Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Mồi Xảo Quyệt

Một vụ tai nạn xe cộ bất ngờ và đáng ngờ xảy ra với thượng nghị sĩ Porter Smalls và nhân tình Cecily Whitehead. Trên đường trở về sau thời gian nghỉ ngơi riêng tư, xe của Smalls bị một chiếc xe tải đâm phải và lao xuống dốc. Whitehead là người điều khiển chiếc xe đâm vào các hàng cây để giảm tốc độ lao của chiếc xe trước vực thẳm trước mặt. Xe dừng lại được trước bờ vực nhưng cũng chính một cành cây đã đâm qua cửa kính xe và khiến Whitehead nhận vết thương chí mạng ở đầu. Smalls thoát khỏi thảm kịch này trong gang tấc. Ông nghi ngờ đây là một âm mưu ám sát nhắm vào mình của đối thủ là thượng nghị sĩ Taryn Grant. Mụ ta từng tung đòn chơi xấu ông trước đây, làm tổn hại đến danh tiếng của ông và mở đường cho mụ vào Thượng viện. Nhưng đó chưa phải là đích đến cuối cùng của Grant. Cái mụ khao khát là thứ quyền lực tột cùng của chủ nhân Nhà Trắng và mụ sẵn sàng loại bỏ bất cứ chướng ngại nào trên con đường thực hiện mục tiêu. Lucas Davenport được đích thân Small nhờ điều tra vụ án vì phía cảnh sát không thể chứng minh chiếc xe của Smalls bị đâm bởi một xe khác. Họ cho rằng có thể chấn động từ vụ tai nạn đã làm ảnh hưởng đến trí nhớ của Smalls, thực chất là Whitehead đã không kiểm soát được tốc độ và tự mình lao xe xuống dốc. Lucas cũng cho rằng vụ tai nạn này có những điểm đáng ngờ, nhưng hơn hết, anh đồng ý tham gia điều tra vì ân oán trước đây với Taryn Grant. Anh không có đủ bằng chứng chứng minh mụ ta có liên quan đến vụ án mạng mà mình điều tra nên mụ đã thoát tội. Lần này anh quyết tâm bắt mụ phải trả giá cho tội lỗi của mình. Với sự giúp sức của hai đồng nghiệp thân thiết, Lucas lần lượt khám phá ra những bí mật đằng sau vụ tai nạn. Grant không đích thân ra tay mà sử dụng kẻ thân tín bên cạnh và những tay chân của gã để thực hiện vụ tai nạn nhắm vào Smalls. Những kẻ tòng phạm với Grant còn thực hiện hàng loạt các vụ mua bán vũ khí trái phép thông qua các công ty do bọn chúng điều hành. Khám phá này giúp Lucas có thể thương lượng để nhận sự trợ giúp từ FBI. Anh càng biết được nhiều sự thật hơn, tính mạng anh càng nguy hiểm khi các tay chân của Grant liên tục tìm cách giết anh và cản trở anh điều tra chi tiết vụ việc. Thậm chí vợ của Lucas cũng gặp phải tai nạn khiến anh buộc phải rời khỏi vụ án. Nhưng những việc làm của chúng không làm ảnh hưởng đến quyết tâm theo đuổi đến cùng của Lucas, chính chúng lại trở nên hoang mang, rối loạn và phải tìm cách trừ khử lẫn nhau để nhằm thoát tội. Trong quá trình điều tra, các bằng chứng Lucas thu thập được chỉ đủ để bắt những kẻ làm việc cho Grant còn khó lòng động đến mụ ta. Liệu lần này anh có lại thất bại dưới tay Grant và nhìn mụ bước lên vị trí Tổng thống? Thông tin tác giả: John Sandford tên thật là John Roswell Camp, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1944 tại tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ. Ông đoạt giải thưởng Pulitzer cho lĩnh vực báo chí vào năm 1986. Sự nghiệp của ông vô cùng đồ sộ với hàng chục cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn do ông sáng tác và đồng sáng tác, trong đó nổi bật là các series truyện trinh thám như Săn mồi, Virgil Flowers,…. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil. *** Chuyến đi lãng mạn chớp nhoáng của cặp tình nhân Whitehead cùng Thượng Nghị sĩ Smalls tưởng chừng sẽ kết thúc viên mãn. Ai dè xe của TNS Smalls gặp tai nạn trên xa lộ, bị hất văng khỏi mặt đường xém chút lao xuống vực nếu Whitehead không có tay lái lụa. Vì gắng sức cứu cả hai thoát chết nên Whitehead đã mất mạng. TNS Smalls một mực cho rằng ông là mục tiêu của một vụ mưu sát và hung thủ chính là kẻ đang muốn xanh chín với ông. Không ai tin tưởng xe ông bị sát thủ cố tình đâm phải, Smalls buộc lòng phải nhờ đến người quen cũ: Cảnh sát của Cục Cảnh sát Tư pháp Lucas Davenport. Con Mồi Xảo Quyệt khắc họa thế giới tàn nhẫn, điên cuồng, nhơ bẩn của giới chính trường Mỹ. Thật ra nó cũng chẳng khác gì truyện cung đấu bên Tàu. Các Thượng nghị sĩ lăm le hất cẳng nhau, không từ một thủ đoạn nào tiêu diệt nhau đến cùng chỉ nhằm một mục đích: Ngồi lên chiếc ghế Tổng thống của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Lucas Davenport thấy mình bị lạc trong mớ bòng bong chết người của hận thù, âm mưu, dối trá, tham vọng và thù hận nhuốm màu chính trị và tiền bạc. Một thế giới không có tình thương, không có lòng tin, chỉ có máu và giấc mộng bá quyền. Lucas cùng hai đồng đội, Bob và Rae, chưa kể rất nhiều cảnh sát và đặc vụ khác cùng hợp tác nỗ lực đến cùng bắt những kẻ thủ ác phải đền tội trước công lý. Liệu rằng họ có thành công khi phải đương đầu với những kẻ vừa có tiền, vừa có quyền vừa ác độc, máu lạnh nhưng cũng rất xảo quyệt, thông minh? John Sanford đã dựng nên cuộc đối đầu gần như không cân sức giữa Lucas Davenport và đồng đội với những kẻ thủ ác được cả hệ thống chính trị hậu thuẫn. Chẳng khác nào trứng chọi đá, trong khi cảnh sát chỉ còn biết dựa vào từng mẩu bằng chứng, từng lời khai. Cả truyện là cuộc đấu trí song song giữa hai bên rất thú vị. Đối đầu với đối thủ quá mạnh, Lucas phải vận dụng hết trí tuệ, hết từng lợi thế mà mình có được dẫu nhỏ nhoi. Truyện cũng khắc họa toàn bộ quá trình điều tra, lần tìm bằng chứng, giám định pháp y, các chi tiết về luật hình sự dành riêng cho các đối tượng nằm trong hệ thống chính trị khá chi tiết. Phải đọc mới biết Lucas Davenport trong cuốn này bị trói chân trói tay như thế nào. Luật pháp sinh ra để trừng phạt những kẻ ác, nhưng khi một sức mạnh còn lớn hơn cả luật pháp ra tay phạm tội ác, thì luật pháp sẽ phải làm gì để đảm bảo thượng tôn pháp luật, đảm bảo cái thiện sẽ thẳng cái ác? Tình tiết Con Mồi Xảo Quyệt tuy không quá gay cấn, căng thẳng ở những pha đuổi bắt, gây án nhưng nó đặt ra những tình huống chứng tỏ cuộc chiến không khoan nhượng giữa pháp luật với chính trị gian nan nhưng hấp dẫn. Nguyen Quang Huy *** “Em mệt không?” Porter Smalls quay sang ghế lái. Tán cây mùa hè quanh chiếc Cadillac Escalade tối om khi họ tiến vào con đường bẩn thỉu. Bờ nam sông Potomac uốn lượn như con rắn dưới chân hai người; các cửa kính xe đều hạ xuống hết, trong xe tràn ngập mùi cá chết, mùi bùn từ con sông. “Một chút, không sao đâu mà,” Cecily Whitehead đáp. Whitehead đã tắm nước giếng lạnh trong cabin ngay trước khi họ lên đường, thoa một chút nước hoa Chanel số 5 khi mặc đồ. Hai mùi này kết hợp khiến cô có cảm giác còn hơn cả dễ chịu nữa, cô thấy mình cực kỳ gợi tình. “Anh sẽ lái nếu em muốn,” Smalls đề nghị. Ông có vóc người nhỏ bé, giống hệt như cái tên của mình, mảnh khảnh và sung sức, như thể ông từng dành thời gian đạp xe leo núi. Ông có mái tóc bạc, uốn quăn ngang cổ áo thun chơi golf, hàm răng bọc sứ trắng bóng với cặp mắt kính không gọng dùng xem ti vi trên đôi mắt xanh nhạt. “Không sao, em ổn mà,” Whitehead nói. Cô thắt dây an toàn qua chiếc váy hai dây lộng lẫy, bộ váy có thể khiến cô bị bắt nếu diện nó bên ngoài phòng ngủ vào thời xưa. “Anh uống rượu rồi - chẳng may vì chuyện nào đó mà tụi mình bị chặn lại...” “Được rồi,” Smalls nói. Ông ngả ghế xuống thêm hai phân nữa, khoanh tay trên ngực rồi nhắm mắt lại. TRÊN ĐẦU HỌ, nấp sau những tán cây, một người đàn ông đang theo dõi qua ống nhòm. Khi chiếc SUV bạc rời khỏi lối xe vào nhà, phóng qua hộp thư rồi rẽ trái vào con đường bẩn thỉu, hắn giơ chiếc điện đài lên ngang mặt và nói, “Anh sẽ về nhà ăn tối”. Một chiếc điện đài, bởi nếu không phải đúng người đang ở trên đúng kênh này trong bán kính ba dặm vào đúng lúc đó, sẽ rất khó lần ra cuộc gọi; kể cả nếu NSA có bắt được nó. Cũng như không thể lần ra được năm tiếng chuông nhanh hắn nhận lại, báo hiệu có tin nhắn mới. Hắn đi bộ, chiếc xe bán tải đỗ cách đó nửa dặm. Hắn bước vào đây từ con đường mòn do muông thú tạo nên rồi cũng đi ra bằng con đường ấy, di chuyển chậm rãi, cứ đi được ba mươi mét lại dừng để nhìn ngó và nghe ngóng. Khi theo dõi, hắn không bao giờ ngồi, chỉ đứng nguyên tại chỗ, bên cạnh lớp vỏ màu xám xương xẩu của cây tần bì già; chẳng có đài quan sát nào để ai đó lần ra hắn, không có mẩu đầu lọc thuốc lá hay giấy gói kẹo nào đánh rơi đem từ đó truy ra ADN. Hắn đi đôi giày đế êm đã cũ mòn: không để lại dấu chân trên nền đất mềm. Hắn là dân chuyên nghiệp. THƯỢNG NGHỊ SỸ MỸ PORTER SMALLS sở hữu một cabin trên các ngọn đồi ở tây Virginia, cách Washington D.C. hai tiếng rưỡi chạy xe - vừa đủ gần cho một chuyến đi thoải mái, vừa đủ xa để che giấu những hoạt động cần sự kín đáo. Ông cùng Whitehead, một trong những người bạn thân nhất của vợ ông - bà đang ở tận Minnesota - khóa cửa cabin rồi thẳng tiến về D.C. khi mặt trời thấp dần về phía đường chân trời vào buổi chiều Chủ nhật oi bức. Họ đã rất thận trọng chọn khoảng thời gian này: lợi dụng bóng tối đưa ông về tòa chung cư Watergate sang trọng của mình. Smalls cùng Whitehead tận hưởng hai ngày nghỉ tràn trề sinh lực, trò chuyện về triết học chính trị, lịch sử, lũ ngựa, tiền bạc, cuộc sống và những người bạn chung