Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trường Hận Ca - Vương An Ức

Cuốn sách lấy bối cảnh thời gian thành phố Thượng Hải từ những năm 40 đến cuối thập kỉ 80. Vương Kỳ Dao đang là một cô nữ sinh bình thường bỗng nhiên trở thành một người nổi tiếng nhờ bức ảnh đăng trên bìa tạp chí Đời sống Thượng Hải. Cô tham gia vào cuộc sống ồn ào của những dạ tiệc, giành giải Á khôi trong cuộc thi hoa hậu Thượng Hải rồi sau đó nhanh chóng trở thành tình nhân của một vị quan chức. Kỳ Dao về Giang Nam sau khi người tình chết trong một tai nạn máy bay. Nhưng nỗi nhớ Thượng Hải trỗi dậy, cô trở về phố Bình An làm tiêm thuê kiếm sống. Cô có mang với một người con trai nhưng đành phải gán cho một người khác và sinh con trong cô độc, chỉ có người chụp ảnh cho cô ngày xưa còn ở cạnh. Vi Vi, con gái cô lớn lên, khác hẳn với mẹ, theo chồng sang Mỹ du học. Kỳ Dao trở thành tình nhân của một người thanh niên kém cô tới 20 tuổi. Chân Sếu, người yêu của Thẩm Vĩ Hồng – bạn thân của Vi Vi – nhờ chiếc chìa khóa mà người con trai kia nhờ trao lại cho Kỳ Dao, đột nhập vào nhà giết chết cô để cướp những đồ tư trang đựng trong chiếc hộp khảm mà cô vẫn gìn giữ. *** “… Cốt truyện của Trường hận ca rất đơn giản, một cô gái Thượng Hải được sống trong lầu son nhung lụa, bỗng chốc thời cuộc thay đổi, có quan hệ với một thanh niên, về sau bị giết, chết một cách oan khuất. Chuyện rất đơn giản, nghe như một mẩu tin trên mặt báo. Nhưng kể lại câu chuyện, tôi đã đặt nó trong một bối cảnh, cho nên tôi đã viết về ngõ nhỏ, về đàn bồ câu, tất cả những cái đó đều nằm ngoài cốt truyện. Chỉ có bối cảnh ấy câu chuyện mới có giọng điệu riêng.” – Lời tác giả Vương An Ức “Có những cuốn sách mà ngay từ những trang đầu tiên, qua sự giầu có về ý nghĩa và những liên hệ, qua văn phong đẹp như tạc, ta đã thấy hiện rõ tầm vóc của một tác phẩm cổ điển, đó là trường hợp của Trường hận ca; kiệt tác của Vương An Ức được viết bởi một thứ ngôn ngữ đậm đặc và đa nghĩa đến nỗi luôn luôn là một thách thức cho người dịch đến tận trang cuối cùng. Cuốn tiểu thuyết đã mô tả nhịp sống của một Thượng Hải huyền bí, trải dài trong chằng chịt những ngõ phố, trong xì xào của những đồn đại, dưới những đám mây chim bồ câu mà không một bí mật nào có thể giấu được, trong cả những khuê phòng nơi các thiếu nữ phải kiên nhẫn sống… Mất hút trong cái đô thành vĩ đại ấy là một phụ nữ và số phận của cô: Vương Kỳ Dao, nữ hoàng sắc đẹp của một Thượng Hải rực sáng trong những năm phóng túng cuối cùng trước 1949, với một mối tình bí ẩn với một ông tướng; và rồi nàng phải trốn chạy vào cái “lỗ nẻ của thế giới” khi bóng đêm của Cách mạng Văn Hóa đổ ập xuống đô thành hoa lệ.” – Philippe Piquier “Hơn chục năm làm công tác biên tập, tôi đã đọc và biên tập hơn hai trăm tiểu thuyết, nhưng Trường hận ca đã để