Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Biệt Berlin

Nước Đức trước thềm Thế chiến Hai, qua con mắt tinh tường và giọng kể điềm nhiên của Christopher Isherwood, hiện lên thật sống động với những quán bar đêm, với nhạc jazz, chất cồn và tình ái. Nhưng chua chát thay, ẩn sau đời sống phóng túng thơ mộng ấy là dự cảm chẳng lành về cái kết kề cận, là mầm mống suy đồi và bạo lực chực chờ bùng nổ. Chân thực khắc họa sự chuyển mình khốc liệt của cả một dân tộc, Từ Biệt Berlin đúng như tên gọi của nó, là lời giã từ cay đắng, là khúc bi ca trầm mặc cho sự điêu tàn của cả một thời đại hào hoa. “Bức phác họa xuất sắc về một xã hội trên đà thối rữa.” - George Orwell “Đọc tiểu thuyết này giống như nghe trộm chuyện phiếm trong một quán bar đông người trong khi lịch sử sốt ruột đập ầm ầm ngoài cửa sổ.” - The Guardian *** Từ biệt Berlin: Sự mất mát bị lãng quên 26/04/2020 - Hiền Trang “Tôi vẫn luôn giữ một chiếc rương ở Berlin”, nàng ca sĩ Marlene Dietrich từng viết trong một nhạc khúc nổi tiếng của mình. Sống cùng thời với Dietrich, văn sĩ người Mỹ gốc Anh Christopher Isherwood – người mà Somerset Maugham từng nhận xét với Virginia Woolf rằng: “Chàng trai trẻ này sẽ nắm giữ tương lai của tiểu thuyết tiếng Anh trong tay mình” – chuyển đến Berlin vào thập niên 30 theo tiếng gọi của tự do, và kể từ những áng văn của ông về thành phố, một lớp văn sĩ viết về Berlin ra đời. Kế hoạch ban đầu của Isherwood là viết một cuốn tiểu thuyết công phu nhiều tập về thủ đô nước Đức. Cuốn tiểu thuyết này thậm chí đã được đặt trước một cái tên: The lost – tạm dịch là Điều đã mất, như ám chỉ một nước Đức đã mất, một nước Đức  bị xa lánh và cô lập bởi phần còn lại của Âu châu đầu thế kỷ 20, thế nhưng như trong cuốn tự truyện về sau này, Isherwood thú nhận rằng “Tôi bí quá. Tôi không thể nào viết xong The lost.” Và cuối cùng, cuốn đại tiểu thuyết ban đầu được thu gọn lại thành những mẩu chuyện rời rạc, bao gồm một cuốn tiểu thuyết nhỏ mang tên Mr Norris changes trains cùng sáu mẩu truyện vừa tập hợp lại thành Goodbye to Berlin (Từ biệt Berlin theo bản dịch tiếng Việt của Duy Đoàn, do Tao Đàn và NXB Hội Nhà Văn phát hành). Và có đôi khi, những chân dung loang lổ, những hình thù lốm đốm lởn vởn và những chuyện phiếm lan man dang dở lại nói nhiều hơn là cả một toàn tập hay một biên niên sử nào. Bởi chúng không có hoài bão bảo tồn quá khứ, tái hiện lịch sử, cũng không có ý định trở thành một bản điếu văn cho những hào hoa đã thất lạc, chúng chỉ tồn tại để chứng minh rằng, tất cả những điều đó đã từng ở đây, song đã ở lại mãi mãi cùng những năm tháng ấy. “Tôi là cái máy ảnh với màn trập mở, hết sức thụ động, ghi hình, chứ không suy tư. Ghi hình người đàn ông đang cạo râu ở cửa sổ đối diện và người đàn bà vận kimono đang gội đầu. Một ngày nọ, toàn bộ cảnh này sẽ phải được rửa, được in ra cẩn thận, được treo lên.”, Isherwood viết trong những đoạn mở đầu. Hitler không phải kẻ duy nhất đánh cắp mất Berlin và biến Berlin thành một nơi quái