trong khi cùng xem hết bản bìa mềm rách nát cuốn Thú vui tình dục từ những năm 80 của Smalls. Smalls đã yên bề gia thất còn Whitehead vẫn độc thân, nhưng cô giành quyền lái xe vì thứ logic của Washington liên quan đến tình dục và rượu. Một vụ ngoại tình là chuyện không được cổ vũ tại Washington, nhưng chắc chắn sẽ không bị xử nặng theo luật hình sự như tội lái xe khi say xỉn. Qua đêm với đàn ông hoặc một phụ nữ nóng bỏng thì có khả năng - có thể - bạn sẽ phải chường mặt lên trang blog của tờ Washington Post. Nhưng chỉ có Chúa mới cứu được bạn khi Hội Bà mẹ phản đối lái xe khi say xỉn tấn công bạn đúng kỳ bầu cử. Thế nên người lái là Whitehead. Cô là người say mê chính trị và là nữ mạnh thường quân của đảng Cộng hòa. Ở tuổi năm mươi, Cecily Whitehead có dáng người mảnh mai, làn da rám nắng và tàn nhang, với mái tóc đen ngắn mà người ta khó lòng nhận ra là đã được nhuộm tinh tế. Chiếc cằm vuông khiến cô trông hơi giống Amelia Earhart. Và giống như Earhart, cô cũng có một chuyên cơ riêng, chiếc Beechcraft King Air hai động cơ. Cô sở hữu một căn biệt thự nhìn ra một trong nhiều mặt hồ tại Minneapolis, cùng một trang trại nuôi ngựa Tennessee rộng hai ngàn mẫu ở phía nam thành phố Đôi. Bà xã của Smalls không chắc Whitehead có ngủ với chồng mình hay không, chủ đề này chưa bao giờ được xới lên. Suốt bốn năm qua, vợ của Smalls cũng đang ăn nem với tình nhân người Litva, trên căn gác lửng tại khu buôn bán kinh doanh Minneapolis, chủ đề này từng được bàn đi xới lại vô số lần. Những người Litva vốn nổi tiếng tại Bắc Âu như những vận động viên tình dục. Smalls nhận thức được thực tế này Nhưng ông không còn quan tâm chuyện vợ mình làm gì, miễn là bà ta không làm chuyện ấy trên phố. Thực ra ông hy vọng bà ta hạnh phúc, vì ông vẫn còn tình cảm với người mẹ của những đứa con ông. Ông tự nhủ lần tới khi đến thành phố Đôi, ông sẽ dẫn bà ta đi ăn tối. “MƯỜI GIỜ SẼ ĐẾN NƠI,” Whitehead nói. “Anh phải gặp thằng đần Clancy vào buổi trưa,” Smalls đáp, không buồn mở mắt ra. “Đần nhưng kiên trì,” Whitehead nói. “Hắn nói với Perez rằng nếu Medtronic chốt được thương vụ VA, Abbott sẽ phải cắt giảm biên chế trong hạt của ông ta. Perez tin tưởng hắn. Chuyện này thậm chí có thể là thật.” “Tiếc thật,” Smalls nói. “Chuyện cắt giảm sẽ không xảy ra đâu. Khi mà Porter Smalls biết rằng lãnh đạo phe đa số yêu quý của chúng ta có nghề đi đêm tại Rio Javelina.” “Nếu nghe được anh nói thế, hắn sẽ kiếm cái gì đó thật sắc moi ruột anh ra đấy.” Smalls mỉm cười. “Sao hả CeeCee... em không nghĩ rằng anh thực sự nói chuyện này cho hắn nghe đấy chứ?” Whitehead siết chặt đầu gối ông. “Em hy vọng là không. Không, em không nghĩ anh làm thế. Sao anh có thể để hắn biết rằng anh biết chứ?” “Kitten sẽ nghĩ ra đối sách,” Smalls nói. Whitehead mỉm cười với bóng tối đang dần đen đặc, ánh đèn pha từ xe họ chiếu xuyên qua hàng cây hai bên đường. Kitten Carter, trợ lý của Smalls, sẽ nghĩ ra kế đối phó. Cô ta thường trò chuyện với Whitehead hai lần một tuần, họ cùng nhau bàn mưu tính kế mang lại vinh quang vĩ đại hơn cho nước Mỹ nói chung và cho Porter Smalls nói riêng. Whitehead là người yêu yoga và thích đua ngựa vượt chướng ngại. Cô có một cơ thể khỏe khoắn, cặp giò và hai cánh tay rắn chắc, đặc biệt cô sở hữu đôi bàn tay to và khỏe hiếm thấy ở phụ nữ. Cô có thể điều khiển chiếc Escalade trên đường mòn nhanh hơn hầu hết những người khác, bắn tung bụi mù và sỏi đá lên bầu không khí buổi tối. Cô dành khá nhiều thời gian làm việc trên các cánh đồng, dùng xẻng hót phân ngựa rất gọn ghẽ, lái xe tải và máy kéo, không phải là lái cho vui mà cô hiểu rõ mình đang làm gì, luôn giữ các bánh xe bám chắc xuống hai vết hằn trên đường mòn. Mời các bạn đón đọc Con Mồi Xảo Quyệt của tác giả John Sandford & Nguyễn Quang Huy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Giết Người Đội Lốt - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) *** Vào sáng thứ hai, mười giờ kém năm, Perry Mason, cặp dưới nách một gói bọc giấy màu nâu, một tay gỡ cái mũ phớt và ném về phía bức tượng bán thân Blackstone vốn là thứ trang điểm cái giá sách phía sau bàn làm việc của ông. Chiếc mũ phớt lười biếng quay mấy vòng rồi chụp thẳng xuống vầng trán cẩm thạch của vị luật sư lừng tiếng, tạo cho ngài một vẻ ngang tàng quái đản. Della, cô thư kí riêng của Mason đang mở thư tín buổi sáng bên bàn, vỗ tay hoan hô. “Chà, lần này thực sự thành công lắm!” Mason đồng tình với niềm kiêu hãnh kiểu trẻ con. “Blackstone chắc là phải nhảy chồm lên ở