lại ấn tượng sâu sắc khó quên, đúng là một tác phẩm văn học xuất sắc.” – Dương Quỳ (nhà văn Trung Quốc) *** Vương An Ức sinh năm 1954 tại Nam Kinh, là con gái của nữ nhà văn nổi tiếng Như Chí Quyên. Bắt đầu sáng tác vào năm 1976, sự nghiệp cầm bút của bà rất đáng chú ý với nhiều giải thưởng uy tín: năm 1999, Trường hận ca được tạp chí Asian bình chọn là một trong 100 tiểu thuyết Trung Văn thế kỷ 20, tác giả giải thưởng văn học Mao Thuẫn lần thứ 5 năm 2000, nhà văn xuất sắc trong năm giải Truyền thông Văn học Hoa ngữ 2008. *** Đã có nhiều cuốn tiểu thuyết đương đại Trung Quốc được dịch ra tiếng Việt thời gian gần đây, trong đó gây ấn tượng hơn cả là những cuốn viết về thời Cách mạng Văn hoá, khi cuộc sống của cả một dân tộc bị xô đẩy bởi những ý tưởng điên khùng tới bao nhiêu thảm hoạ đổ lên đầu mọi người, trước tiên là những phần tử tinh hoa của xã hội. Tiểu thuyết Trường hận ca mà bạn đọc sẽ đọc sau đây đi theo một mạch khác. Những biến động từng được ghi trong sử sách - từ Thượng Hải trước và sau năm 1949, kéo qua Cách mạng Văn hoá, tới thời kỳ cải cách mở cửa về sau - cũng được phác hoạ làm nền cho câu chuyện, song nói chung chúng có phần lùi về phía sau để nhường chỗ cho những sinh hoạt hàng ngày của con người: làm việc, kiếm sống, gặp gỡ bạn bè, ăn uống, sắm sửa, may mặc, yêu đương, giận hờn... Như tác giả đã có lần nhấn mạnh, có thể nói nhân vật chính của tiểu thuyết là thành phố Thượng Hải nổi tiếng, song đó không phải là cuộc sống sôi nổi của một trung tâm thương mại hàng đầu thế giới, cũng không phải là cái phần hoa lệ của nó, mà là những ngõ nhỏ, những người bình thường với mọi ham muốn đơn giản, những chuyện đồn đại không đâu vào đâu và cả đàn bồ câu âm thầm trên những nóc nhà cái gì cũng biết nhưng không nói được nên lời. Trong cuộc sống có phần mờ mờ xam xám đó, nổi lên nhân vật Vương Kỳ Dao. Những người đẹp, họ là tinh hoa, là niềm kiêu hãnh của một vùng đất, sống ở thời nào họ cũng trở thành biểu trưng của thời ấy, không chỉ người thân của họ mà mọi người bình thường cũng nghĩ về họ mỗi khi muốn nhận diện thời mà mình đang sống. Trong lịch sử trường kỳ của nước Trung Hoa, câu chuyện Tây Thi xưa chói lọi không kém câu chuyện về nhiều hào kiệt thời Xuân Thu, cũng như cuộc đời Dương Quý Phi là một trong những trang đẹp nhất của một thời rực rỡ nhất như thời Đường. Về phần mình, Vương Kỳ Dao trong mức độ nào đó cũng có thể gọi là người đẹp thời nay, bởi đã từng giành được danh hiệu á hậu trong một cuộc thi sắc đẹp của thành phố. Trong cách miêu tả của tác giả có một điều đáng nói là, ở đây không có những kẻ xấu, kẻ ác như thói thường vẫn nghĩ. Trên đường đời Vương Kỳ Dao đã gặp những người có tâm, không ít thì nhiều yêu nàng, cảm phục trước sắc đẹp và vẻ lịch lãm của nàng. Mà bản thân con người này cũng nhân