gở. Tự thân những con người từng trú chân ở đó, khi họ ra đi, họ cũng đã mang giữ theo mình một phần của Berlin, một phần không bao giờ còn quay trở lại. Đọc Từ biệt Berlin quả giống như lật một cuốn album ố vàng mà trong đó mỗi tấm ảnh là một khoảnh khắc đóng băng, lắng cặn và được phong kín bởi thời gian, là chuỗi những lần chớp sáng đứt đoạn và không liền mạch. Sáu câu truyện nối lỏng lẻo với nhau bằng một đường dây kéo dài là giọng kể của nhân vật “tôi” – một chàng trai nuôi mộng trở thành tiểu thuyết gia mang tên Christopher Isherwood – và mỗi câu truyện là một đoản khúc xoay quanh những con người đột nhập vào cuộc sống của anh, hay đúng hơn là anh đã đột nhập vào cuộc sống của họ. Nhưng chớ nhầm! Nhân vật “tôi” dù là Christopher Isherwood đó, nhưng đồng thời cũng lại chẳng phải là tác giả Christopher Isherwood, dù rất dễ dàng để ta chập hai thực thể đó vào làm một. “Christopher Isherwood chỉ là một con rối tiện lợi của nghệ sĩ nói tiếng bụng”, tác giả giải thích về cái tên trùng lặp. Và chính ở đây, từ sự nhập nhằng giữa danh tính ngoài đời và danh tính trên trang viết, Isherwood đã làm một cuộc khai sinh ra thứ tiểu thuyết phi hư cấu. Đa số độc giả văn chương vẫn lấy tiểu thuyết In cold blood (theo bản dịch tiếng Việt là Máu lạnh) của Truman Capote xoay quanh vụ giết người ở vùng nông thôn Kansas làm cột mốc ra đời của faction, dòng văn học phi hư cấu. Thế nhưng, từ trước khi Capote gần ba thập kỷ, Christopher Isherwood đã có những bước đi thử nghiệm thể loại này với Từ biệt Berlin. Capote có được gợi ý từ Isherwood hay không? Thật khó mà nói được. Nhưng hai người đúng là có quen nhau, thậm chí là những người bạn vong niên thân thiết, chơi chung một hội nhóm gồm những văn tài, cùng từng tán tỉnh một chàng điếm, cùng trao đổi qua lại nhiều thư từ, và nàng “Geisha nước Mỹ” Holly Golightly trong tiểu thuyết ngắn Bữa sáng ở Tiffany của Capote, nhân vật đã được bất tử hóa qua sự nhập vai của huyền thoại Audrey Hepburn, được lấy cảm hứng từ nàng diễn viên hạng xoàng phóng túng mà ngây thơ, yêu kiều mà đồng bóng Sally Bowles trong Từ biệt Berlin. Lách mình qua những ngõ ngách, náu ẩn nơi những quán rượu, những xóm ổ chuột, những nhà trọ và nhà thương khắp Berlin, Christopher Isherwood ký họa lại buổi tà dương của một thời đại trước sự trỗi dậy của Hitler và quân Phát xít mà không đem theo một chút phán xét, chỉ gợn lên những niềm luyến nhớ âm ỉ về những con người và những cuộc ly biệt liên miên. Không phải lúc nào ta cũng bắt gắp một nước Đức với nỗi buồn – nhưng là nỗi buồn khinh khoái và phớt tỉnh, một nước Đức không cừu hận, không hổ thẹn, không cắn rứt, không tội lỗi hay gồng gánh lương tâm, như ở đây. Hitler khi ấy vẫn chỉ là một ẩn số, và những dự cảm chẳng lành về cơn thủy triều tàn khốc đang dâng lên vẫn còn nằm mấp mé ngoài xa, đang trực sầm sập ập vào nhưng dẫu sao, hẵng còn đủ thời giờ để người ta làm mộ bia cho những con dơi, bầy chim và lũ thỏ, vẫn còn kịp để một người cố gắng cứu vãn mình khỏi