dưới mồ,” Della nhận xét. Mason mỉm cười. “Ông ấy đã quen từ lâu rồi. Năm mươi năm gần đây tất cả các luật sư chỉ có làm mỗi việc là chất mũ của mình lên vầng trán cao thượng của Blackstone. Điều đó là đặc trưng trong thời đại chúng ta.” “Đó là điều gì chứ?” “Ném mũ.” “Tôi sợ là không hiểu được hết ý nghĩa.” “Vài thế hệ trước,” Mason giải thích với cô, “các luật sư từng là những người chán ngắt hiếm thấy. Đặt tay lên vạt áo vét, họ nói những diễn từ cầu kì theo mọi quy tắc của nghệ thuật hùng biện. Các văn phòng của họ nhất thiết phải được trang điểm bằng tượng bán thân của Blackstone. Thế nhưng các luật sư trẻ được thừa kế các bức tượng cùng với đồ đạc văn phòng và hàng đống bộ luật thì phát cáu bởi cái vẻ tự mãn khoa trương đông cứng trên bộ mặt bằng đá của lão già này.” “Chắc là anh cần phải đến gặp nhà phân tâm học, sếp ạ,” Della nói. “Có lẽ đối với anh Blackstone tượng trưng cho cái gì đó mà anh cố sức chống chọi lại một cách vô thức. Thế cái gói gì chỗ anh thế?” “Có quỷ mới biết nó,” Mason đáp. “Theo tôi, tôi cố sức chống chọi các định kiến u tối. Tôi đã trả mất năm đôla - tôi có ý nói cái gói ấy.” Trong giọng Della che giấu lòng bao dung dịu dàng sau vẻ giận dỗi giả tạo, “Tôi hi vọng anh không định ghi khoản đó vào chi phí công vụ chứ?” “Tất nhiên, tôi sẽ ghi. Chứ khác đi thì theo cô các chi phí chung là cái gì?” “Và anh thậm chí không biết cái gì bên trong đó ư?” “Tôi mua nó mà không giở ra.” “Tôi sẽ hơi khó quyết toán, nếu phải ghi vào cột chi năm đôla vì cái gói mà không rõ có gì nằm trong đó. Điều gì đã xui khiến anh như thế?” “Nói chung,” Mason thốt ra, “sự thể là thế…” Ông mỉm cười. “Nào tiếp theo là gì?” Della hỏi, cũng không đủ sức kìm nổi nụ cười. “Cô nhớ cái cô Helen Cadmus nào đó không? Cái tên ấy không nói với cô điều gì sao? “ “Một cái tên khá lạ,” cô nói. “Tôi có cảm giác… Khoan, đó có phải là cô gái đã tự tử, nhảy xuống biển từ tàu buồm của một nhà triệu phú nào đó?” “Phải, phải, chính cô ta. Benjamin Addicts, một triệu phú khá bất thường, nghỉ ngơi trên chiếc tàu buồm của mình. Giữa biển khơi, cô thư kí của ông ta, Helen Cadmus biến mất không để lại dấu vết. Người ta phỏng đoán là cô ta đã nhảy ra ngoài thành tàu. Mà trong cái gói này… Nào chúng ta cùng xem điều gì viết ở đây.” Mason lật cái gói lại và đọc, “Đồ vật riêng của Helen Cadmus. Văn phòng mõ tòa.” Della thở dài. “Đã bấy nhiêu năm tôi là thư kí riêng của anh… và thậm chí đôi khi tôi có cảm giác rằng tôi đã biết anh khá rõ, nhưng rồi lại xảy ra gì đó như kiểu này, và tôi lại nhận thức rằng anh vẫn là ẩn số đối với tôi. Trời ơi, anh lấy thứ đó ở đâu và vì cái gì mà bỏ ra những năm đôla cơ chứ?” “Mõ tòa khá thường xuyên đưa ra đấu giá đủ thứ vớ vẩn khác nhau chất đống trong văn phòng ông ta. Và hôm nay trong gian nghị án đã có cuộc đấu giá, còn tôi lại vô tình có mặt không xa chỗ đó. Ở đấy diễn ra những cuộc đấu giá khá hăng, tất cả tranh giành các chế tác kim hoàn, các bức tranh quý hiếm, bộ đồ ăn bằng bạc và đủ mọi thứ khác nữa. Sau đó người ta đưa ra đấu giá cái gói này, và chẳng có ai thèm trả giá. Cô cũng biết mõ tòa - ông ta là một bạn tốt của tôi. - Thế là tôi nháy mắt cho ông ta, và đề nghị đặt giá đầu tiên là năm đôla, nhằm kích động công chúng. Và cô biết sao không? Tôi chưa kịp trấn tĩnh thì họ đã dúi cái gói cho tôi rồi, thành ra trong ví tôi bớt đi năm đôla.” “Thế có gì bên trong ấy?” Della tò mò. “Ta cùng xem,” Mason đề nghị. Ông mở con dao díp, cắt dây buộc và mở tờ giấy bọc ra. “Ái chà chà! Giống như chúng ta có được cuốn ngữ pháp tiếng Anh, cuốn từ điển, vài sách giáo trình tốc kí, mấy cuốn nhật kí và quyển album với những tấm ảnh.” “Có thế mà mất những năm đôla!” Della kêu lên. “Ta ngó qua album ảnh xem,” Mason nói. “Chà! Đây có những tấm ảnh mà ai cũng muốn xỉa năm đôla mua nó.” Della đi lại gần và ngó qua vai ông. “Nếu đó được gọi là quần áo tắm,” cô nhận xét, “thì tôi…” “Thế nhưng giống như nó chính là thế,” Mason đáp. “Bộ đồ tắm từ ba mảnh vải hình vuông, bằng cách thần diệu nào đó đã bám được vào các đường nét uyển chuyển của thân hình khá đáng yêu. Tôi cho rằng đó chính là Helen Cadmus.” “Cô ta không che giấu quá nhiều khỏi những con mắt người lạ,” Della nói. “Chắc gì người lạ nào đó đã chụp, có lẽ một cô bạn nào đó của cô ta biết sử dụng máy ảnh, may mắn tóm được khuôn hình gây ấn tượng mạnh. Ồ, ở đây còn cả một tập những bức ảnh của lũ khỉ nữa.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Giết Người Đội Lốt của tác giả Erle Stanley Gardner.