hậu, biết điều, một thứ con nhà lành, nhạy cảm với những gì tốt đẹp quanh mình, nhẫn nhục trước hoàn cảnh, nói chung là không nhiều thói xấu và cả sự dại dột vẫn thấy ở nhiều phụ nữ xinh đẹp. Vậy mà con người ấy trước sau vẫn bất hạnh và cái chết oan nghiệt cuối cùng đã thực sự là một sự giải thoát, nếu không thì những ngày tiếp theo ấy còn đau khổ không biết đâu là cùng! Phải chăng đường đời của Vương Kỳ Dao đã bao hàm những nét làm nên số phận chung của người đẹp ở mọi thời đại? Phải thú thực rằng, giữa đời sống bận rộn thường ngày, bản thân tôi vẫn thường để một ít thời gian làm cái công việc tưởng như vô bổ là, một cách rất vô tư, nghĩ về những người đẹp ở cái thành phố mà tôi lớn lên và nay đang sinh sống để cùng vui buồn trước những thăng trầm trong cuộc đời họ. Và thật kỳ lạ, thường tôi có cảm tưởng trừ những vẻ đẹp kiểu Thúy Vân không kể, còn lại phần lớn những người đẹp ấy khổ, người càng sắc sảo càng khổ, mà không ai tìm được lý do cắt nghĩa tại sao lại khổ đến vậy. Bạn đọc thân mến, không cần tự giấu mình làm gì, có phải chính bạn cũng thường có lúc vơ vẩn nghĩ về những con người xa lạ mà rất gần gũi ấy và bạn cũng chia sẻ với tôi điều thắc mắc nói trên? Nếu vậy, xin bạn hãy thanh thản giở tiếp những trang sách sau đây để đọc đến dòng cuối cùng. Tác giả tiểu thuyết Trường hận ca không định bảo ban, khuyên răn ta điều gì, mà chỉ đơn giản ghi lại cuộc đời một con người vừa may mắn, vừa không may là đã trót xinh đẹp hấp dẫn để chúng ta cùng ngẫm nghĩ. Tên sách Trường hận ca tác giả mượn từ tên một bài thơ dài của Bạch Cư Dị (772 - 846) kể về mối tình bi thảm gữa Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi. Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, nguyên tác Trường hận ca có phần hay hơn Tỳ bà hành của cùng một tác giả. Đã có nhiều bản dịch bài thơ Trường hận ca ra tiếng Việt, nổi tiếng nhất là bản dịch của thi sĩ Tản Đà. Từ vài thập kỷ nay, nữ tác giả Vương An Ức được đánh giá cao trên văn đàn Trung Quốc. Bà sinh năm 1954, người tỉnh Phúc Kiến, trong Cách mạng Văn hoá phải về lao động lâu dài ở nông thôn tỉnh An Huy, năm 1972 gia nhập Đoàn văn công Từ Châu, năm 1978 làm biên tập viên Nhà xuất bản Nhi đồng Thời đại (Thượng Hải), năm 1980 dự lớp bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn Trung Quốc. Vương An Ức đã cho in các tiểu thuyết: Tốt nghiệp khoá 69, Dòng cũ Hoàng Hà, Ba mươi sáu chương nước chảy, Mi-ni, Trường hận ca, Phú Bình và các tập truyện vừa, truyện ngắn: Mưa rào, Dòng chảy, Giấc mộng phù hoa trên biển, Ga cuối cùng của chuyến tàu này, Tình yêu phố nhỏ, Chuyện ông chú, Bợm rượu... Tiểu thuyết Trường hận ca của Vương AnỨc kể từ ngày ra đời năm 1996 đến cuối năm 2000 đã được in và phát hành tám lần - không kể lần đăng dài kỳ trên tạp chí Chung Sơn - số in từ 50 ngàn đến 100 ngàn bản, tuỳ lần phát hành. Năm 2000, Trường hận ca được trao giải thưởng văn chương mang tên Mao Thuẫn - giải thưởng lớn nhất của Hội Nhà văn Trung Quốc dành cho tiểu thuyết. VƯƠNG TRÍ NHÀN Mời các bạn đón đọc Trường Hận Ca của tác giả Vương An Ức.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tội Công Thành - Arthur Koestler
