Deptford, Greenwich và Erith[8] - kẻ phiêu lưu lẫn người lập nghiệp; tàu Hoàng gia cùng thuyền thương khách; thuyền trưởng, đô đốc, đám hắc thương[9] vùng Viễn Đông, các “tướng lĩnh tự phong của Hải đội Đông Ấn. Săn vàng hay cầu danh, ai nấy đều khởi hành theo dòng chảy ấy, mang gươm, và thường là cầm đuốc, sứ giả của quyền uy từ lục địa, hộ tống một điểm tinh hỏa từ ngọn lửa thiêng. Có sự vĩ đại nào không từng theo con nước của dòng sông ấy đến với bí ẩn của một miền đất lạ!... Giấc mơ của con người, hạt giống của thịnh vượng chung, mầm mống của đế quốc. Mặt trời lặn; hoàng hôn trùm lên dòng sông, và ánh đèn bắt đầu xuất hiện ven bờ. Hải đăng Chapman, một vật thể ba chân mọc lên từ bãi lầy, chiếu sáng rực rỡ. Ánh đèn từ những con tàu di chuyển trên thủy đạo - một dòng ngược xuôi tấp nập của những ngọn đèn. Và xa hơn về tây, trên thượng lưu, vùng trời phía trên thành phố khổng lồ kia vẫn mang dấu hiệu bất tường, một vầng âm trầm u ám trong ánh tịch dương, một tia nhìn giận dữ chói gắt dưới trời sao. “Nơi đây,” Marlow đột ngột lên tiếng, “cũng từng là một trong những chốn tối tăm trên trái đất.”[10] Gã là người duy nhất trong cả hội còn “đi theo tiếng gọi biển khơi.” Nếu có nói xấu được gã điểm gì thì đó là gã không đại diện cho tầng lớp của mình. Gã là hải khách nhưng cũng là lãng khách, trong khi phần lớn những người đi biển khác sống một cuộc đời, ta tạm gọi là, yên vị. Đầu óc họ mang tâm thức tại gia, và nhà của họ luôn đi cùng họ - con tàu; và tổ quốc của họ cũng vậy - biển cả. Tàu nào cũng giống tàu nào, và biển cả thì muôn đời vẫn thế. Trong sự bất biến của môi trường quanh họ, những duyên hải xa xôi, những mặt người xứ lạ, những bao la biến động của cuộc đời, tất cả lướt qua, được che phủ không phải bởi cảm giác huyền bí mà dưới một thái độ vô tri ít nhiều khinh thị; bởi đối với người đi biển, chẳng có gì huyền bí trừ bản thân biển cả, người tình của sự hiện tồn của y, và khó nhìn thấu như chính số mệnh. Với họ, sau giờ lao động, một cuộc dạo chơi hoặc truy hoan tùy tiện trên bờ là đủ khám phá bí mật của cả một lục địa, và nhìn chung họ thấy bí mật này chả có gì đáng biết. Chuyện của dân đi biển có một sự giản đơn trực diện, toàn bộ ý nghĩa của nó chỉ gói gọn trong một cái vỏ lạc vỡ[11]. Nhưng Marlow không phải dân đi biển điển hình (không kể xu hướng huyên thuyên ở gã), và với gã, ý nghĩa của sự kiện không nằm trong hạt lạc, mà ở ngoài, bao quanh sự tích phát sinh ra nó giống như nguồn sáng nhiệt phát sinh hồng quang, tương tự như những quầng sáng đôi khi ta vẫn quan sát thấy nhờ quang phổ của ánh trăng. Bình luận của gã không làm ai ngạc nhiên. Marlow là như thế. Phát ngôn ấy được đón nhận trong im lặng. Thậm chí chẳng ai buồn lầm bầm; và lúc này gã đang nói, rất chậm rãi... “Tôi đang nghĩ về thời xa xưa, khi quân La Mã lần đầu đặt chân đến đây, một ngàn chín trăm năm trước[12] - như mới hôm qua... Ánh sáng đã phát xuất từ dòng sông này từ... thời các Hiệp sĩ, nhỉ? Phải; nhưng nó như một lưỡi lửa chạy trên đồng cỏ, một vệt chớp giữa trùng mây. Chúng ta sống dưới ánh sáng bập bùng ấy - cầu cho nó bền lâu như vòng quay của trái đất này! Nhưng hôm qua bóng tối vẫn ở đây. Thử tưởng tượng, cảm giác của viên chỉ huy một chiếc... gọi là gì nhể? – Trireme[13] ưu tú trên Địa Trung Hải, đột nhiên bị điều lên phương bắc; vội vàng đi đường bộ băng qua Gauls; và được giao một con thuyền, loại vẫn được các quân đoàn La Mã - hẳn toàn những kẻ khéo tay ghê gớm - đóng cả trăm chiếc trong một, hai tháng, nếu những gì ta vẫn đọc là đáng tin. Thử hình dung ra gã ở đây - nơi tận cùng thế giới, biển màu chì, trời màu khói, kiểu thuyền vững chãi như cây đàn concertina[14] - bơi ngược sông đem theo quân nhu, hoặc mệnh lệnh, hoặc gì cũng được. Bờ cát, đầm lầy, rừng rú, man dân - cơ hồ không có gì vừa miệng người văn minh, không có gì để uống ngoài nước sông Thames. Ở đây chẳng có rượu Falernian[15], và cũng chẳng có chuyện lên bờ. Thi thoảng lại thấy một doanh trại thất tung trong hoang dã, như cây kim mất tích giữa đụn rơm - giá, sương, bão táp, bệnh dịch, lưu đày và chết chóc - cái chết lởn vởn trong không khí, dưới nước, trong bụi rậm. Binh sĩ chắc hẳn chết ở đây như ngả rạ. Phải rồi - gã sống sót. sống tốt là đằng khác, sống mà không nghĩ ngợi gì nhiều, có chăng chỉ đủ để sau này khoác lác về những gì đã trải qua. Họ đủ nam nhi để đối mặt với bóng tối. Mà có lẽ gã đã phấn chấn hơn khi tơ tưởng đến cơ hội được đề bạt lên hải đội ở Ravenna[16] trong ngày một ngày hai, nếu gã có bạn bè thân cận ở Rome và sống sót qua mùa lam chướng này. Hoặc hãy nghĩ tới một công dân trẻ tử tế, khoác toga - chắc hẳn cháy túi vì cờ bạc - theo gót thái thú, hoặc thuế quan, thậm chí thương gia, đến đây mong kiếm chác được chút gì. Đặt chân lên đầm lầy, cuốc bộ xuyên rừng, và khi đến dịch trạm trong nội địa, thì cảm thấy cái man di, man di cùng cực, vây bủa lấy mình, - tất cả sự sống hoang dã bí hiểm sục sôi trong rừng rậm, trong rừng già, trong tim đám man dân. Chẳng có thời gian để làm quen với những bí ẩn ấy. Gã phải sống giữa chốn vô minh, vốn dĩ là điều đáng hận. Song nó cũng tỏa ra sức dụ hoặc, tác động lên gã. Thứ dụ hoặc nảy sinh từ oán hận - hãy tưởng tượng nỗi hối hận, cơn khát khao đào tẩu, sự ghê tởm trong bất lực, tâm lý buông xuôi, cảm giác căm ghét ngày một dâng cao.” Mời các bạn đón đọc Giữa Lòng Tăm Tối của tác giả Joseph Conrad.