niềm cô đơn cố hữu, để một cô diễn viên cho phép mình dây dưa với một tay lừa đảo non choẹt bị tâm thần, để một cậu choai choai đêm đêm đi khiêu vũ và đong đưa kiếm tiền mua áo khoác, để những đám người vầy mình trong những cuộc vui, những cuộc say, những cuộc ghen tuông, những cuộc khẩu chiến vô ý nghĩa. Nhân vật Isherwood ôn lại quá khứ không phải trong tư thế một kẻ cuồng tín muốn được mục ruỗng và tan rã cùng quá khứ (kiểu anh chàng biên kịch Gil Pender trong Midnight in Paris). Quá khứ không hẳn là chốn tươi đẹp nhất, vẫn có đó những giây lát mà anh muốn nhoài mình khỏi bối cảnh, những thoáng chốc trong buổi chạng vạng anh cảm thấy như sắp bị vồ lấy bởi những bóng người vô hại nhất, những ứ đọng chật chội khiến anh muốn tháo chạy thật nhanh. Và những con người rẽ ngang qua anh, họ rời Berlin mà không mơ ngày trở lại, họ đánh mất Berlin mà không đoái hoài đến sự mất mát, không vận một chút lực nào để trì níu, hoặc là những gì họ để mất ẩn hình và phi trọng lượng, khiến họ chuội đi vào những hiện tại tiếp nối mà không có lấy một ma sát nào để giữ họ chậm bước ngoái đầu nhìn lại. Berlin, sau rồi, chỉ là một nhà ga trung chuyển nơi mỗi lần gặp gỡ cũng là một lần rũ bỏ. Lách mình qua những ngõ ngách, náu ẩn nơi những quán rượu, những xóm ổ chuột, những nhà trọ và nhà thương khắp Berlin, Christopher Isherwood ký họa lại buổi tà dương của một thời đại trước sự trỗi dậy của Hitler và quân Phát xít mà không đem theo một chút phán xét, chỉ gợn lên những niềm luyến nhớ âm ỉ về những con người và những cuộc ly biệt liên miên. Ở phần cuối câu chuyện về Sally Bowles, cô diễn viên sau khi đáp xuống Rome đã gửi tấm bưu thiệp và hứa hẹn sẽ viết thư cho Isherwood vào một hay hai ngày nữa. Nhưng ngày đó không bao giờ đến. Không một lá thư nào theo sau, cho đến khi câu chuyện được ghi lại, đã là sáu năm hoàn toàn bặt vô âm tín. Liên lạc là mối nối kém bền chắc nhất trên đời. Đến lượt mình, Christopher Isherwood cũng nói lời chia biệt Berlin. Thời điểm đó, sĩ khí của quân Quốc xã đã lên cao và dù Mặt trời vẫn rạng rỡ như hôm qua và những thị dân vẫn chờ ở ga Nollendorfplatz như lẽ thường, thành phố đã thuộc về Hitler và không bao giờ còn là nó như đã từng được nữa. Nhưng Hitler không phải kẻ duy nhất đánh cắp mất Berlin và biến Berlin thành một nơi quái gở. Tự thân những con người từng trú chân ở đó, khi họ ra đi, họ cũng đã mang giữ theo mình một phần của Berlin, một phần không bao giờ còn quay trở lại. Muốn hay không, Berlin thuở đó đã suy tàn. Cuộc hội đã kết thúc. Những ký ức, nếu vẫn cố thủ hay rơi rớt, chỉ còn được đóng gói trong “một chiếc rương” nương náu ở Berlin. *** Bản trần thuật đầy mục ruỗng của Berlin trước thế chiến 2 Thứ hai, 6/5/2019  “Bóng ma” chủ nghĩa quốc xã lan rộng, những giá trị bị đảo lộn, những mối thân tình bị bỏ mặc hoặc lãng quên, rời bỏ Berlin là lối thoát duy nhất. Từ biệt Berlin của Christopher Isherwood nằm đâu đó giữa một cuốn nhật ký chân thực và một tiểu thuyết văn chương hư cấu, hé