Đây là bản dịch tác phẩm Darkness at Noon, một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Arthur Koestler, đã được nhà xuất bản Random House xếp thứ 8 trong 100 cuốn tiểu thuyết hay nhất trong thế kỷ XX. Người dịch cho rằng sẽ rất hợp lý nếu chuyển ngữ tên tác phẩm này thành Đêm giữa ban ngày nếu như trước đó chưa có một tác phẩm đã rất nổi tiếng cùng tên của nhà văn Vũ Thư Hiên.+ Sonnenfinsternis (Nhật thực) là tên bản gốc tiếng Đức tác phẩm quan trọng nhất của Arthur Koestler. Với việc xuất bản Nhật thực trong bản dịch tiếng Anh Darkness at Noon, tác giả đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa cộng sản. Bản dịch tiếng Pháp Le Zéro et l’Infini năm 1946 với 400.000 bản gây tiếng vang lớn và khiến Đảng Cộng sản Pháp phải ra những biện pháp đối phó. Từ đó đến nay, Nhật thực trở thành một tác phẩm kinh điển của văn học thế giới thế kỉ 20, thường được nhắc chung với Trại súc vật và 1984 của George Orwell. Tại miền Nam trước 1975, Nhật thực được Nhà xuất bản Đen Trắng xuất bản năm 1973 với nhan đề Tội công thành, qua bản dịch từ tiếng Pháp của Quốc Ấn [0] . Tại miền Bắc trước 1975 và tại Việt Nam từ 1975 đến nay, tác phẩm này chưa bao giờ được ra mắt độc giả trong bản tiếng Việt.  Tội Công Thành còn có tựa đề Vòng tròn ma thuật, được dịch từ bản tiếng Anh của dịch giả Phạm Minh Ngọc. Chúng tôi mong muốn gửi đến độc giả Việt Nam hi vọng về một tương lai trong đó chúng ta vĩnh viễn không bao giờ phải trải qua những kinh nghiệm như được miêu tả trong tác phẩm cay đắng này nữa. *** Tác giả A. Koestler là người gốc Do Thái, sinh năm 1905 tại Budapest, thời thanh thiếu niên ông sống và học tập ở Hung, Áo và Đức. A. Koestler tham gia tích cực vào những cuộc xung đột xã hội và tư tưởng chủ yếu của thời đại mình. Trở thành đảng viên cộng sản trong những năm 1930 và đã đi thăm Liên Xô một thời gian, thất vọng và ra khỏi Đảng vào năm 1938. Cuối năm đó ông bị lực lượng phát-xít Tây Ban Nha bắt và bị kết án tử hình. Được tha vào phút chót nhờ sự can thiệp của chính phủ Anh, ông đến Pháp và năm sau thì lại bị bắt vì quan điểm chính trị. Sau khi được tha vào năm 1940 ông đến Anh và sống ở đây đến cuối đời. Những cuốn tiểu thuyết, những bài phóng sự cũng như các tác phẩm viết về văn hoá và chính trị đã đưa tên tuổi ông thành một trong những nhà bình luận quan trọng nhất về những nan đề của thế kỷ XX. Ông mất năm 1983. Mời các bạn đón đọc Tội Công Thành của tác giả Arthur Koestler.
