Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tạ Tiểu Nga Truyện - Nhiều tác giả

Tuyển tập truyện ngắn liêu trai Tạ Tiểu Nga Truyện này gồm có: Yểu nương tái thế, Kê kê kê dậu, Thôi vĩ, Triệu cơ, Điền phụng kiều, Kim trúc tự, Kính nhi, Hồng tuyến, Hóa lang nhi, Bình ẩn tử, Mẫn dự, Thiều tú, "Tô huệ và “Chức cẩm hồi văn thi”, Đàm cửu, Liễu thanh khanh, Ngân châm, Phấn lang, Phùng hiệp, Tạ tiểu nga truyện, Thuý thuý truyện, Tí thị, Tu văn xá nhân truyện, Vĩnh châu dã miếu ký. *** YỂU NƯƠNG TÁI THẾ 窅 娘 再 世 Tác giả : Vương Thao Bản dịch cuả : Phạm Xuân Hy Một ngọn đèn xanh lửa đóm, hắt hiu tranh sáng với loài ma, Bao phen dặm cát bụi hồng, tất cả khêu cười cho lũ quỷ Liễu Tuyền Cư Sĩ BỒ TÙNG LINH Chu Vị Hoàng tự là Bích Thần, hiệu là Trọng Du, người Kim Lăng, vốn dòng dõi thế gia đại tộc, nhưng đến đời Hoàng thì gia đình bắt đầu sui vi sa sút, trở thành bình dân. Nhưng Hoàng vẫn tự coi là con nhà gia thế, thường tỏ ra ngạo mạn, khinh đời. Gặp lúc giặc cờ đỏ Hồng Tú Toàn nổi dậy phản loạn, vây hãm Kim Lăng, rồi biến nơi đó thành kinh đô, làm thành hang ổ của giặc, trong gần mười ba năm. Ngôi nhà của gia đình Sinh, vốn rất to lớn rộng rãi, từng bị một viên tướng của Hồng Tú Toàn chiếm làm chỗ cư trú. Đến khi giặc bị quét sạch, quan quân tiến vào Kim Lăng, ngôi nhà cũ ấy lại trở thành chỗ ở của quan quân. Bấy giờ, những người trong gia đình Sinh phải bỏ xứ phiêu linh tứ tán. Riêng chàng, một thân một mình, bôn đào đến mãi vùng Trấn Nam xa xôi. Mười năm sau, khi Sinh trở về Kim Lăng, thì ngôi nhà bị bỏ hoang, không ai ở, cửa đóng then cài đã lâu, nên Sinh phải nhờ người cắt bỏ tạp thảo, gai góc, gạch ngói, quét dọn bụi bặm cho sạch sẽ, rồi thuê thợ tô vôi làm mới lại. Nhưng nhà rộng người thưa, cứ đêm đêm, thường thấy lân tinh đom đóm lập lòe , bay lên bay xuống.Từ những ngõ ngách tối tăm, hay những góc nhà vắng vẻ, luôn vẳng nghe có tiếng chồn kêu cú hú, khiến gia nhân sợ hãi không ngủ yên được. Nhưng riêng Sinh chẳng sợ hãi gì. Một đêm, chàng vừa chợt tỉnh dậy, thình lình cảm thấy có người luồn tay vào trong chăn của mình, nghe giá băng lạnh lẽo, bừng mắt ra nhìn, té ra là một con a hoàn đi chân đất. Mặt mày nhem nhuốc, xấu xa, bèn quát đuổi đi : -Tay lạnh như tay ma, dám đến mó vào người ta, ngươi không biết tự ngượng à ? Con a hoàn đỏ mặt, xấu hổ, lẳng lặng tự ý thoái lui, ra đến ngoài cửa, miệng khe khẽ lẩm bẩm : -Đáng lẽ để cho cô ta tự đến, xem anh chàng có còn gối cao ngủ yên không ! Sinh biết là bị ma trêu, tuy thế, cũng chẳng sợ gì . Đứa a hoàn đi khỏi một lúc, Sinh thấy có người vén rèm bước vào, nói : -Chồng con đứa nào, dám cả gan dọa nạt đứa tỳ nữ dại khờ nhà người ta vậy ? Sinh nhìn người mới đến. Thì ra là một nữ lang, tuổi khoảng mười bẩy mười tám. Đôi lông mày vừa cong vừa đen, tú lệ như mày ngài. Mái tóc búi cao tròn ở trên đỉnh đầu, đẹp như chim phụng. Sinh tìm áo quần để mặc, tính đứng dậy, thì nữ lang đã đến trước giường, cản lại, rồi ngồi ghé xuống bên cạnh, nói : -Trời lạnh như thế này, chi bằng quấn chăn, tựa gối, đối diện nhau mà tán gẫu ! Sinh hỏi : -Nửa đêm khuya vắng, ngoài trời tuyết đổ, sao nàng lại lặn lội giá rét mà đến đây ? Nữ lang mắt rươm ruớm nước mắt, đáp : -Vừa rồi cãi nhau với người dì, nên tức giận bỏ nhà ra đi. Bụng còn đang hoang mang, lo không biết đêm nay ngủ chỗ nào, thì vừa lúc đi qua nhà chàng, thấy khe cửa còn le lói ánh đèn, biết là chàng chưa ngủ, nên vào quấy quả một chút. Lại hỏi : -Cái con a hoàn xấu xí vừa rồi có phải tay chân của nàng đấy không ? Nữ lang trả lời : -Đó là đứa đầu bếp, lo việc cơm nước cho người dì của thiếp đấy mà! Khi hỏi đến tính danh, tịch quán, thì nữ lang tự giới : -Thiếp họ Phùng, tự là Hương Lân, người gốc Dương Châu, song thân đều đã qua đời cả rồi, vì thế phải đến sống nhờ ở nhà người dì. Tối qua người chú dượng xuống xóm Tầm Dương, thiếp lấy lời phải khuyên bảo người dì, lại bị người dì lăng nhục, vì thế mà bỏ nhà ra đi . Sinh gan hỏi đầu đuôi. Đáp : -Truyện phòng the khuê các, chẳng đáng kể cho chàng nghe làm gì ! Hai người lan man truyện trò hồi lâu, rồi cùng bông lơn hài hước.Lát sau, Sinh lần tay vào đôi gò bồng đảo của nàng, thấy trơn nhẵn, tròn trịa, đầy đặn, mà mềm mại khác hẳn những cô gái khác. Bèn đùa: -Đây chính là ngọn đậu khấu mới nhú vào đầu tháng hai ! Nữ lang đỏ bừng mặt, như có vẻ không cầm được lòng. Sinh lại bảo : -Đêm nay khanh không có chỗ về, chi bằng ở lại đây, cho ta khỏi cảnh gối lẻ chăn đơn, bớt cô tịch. Nói rồi thay nàng cởi bỏ giây quần, yếm thắm, hài vớ. Nữ lang đẩy ra, không chịu.Sinh càng ghẹo thêm. Cuối cùng chàng nắm được chân nữ lang, thoát được đôi hài của nàng ra. Ngắm nghía , thấy mũi hài nhỏ, nhọn như mũi trủy thủ, còn đế hài được làm bằng một thứ gỗ thơm, điêu khắc rất là tinh sảo, bên trong để mạt sạ hương, mùi thơm nhuốm đầy tay, khiến Sinh tâm thần mê mẩn, tiêu hồn. Đêm đó, Sinh cùng nữ lang yến nỉ , oanh non, tỉ tê tâm sự, tận tình mây mưa như điên, mặc cho trăng tà dòm ngoài song cửa. Rồi gối đầu tay nhau mà ngủ, mãi cho đến lúc mặt trời đã lên cao, lúc nào không biết. Nữ lang dậy trước, đánh thức Sinh, nói: -Gớm ! Ngủ quên cả trời sáng. Nói xong, lấy quần áo mặc vào người, hẹn Sinh buổi tối lại đến. Sinh không chịu, nắm vai nàng níu lại, không cho đi.Từ đấy, nữ lang ngụ hẳn tại nhà Sinh, trông nom cơm nước, thay Sinh mua bán chi thu. Nghiễm nhiên như vợ chồng. Sinh vốn chưa lấy vợ, bấy giờ bèn đặt một bữa tiệc thịnh soạn, mời khắp họ hàng, bè bạn đến dự, rồi bảo nữ lang ăn mặc hoa lệ rực rỡ, đi ra chào khách. Khách khứa ai cũng tấm tắc khen nàng kiều diễm, đẹp như tiên nữ. Ở được ít lâu, một hôm giữa nửa đêm, Sinh thấy nàng nức nở sụt sùi, lấy làm kinh ngạc, cật hỏi duyên cớ. Nàng đáp : -Hôm nay, thiếp đứng chơi ngoài cửa, thì con nữ tì ngày hôm trước đi qua, nó thấy thiếp, đột nhiên tiến đến hỏi thăm thiếp, báo cho thiếp là người dì của thiếp tìm thiếp đã lâu, nay đã biết nơi chỗ thiếp ở, sớm chầy thì cũng đến đây bắt về, thiếp ngại vì thế mà sinh ra kiện tụng. Sinh nói : -Truyện đó không hề gì ! Khanh không còn cha mẹ, thân do mình làm chủ, dù có ăn ở nhà người dì, nhưng đâu phải bà ấy đã nuôi khanh từ bé cho đến lớn đâu. Giả sử có kiện cáo, cũng chẳng hợp lý. Từ lúc khanh đến nhà