mở và phơi lộ một xã hội từng hào hoa nay đã biến mất. Cái tên ban đầu mà Isherwood lựa chọn cho cuốn sách không phải là Từ biệt Berlin (Goodbye to Berlin) mà là The Lost, để chỉ cái đã chết, đã mất đi, đã vĩnh viễn không còn nữa. Cái tên nghe có vẻ “khoa trương” (lời của tác giả) và chung chung đó cuối cùng đã được đổi lại thành Từ biệt Berlin; nó gắn với một địa danh (thậm chí là một mốc thời gian nhất định): Berlin - thủ đô nước Đức, và nó còn gắn với hành động cụ thể: một lời giã biệt. Bản trần thuật đầy thanh âm mục ruỗng Từ biệt Berlin bao gồm sáu truyện ngắn nối kế nhau ơ hờ, thoát thai từ những trang nhật ký cùng những bản phác thảo của Christopher Isherwood. Ở đó, tác giả tự nhận mình là "cái máy ảnh với màn trập mở, hết sức thụ động, ghi hình, chứ không suy tư"; và “chỉ là một con rối tiện lợi của nghệ sĩ nói tiếng bụng, chứ không phải một gì khác”. Tuy nhiên, sáu truyện ngắn này lại kết nối một cách liền mạch, mỗi truyện là một mảnh ghép tạo nên một chương rất quan trọng trong cuốn tiểu thuyết đầy suy tư, trước một thực tại đang dần tan biến không gì có thể vãn hồi. Từ biệt Berlin mở ra bằng “một bản nhật ký”, với những gì vui tươi và sinh động nhất của những con người đủ mọi quốc tịch, mọi ngành nghề với thiên hướng, sở thích, lối sống đa dạng tụ họp lại ở Berlin. Isherwood vào vai chính mình, gặp gỡ và kết thân với những con người xa lạ đó rồi trần thuật lại câu chuyện, với vai trò là chứng nhân. Chương đầu tiên là một thế giới vẫn còn tươi sáng, ở đó có bà chủ nhà trọ hiểu chuyện đời và dễ mến, có nhân viên quán bar tính tình dễ chịu; có giọng ca nhạc jazz xuất sắc và có cô gái điếm nhưng vẫn sống hết sức tử tế. Tuy nhiên, từ chương thứ 2 Sally Bowles trở về cuối cuốn sách, cái đẹp dần biến mất, màu sắc tươi sáng dần thay thế cho những thực tế phũ phàng, những nhân vật tốt đẹp dần biến chất, những nhân vật mới có nét bí ẩn, u uất riêng. Tiểu thuyết gia là một người kể chuyện trung thực, không đóng vai quan toà - phán xét hay bào chữa cho những nhân vật đại diện trong truyện. Anh chỉ đơn giản là kể lại, để từ đó dần lộ ra những thứ vốn phải hé lộ. Và cuối cùng cái gì đến cũng phải đến, “bóng ma” chủ nghĩa quốc xã lan rộng, những giá trị bị đảo lộn, những mối thân tình bị bỏ mặc hoặc lãng quên, rời bỏ Berlin là lối thoát duy nhất. Từ biệt Berlin vốn chân thực và hấp dẫn đến vậy là bởi vì Christopher Isherwood từng có 4 năm sống tại Berlin, Đức (1930 - 1933). Đó chính là chất liệu để anh tạo nên một bản trần thuật đầy thanh âm mục ruỗng, dù đã cố tình che đậy bằng giọng văn trung tính, lạnh nhạt và có phần dửng dưng trong suốt cuốn tiểu thuyết. Chủ nghĩa quốc xã và dấu ấn tha nhân Điều khiến người đọc say mê với Từ biệt Berlin không chỉ nằm ở bản thân câu chuyện hấp dẫn, văn phong điềm nhiên có phần lạnh lùng đầy chất anh hùng mà những “mã” nhận biết dẫn dụ: “Chủ nghĩa quốc xã” và “dấu ấn tha nhân”. Dòng tiểu thuyết về chủ nghĩa quốc xã vốn luôn khiến người đọc tò mò để rồi đau đớn trước thực