Chiếc Khuy Đồng - Lev Ovalov
Cuốn tiểu thuyết tình báo "Chiếc khuy đồng" của Ô-va-lốp viết dựa trên một câu chuyện có thật, xảy ra tại thành phố Ri-ga, nước Cộng hòa Lét-tô-ni (Liên-xô) tạm thời bị quân phát xít Đức chiếm đóng vào những năm đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai. Câu chuyện lý thú phản ánh cuộc đấu tranh gay go, mạo hiểm, quyết liệt giữa cơ quan tình báo Liên xô và bọn gián điệp của các nước đế quốc; nêu lên những mâu thuẫn, xung đột tất yếu không thể tránh khỏi trong nội bộ bọn gián điệp đế quốc, phản ánh sự cấu xé vì quyền lợi và tham vọng giữa các nước đế quốc, dù lúc bấy giờ với danh nghĩa là đồng minh của Liên xô chống phát xít Hít-le. Hiện nay, bọn phản động bành trướng bá quyền Bắc Kinh đang ra sức cấu kết với đế quốc Mỹ, tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với nước ta. "Chiếc khuy đồng" ra mắt lần này chắc chắn sẽ góp phần giúp bạn đọc nâng cao tinh thần cảnh giác Cách mạng, bồi dưỡng và củng cố thêm ý chí bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. *** Lời Tác giả: Tính đến nay đã gần tròn 20 năm, tôi có viết về Prô-nin, một cán bộ của Cục An ninh Quốc gia, và là người bạn của tôi, một tập truyện nhan đề là NHỮNG VIỆC MẠO HIỂM CỦA THIẾU TÁ PRÔ-NIN. Xuất bản tập truyện ấy chẳng được bao lâu thì cuộc Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc bùng nổ. Từ đó chúng tôi mỗi người một ngả, không liên lạc và cũng không hề gặp nhau. Trong quãng thời gian ấy, những sự kiện lớn lao đã bắt buộc một số người phải rút vào hoạt động bí mật.. . Rồi chiến tranh lại tan đi, công cuộc kiến thiết hòa bình trở lại trên khắp đất nước, người người lại sum họp và sau đó một thời gian mà tôi cho là dài lắm, cuộc sống lại trả hai chúng tôi về cảnh cũ. Đương nhiên tôi có hỏi về cái quá khứ của Prô-nin, tuy rằng anh không bao giờ thích để ai ca tụng mình. Anh đáp: "Tôi đã làm những gì thì chưa đến lúc phải kể lại, mà tôi cũng không có quyền nói hết những việc mình làm. Nhưng tôi có quyển nhật ký nhỏ của một đồng chí sỹ quan mà tôi có nhiệm vụ phải gặp gỡ trong những ngày đầu chiến tranh. Xin biếu anh đây. Đọc trong ấy tất anh sẽ biết được ít nhiều về tôi. Anh ta ghi quyển nhật ký này không phải để cho mọi người xem, nhưng nếu thấy thích, anh có thể phổ biến. Tất nhiên, những tên thật nên thay đổi đi ". Tôi đọc hết những dòng nhật ký đó và quyết định viết thành tiểu thuyết này. Lời lẽ quyển tiểu thuyết gần giống y như bản thảo nhật ký, tôi chỉ chữa lại một vài tình tiết ở đôi chỗ và thay đổi vài ba tên thật mà thôi. Tôi mở ngăn kéo bàn giấy lấy chiếc khuy đồng ra. Chiếc khuy đồng giản dị này là vật kỷ niệm duy nhất của tôi để ghi nhớ lại những sự việc lạ lùng nửa hư nửa thực mà tôi đã bị bắt buộc phải chứng kiến và tham dự vào... Cái vật bằng đồng nhỏ bé đó nằm gọn lỏn trên lòng bàn tay, gợi lại trong tâm trí tôi hình bóng ả đàn bà ấy, một hạng đàn bà kỳ dị hiếm có ở trên đời mà tôi đã quen biết trong những cảnh ngộ thật là éo le, khó hiểu. Đó là Xô-phi-a An-cốp-xcai-a. Nếu nói theo quan niệm thông thường của ta thì ả không phải là một trang tuyệt thế giai nhân: nét mặt không cân đối, thân hình chả lấy gì làm hoàn mỹ. Thế mà ả đã khiến cho nhiều kẻ mày râu phải "đổ quán xiêu đình" trước cái sóng khuynh thành của mình... Bạn thử hình dung ra một người đàn bà khá cao, tóc nâu sẫm, mặt hơi dài, trán dô gần như trán đàn ông với đôi mắt một mí màu gio mà trong cơn giận dữ thường biến sang màu xanh như mắt mèo và sắc như lưỡi dao cạo. Mũi hếch, cằm thon. Khác thường nhất là đôi môi đỏ chót, trề ra y hệt như môi trẻ con và có thể đột ngột mím chặt lại một cách dữ tợn, tái dần đến nỗi trắng nhợt ra. Hai vành tai quá rộng nói lên đặc khiếu thẩm âm của ả. Đôi má thỉnh thoảng mới ửng hồng, mái tóc mềm hơi uốn cong bên thái dương, hai cánh tay có vẻ quá mảnh khảnh nếu đem so với bộ đùi nở nang như đùi nhà thể thao chuyên nghiệp. Trong khi trò chuyện với ai ả chỉ nghe một bên tai, còn tai kia hình như đang mải lắng nghe một khúc nhạc hiu hắt từ cõi xa xăm nào vọng tới; nếu một mắt nhìn chòng chọc vào mặt người đối diện thì mắt kia hình như đang đăm chiêu soi vào khoảng không gian thăm thẳm. Và nếu tay phải ả dịu dàng vuốt ve anh thì tay trái có thể thình lình móc khẩu súng lục xinh xắn tối tân ở trong xắc ra để bắn chết anh trong nháy mắt. Phải chăng trong câu chuyện oái oăm này cũng phải có một nhân vật lạ đời như thế? Tôi là thiếu tá Ma-ca-rốp, sĩ quan tham mưu Liên Xô. Mấy tháng trước khi xảy ra chiến tranh, tôi được phái đến Ri-ga, một thành phố lớn và cổ kính nằm giữa hai miền Đông và Tây Âu... Nhiệm vụ của tôi là nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị kế hoạch bố trí quân lực ở miền Tây Bắc để ngăn chặn một cuộc tiến công bất ngờ của quân địch khi chiến tranh bùng nổ. Công tác đó có tính chất hết sức bí mật. Lúc bấy giờ Ri-ga là một thành phố đông đúc và phức tạp. Những dãy nhà nguy nga tráng lệ ngất nghểu bên những phố xá tồi tàn đổ nát. Trước mắt chúng tôi đầy rẫy những nghịch cảnh giàu nghèo, sang hèn, vừa khêu gợi trí tò mò mà lại vừa kỳ lạ. Ri-ga là thủ đô của nước Cộng hòa xô-viết Lét-tô-ni vừa thành lập được ít lâu. Tôi sống khá kín đáo trong căn buồng riêng tại nhà đồng chí công nhân xưởng cơ khí tên là Xe-plít. Đồng chí là một đảng viên cộng sản lâu năm đã được tôi luyện trong thời kỳ hoạt động bí mật. Nhờ có chìa khóa riêng để ra vào cửa lớn nên tôi ít làm phiền đến chủ nhà. Tôi còn nhớ rõ đêm ấy vào khoảng cuối tháng sáu, sau khi báo cáo tình hình công việc hàng ngày với thủ trưởng, tôi bước ra khỏi tòa nhà đồ sộ sáng trưng ánh điện, đi qua một phố nhỏ rồi rẽ xuống đường bờ sông Đô-gáp xây bằng đá, rộng thênh thang. Mùa hè ở biển Ban-tích thật là êm dịu. Khí trời khô ráo nhẹ nhõm. Lòng tôi lâng lâng giữa biển hương thơm ngào ngạt dâng lên từ dòng sông và từ hoa cỏ dại đẫm sương... Đêm đã khuya. Bốn bề vắng ngắt. Tôi đội mũ dạ, mặc áo choàng màu sẫm, trong bóng tối khó mà nhận thấy. Một làn gió lạnh thoảng qua. Tôi rùng mình định kéo cổ áo lên chợt nghe tiếng gọi khẽ sau lưng. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Khuy Đồng của tác giả Lev Ovalov.