ta, ta đã sớm lo liệu trước rồi. Có sẵn người mai mối làm chứng, và giá thú làm bằng. Dẫu người dì của khanh có một trăm lưỡi, cũng khó mà biện bác nổi. Nữ lang nói : -Tuy rằng như thế, nhưng sớm lánh đi thì hay hơn.nay thiếp chỉ nhắc đến tên dì ấy mà lòng đã sợ, huống chi là gặp mặt. Thiếp có người chú làm quan ở Võ Xương, mình đến đó nương nhờ chăng ? Sinh vốn tính ham thích viễn du, nay nghe nàng nói thế, bè nhận lời, rồi sắm sửa hành trang lập tức lên đường ngay. Chừng đến Tô Châu, Sinh buộc thuyền đậu ở ngoài cửa Kim Sương Môn.Ban đêm, trên không trăng vừa mới mọc, sáng vằng vặc.Nữ lang dựa bên sông cửa, chăm chú nhìn về phía xa.Chỉ thấy mây nước tiếp liên trên dưới một mầu.Một chốc, có một chiếc thuyền lướt sóng thừa phong chèo đến, đậu sát gần thuyền của Sinh.Rồi có người đưa danh thiếp sang, muốn được gặp Sinh.Chàng thấy lạc khoản đề tên là " Lý Trùng Quang", bụng lấy làm lạ, vì chàng không hề quen biết gì người này, tại sao lại gửi danh thiếp cho chàng thế này.Sinh tính từ tạ. Nhưng khách đã ngang nhiên bước lên thuyền, đi thẳng vào trong khoang. Nữ lang vội vã lẩn vào phía sau. Khách chắp tay hướng Sinh hành lễ. Chàng thấy khách mình khoác áo da điêu, đầu đội mũ da chồn, phục sức hết sức hoa lệ, sang trọng. Biết không phải người thường. Bèn mời ngồi cùng nhau đàm đạo. Khách tỏ ra người học rộng hiểu nhiều, khi bàn luận văn thơ thì dẫn cổ trưng kim, phân tích ngọn nguồn, càng khiến Sinh thêm bội phục sự uyên bác của khách. Hai người truyện vãn mãi cho đến lúc đuốc tàn, trời gần sáng, khách mới từ giã ra về. Ngày hôm sau, bỗng gió to mưa lớn, thuyền bè đều phải đậu lại, không đi được, Sinh bèn sang thuyền của khách để đáp lễ. Khách thấy Sinh đến, tỏ ra rất mừng, nói: -Mưa to gió lớn như thế này, được huynh quá bộ đến chơi, thật cũng đỡ tịch mịch ! Rồi sai bầy tiệc khoản đãi. Sinh thấy đồ ăn thức nhắm đều là những thứ sơn trân hải vị, lạ lùng, hiếm quý. Trong lúc ăn, khách bỗng nhắc đến những sự hưng vong của các triều trước, miệng giảng tay khua, như đích thân mục kích sự trị loạn từ thời Ngũ Đại. Rượu được vài tuần, khách truyền gọi bọn ca nữ ra hát làm vui trợ hứng, và bảo với Sinh rằng : -Rượu mà cứ uống tì tì thì không thú, không phải cách đãi bạn quý ! Khách nói xong, Sinh đã thấy một bọn ba bốn ca nữ đi ra. Cô nào cũng mắt xanh, răng trắng, đều thuộc loại hương sắc xinh đẹp.Riêng cô đi cuối cùng, ôm đàn tì bà, thì diễm lệ hơn cả. Họ cùng nhau cất tiếng đồng ca. Thanh âm cao vút như hành vân lưu thủy. Lại có lúc ròn rã như tiếng xé lụa. Sau đó, thì chuyển sang độc tấu tì bà. Tiếng đàn du dương lên xuống, lúc trầm lúc bổng, bi ai quyến luyến, khiến người nghe cũng hi hu không cầm được lệ. Khách bảo với Sinh : -Đây là khúc “Niệm gia sơn phá”, nhắc lại truyện cũ mà nát ruột đau lòng ! Sinh hỏi : -Đệ nghe nói khúc hát này do Nam Đường Hậu Chủ sáng tác, các ca nữ của huynh vì sao lại học được ? Khách đáp : -Đệ nói ra, e làm huynh sợ ! Đệ đây chính là Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục. Tuy chết đã cả ngàn năm, mà hồn phách chưa tan, nên vẫn thường xuống rong chơi trần thế, cho tiêu hết mối hờn uất trong tim. Rồi lấy tay chỉ vào người cơ thiếp ngồi cuối, giải thích : -Cô này là cung nữ Lưu Châu, thiên tính rất thông minh, được đệ yêu quý lắm ! Rồi lại chỉ người cơ thiếp mặc áo tím, nói: -Còn đây là Bảo Nghĩa Hoàng A Yêu, cùng bị bắt đưa về miền Bắc chung với đệ, rồi chết ở Đại Lương, đến nay nghĩ lại, lòng còn thương tiếc. Sinh tử tế nhìn kỹ, thấy nàng có sắc đẹp kinh hồn. Cử chỉ lại phong lưu tao nhã. Dung mạo diễm lệ. Đôi mắt long lanh như hàm tiếu, đúng là một tuyệt thế giai nhân. Sau đó, khách lại giới thiệu đến hai người cơ thiếp khác, ngồi ở mé ngoài : -Còn đây là Thu Thủy và Khánh Nô. Lúc đó, Sinh nghe có tiếng ca nữ thổi bài "Thủy Long Ngâm". Âm thanh bay bổng lên không trung, nghe thánh thót, du dương, tựa hồ như làm cho trăng mờ mây đọng. Khách nói : -Đó chính là những giọt châu của nhà họ Kiều đấy ! Sinh hỏi : -Nghe đồn Lý huynh còn có người mỹ nữ sủng ái tên là Yểu Nương, nay ở đâu ? Đáp : -Nàng nay đã xuống cõi trần, làm vợ huynh để trả cái nghiệt duyên phong lưu năm trăm năm trước, nên dẫu là người yêu dấu cũ của đệ, cũng không tiện gọi nàng ra đây, e nẩy sinh đố kỵ. Sinh nghe lời khách nói thế, lòng cảm thấy ngượng nghịu, bất an. Nhưng khách đã cười, bảo : -Giang sơn còn chẳng giữ nổi, huống hồ là những cơ thiếp ? Bất quá, Yểu Nương nay thuộc về huynh cũng chỉ là tạm thời, chứ không phải việc trường cửu. Xin huynh hãy yêu thương nàng, đừng để cho thời gian đẹp đẽ trôi đi mất. Nói xong, sai Lưu Châu rót rượu cho Sinh, rồi tiếp : -Mời huynh cạn hết chén này, xin mừng huynh đã được "thiên cổ mỹ nhân", người đẹp ngàn năm cũ Sinh nâng chén uống một hơi cạn. Lần lượt sau đó, từ Bảo Nghĩa trở xuống, các nàng cơ thiếp của Hậu Chủ, luân lưu rót rượu mời Sinh. Chàng đều không từ chối. Sinh hỏi khách : -Nghe đồn Bảo Nghĩa có tài thư pháp, đạt đến chỗ tuyệt diệu của họ Chung, họ Vương, chuyên lo việc văn phòng tứ bảo, chẳng hay đệ có thể thưởng thức cái tài đó của nàng chăng ? Rồi lấy ra một tấm lụa mộc để Bảo Nghĩa viết chữ. Khách sai thị nữ mang nghiên mực, bút lông ra. Bảo Nghĩa ngồi đối diện với Sinh, vung tay múa bút, khoảnh khắc chữ viết đầy trên bức lụa, sau đó dùng ấn ngọc in lên một nét son hổng tươi rói. Sinh ngồi uống một mạch từ giờ ngọ đến giờ dậu, chừng cũng đã có vẻ hơi túy lúy, nhân sợ thất lễ, khước từ không uống thêm nữa. Khách bèn bảo Lưu Châu ca tiễn hành. Tiếng ca êm ái dịu dàng, lời lời uyển chuyển, dư âm quấn quýt xoay vần bất tuyệt. Khách giải thích cho Sinh : -Hai khúc hát này do Chiêu Huệ Hoàng Hậu sáng tác, tên gọi là "Yêu Túy Vũ " và "Hận Lai Trì ", may nhờ có Lưu Châu thuộc lòng, bằng không chỉ có trên thiên đình, đâu còn được lưu truyền chốn nhân gian nữa. Nói xong, khách nắm tay Sinh để từ biệt, nói: -Từ đây u minh hai nẻo, không biết bao giờ mới lại gặp lại nhau, xin huynh chớ đem chuyện này mà viết thành truyện, e làm người nghe kinh hãi. Rồi sai người tiễn Sinh xuống thuyền, gửi theo hai cái rương để tặng Yểu Nương, lại dặn dò : -Nhớ nói với Yểu Nương hãy phục thị huynh cho tử tế, đừng hoài niệm gì đến đệ nữa. Tặng vật trong hai rương này tuy nhỏ bé, nhưng đủ để sống suốt đời không hết. Cả năm nàng cơ thiếp của khách cũng đều đem tặng vật ra cho, và ân cần gửi lời thăm hỏi đến Yểu Nương. Lúc Sinh về đến thuyền của mình thì chiếc thuyền của khách cũng vội vã khởi hành. Mái chèo rẽ sóng như phi. Chớp mắt không còn thấy hình tích chi nữa. Sinh đem truyện kỳ dị vừa gặp tường tận thuật lại cho Yểu Nương nghe.Nàng cảm thấy mơ hồ như từ một kiếp xa xôi nào khác, lại còn trách Sinh đặt điều bịa chuyện để đánh lừa nàng. Sinh bảo : -Lời nói còn có thể bịa được, chứ những tặng phẩm này đâu có thể ngụy tạo ra được ! Rồi mở rương ra coi.Thấy trân châu bảo vật chất đầy, chẳng biết gọi tên là gì. Sinh bèn đem một vài vật đến một tiệm kim hoàn ở cổng Ngô Môn bán được ngàn lạng. Lúc hai người đến Hán Khẩu, gặp dịp một viên kinh quan trong triều tìm mua một viên ngọc lớn, đã từng đến tận Quỳnh Đảo Tân Châu mà không mua được. Sinh đem ngọc ra cho coi.Viên kinh quan ngạc nhiên sửng sốt khen thầm, liền bỏ năm vạn tiền ra mua.Tuy thế, tặng vật của khách cho Sinh cất dấu vẫn còn nhiều. Chàng đem một số tiền lớn đến Hán Khẩu thuê nhà cửa và mở tiệm buôn bán ở nơi thị tứ kiếm lời. Sắp xếp nhà cửa xong xuôi, Sinh mới đến Võ xương để tìm người chú của Yểu Nương, nhưng người chú của nàng mấy hôm trước đó vì việc công đã đi Dự Chương rồi. Từ khi, Sinh bỏ nghiệp nho để làm thương mại, buôn bán lời một thành ba, trở nên giầu sang sung túc, ăn uống hưởng thụ ngang với bậc công hầu. Nữ tì, nam bộc thường đầy nhà. Sinh lại đem tiền đến Tô Châu mua bốn người tì nữ nữa, đều thuộc hạng nhan sắc diễm tuyệt về nhà nhờ nhạc sư truyền dậy ca hát, và sáng chiều học thêm chữ nghĩa, vì thế họ hiểu thêm về âm luật, kinh sử. Yểu Nương vốn biết chữ, nay lại biết ngâm thơ làm phú, cùng chàng xướng họa, khiến Sinh tâm mãn ý túc, tự nhủ : -Bây giờ ta mới thực hiện được nguyện ước ngày xưa, thật là không ngờ.Tuy thế, ngôi nhà cũ không thể không tu sửa, để sau này về già còn có chỗ an dưỡng. Rồi sai một người nô bộc tài giỏi mang tiền về Kim Lăng để sửa lại ngôi nhà cũ cho thật to lớn. Một hôm, Sinh đến ngao du ở Hoàng Hạc Lâu, đi mỏi chân, bèn ngồi xuống một hiên đá nghỉ ngơi, thấy trước mặt có một thiếu phụ quý phái , khoảng bốn chục tuổi, ngồi trong một chiếc kiệu đi tới.Thiếu phụ trông vừa xinh tươi vừa phong lưu văn nhã, đẹp chẳng kém chi nàng ái phi họ Từ của Lương Vũ Đế. Đằng sau, lại có đám a hoàn theo hầu.Trong đó, Sinh thấy có cả đứa nữ tì xấu xí ngày trước. Nó dường như cũng nhận ra chàng, nên đến bên người thiếu phụ ghé tai thì thào mấy lời.Thiếu phụ tiến đến trước mặt Sinh, vén áo nghiêng mình thi lễ, nói : -Chàng là rể bên ngoại nhà ta, ngày trước lấy cháu gái ta, sao không cho người mai mối đến hỏi, nhà cửa ở đâu, ta có thể ghé thăm cho biết được chăng ? Sinh nghe hỏi, lòng cảm thấy ngượng ngùng, không biết trả lời ra sao, thì thiếu phụ đã sai bộc tòng mang kiệu đến, cùng Sinh đồng hành. Lại bảo với Sinh : -Tệ xá cũng gần đây thôi, xin mời chàng ghé thăm trước, sau này họ hàng qua lại, cũng dễ nhận ra cửa nẻo. Đi chừng hơn nửa dậm, thì phu kiệu dừng lại. Sinh thấy nhà cửa nguy nga.Rõ ra là thế gia đại tộc.Bên trong cửa có bốn năm người đàn ông đứng sẵn để chào đón khách, Sinh bước lên đại đường cùng thiếu phụ tương kiến. Chàng cung kính lấy hàng tiểu bối mà hành lễ. Thiếu phụ dẫn chàng vào trong nội thất, rồi sai tì nữ gọi người con gái là Tú Cô ra. Khoảnh khắc, nghe có tiếng bội ngọc leng keng. Rồi mùi sạ lan thơm lừng xông vào mũi. Một người con gái dáng đẹp như ngọc, tuổi khoảng hai tám, bước đến bên cạnh Sinh. Người thiếu phụ bảo : -Đây là con gái ta, hai người có thể gọi nhau bằng anh em cũng được ! Sinh liếc mắt nhìn, thấy hoa nhường nguyệt thẹn, tuyệt thế giai nhân.Sau đấy, thiếu phụ sai bầy tiệc khoản đãi Sinh.Chàng được cả hai mẹ con song song bồi tọa, lần lượt rót rượu khuyên mời. Chàng cũng tận tình đánh chén no say. Người con gái đưa sóng mắt như nước hồ thu, liếc nhìn Sinh rồi dùng những ngón tay thon nhỏ của nàng véo vào tai chàng nói đùa : -Này ! Tớ mời mà không uống thì tớ đổ rượu cho đấy . Sinh mỗi lúc mỗi cảm thấy thần hồn điên đảo, bất giác say mèm, rồi nằm gục xuống tràng kỷ. Mãi cho tới lúc trời tối lờ mờ mới tỉnh lại.Chàng thấy gió lạnh như kim châm, sương rơi đầy đất, bóng trăng chìm bên vách núi.Trong nội thất, cả người lẫn vật đều không thấy đâu, còn chàng, té ra đang nằm trên một nấm mồ hoang, mới biết là gặp ma, bèn thất thểu tập tễnh trở về nhà. Chàng bước vào trong buồng tìm Yểu Nương, nhưng nàng cũng biến đâu mất, chỉ thấy trên bàn có một lá thư từ giã. Sinh buồn chán đến phát cuồng, xuống tóc, bỏ đi vào núi . Rốt cuộc, chẳng ai biết cuộc đời Sinh sau này ra sao cả. ___________________________________________________________________________ Vài hàng về tác giả : Vương Thao (王 韜 ) Vương Thao (1828-1878) tự là Trọng Thao, hiệu là Thiên Nam Độn Tẩu, người Trường Châu tỉnh Giang Tô, là học giả và nhà văn thời Thanh Mạt.Năm 18 tuổi ông đỗ tú tài, sau đo thi nhiều lần không đậu, ông bèn bỏ thi cử.Năm 22 tuổi , cha ông qua đời, ông đến Thượng Hải làm trong Mặc Hải Thư Quán với một người Anh trong ba chục năm.Nhân thế đươc tiếp xúc rộng rãi với các tư tưởng Tây phương. Khi xẩy ra cuộc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc, ông từng nhiều lần viết thư cho nhà đương cuộc Thanh triều hiến phương lược " bình tặc ". Năm 1862, ông về Tô Châu thăm mẹ bịnh, rồi đổi tên là Hoàng Uyển, đề nghị với quân đội Thái Bình Thiên Quốc mượn thế lực ngoại quốc để mưu đồ trung nguyên .Khi quân Thanh chiếm Tô Châu, tìm được bức thư kiến nghị ấy của ông, ghép ông vào tội thông phỉ và ra lệnh bắt, may nhờ người Anh giúp ông trốn được ra Hương Cảng. Sau đó theo người Anh sang Anh Quốc, phiên dịch các thư tịch cổ điển, nhờ đó ông có cơ hội đi du lịch các nước Pháp, Anh, Nga, rồi trở về Hương Cảng làm chủ bút báo Tuần Hoàn Nhật Báo, đề xướng biến pháp, đi trước cả Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cả chục năm. Ông mất năm 1878, để lại một số tác phẩm như : -Thao Viên Thi Văn Tập -Độn Quật Lan Ngôn -Tòng Ẩn Mạn Lục -Tòng Ẩn Tỏa Thoại Những truyện trong tác phẩm Tòng Ân Mạn Lục được viết theo thể tài chí quái, bằng lối văn ngôn như Liêu Trai Chí Dị, ca tụng những cuộc tình chung thủy, đề cao nam nữ tự do luyến ái, chỉ trích những tệ nạn hủ bại của lớp quan lại phong kiến đương thời.Văn pháp lưu loát, ngôn từ tế nhị, tình tiết cố sự uyển chuyển khúc triết chen lẫn với nhiều bài thơ hay. Một số truyện trong Tòng Ẩn Mạn Lục đã được chúng tôi dịch và in trong Hậu Liêu Trai và Thiếp Bạc Mệnh trước đây. Chú thích : Yểu Nương (窅 娘) : Yêủ Nương là tên của một nàng cung nữ được Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục.Yểu Nương chẳng những có dáng người tha thướt, lại tài nhẩy múa.Nàng dùng vải bó cho chân nhỏ bé và cong như cung trăng.Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục làm một cái đài hoa sen bằng vàng, cao sáu tấc, trên để những báu vật, và các loại hoa đẹp để cho nàng múa, trông phiêu nhiên như tiên nữ, rất được Hậu Chủ yêu thương sủng ái, và dùng mấy chữ :"Tam thốn kim liên 三 寸 金 蓮) để tán thưởng nàng. Sau nầy, trong thi văn Trung Quốc thường dùng chữ "Kim Liên " để hình dung đôi bàn chân nhỏ của phụ nữ.Có thể nói tục bó chân của người đàn bà Trung Hoa bắt đầu từ Yểu Nương, rồi lan truyền ra dân gian, đời này sang đời khác, được sùng thượng đến nỗi người đàn bà nào không có bàn chân nhỏ, thì bị đàn ông chê ghét, có thể không lấy được chồng. Hủ tục bó chân nầy phải chờ đến đời Khang Hy, năm 1664, mới ra lệnh cấm.Nhưng cấm lệnh của Khang Hy cũng chỉ áp dụng trong một thời gian ngắn, thì bị phe bảo thủ chống đối, nên năm 1668, Khang Hy theo lời tâu của Bộ Lễ rút lại lệnh cấm. Đến cuộc cách mạng Tân Hợi, hủ tục bó chân của phụ nữ Trung Hoa mới thực sự bị tiêu diệt. Kim Lăng (金 陵 ) : Nhà thơ Lý Bạch có hai bài thơ nổi tiếng nhắc đến Kim Lăng, ở hai hoàn cảnh khác nhau là Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài, và Kim Lăng Tửu Tứ Lưu Biệt. Kim Lăng nay là thành phố Nam Kinh tỉnh Giang Tô. Theo tác giả Cô Vong Ngôn, một truyện văn học cực dâm, thì Kim Lăng bị đổi nhiều tên gọi khác nhau, theo từng triều đại.Thời Xuân Thu, Kim Lăng thuộc nước Ngô, thời Chiến Quốc thuộc nước Việt, sau thuộc nước Sở. Vì vua Sở Uy Vương dựng lăng chôn vàng để trấn yểm đất đó, nên mới gọi là Kim Lăng. Đến đời Tần Thủy Hoàng thì đổi là Mạt Lăng.Thời Tam Quốc, năm 212 CN Tôn Quyền xây cất Thạch Đầu Thành và đến năm 229 Quyền đóng đô ở đó mới đổi Kim Lăng là Kiến Nghiệp.Đời Tây Tấn, vì tị húy Tư Mã Nghiệp đổi Kiến Nghiệp là Kiến Khang.Các đời Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần và Nam Đường đều đóng đô ở đó. Đời Tùy là Tưởng Châu. Đời Tống là Kiến Khang Phủ. Đời Nguyên là Tập Khánh . Đến Minh Thái Tổ lại đổi là Ứng Thiên Phủ. Năm 1421 CN, Minh Thành Tổ rời đô đến Bắc Kinh, Ứng Thiên Phủ mới gọi là Nam Kinh Năm 1853 CN, Nam Kinh trở thành quốc đô của Hồng Tú Toàn và gọi là Thiên Kinh. Năm 1927 Trung Hoa Dân Quốc thành lập, đến năm 1930 lại gọi là Nam Kinh Thị Hồng Tú Toàn (洪 秀 全) : Nguyên tác viết là "Xích khấu chi loạn 赤 寇 之 亂", vì vào thời điểm tác giả viết truyện này, Hồng Tú Toàn còn bị coi là giặc, và khi khởi nghĩa dùng mầu cờ đỏ, nên tác giả dùng chữ "xích khấu" để ám chỉ Hồng Tú Toàn giặc, chứ chưa được tôn xưng là một nhà cách mạng như ngày nay ở lục địa. Hồng Tú Toàn sinh năm 1814 mất năm 1864. Ông là người Hoa Huyện tỉnh Quảng Đông , nguyên danh là Hỏa Tú, rồi lại đổi là Nhân Khôn, và mãi đến khi lớn mới tự lấy tên là Tú Toàn. Ngay từ hồi còn bé, Toàn là đứa trẻ hiếu học, nên rất được thân phụ thương yêu.Khoảng năm Tuyên Thống nhà Thanh, Toàn ra nhập "Bái Thượng Đế Hội", nhận Chu Cửu Đào làm sư phụ. Khi Cửu Đào mất, Toàn được đồ chúng đưa lên làm giáo chủ. Để thu hút và mê hoặc quần chúng, Toàn phao ngôn mình là con thứ hai của thượng đế, em của Chúa Giê Su. Năm 1851, với sự phò tá của Dương Tú Thanh và Thạch Đạt Khai, Toàn khởi nghĩa ở thôn Kim Điền, tỉnh Quảng Tây, rồi đem quân đánh chiếm châu Vĩnh An, kiến lập Thái Bình Thiên Quốc và đem quân Bắc phạt, liên tiếp chiếm được nhiều tỉnh, Năm 1853, Toàn công hạ Kim Lăng (tức Nam Kinh ), tự xưng là Thiên Vương và đóng đô ở đấy.Toàn ra lệnh đổi Dương Lịch, cải y phục, đề xướng tân học, phế bỏ tục bó chân của phụ nữ, phế bỏ xướng kỹ, cấm nha phiến. Quân triều đình nhiều phen bị Toàn đánh bại. Nhưng về sau vì nội bộ lãnh đạo mâu thuẫn, các tướng đố kỵ giết hại nhau, khiến lòng dân ly tán.Thái Bình Thiên Quốc bị Tăng Quốc Phiên và Tả Tôn Đường, những trọng thần của Thanh triều, đánh bại. Năm 1964, Thiên Kinh bị phá vỡ, Hồng Tú Toàn uống độc dược tự tử.Thái Bình Thiên Quốc bị diệt vong. Tầm Dương (潯 陽) : Tầm Dương là tên một quận đời Đường, nay thuộc thị trấn Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Thời Tùy đặt tên là Bồn Thành, sang đến nhà Đường mới cải là Tầm Dương. Nhà thơ Bạch Cư Di bị biếm làm Tư Mã Giang Châu, từng để lại dấu chân của mình ở địa danh này, qua bài thơ nổi tiếng " Tỳ Bà Hành 琵 琶 行 ", mở đầu bằng câu : " Tầm Dương giang đầu dạ tống khách ". Sau này, khi Tống Giang , thủ lãnh của 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc, bị đầy đến Giang Châu, ngồi trên lầu uống rượu, ngắnm mưa rơi trên sông Tầm Dương, say rồi phẫn kích, đề phản thi mà bị bắt. Nam Đường Hậu Chủ (南 唐 後 主): Nam Đường(937-975) là một triều đại trong thời Ngũ Đại Thập Quốc (907 -975) do Lý Thăng kiến lập.Hậu Chủ của vương triều tên là Lý Dục, thường gọi là Lý Hậu Chủ, tự là Trùng Quang, hiệu là Liên Phong Cư Sĩ, sinh năm 937 CN, mất năm 978 CN Năm 961CN Lý Dục được phong làm Thái Tử, lên nối ngôi cha. Là một ông vua tài hoa phong nhã, giỏi thơ văn, hội họa, âm luật và đặc biệt về từ khúc.Trong suốt thời gian tại vị, Hậu Chủ không lo nhiều đến chính sự mà chỉ chuyên chú vào những yến tiệc, ca vũ, vui đùa cùng bầy cung tần mỹ nữ. Những câu truyện diễm tình của Hậu Chủ với những giai nhân tri kỷ cũng như những bài từ của ông được người đời đua nhau tường thuật truyền tụng.