cảnh bạo tàn và thống khổ. Từ biệt Berlin mang đến cho người xem một tầm nhìn trước cảnh thống khổ đó nhưng không kém phần đau đớn. Hai truyện ngắn và cũng là hai chương sách Nhà Nowak và Nhà Landauer đã xuất sắc lột tả được sự khốn cùng của những con người sống tại Berlin thời đó. Nếu như chương Nhà Nowak phơi bày sự khốn cùng của những con người cùng đáy xã hội, sống vật vờ, những giá trị đạo đức bị đảo lộn, mái ấm gia đình trở thành nơi bề bộn và tù ngục; thì chương Nhà Landauer là mở đầu cho chuỗi những ngày đau đớn của người Do thái, không chỉ tại Berlin, nước Đức mà còn trên toàn thể châu Âu sau này. Tình dục cũng là một trong những mối tò mò và quan tâm của độc giả về Isherwood nói chung, cuốn tiểu thuyết nói riêng. Christopher Isherwood thừa nhận một cách thẳng thắn là người đồng tính, nhưng đó là chuyện của sau này. Chính vì thế, mối tình dị tính tưởng tượng giữa “Isywoo” (cách nhân vật chủ nhà trọ Schroeder gọi Isherwood) và nhân vật Sally khiến không ít độc giả bất ngờ. Tuy nhiên, dù cố gắng thế nào, Christopher Isherwood vẫn để lộ “sơ hở” với thiên hướng tính dục của mình trong Từ biệt Berlin. Đó không chỉ là cách trò chuyện, sự gắn kết, mối thân tình của Isherwood đối với những nhân vật nam trong truyện thường mang những mối gắn kết lạ kỳ với giọng văn cảm mến và nhẹ nhõm hơn, mà còn ở mối quan hệ hiển rõ giữa Otto và Peter trong sách. Trên tất cả, Từ biệt Berlin còn mang dấu ấn dòng văn chương của những nhà văn là tha nhân. Dù hoà hợp với Berlin, dù kết giao thân thích với đủ hạng người tại đây, nhân vật "tôi" (chính là Isherwood) vẫn luôn cảm thấy xa lạ, khó hiểu, mâu thuẫn. Những dịch chuyển của nhân vật "tôi" dường như khá liên tục, và dường như không thuộc về vùng đất này. Christiopher Isherwood từng chia sẻ: “Với một nhà văn như tôi, vấn đề chưa bao giờ nằm ở việc ‘đồng tính’, mà là vấn đề của việc là một tha nhân, vấn đề nhìn nhận mọi thứ từ góc độ xiên lệch. Nếu đồng tính trở thành một điều bình thường thì nó không còn là đề tài gây hứng thú cho tôi". Christopher Isherwood là một tiểu thuyết gia, nhà viết kịch nổi tiểng. Ông cũng được biết đến là một người đồng tính nam với nhiều tác phẩm được viết trên chủ đề này. Isherwood sinh ra tại miền bắc nước Anh vào năm 1904 và trở thành công dân Mỹ kể từ năm 1946. Ông qua đời vào năm 1986 tại nhà của mình tại ở Santa Monica, California. Tạm biệt Berlin (1939) cùng Mr. Morris Changes Trains nằm trong bộ tiểu thuyết chung có tên The Berlin Stories ra mắt lần đầu vào năm 1945, lọt vào top 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất thể kỷ 20 do Times bình chọn. Từ Biệt Berlin được chuyển thể thành vở kịch I Am A Camera bởi đạo diễn John Van Druten. 15 năm sau vở kịch được chuyển thể thành nhạc kịch nổi tiếng Cabaret. Trước khi Từ biệt Berlin xuất hiện tại Việt Nam, Christopher Isherwood ít nhiều được biết đến qua tiểu thuyết về đề tài đồng tính có tên A Single Man với 2 bản dịch Người cô độc (Youth Book, 2012) và Một con người (Tao Đàn, 2018). Nhà thiết kế thời trang nổi tiếng Tom Ford từng chuyển thể cuốn sách này thành bộ phim điện ảnh cùng tên vào năm 2009.   Mời các bạn đón đọc Từ Biệt Berlin của tác giả Christopher Isherwood & Duy Đoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ông Bạn Đẹp