Ngược Đường Trường Thi - Nguyễn Triệu Luật
Nguyễn văn Canh Viện Nghiên Cứu Hoover, Đại Học Stanford S au khi cướp ngôi nhà Lý, nhà Trần lo củng cố quyền lực. Một trong công việc này là tìm mọi cách tiêu diệt hết những người lãnh đạo của triều đại cũ, và đồng thời tê liệt hóa hoạt động của tông thuộc hay các bầy tôi của triều đại này. Công tác ấy có hy vọng giúp tránh được hậu họa mất ngôi báu về tay triều đại cũ. Nhà Trần làm những gì để ngăn ngừa hậu họa đó? Lật lại các trang sử cũ, ta thấy có 3 phương cách nhà Trần áp dụng: a)Tiêu diệt những người lãnh đạo. b) Đày ải một số ở những nơi xa xôi. c) Xóa tông tích lý lịch để những kẻ chống đối tiềm thế không còn nhớ tới nguồn gốc của mình. Cuốn Ngược đường trường thi của Nguyễn Triệu Luật đã mô tả khá đủ về vấn đề này. a) Tiêu diệt những người được xếp vào hàng lãnh đạo của Triều đình họ Lý. Nhà Trần chiếm ngôi của nhà Lý không bằng võ lực. Thái sư Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Công chúa thứ hai là Lý Chiêu Hoàng, và cho Trần Cảnh kết hôn với Lý Chiêu Hoàng. Kế đó Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi cho Trần Cảnh. Còn Lý Huệ Tông bị buộc phải đi tu, và sau tự tử chết. Vì vậy, việc tàn sát không xảy ra như thường thấy. Triều đại mới vẫn cho phép tông thuộc họ Lý sinh hoạt bình thường. Vào năm 1232, nhân ngày lễ tiên hậu hàng năm, Thái sư Trần Thủ Độ cho mời tất cả những người vào hàng lãnh dạo họ nhà Lý đến cử hành tế lễ tại lăng miếu như thường lệ. Lăng miêu ấy thuộc làng Du Lâm, tổng Hội Giang, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Thường thì, mỗi khi tế lễ xong, mọi người được mời xuống một căn phòng xây dưới đất gọi là cung, để dự tiệc. Lần này, sau khi tông thất nhà Lý xuống cung hết, Trần Thủ Đô cho giật sập sàn xây phía trên, rồi đổ đất chôn sống hơn 70 tông thất nhà Lý. b) Đày ải một số người di nơi xa xôi hẻo lánh. Trần Thủ Độ cho lập hai làng ở giáp biên giới Hoa Việt. Đó là làng Băng Hà ỏ cửa ải Kỳ Cấp, và làng Ba Điểm tại đèo Lai, thuộc châu Hữu Lũng. Những người này là cận thần nhà Lý, và những kẻ chống nhà Trần được đưa lên lập nghiệp tại đây. Họ chỉ được làm lính, không được thi cử, không được làm quan. Mục đích việc đầy ải những người này là để họ sẽ gặp nguy cơ khi Bắc quân sang xâm lăng, và chắc rằng họ sẽ bị tiêu diệt. Tuy nhiên, khi quân Mông Cổ sang xâm chiếm nước ta, cả dân cư hai làng ấy đẽ theo giặc. Sau khi đánh đuổi được quân xâm lăng, nhà Trần di cư những người này vào Nam. c) Bắt những tông thuộc nhà Lý đổi ra họ Nguyễn và không được đi thi, không được làm quan. Vì bị đe dọa nhiều người phải thiên cư đi nơi khác và sống cuộc đời nông dân trong nhiều thế hệ. Nhờ mưu chước này, Trần Cảnh đã lập ra nhà Trần vào năm 1225. Vì thấy được tâm tàn sát của Trần Thủ Độ, hoàng tử thứ hai của vua Lý Anh Tông là Lý Long Tường vào năm đó đã bỏ trốn. Ông đem đề tế khí vượt biển trốn sang Triều Tiên để tị nạn. Vì vậy ông không bị chôn sống vào dịp lễ tiên hậu kể trên. Sau khi sinh sống ở Triều Tiên được 27 năm tức là vào năm 1253, nhân khi quân “bách chiến bách thắng” Mông Cổ sang xâm lăng, ông được vua Triều Tiên triệu dụng. Ông tuyển mộ nghĩa dũng quân và giúp đánh bại quân xâm lăng. Vì có công đánh giặc, vua Triều Tiên ban cho