Đặc biệt là ông từng sủng ái nàng cung phi Kiều thị.Kiều thị là người rất thông minh, viết chữ rất đẹp, lại tôn thờ đạo Phật, Hậu Chủ tự tay viết "Kim Tự Tâm Kinh " để tặng nàng Năm 975, Nam Đường bị Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn diệt, Kim Lăng bị phá vỡ, Hậu Chủ bị bắt làm tù binh.Trước cảnh quốc phá gia tan, Hậu Chủ tuy đau đớn như đứt tùng khúc ruột, nhưng vẫn không bỏ được "tật" phong lưu, vung bút viết một bài từ để đời, tả cảnh vong quốc, lời lẽ rất là thê lương, đau đớn, đó là bài "Lâm Giang Tiên." Hậu chủ bị đưa về Biện Kinh, hai năm sau thì bị Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa sai em là Triệu Đình Mỹ đánh thuốc độc chết. Sau khi Hậu Chủ mất, Kiều thị đã viết lại "Kim Tự Tâm Kinh" , chữ viết rất đẹp, đem dâng vào chùa Tướng Quốc để cầu phúc cho Hậu Chủ. Lạc khoản (落 款) Ký tên trên những thư tín, lễ phẩm, thư, họa thì gọi là lạc khoản Ngũ Đại Thập Quốc (五 代 十 國) : Năm 907 CN, Chu Ôn diệt nhà Đường xưng đế, lấy quốc hiệu là Lương, sử gọi là Hậu Lương, chiếm một phần lớn phía Bắc nước Tầu, kế tục sau đó xuất hiện các nước như Hậu Đường, Hậu Hán, Hậu Chu, Hậu Tấn. Sử gia gọi năm nước này là thời kỳ Ngũ Đại. Đồng thời với năm nước này, ở phía nam nước Tầu cũng xuất hiện trước sau 10 nước là Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Sở, Mân, Nam Hán, Tiền Thục, Hậu Thục, Kinh Nam, Bắc Hán.Năm 979 CN, các nước này bị Triệu Khuông Dẫn tiêu diệt, kết thúc cục diện thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Đậu khấu (荳 蔻): Đậu khấu là một loại hương thảo, hoa nở vào mùa hè, mọc ở xứ nóng, rất đẹp, dùng làm thuốc được.Trong các văn thơ cổ điển, người dùng từ ngữ đậu khấu để tương trưng người con gái còn trong trắng chưa lấy chồng. Lương Vũ Đế (梁 武 帝): Sinh năm 464 CN mất năm 549 CN. Lương Vũ Đế tên thật là Tiêu Diễn, người sáng lập nhà Lương thời Nam Triều, tự là Thúc Đạt, vốn là người đồng tộc của vua nhà Tiêu Tề, em họ Tiêu Đạo Thành, người Nam Lan Lăng (nay thuộc tỉnh Giang Châu, phía tây bắc Thường Châu).Tiêu Diễn từng làm quan nhà Tề, giữ chức Thứ Sử Ung Châu, trấn thủ Tương Dương. Nhân vua Tề vô đạo, giết người anh của Tiêu Diễn, Diễn khởi binh vây hãm Kiến Khang, l ập Tiêu Bảo Dung làm Hòa Đế. Diễn nắm chức Đại Tư Mã, và được phong Lương Vương. Năm 502 CN, Diễn được nhường ngôi, lấy quốc hiệu là Lương, trọng dụng sĩ tộc, sửa sang văn giáo, nhờ vậy quốc thế được chấn hưng. Sau lại dốc lòng tín thờ Phật giáo, xây cất Đồng Thái Tự, ba lần vào đó tu. Năm 547 CN, Tiêu Diễn tiếp thụ đầu hàng của Hầu Cảnh.Hai năm sau thì bị Hầu Cảnh dẫn binh vượt sông nam hạ, công phá thủ đô, Tiêu Diễn bị đói và bệnh mà chết. Tiêu Diễn là người giỏi về văn học, âm luật, thư pháp. Văn phòng tứ bảo (文 房 四 寶): Văn phòng tức thư phòng.Cổ nhân ngày xưa ở trong thư phòng thường dùng và thường bầy biện bốn vật dụng được quý trọng như bảo vật là bút, giấy, nghiên, mực.Vì thế nên gọi là văn phòng tứ bảo. (Dịch xong ngày 21-5-2004 lúc 12:42.Phạm xuân Hy) Mời các bạn đón đọc Tuyển tập truyện ngắn liêu trai Tạ Tiểu Nga Truyện.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Năm Vị Tổ Sư Tập 4: Khỉ - Jeff Stone
Khi ngôi chùa Ẩn Chân của Trung Quốc bị hủy diệt, chỉ có năm vị dũng sư trẻ tuổi sống sót. Mỗi người được đặt tên theo tên một con vật: Hổ, Khỉ, Rắn, Hạc, Rồng, mỗi người là một vị dũng sư trẻ tuổi nhất của môn võ mô phỏng theo bộ thế của con vật đó. Năm người du hành theo năm ngả và bắt đầu thu nhận môn đệ để truyền dạy, không chỉ những kỹ thuật chiến đấu trác tuyệt, mà cả triết lý khoan hòa về đời sống. Tục truyền rằng các môn phái võ thuật ngày nay là do năm nhà sư trẻ này truyền lại, theo truyền thuyết thì họ là...NĂM VỊ TỔ SƯ. *** Năm vị dũng sư thoát chết trong cuộc hủy diệt chùa Ẩn Chân. Mỗi người là một cao thủ của một môn võ khác nhau, và được đặt cho một cái tên tương ứng. Thoát được vào rừng, năm người quyết tâm thực hành lời răn dạy của Ðại Sư của họ: truy tìm những bí mật trong quá khứ. Nhưng một năm trước đó, một thằng bé lớn hơn họ đã bị đuổi khỏi chùa Ẩn Chân. Cũng là một tay cao thủ như năm người kia, hắn tin rằng mình không được đặt cho một cái tên phù hợp. Chính thằng bé này là kẻ đã thực hiện cuộc thảm sát và thề báo thù những anh em đồng môn cũ của hắn. Hắn nguyện sẽ theo đuổi đến cùng tới khi nào giết được những kẻ mang sứ mệnh trở thành... NĂM VỊ TỔ SƯ. *** Năm Vị Tổ Sư gồm có: Năm Vị Tổ Sư Tập 1: Hổ Năm Vị Tổ Sư Tập 2: Rắn Năm Vị Tổ Sư Tập 3: Khỉ Năm Vị Tổ Sư Tập 4: Hạc Năm Vị Tổ Sư Tập 5: Rồng *** Lần đầu tiên trong một ngàn năm, có một tiếng sét vang lên trong ngôi chùa. Núp trong cái chum bằng đất nung nặng đặt ở sau một võ sảnh, thằng nhóc Hầu mười-một-tuổi hoảng kinh với từng tiếng BÙM, tiếng RẮC! Tiếng sấm bên trong ngôi chùa chỉ đến từ một nguồn thôi. Một con rồng. Một con rồng đang trong cơn thịnh nộ. Hầu rùng mình run rẩy. Theo truyền thuyết, rồng chế ngự gió mưa và sấm sét. Nhờ ơn rồng, mùa màng của con người sẽ nhận được đủ mưa cho một mùa gặt phong nhiêu; làm cho rồng giận, thì mùa màng sẽ bị cuốn trôi sạch - cả chính bạn, ngựa của bạn và cả gia đình bạn nữa. Làm cho rồng giận, thì nó sẽ tạo nên một cơn bão kinh dị, đập nát mọi thứ bằng cái đuôi hung bạo của nó, thiêu rụi mọi thứ còn lại bằng hơi thở rừng rực lửa của nó. Con rồng hẳn là nguyên do mà Đại Sư đã bắt Hầu và bốn người anh “trong chùa” của nó: Hổ, Xà, Hạc và Long nằm co ro trong chum. Đại Sư bảo rằng ngôi chùa đang bị quân lính tấn công, nhưng Hầu biết rằng nếu quân lính chỉ là những người bình thường thì họ không thể nào đánh bại được các dũng sư của chùa Ẩn Chân. Những kẻ tấn công hẳn đã liên minh với một con rồng. Những tiếng sấm động đó là gì chứ nếu không phải là tiếng động do con rồng quật cái đuôi khổng lồ của nó? Một con rồng quật đuôi làm cho Hầu nhớ đến người anh tên Ưng và chiếc roi xích của hắn. Ưng đã giận dữ rời bỏ chùa Ẩn Chân năm ngoái. Hắn giận vì đã được huấn luyện suốt đời như một con chim ưng, trong khi hắn luôn muốn là một con rồng mạnh mẽ. Ưng đã vung ngọn roi xích để có một chiếc đuôi rồng cho riêng mình. Hầu lại rùng mình. Ưng đã thề sẽ trở lại chùa Ẩn Chân để trừng phạt Đại Sư vì huấn luyện hắn như một con chim ưng, nhưng Ưng không ngu xuẩn chút nào. Hắn không bao giờ tấn công chùa Ẩn Chân và một trăm dũng sư của nó trừ phi hắn nắm chắc phần thắng. Và để cho việc đó xảy ra, thì hắn hẳn đã đạt được sức mạnh vượt xa những con người bình thường... Hầu nghĩ, “Ồ, không! Có lẽ Ưng đã tìm được cách biến mình thành một con rồng thật rồi! Có lẽ hắn mọc vảy và một cái đuôi và ...” CẮC-BÙM! ... Mời các bạn đón đọc Năm Vị Tổ Sư Tập 2: Rắn của tác giả Jeff Stone.