Một bản dịch khác của tác phẩm này là Anh bạn điển trai (Vĩnh Minh, Đức Hiếu dịch) "Ông bạn đẹp" là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Guy de Maupassant. Con mắt nhìn đời sắc sảo và ngoài bút hiện thực bậc thầy của nhà văn dẫn dắt độc giả dõi theo cuộc hành trình tìm kiếm tiền bạc, quyền lực của gã thành viên Geoges Duroy nghèo túng, bất tài nhưng đầy tham vọng. Với quan niệm "đàn bà nào cũng là gái điếm cả, cần sử dụng họ, mà đừng cho họ chút gì của ta", y không ngần ngại dựa vào địa thế đẹp trai của mình để quyến rủ và lợi dụng phụ nữ. Dần dà, nhờ sự giúp đỡ của họ, cộng thêm chút ranh mãnh và may mắn, y có được những thứ mong muốn. Thế nhưng, với lòng tham vô đáy, y vẫn chưa thỏa mãn, cứ muốn bước lên cao, cao mãi như những nất thang xã hội, chẳng biết đến đâu mới là điểm dừng... *** Henri René Albert Guy de Maupassant (1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn.   Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Anh bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Mont-Oriol (1887) Pierre et Jean (1888) Fort comme la Mort (1889) Notre Coeur (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Cô Fifi (Mademoiselle Fifi, 1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Miss Harriet (1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert (1884) Mời các bạn đón đọc Ông Bạn Đẹp của tác giả Guy de Maupassant.
Anh Bạn Điển Trai
Một bản dịch khác của tác phẩm này là Ông Bạn Đẹp (Phùng Văn Tửu dịch). Anh bạn điển trai là biệt danh do một cô gái đặt cho Đuyroa và được xã hội thượng lưu chấp nhận. Đó là câu chuyện về một anh chàng số đỏ đã bám váy đàn bà để tiến thân. Đuyroa được các phu nhân mở cổng trước đưa tới xã hội thượng lưu, mở cổng sau đón vào các khuê phòng và leo dần lên những nấc thang danh vọng và tiền tài trên những tấm lưng nuột nà để trần của họ. Từ một thanh niên nông thôn tài hèn, trí đoản, mang thân đi làm lính viễn chinh, học nghề cướp bóc, mãn hạn về với lon quèn hạ sĩ nhưng trời lại phú cho anh ta một mẽ ngoài rất đẹp với bộ ria và cặp mắt làm say đắm từ các cô gái lầu xanh đến các tiểu thư và mệnh phụ lầu son. *** Henri René Albert Guy de Maupassant (1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn.   Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Anh bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Mont-Oriol (1887) Pierre et Jean (1888) Fort comme la Mort (1889) Notre Coeur (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Cô Fifi (Mademoiselle Fifi, 1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Miss Harriet (1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert (1884)   Mời các bạn đón đọc Anh Bạn Điển Trai của tác giả Guy de Maupassant.