ông họ Lý (lúc sang tị nạn, ông phải dùng họ Nguyễn) và tước vị Hoa Sơn tướng quân. Nay còn di tích là Việt Thanh Nham và có bia ghi công của ông là Thụ Hàng Môn Bi Các. Con cháu ông cùng với những gia nhân theo ông đi tị nạn lúc đó hiện lập nghiệp thành làng tại quận Khang Linh, đạo (tỉnh) Hoàng Hải. Hồi 1988 khi ghé qua Hán Thành, tôi có nhờ một Khoa Trưởng Phân Khoa Cao Học thuộc trường Đại học Hàn Quốc đưa đi thăm các làng người Việt ấy mà tôi được biết họ hành nghề đánh cá và được trả lời rằng các làng ấy thuộc địa phận Bắc Hàn. Ở phía bên kia khu phi quân sự. Một số hậu duệ Hoa Sơn tướng quân hiện ở Hán Thành và đã có liên lạc tìm về nơi đất tổ tại Du Lâm, Bắc Ninh. Tại Hoa Kỳ, sau biến cố 1975, một số hậu duệ nhà Lý vượt thoát được nạn cộng sản và đang sinh sống ở đây. Ông Nguyễn Tư Cự hiện ở California là một người trong số đó. Là trưởng chi thuộc dòng dõi đời thứ năm của Thượng thư Nguyễn Tư Giản (Bộ Lại, đời Tự Đức) và cháu ba đời của nhà giáo dục, nhà văn hóa và cũng là nhà cách mạng Nguyễn Triệu Luật, tác giả cuốn truyện này, ông Cự đã được dòng họ Nguyễn giao phó công việc liên lạc với Hán Thành để tìm tin tức và tài liệu cũng như tiếp xúc với hậu duệ của Hoa Sơn tướng quân. Tôi biết rằng đã có nhiều tài liệu rất đặc sắc về hậu duệ họ nhà Lý, ở hải ngoại và cả ở trong nước. Và trong một ngày không xa, sẽ có một cuốn sách đầy đủ về trường hợp hi hữu, có một không hai trong lịch sử Việt Nam này. Ngày 10 tháng 12 năm 1994 Mời các bạn đón đọc Ngược Đường Trường Thi của tác giả Nguyễn Triệu Luật.
Kết Thúc Vòng Thiêng - Rostislav Kinjalov
Cho đến ngày nay nền văn minh Olmec cổ ít được người biết đến, nhất là ở Việt Nam. Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử “Kết thúc vòng thiêng” giáo sư dân tộc học người Nga R. Kinjalov đã vẽ lại bức tranh cổ xưa sinh động của người Olmec huyền bí, một dân tộc da đỏ đã sống ở Mexico cách đây hơn 3.200 năm. Dựa vào những chứng cứ lịch sử-khảo cổ, Kinjalov giới thiệu với chúng ta cuộc sống của một dân tộc vào loại cổ xưa nhất của hành tinh. Trong cuốn sách này bạn đọc sẽ thấy được sinh hoạt của người Olmec cổ: điều kiện thiên nhiên, tổ chức xã hội, tình yêu, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, quyền lực và tham vọng của những người cầm quyền. Sức mạnh của thiên nhiên huyền bí luôn làm người Olmec kinh sợ, họ thờ đủ các thần: thần Độc cước – vị thần của bão tố; Thần Tâm đất – chủ nhân khủng khiếp của Âm phủ, động đất và núi lửa; Thần Cóc Vĩ đại – Đức Mẹ của các vị thần; Thần Mặt trời; Thần Nước; Thần Ngô trẻ – người cung cấp lương thực cho dân tộc Olmec v.v… Cũng như nhiều dân tộc da đỏ khác ở châu Mỹ, dân tộc Olmec dùng người sống để tế thần, một phong tục dã man mà chúng ta ngày nay không thể tưởng tượng nổi. Trong cuốn tiểu thuyết “Kết thúc vòng thiêng” chúng ta thấy hệ thống xã hội của người Olmec cổ phân cấp khá chặt chẽ với những đẳng cấp rõ ràng. Bên cạnh hệ thống chính quyền (Vua, các quan lại…) còn có hệ thống tín ngưỡng (các thầy Tư tế) giữ vị trí hết sức quan trọng trong cuộc sống của dân tộc. Theo quan niệm của người Olmec cổ, thế giới tồn tại theo chu kỳ 104 năm, gọi là vòng thiêng. Hết 104 năm các vị thần sẽ phán quyết hủy diệt hay kéo dài sự tồn tại của