Bãi Biển Cây Cọ - Pierre Rey
Sau Đời Tỉ Phú và Đồng Tiền Lấm Máu..., Pierre Rey lại đưa chúng ta vào cuộc phiêu lưu đầy hấp dản trong BẢI BlỂN cày cọ, ờ đó một chàng viên chức ngân hàng nhờ vận may dã chiến thắng mọl mưu mỏ xào quvệt của các nhà tỷ phú để trờ thành một ông chủ ngôn hàng khổng rỏ và một... trái tim trong trắng của cỏ gái không bị lóa mắt vì dồng tiền.. *** Pierre Rey là tiểu thuyết gia người Pháp, ông sinh ngày 27 tháng 4 năm 1930 tại Courthezon (gần Avignon) tỉnh Vaucluse, mất ngày 22 tháng 7 năm 2006 ở Paris. Pierre Rey hoàn thành khóa học thứ hai tại trường đại học Orange, rồi ông nhập học Trường Mỹ Thuật Paris nơi ông học về vẽ tranh và lịch sử nghệ thuật. Sau khi tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật, đầu tiên ông vẽ minh họa báo chí và nhiều tác phẩm của ông được đưa lên các báo lớn của Pháp. Ông bắt đầu với mục Nghệ thuật và Giải trí, rồi phóng sự thường ngày cuộc sống của người dân thủ đô ở báo Paris Presse (1959) hay Paris Jour (1963). Ông thắng Giải thưởng phóng sự Paris năm 1963. Năm 1965, ở tuổi 33, ông trở thành biên tập viên và tổng biên tập báo Marie Claire, về sau ông chia tay công việc này để hợp tác với Jacques Lacan mười năm trong công việc nghiên cứu. • Tác Phẩm - Le Grec (1972) Đời Tỷ Phú, tiểu thuyết lịch sử của Aristotle Onassis, được dịch ra nhiều ngôn ngữ. - La Veuve (1976) - Out (1977) - Palm Beach (1979) Bãi Biển Cây Cọ - Sunset (1988) Mật Danh Hoàng Hôn - Une saison chez Lacan (1989) - Bleu Ritz (1990) - Liouba (1992) - Le Rocher (1995) - Le Désir (1999) - L'Ombre du paradis (2001) - L'Oncle (2002) *** Lúc mười ba giờ, chuông báo nghỉ ăn trưa reo lên trong tám tầng nhà của cơ quan Đầu Tư Hóa Chất Hacket (Hackett Chemical Investraent). Cả sáu trăm hai mươi hai công chức, tiếp viên, trưởng phòng, kế toán, nhân viên phục vụ, thư ký, đánh máy và nhân viên ban hòa giải tranh chấp... nhất loạt chạy như điên ra thang máy. Thang vụt xuống ba mươi hai tầng, nhả họ ra từng tốp hấp tấp ào ra phố 42 nóng ẩm ngột ngạt. Chỉ một mình Alan Pope trong phòng 8021 tầng ba mươi ngôi lầu chọc trời Rilford này là không chồm lên. Anh vẫn như bị đóng đinh vào ghế, vẻ nhìn xa xăm dường như không nghe thấy gì. Samuel Bannister băn khoăn nhìn anh, tay đặt lên núm cửa: - Làm thêm hả? - Có ai trả tiền đâu! - Alan trả lời bằng giọng lơ đãng. Bannister nhìn chăm chú hơn. - Mình đến tiệm Romano chén đây. Đi với mình. - Không đói. Cảm ơn. Lưỡng lự, Bannister đổi chân đứng: - Cái gì dằn vặt cậu? Murray chắc? - Ừ. Murray. Tuy vội đi, Bannister vẫn phải rời bỏ cái núm cửa nắm chặt trong tay từ nãy. Bước hai bước tới chiếc bàn sắt vẫn ngồi cùng với Alan Pope từ bốn năm nay. - Đi làm chầu bia lạnh! Vừa uống vừa nói chuyện đó. Alan lắc đầu từ chối, lún sâu hơn vào ghế. - Cậu đi một mình đi, Samuel. Tớ cần suy nghĩ. Bannister lúc lắc người, định mở miệng nói câu gì nhưng lại thôi, rồi hỏi: - Lão triệu cậu vào mấy giờ? - Ba. - Chắc sẽ lên lương cho cậu. - Chuyện lạ! - Cậu lo lắng không đâu. Mình tin là chuyện hay, rất hay. - Nói như thằng cha bị xử tử bằng ghế điện. Mong bị mất điện. Bannister do dự một lát, nhún vai rồi nói với vẻ làm ra nhởn nhơ - Nếu đổi ý! Đến Romano. Alan còn lại một mình. Ruột gan thắt lại vì lo lắng, anh thở dài, đứng lên dán mũi vào cửa kính đưa mắt xuống bãi biển tuy chẳng nhìn gì. Đứng lặng trong mười phút, rồi nhảy bổ tới điện thoại quay số: Phải gặp Marina! May ra cô ta vẫn còn nằm trên giường, trần truồng, nóng hổi... Đường dây bận! Đột nhiên anh thấy rất thèm được nói với cô, sờ lên người, làm tình với cô. Anh gác máy, quật áo vét lên vai rồi mất hút trong hành lang vắng ngắt. *** - Thế nào Penny? Mụ nào vậy? Tên gì? - Abel Hartman cáu kỉnh hỏi. Anh là một luật sư cỡ nhỏ ở khu phố, chuyên trách các vụ: vợ chồng xích mích, tường ngăn chung hai hộ, nhà ngập nước, đụng xe tróc sơn. Anh ta căm ghét thân chủ của mình. Nữ thư ký riêng bình tĩnh trả lời: - Bà Mabel Pope. Có nghĩa là cựu phu