Lời Hồi Đáp 1997 - Lee Woo Jung
Cuốn sách như là một cuốn băng quay chậm để người đọc được sống lại những ký ức thanh xuân tươi đẹp của bản thân mình. Tiểu thuyết “Lời hồi đáp 1997” được chính biên kịch Lee Woo Jung chấp bút nên những fan nguyên tác của phim “Reply 1997” cảm thấy yên tâm vì nội dung, tư tưởng chính của phim sẽ được truyền tải một cách đúng đắn và chân thật nhất. Dù mới xuất hiện trên thị trường Việt Nam song cuốn sách đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của những người yêu thích series phim Hàn Quốc “Reply”. “Lời hồi đáp 1997” kể về tình bạn thân của 6 bạn trẻ ở thời điểm làn sóng thần tượng Hàn bắt đầu xuất hiện và phát triển mạnh mẽ. Những câu chuyện, những khoảnh khắc của từng nhân vật không chỉ quen thuộc với các bạn trẻ 8x Hàn mà rất nhiều bạn trẻ ở các nước khác cũng thấy tuổi thanh xuân của mình trong đó. Bởi làn sóng Hallyu đã ập đến rất nhiều nước, đặc biệt là ở Việt Nam sự yêu thích văn hóa Hàn phát triển rất mạnh mẽ. Nhóm bạn thân 6 người có tính cách rất khác biệt nhưng lại gắn kết chặt chẽ với nhau một cách kỳ lạ. Sung Si Won – học kém nhưng lại đặc biệt có năng khiếu văn chương, là fan cuồng thứ thiệt, trung thành với anh Tony trong nhóm H.O.T. và là một cô gái có trái tim ấm áp. Mo Yoo Jung – cô nàng điệu chảy nước, lúc nào cũng cười tít mắt, là fan cuồng nhưng tình yêu dành cho các thần tượng lại dễ dàng bị thay đổi. Tuy nhiên, cô nàng rất nghĩa khí với bạn bè. 4 chàng trai còn lại trong nhóm là Yoon Yoon Jae – đẹp trai, học giỏi, lạnh lùng với tất cả mọi người trừ Si Won; Kang Joon Hee – đẹp trai, học giỏi và tinh tế; Do Hak Chan – chàng trai Seoul tốt bụng, giỏi thể thao, tính cách đàn ông nhưng lại sợ giao tiếp với con gái; Còn chàng trai cuối cùng là Bang Sung Jae – chuyên gia gây cười và hòa giải viên cho cả nhóm. “Lời hồi đáp 1997” tập trung đi sâu vào tình cảm trong sáng nhưng mãnh liệt của mối tình đầu. Yoon Jae là chàng trai sẵn sàng làm tất cả để người con gái mình yêu hiểu được tình cảm của mình. Tuy nhiên, khi biết anh trai mình cũng thích Si Won, cậu đã quyết định từ bỏ. Giữa tình yêu và tình cảm gia đình, Yoon Jae đã lựa chọn anh trai. Có thể nói, “Lời hồi đáp 1997” là ký ức thanh xuân tươi đẹp của tất cả mọi người. Dù là người trẻ hay người đã bước sang tuổi trung niên cũng muốn được sống trong quãng thời gian ấy một lần nữa.  *** "Hôm nay Yoo Jung tỏ tình với mình đấy." Yoon Jae giữ Si Won lại bằng lời thổ lộ của mình. Si Won dừng bước. Không hiểu sao trong giây phút này, Si Won cảm thấy không đủ tự tin để nhìn vào mắt Yoon Jae, chỉ có thể nói ra một câu gượng gạo: "Mình nghe kể rồi." "...Làm thế nào bây giờ?" Hết đứa này đến đứa kia, sao cứ hỏi mình thế nhỉ? Khuôn mặt Si Won trở nên khó hiểu. "Thế cậu thấy thế nào?" "Chả biết nữa." Yoo Jung là bạn cực thân của Si Won. Yoon Jae là bạn nối khố không khác gì anh em ruột thịt. Si Won thực lòng cũng không biết phải nói gì vào lúc này. "Hay từ chối nhé?" "Sao lại hỏi mình?" Bản thân cậu thích thì cậu đi mà hẹn hò, sao lại bắt mình trả lời nhỉ? ~ Si Won nhìn Yoon Jae đầy thắc mắc. "Từ chối nhé?" Câu hỏi thứ hai trở nên khẩn thiết hơn. Yoon Jae lôi ra mớ coupon quà sinh nhật của Si Won rồi rút ra một tờ. Tự nhiên lại lôi coupon ra làm gì thế nhỉ?" ~ Si Won thắc mắc nhận lấy tờ giấy Yoon Jae đưa cho. Thực hiện điều ước vô điều kiện. "Điều ước của cậu là gì?" "...Hãy bảo mình từ chối đi." Yoon Jae hạ giọng nói nhỏ khiến Si Won phải ngẩng lên nhìn. #Reply1997 Mời các bạn đón đọc Lời Hồi Đáp 1997 của tác giả Lee Woo Jung.
Ivan Có Một Không Hai - Katherine Applegate
Ivan là một chú khỉ đột, một Lưng bạc dũng mãnh. Nhưng cậu không sống trong rừng nhiệt đới hùng vĩ hay dẫn dắt gia đình của riêng mình. Cậu sống trong trung tâm mua sắm. Trong một cái lồng kính mà cậu gọi là lãnh thổ. Cuộc sống bình lặng trôi qua với ti vi, tranh vẽ và với cô bạn voi Stella cùng cậu chó hoang Bob. Cho tới khi Ruby xuất hiện. Cô bé đã khiến Ivan nhìn lại lãnh thổ và những bức tranh của mình với một con mắt hoàn toàn khác. Và đây cũng chính là động lực để Ivan quyết tâm thực hiện một thay đổi lớn lao… “Ivan có một không hai sẽ làm trái tim bạn tan vỡ – và rồi, thật kỳ lạ làm sao, hàn gắn lại nó. Cổ vũ cho Ivan và những người bạn của cậu cũng chính là cổ vũ cho tình người và khả năng tiềm tàng trong mỗi chúng ta.” – Gary D.Schmidt, tác giả đoạt giải Newbery Honor *** Từ Điển - vỗ ngực: vỗ vào ngực liên tục bằng một tay hoặc hai tay để tạo nên những tiếng động lớn (cách thức thường thấy ở các chú khỉ đột khi chúng muốn uy hiếp đối thủ) - lãnh thổ: khu vực cư trú, cai quản - tiếng hộc: tiếng hộc hộc nghe tựa như tiếng kêu của các chú lợn, thường được khỉ đột bố và khỉ đột mẹ dùng để thể hiện thái độ khó chịu - bóng-tôi: những cục phân khô ném vào khách tham quan - 9855 ngày (con số chỉ mang tính ví dụ): trong khi khỉ đột hoang dã ước chừng thời gian bằng mùa và thức ăn (dựa theo kinh nghiệm của chúng về "mùa nào thức nấy") thì Ivan đã biết tính ngày. (9855 ngày tương đương với hai mươi bảy năm.) - Không-Bám-Đuổi: tên của con khỉ đột nhồi bông - lưng bạc (hoặc sếp xám, tên sau ít được dùng hơn): một con đực trưởng thành đã bước qua tuổi mười hai, trên lưng có khoảng lông màu xám bạc. Lưng bạc là biểu tượng của quyền uy, giữ trọng trách bảo vệ cả bầy - tinh tinh ướt nhèo nhèo (từ lóng, mang tính công kích): con người (ám chỉ lớp mồ hôi nhớp nháp trên làn da không lông lá) - đu đu: một trò chơi giải trí (ám chỉ trò đu dây leo)   Mời các bạn đón đọc Ivan Có Một Không Hai của tác giả Katherine Applegate.