Năm Vị Tổ Sư Tập 3: Hạc - Jeff Stone
Khi ngôi chùa Ẩn Chân của Trung Quốc bị hủy diệt, chỉ có năm vị dũng sư trẻ tuổi sống sót. Mỗi người được đặt tên theo tên một con vật: Hổ, Khỉ, Rắn, Hạc, Rồng, mỗi người là một vị dũng sư trẻ tuổi nhất của môn võ mô phỏng theo bộ thế của con vật đó. Năm người du hành theo năm ngả và bắt đầu thu nhận môn đệ để truyền dạy, không chỉ những kỹ thuật chiến đấu trác tuyệt, mà cả triết lý khoan hòa về đời sống. Tục truyền rằng các môn phái võ thuật ngày nay là do năm nhà sư trẻ này truyền lại, theo truyền thuyết thì họ là...NĂM VỊ TỔ SƯ. *** Chú tiểu Long dũng mãnh của chùa Ẩn Chân đã mất tích và chú nhóc Hầu thì bị bắt! Giờ đây, thay vì bị truy đuổi, Hổ, Xà và Hạc phải theo dấu kẻ thù để giải thoát cho một chú tiểu và truy tìm một chú tiểu khác. Ở hạ nguồn sông Hoàng Hà, dấu vết dẫn đến một thành phố đầy nguy hiểm và một thế giới ngầm u ám. Không biết rằng cậu em nhỏ nhất của chúng đang bị dùng như con mồi trong một cái bẫy tàn độc, ba kẻ đi giải cứu có thể phải tự cứu lấy chính mình. Còn Long thì sao đây? Dấu vết để lại thật mờ nhạt và chẳng biết được gì thêm ngoài những ngõ cụt và lời đồn đại. Tuy nhiên năm đứa phải tập hợp lại nếu chúng muốn hoàn tất định mệnh của mình như là... NĂM VỊ TỔ SƯ. *** Năm Vị Tổ Sư gồm có: Năm Vị Tổ Sư Tập 1: Hổ Năm Vị Tổ Sư Tập 2: Rắn Năm Vị Tổ Sư Tập 3: Khỉ Năm Vị Tổ Sư Tập 4: Hạc Năm Vị Tổ Sư Tập 5: Rồng *** “Con không hiểu, mẹ ơi. Tại sao mẹ cắt trụi hết tóc con vậy?”Con bé ba tuổi tên Nhiên An sụt sịt hỏi mẹ. Băng để lưỡi dao cạo xuống cái mặt bàn nhỏ được quét sơn, kế bên một đống những tấm hải đồ. Bà lau cái đầu trọc, nhợt nhạt của Nhiên An bằng một chiếc khăn ấm và quét những lọn tóc nâu dài ra khỏi chiếc áo ngủ của nó. Băng trả lời, “Ở chùa, cậu nào cũng phải cạo đầu cả. Đó là luật”. Nhiên An lại thút thít khóc, “Mẹ nói cậu nào cũng cạo đầu. Còn con là con gái mà”. Băng đáp, “Đúng vậy. Nhưng, từ giờ trở đi con phải giả vờ như mình là một đứa con trai. Đầu của con cũng phải cạo mỗi ngày”. “Nhưng tại sao vậy?”. “Bởi vì con phải náu mình ẩn tránh. Cha mẹ đang bị nguy hiểm, có nghĩa là con cũng bị nguy hiểm. Có bọn người đang truy tìm cả ba người nhà mình. Con phải giả làm một đứa con trai để lừa chúng và con không được để cho tóc mọc ra vì màu của nó khác hẳn với mọi người. Con biết điều này mà”. Nhiên An nói, “Con biết là mình khác. Bởi vì cha. Nhưng con mặc kệ. Con muốn ở với cha. Con muốn ở với cả hai cha và mẹ kìa!”. ... Mời các bạn đón đọc Năm Vị Tổ Sư Tập 3: Hạc của tác giả Jeff Stone.