nhân Alan Pope. Hartman rên khàn khàn trong cổ. - Lại như mọi bận. Chậm nhận được tiền trợ cấp nuôi dưỡng. - Ai bảo lấy thằng chồng kiết! Bảo mụ là tôi đang ở Thổ Nhĩ Kỳ. - Mụ đã trông thấy ông lúc ông đi lấy hồ sơ Leyland. Ông nên gặp thì hơn. Mụ sẽ đập phá tan hoang hết. - Mụ có nợ tiền ta không? - Không nợ một xu - Tôi quá ghét bọn hút máu người như mụ. Khốn nạn cho những thằng rơi vào vuốt mụ. Không còn lấy một giọt máu! Bắt gặp cái nhìn khinh bỉ của Penny, anh ta sực nhớ cô thư ký cũng vừa ly dị chồng. Anh ta dọn giọng càu nhàu: - Thây kệ, cho mụ vào. Tôi sẽ lập tức tiến hành việc tố tụng đối với Alan Pope! Mời các bạn đón đọc Bãi Biển Cây Cọ của tác giả Pierre Rey.
Lửa Hoang - Nelson DeMille
Chào mừng đến với Câu lạc bộ đồi Custer -  Câu lạc bộ của những người đàn ông nằm trong một khu vực sang trọng dành cho những người đi săn. Thành viên của câu lạc bộ này có những lãnh đạo doanh nghiệp quyền lực nhất nước Mỹ, những lãnh đạo của giới quân sự, những quan chức chính phủ. Bề ngoài đây là nơi để xả hơi cùng bạn bè cũ. Song một ngày cuối tuần, Ban lãnh đạo câu lạc bộ nhóm họp để bàn về sự kiện 11-9, và cuối cùng đã vạch ra một kế hoạch trả đũa mang mật danh: Lửa hoang. Cuốn sách được đánh giá là “hay đến nỗi không thể đặt xuống một khi đã bắt đầu đọc”. Tác phẩm khắc hoạ hình ảnh cựu thám tử của Cục cảnh sát New York tham gia vào một âm mưu của lực lượng cánh tả nước Mỹ muốn tấn công 2 thành phố của Mỹ. Cuốn tiểu thuyết trinh thám này được nhà văn hư cấu dựa trên tin đồn được đăng trên mạng internet. ... Khủng khiếp hơn những chủ đề hôm qua và những dự đoán cho ngày mai, Lửa hoang sẽ thách thức bạn với câu hỏi về tất cả mọi thứ mà bạn nghĩ mình biết về những thế lực lãnh đạo thế giới, trong khi vẫn kích thích bạn bằng sự hồi hộp được dựng lên trên mỗi trang sách. Nelson DeMille là một trong những tác giả nổi tiếng và có lượng sách bán chạy nhất nước Mỹ, với hơn 30 triệu bản bán ra trên thế giới. Là một cựu binh Mỹ ở Việt Nam, ông đã cho ra đời 10 cuốn tiểu thuyết nổi tiếng bao gồm: Plum Island, The General Daughter, Night Fall... Bắt đầu từ tháng 10 năm 2002, cuốn tiểu thuyết trinh thám thứ tư mang tên “Lửa hoang” của nhà văn ăn khách này đã ra mắt bạn đọc. ** Khi sự thực và hư cấu hoà trộn trong tiểu thuyết, không phải lúc nào độc giả cũng nhận biết đâu là thực, đâu là hư cấu. Những người đọc bản thảo “Lửa Hoang" đã hỏi tôi đâu là chuyện thật, đâu là sản phẩm của trí tưởng tượng, do đó tôi sẽ đề cập vấn đề này ở đây. Thứ nhất, Lực lượng chống khủng bố liên bang (ATTF) trong cuốn sách này được xây dựng chủ yếu dựa trên Lực lượng phối hợp chống khủng bố (JTTF) có thật; việc khai thác một số thông tin đã được cho phép. Cụ thể, trong cuốn sách này, có rất nhiều thông tin về ELF (viết tắt của một thứ mà khi đọc sách các bạn sẽ biết). Tất cả những thông tin về ELF đều chính xác, trong phạm vi hiểu biết của tôi. Còn về kế hoạch bí mật của chính phủ mang mật danh ”Lửa Hoang" nó dựa trên một số thông tin mà tôi tình cờ thu lượm được, hầu hết trên mạng, có thể coi như tin đồn, sự thật, tưởng tượng hoàn toàn hay đại loại như vậy. Cá nhân tôi tin rằng có tồn tại một kế hoạch tương tự “Lửa Hoang", với mật danh khác. Những nội dung khác trong cuốn sách này mà nhiều người đã hỏi tôi như NEST, Xương Bánh Chè hay các tên khác đều có thật. Nếu những điều bạn đọc có vẻ như thật, có lẽ nó có thật. Thực ra thì sự thật còn lạ lùng hơn những điều tưởng tượng, và lại thường đáng sợ hơn. Còn một câu hỏi được nhắc tới nhiều nhất mà tôi quên mất là “BearBanger có thật không?” Có. Thời gian diễn ra câu chuyện này là tháng 10 năm 2002, 1 năm 1 tháng sau sự kiện 11-9-2001; những câu chuyện và tít của tờ Thời báo New York đều thật. Tương tự, bất kỳ sự đề cập nào về các thủ tục an ninh của chính phủ hay việc thiếu các quy trình này cũng đều thật ở thời điểm tôi nghĩ ra câu chuyện. Một vài độc giả làm việc trong lĩnh vực thực thi pháp luật nghĩ rằng thám tử John Corey sẽ gặp khó khăn trong phạm vi quyền hạn của mình. Tôi thừa nhận đã “cho” nhân vật tự do hơn để câu chuyện hay. Một John Corey tuân theo các luật lệ thông thường và hành động theo sách vở không phải là hình ảnh của một người anh hùng chúng ta muốn thấy. Những người đọc bản thảo “Lửa Hoang" nói rằng sau khi đã bỏ sách xuống, họ thao thức rất lâu. Nó thật là một cuốn sách đáng sợ cho những thời kỳ đáng sợ; nhưng nó cũng là lời cảnh báo cho một thế giới hậu 11-9. *** Tôi là John Corey, cựu thám tử điều tra án mạng thuộc NYPD. Tôi bị thương trong khi thi hành nhiệm vụ, nghỉ hưu với mức thương tật 75% (con số này khai chỉ để lĩnh tiền thôi chứ 98% cơ thể của tôi vẫn hoạt động bình thường); hiện tại làm đặc vụ hợp đồng đặc biệt cho Lực lượng chống khủng bố liên bang. Anh bạn Harry Muller ở phòng đối diện hỏi tôi: — Cậu đã bao giờ nghe thấy Câu lạc bộ đồi Custer chưa? — Chưa, nhưng sao? — Cuối tuần này tớ sẽ đến đó. — Vui vẻ nhé! — Đó là một lũ điên theo cánh hữu sở hữu khu vực săn bắn nằm ở vùng nông thôn của bang. — Đừng có mang về cho tôi con thú nào nhé, cũng đừng mang về chim chết. Tôi đứng dậy và bước về quầy lấy cà phê. Trên tường phía trên các bình cà phê là danh sách truy nã của Bộ Tư pháp. Chiếm phần lớn danh sách này là đàn ông theo đạo Hồi, trong Đó có trùm khủng bố Osama Bin Laden. Trong danh sách gần hai chục tên tội phạm còn có một cái tên người Libya - Asad Khalil mang biệt danh “Sư tử”. Tôi chẳng cần phải động não ghi nhớ hình ảnh của hắn bởi dù chưa một lần giáp mặt, tôi thuộc mặt hắn như gương mặt của chính mình. Tôi biết về Khalil cách đây khoảng hai năm, khi tôi săn đuổi hắn, nhưng cuối cùng thì hắn cũng đang săn đuổi tôi. Hắn trốn thoát còn tôi cũng thoát chết với một vết thương nhẹ. Như người Ảrập thường nói: “Định mệnh buộc chúng ta gặp lại nhau để quyết định số phận của mình”. Tôi mong chờ ngày đó. Tôi đổ chỗ cà phê còn lại vào một chiếc cốc và lướt qua tờ Thời báo New York nằm trên quầy. Tít của tờ báo hôm nay, thứ sáu ngày 11 tháng 10 năm 2002 chạy một dòng: “Quốc hội cho phép Bush sử dụng vũ lực đối với Iraq, tạo quyền ủy thác rất lớn". Bên dưới là tiêu đề: “Theo thông tin từ các quan chức, Mỹ có kế hoạch chiếm đóng Iraq". Dường như cuộc chiến là một kết cục được báo trước, chiến thắng cũng vậy. Vì thế nên có một kế hoạch chiếm đóng. Tôi tự hỏi liệu có ai ở Iraq biết về điều này không. Tôi mang cà phê về bàn và bật máy tính, đọc một lượt những bản ghi nhớ. Chúng tôi làm việc trong một tổ chức hầu như không dùng đến giấy, tôi thực sự nhớ việc lập những bản ghi nhớ; tôi muốn viết tắt tên mình vào chiếc máy tính bằng một chiếc bút đầu, song cuối cùng lại dùng tới bút điện tử. Nếu tôi là lãnh đạo tổ chức này, tất cả các bản ghi nhớ sẽ viết bằng bút điện tử. Tôi liếc đồng hồ, đã 4 giờ 30 phút chiều và các đồng nghiệp của tôi ở tầng 26 toà nhà liên bang số 26 đang rời công sở rất nhanh. Cũng như tôi, các đồng nghiệp của tôi là thành viên của Lực lượng chống khủng bố liên bang - ATTF, một cơ quan viết tắt bang 4 chữ cái nằm trong vô vàn tổ chức viết tắt bằng 3 chữ cái. Đây là thế giới hậu sự kiện 11-9 nên về lý thuyết đối với ai thì cuối tuần cũng là hai ngày làm việc thêm. Trên thực tế, truyền thống nghỉ việc sớm vào ngày thứ sáu vẫn không thay đổi nhiều. Vì vậy NYPD, vốn là một bộ phận của ATTF và đã quen với những thời điếm đầy rắc rối, cung cấp người cho pháo đài này vào dịp cuối tuần và những ngày nghỉ. Harry Muller hỏi tôi: — Cuối tuần này cậu làm gì? Bắt đầu kỳ nghỉ cuối tuần dài ba ngày nhân kỷ niệm Ngày Columbus, thế nhưng thật đen đủi là theo lịch tôi phải làm việc vào thứ hai. Tôi trả lời: — Tớ định tham gia buổi diễu hành vào Ngày Columbus nhưng lại phải đi làm vào thứ hai. — Thế à? Cậu định tham gia diễu hành hả? — Không, nhưng tớ đã nói với đại uý Paresi thế. Tôi nói thêm: Tôi bảo mẹ tôi là người Italia, tôi sẽ đẩy xe lăn cho bà ấy trong buổi diễu hành. ... Mời các bạn đón đọc Lửa Hoang của tác giả Nelson DeMille.