Năm Vị Tổ Sư Tập 2: Rắn - Jeff Stone
Khi ngôi chùa Ẩn Chân của Trung Quốc bị hủy diệt, chỉ có năm vị dũng sư trẻ tuổi sống sót. Mỗi người được đặt tên theo tên một con vật: Hổ, Khỉ, Rắn, Hạc, Rồng, mỗi người là một vị dũng sư trẻ tuổi nhất của môn võ mô phỏng theo bộ thế của con vật đó. Năm người du hành theo năm ngả và bắt đầu thu nhận môn đệ để truyền dạy, không chỉ những kỹ thuật chiến đấu trác tuyệt, mà cả triết lý khoan hòa về đời sống. Tục truyền rằng các môn phái võ thuật ngày nay là do năm nhà sư trẻ này truyền lại, theo truyền thuyết thì họ là...NĂM VỊ TỔ SƯ. *** Kẻ thù bám theo sát gót, ba chú tiểu của chùa Ẩn Chân bỏ trốn đến chùa Thiếu Lâm lừng danh tìm nơi ẩn náu. Khi đến đó, chúng kinh hoàng khám phá ra rằng chùa Thiếu Lâm đã bị hủy diệt! Rồi các chú tiểu nghe tin đồn về một đảng cướp, mà tay chúa đảng lại là một vị khách quen của chùa Ẩn Chân. Có lẽ hắn giữ chiếc chìa khóa nắm định mệnh của chúng như là định mệnh của... NĂM VỊ TỔ SƯ *** Năm Vị Tổ Sư gồm có: Năm Vị Tổ Sư Tập 1: Hổ Năm Vị Tổ Sư Tập 2: Rắn Năm Vị Tổ Sư Tập 3: Khỉ Năm Vị Tổ Sư Tập 4: Hạc Năm Vị Tổ Sư Tập 5: Rồng *** Nhóc tì Xà, tám tuổi, trườn thân thể cao nghều, mảnh khảnh của nó dọc theo cái xà nhà to đùng trên cao, trên cái bàn tiệc của Ẩn Chân, cố gắng hết sức để không làm bụi bay. Cho dù trong một căn phòng tối om như thế này, Đại Sư cũng nhận ra một hạt nhỏ rơi xuống sàn nhà. Đại Sư giỏi như vậy đấy.   Nhưng Xà còn giỏi hơn. Miễn là nó không mất tập trung. Khi đã yên vị, Xà duỗi người dài ra hết cỡ và nằm ép sát người lên mặt trên của cái rầm gỗ. Nó thở chậm lại. Nhịp tim của nó chậm lại ngang với nhịp tim của một con vật thuộc loại bò sát đang ngủ đông bên dưới một lớp băng. Xà chờ. Một giờ sau, Đại Sư vào phòng. Mặc dù Đại Sư không nói một lời nào, Xà vẫn biết chính xác đó là ai. Nó cảm nhận được luồng khí - năng lực của đời sống - mãnh liệt phát ra từ thân thể của Đại Sư như nhiệt lượng từ mặt trời. Xà thở chậm hơn. Nó cần giữ nhịp tim càng chậm càng tốt để khí đang tuôn chảy qua hệ thần kinh của nó sẽ không báo cho Đai Sư biết được sự có mặt của nó. Miễn sao nó giữ được tĩnh lặng thì Đại Sư sẽ không phát hiện ra nó. Các cao thủ môn Long quyền như Đại Sư và ông anh Long của Xà có được một lượng khí rất mãnh liệt, nhưng họ lại không thực giỏi trong việc phát hiện ra khí ở trong những người khác. Tuy nhiên, những kẻ thuộc loại rắn như Xà, lại là cao thủ trong việc phát hiện ra lượng khí nhỏ nhất ở bất cứ sinh vật đang sống nào. Khi Đại Sư bước vào võ sảnh xa hơn, thì Xà nghe tiếng một người thứ hai dừng chân ở ngưỡng cửa. Xà hít một hơi dài và chậm. Xà tập trung vào vị khách và nhận thấy có điều gì lạ. Người này có vẻ như không có chút khí nào cả, điều này là bất khả. Tất cả mọi vật đang sống đều có khí. Điều này có một ý nghĩa một duy nhất thôi - vị khách của Đại Sư đang dấu khí của hắn, một việc mà chỉ có các cao thủ môn xà quyền biết cách làm thôi. Và vị cao thủ xà quyền duy nhất cho đến bây giờ đến thăm Đại Sư vào lúc giữa đêm là... Một góc miệng của Xà trượt xuống gương mặt dài của nó thành một cái cau mặt nghiêng hẳn về một bên. Nó lén nhìn qua cái rui nhà về phía cái ngưỡng cửa sáng ánh trăng và đôi mắt nó xác nhận điều mà lõm thượng vị của nó đã biết rồi. Vị khách của Đại Sư là một kẻ tên là Mãng, một tay thủ lãnh của bọn cướp địa phương. Mãng có nghĩa là “trăn” trong tiếng Quảng Đông. Xà đã có hơn một cú đụng đầu với tay cao thủ xà quyền khổng lồ này trong nhiều năm và nó không khoái gặp lại hắn chút nào. ... Mời các bạn đón đọc Năm Vị Tổ Sư Tập 2: Rắn của tác giả Jeff Stone.
Con Gái Quỷ Medusa - Jason Dark
Jason Dark khởi đầu sự nghiệp viết văn của mình vào năm 1966 với một tiểu thuyết giả tưởng. Sau đó, ông tiếp tục viết một vài tiểu thuyết hình sự và Western, cho tới khi sáng tác ra nhân vật John Singlair, một chàng thám tử tại London, nhân viên của Scotland Yard. Đối tượng theo dõi, diệt trừ của John không phải là những tội phạm bình thường. Cùng các bạn bè, cây thánh giá thần và khẩu Beretta bắn đạn bạc, John Singlair là một chuyên gia đuổi ma diệt quỷ. Thành công của những chuyến phiêu lưu mà John thực hiện đã đẩy sáng kiến thành một loạt truyện với số lượng độc giả không ngừng tăng.  Jason Dark sử dụng tất cả mọi “ngóc ngách” của thế giới bí hiểm, từ những huyền thoại cổ đại bao trùm châu lục như quỷ Medusa, ma cà rồng, cương thi... những câu chuyện của đạo Thiên Chúa, đạo Phật, đạo Hồi, các nhóm đạo Á, Mỹ, Âu, những truyền thuyết của từng địa phương cụ thể, trộn lẫn với những lý thuyết khoa học viễn tưởng hết sức hiện đại như trường thời gian, các trường vật chất, dòng điện sinh học cực mạnh... Chất huyền thoại được tác giả dùng để “xử lý” những vấn đề thời sự nóng bỏng theo một nhân sinh quan dương bản: bảo vệ môi trường, giữ gìn nền tảng gia đình, giữ gìn lòng tin vào cái thiện...  Trong mỗi một tiểu thuyết, tác giả cho người anh hùng của mình ra trận tại một địạ điểm cụ thể tại các nước châu Âu và kể cả các địa điểm tại châu Phi, châu Mỹ. Những yếu tố đặc thù trong những huyền thoại của địa phương được sử dụng làm nền tảng cho một cuộc đụng đầu quyết liệt giữa cái tốt và cái xấu. Mạch chuyện nhanh gọn là sức thu hút chính. Những nét miêu tả tuy thoáng qua song sắc sảo về phong cảnh, tập tục của địa phương cũng tạo nên một khía cạnh hấp dẫn khác. Một điểm cần nhấn mạnh trong loạt truyện John Singlair là giới hạn tuân thủ Luật Bảo vệ Thanh Thiếu niên của nước Đức được tác giả Jason Dark luôn luôn giữ vững: rất hấp dẫn, song không quá đẫm máu, không quá căng thẳng, không quá nhiều xác chết. Cái tốt, cái dương bản luôn vượt lên, luôn chiến thắng bản thân mình, đạt tới những đỉnh cao mới. *** Một số tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt do NXB Thanh Niên phát hành trong Tủ sách Lâu đài xanh hầu hết nằm trong series Geisterjäger John Sinclair hơn 300 cuốn lận: - Hòn đảo bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #002 - Die Totenkopf-Insel) - Bàn tay gã đao phủ (Geisterjäger John Sinclair #248 - Gatanos Galgenhand) - Điệu nhảy thầy tu (Geisterjäger John Sinclair #270 - Geistertanz der Teufelsmönche) - Câu đố bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #640 - Das Blut-Rätsel) - Nhóm đạo Wyang (Geisterjäger John Sinclair #688: Der Kult) - Điệu Tango bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #718: Tango Fatal) - Con quái vật sau những nụ hoa (Geisterjäger John Sinclair #731 - Die Blüten-Bestie) - Lưỡi dao bị nguyền rủa (Geisterjäger John Sinclair #740: Todesgruß der Templer) - Bi kịch người sói (Geisterjäger John Sinclair #759 - Werwolf-Wahnsinn) - Thiên tài bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #791 - Diondra, einfach mörderisch) - Bức tường đá kinh hoàng (Geisterjäger John Sinclair #865 - Auf ewig verflucht) - Con quỷ đất (Geisterjäger John Sinclair #879 - Das Erdmonster) - Con gái quỷ Medusa (Geisterjäger John Sinclair #1778 - Das Wappen der Medusa) - Lạc vào cõi ma - Đội quân ánh sáng - Dàn máy tính quỷ ám Các bản dịch tiếng Việt thường ghi nhầm tên tác giả là Jarson Dark. *** Josh Parker sắp phải bổ nát con trai mình ra! Người đàn ông đau khổ còng lưng xuống, lê từng bước chân nặng nhọc. Cây cuốc mỏ chim trên vai khiến thân hình ông càng còng xuống sâu hơn. Nhưng trọng lượng của cây cuốc chẳng đáng cho Josh Parker quan tâm, gánh nặng thật sự là những gì mà ông sắp phải làm. Từng bước một, người đàn ông leo dọc triền đồi. Mệt mỏi, ông lên tới đỉnh đồi, rồi đi về hướng một cây bồ đề sần sùi, một gốc cổ thụ đã chiếm cứ mảnh đất này không biết bao nhiêu thập kỷ. Josh Parker quay đầu nhìn vào màn đêm. Mùa hè đã bỏ ra đi, trời bây giờ đang là tháng chín mà đã lạnh, sương mù và mưa. Hoàn toàn chẳng phải là dấu hiệu tốt cho những phiên chợ quê cuối cùng của năm nay. Josh Parker đang ở trong khu vực một chợ phiên như vậy. Người đàn ông vừa chầm chậm bước qua những dãy quầy, những vòng đu quay. Bây giờ là ba giờ sáng, cả thế giới ngủ say, chỉ trừ người đàn ông cô độc với cái cuốc mỏ chim và với một dự định khủng khiếp. Nhưng Josh Parker không nhìn thấy đường thoát, ông nhất thiết phải làm! Con trai ông không phải nạn nhân đầu tiên. Tai họa cứ thỉnh thoảng lại giáng xuống một người nào đó. Dân biểu diễn lưu động đã trở thành nạn nhân của một bàn tay kỳ quái, không biết bao giờ mới ngưng hoạt động. Freddy đã chết! Con trai ông, đứa con trai duy nhất của ông. Anh chưa đầy ba mươi tuổi và còn ôm ấp biết bao nhiêu kế hoạch lớn lao. Anh muốn mở rộng chuyện làm ăn của cha mình, vậy mà lại sa vào cái bẫy đáng nguyền rủa đó. Nghĩ mãi Josh Parker cũng không hiểu được. Paker chỉ biết rằng ông cần phải phá hủy con trai mình. Hiện ông chỉ còn duy nhất cơ hội này. Josh Parker dựng cây cuốc xuống đất, rút từ trong túi ra một chiếc khăn tay và lau mặt. Gió lay mạnh những chiếc lá bồ đề và cuốn đi những giọt mưa cuối cùng còn đọng lại trên tán lá. Josh Parker túm chặt lấy cán búa và quay người lại. Chiếc áo khoác bằng da kêu lên khe khẽ theo chuyển động của cơ thể ông. Ông sẽ đi dọc đỉnh đồi này, cho tới khi đến được loạt bụi cây đằng kia, nơi bắt đầu của một vệt rừng nhỏ. Ông đã giấu anh con trai Freddy ở đó. Trong đêm hôm trước, ông đã đưa anh tới đây bằng một chiếc xe ba bánh, như người ta vận chuyển một hình nhân đuổi chim đã cũ. Bao giờ thì việc giết chóc này mới chấm dứt? Và nó sẽ còn đổ xuống đầu những ai? Cả Josh Parker cũng lo sợ cho mạng sống của ông, tai họa chẳng chừa một ai. Rồi ông già nghĩ đến tin đồn rằng người ta đã cử một nhân vật đặc biệt đến đây để chặn tay bọn sát nhân. Đó là một người xa lạ, chỉ hai nhân viên trong Liên Hiệp hội các Nghệ sĩ biểu diễn lưu động biết đó là ai, nhưng họ không hé ra với bất kỳ một người thứ ba nào. Dân biểu diễn lưu động cho trò bí mật này là chuyện nực cười, nhưng hai quan chức tỏ ra rất cứng rắn. Không ai thuyết phục nổi họ. Josh Parker cảm thấy bất an. Chẳng phải chỉ vì ông sắp sửa phải thực hiện một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Người đàn ông có cảm giác mình đang bị theo dõi. Có kẻ nào đó đang bám theo ông, ông có linh cảm như thế nhưng không thể nói cụ thể, bởi ông không nhìn thấy bóng người. Chỉ là linh cảm thôi, linh cảm có kẻ đang đi theo bước chân mình. Rồi Josh Parker thốt nhiên nghĩ tới kẻ sát nhân bí hiểm. Ông không có bằng chứng, nhưng còn một nhiệm vụ phải hoàn thành. Phải hoàn thành bằng mọi giá. Người đàn ông đi tiếp. Hơi thở đọng lại thành khói trước mũi ông. Cỏ trên này vẫn còn ướt nước mưa và mọc rất cao, quệt vào ống quần người đi. Nước mưa còn để lại những vũng đọng trên mặt đất. Đôi giày của Josh Parker thỉnh thoảng lại làm nước bắn lên tung tóe, chân đạp lên phần đất mềm như đang lún xuống. Dải bụi rậm đã hiện lên trước mặt ông như một đường viền thẫm màu. Đằng sau đó là vệt rừng. Thật ra cánh rừng tương đối thưa, nhưng trong bóng tối nó gây ấn tượng rất rậm, như thể hoàn toàn không còn không gian trống giữa các thân cây. Josh Parker quen thuộc nơi này, ông đến đây chẳng phải lần đầu. Ông nhìn lên trời, không thấy trăng mà cũng chẳng thấy bất kỳ một ngôi sao nào. Bóng tối rất dày, đè nặng lên tâm khảm ông, nhưng người đàn ông vẫn hàm ơn, bởi ông không thể thực hiện công việc này trong ánh sáng chói chang của ban ngày. Josh thấy người nôn nao khó chịu, ông tự hỏi liệu lương tâm ông có bao giờ chấp nhận được hành động sắp tới đây không. Nhưng ông phải làm! Josh Parker đi ngang qua dãy bụi rậm. Dải đất trống đằng sau các bụi cây tạo thành một nếp gẫy, Josh Parker bước thẳng vào trong đó. Suýt nữa thì ông đã ngã, nhưng ông cố chống chọi và giữ lại được thăng bằng. Chỉ vài bước chân sau, Josh Parker bước tới cánh rừng. Ông có mang theo một chiếc đèn pin và chỉ dùng đến nó trong những trường hợp thật sự cần thiết. Hiện thời, Josh thấy nó chưa quan trọng. Thêm một lần nữa, người đàn ông nghĩ đến kẻ theo dõi mình. Ông xoay người lại đằng sau, nhưng không nhìn thấy ai. Vậy mà cảm giác về kẻ lạ vẫn mỗi lúc mỗi mạnh mẽ hơn. Ông lắng tai nghe. Chỉ có tiếng rì rào của lá cây. Josh Parker đi tiếp, ông cần phải tẩy ra khỏi đầu mình cái ý nghĩ bị theo dõi. Ông muốn làm cho xong việc. Càng đến gần đích bao nhiêu, cảm giác có sợi dây thòng lọng siết lại quanh cổ càng rõ. Cố gắng lắm người đàn ông mới thở được. Mọi thứ trong cổ họng trở nên đờ đẫn, nước giải chua như giấm. Người đàn ông tìm được khoảng hở giữa hai thân cây lớn, đây là ngõ vào. Chỉ còn vài bước chân nữa thôi, ông sẽ tới đích. Chẳng bao lâu, những nhánh cây nhỏ gẫy răng rắc dưới bàn chân Josh. Ông gạt những cành cây sang bên, mở đường. Mũi chân ông đã đứng trước một nấm đất tròn tròn. Nấm đất đó là nấm mồ của con trai Josh. Ông đã tạo ra nó trong vội vã, chỉ kịp phủ lên xác chết một vài cành cây, thành một tấm che sơ sài. Josh Parker dựng cuốc vào thân một cây bạch dương màu trắng. Ông cúi xuống, dùng cả hai tay gạt những cành cây sang bên. Người ngoài chắc phải cố gắng lắm mới nhận dạng được vật thể đang nằm dưới đất. Nó hiện ra lờ mờ, nhưng rõ ràng vẫn là những đường nét của cơ thể một con người. Đó chính là Freddy! Người cha không muốn khóc, nhưng ông phải vật lộn với từng giọt nước mắt đang muốn trào lên, tuyệt vọng như khách bộ hành cô đơn vật lộn với một cơn bão lớn. Để xác con trai nằm thế này vẫn chưa ổn. Ông phải kéo anh thêm ra ngoài một đoạn. Lúc đó ông mới có đủ khoảng trống để vung cuốc lấy đà. Josh Parker cúi người xuống. Đôi bàn tay khỏe mạnh của ông túm chặt lấy cổ chân người đã chết. Ông lấy hơi thật sâu. Toàn cơ thể căng lên. Ông phải vận dụng hết sức lực mới kéo được cái xác ra ngoài. Cuối cùng, người cha cũng kéo được xác đứa con trai ra! Josh Parker đứng thẳng người dậy, đưa cùi tay quệt vầng trán đẫm mồ hôi. Không thể tiếp tục ngay được, ông cần nghỉ một chốc. Hơi thở của ông dồn dập, và vì vậy mà Josh Parker không phát hiện ra những âm thanh khác. Đã quá mệt mỏi, giờ ông mặc kệ, chẳng thèm băn khoăn xem có ai theo dõi mình hay không. Trong túi áo khoác da có để một cây đèn pin. Josh Parker rút đèn, vặn cho quầng sáng to hết cỡ. Thế rồi ông hạ cánh tay phải xuống. Ngón tay cái đẩy nút bấm về phía trước. Ánh sáng tràn ra. Đường sáng rọi thẳng xuống thân hình đang nằm dưới đất. Quầng sáng chiếu thành một vòng tròn rất rõ giữa ngực người đã chết, chỉ ra một khoảng tròn cứng nhắc màu xám. Thế rồi luồng ánh sáng bò lên trên, về phía khuôn mặt, dù không còn động đậy nhưng vẫn hoàn toàn khác khuôn mặt của những người chết khác. Freddy không chết một cái chết bình thường. Anh đã hóa thành đá! ... Mời các bạn đón đọc Con Gái Quỷ Medusa của tác giả Jason Dark.