thế giới, và bắt đầu một vòng thiêng mới. Đồng thời tác giả cũng đưa bạn đọc vào cuộc hải hành hư cấu của một vị quan Ai Cập cổ đến vùng đất đỏ xa xôi bên kia đại dương để so sánh sự phát triển không đồng đều giữa các nền văn minh lúc bấy giờ, trong khi Ai Cập đang ở thời kỳ đồ đồng và đã chuyển sang thời kỳ đồ sắt thì dân tộc Olmec ở Mexico đang ở thời kỳ đồ đá. Với những chứng cứ khoa học xác thực, từ đầu đến cuối cuốn tiểu thuyết, tác giả dẫn bạn đọc đi hết cuộc phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác, để dần dần giải mã những bí ẩn của dân tộc Olmec cổ huyền bí. Nhà Xuất bản Trẻ hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầu tiên nói về dân tộc Olmec ở đất nước Mexico xinh đẹp, để các bạn có điều kiện tìm hiểu thêm về một nền văn minh cổ xưa. *** Sao-Lorenso. Mexico. Tình yêu không có tuổi, không ranh giới và bất tử! • D. Golsuorsi. “Mùa hè cuối cùng của Forsait.” Nhiều năm trôi qua từ khi vòng thiêng mới bắt đầu. Trong làng Tahcum-Tracang không ai dám gọi đến tên của người phụ nữ quái gở này, bà ta đi hết nhà này qua nhà khác tìm kiếm thứ gì đó không rõ. Người ta gọi bà là lão bà, còn những kẻ bất kính trong đám thanh niên cũng chỉ dám thì thầm “bà điên”. Dân làng cho rằng bà bị thần ác ám và họ sợ hãi một cách sùng tín khi bà xuất hiện, họ mời bà ngồi cạnh bếp lò, mời ăn, uống. Đôi khi bà nhận thức ăn, đôi khi không nhận và bà chỉ gạt những cánh tay nhiệt tình ra. Bà rất ít nói, không để ý đến ai, không nhìn thẳng vào mặt người đối thoại mà nhìn vào khoảng không, lời của bà thường đứt đoạn và khó hiểu. Bà lão mất trí vì đau khổ và thời gian, đó là bà Tiang thuộc tộc họ Socan. Bà không có nhà, không có người thân. Các con của ông chú do bà chăm sóc đã đi theo tiên tổ từ lâu, con của họ cũng đã mất. Cháu của họ thì xem bà như người xa lạ. Thực ra chúng không hiểu bà lão này là họ hàng thế nào với chúng. Đám con cháu của Tug-Anseng và Nam-Suc, vô số con trai và con gái của Cangah, không biết tên thật và số phận của bà. Mỗi tháng một lần bà lão bị nỗi lo xâm chiếm. Bà như thoát khỏi cơn mê, động tác trở nên rõ hơn và mạnh hơn, đôi mắt mờ đục rực sáng. Bà ra khỏi làng, và theo đường vòng để không gặp ai trên đường, đi đến hẻm núi mọc đầy cây non ăn sâu vào khu đồi của thành phố, nơi ngày xưa người ta đã thực hiện những nghi lễ của vòng thiêng và chôn chiếc đầu đá của Shang. Khối đá khổng lồ quá lớn nên không thể chôn kỹ, chiếc hố quá cạn và lớp đất lấp trên bức tượng không đủ dày nên nước mưa từ sườn đồi dần dần cuốn trôi lớp đất đắp, để lộ ra khuôn mặt của bức tượng với đôi mắt bất động nhìn lên bầu trời. Tiang cẩn thận dọn sạch cành khô, lá cây và dây leo tươi phủ trên khuôn mặt thân yêu và ngồi xuống cạnh đó. Trong những ngày này bà trò chuyện hàng giờ với bức tượng y như với người sống. “Hôm nay em ăn ngon lắm Shang à, – bà nói, – một cô gái mời em bánh ngô…, cô gái này giống em khi còn trẻ…, chàng nhớ không, chàng khen bánh ngô của em lắm mà, lúc đó chàng đã cười như bây giờ vậy… Xem này, đây là mảnh vỏ từ thân cây mà chúng ta đã ngồi lúc đó… Em giữ nó mãi mãi, em nhớ hết…, chúng ta yêu nhau biết chừng nào! Chỉ tiếc rằng chúng ta không có con; vì nếu có nó, anh đã có thể hãnh diện vì con trai của mình, em xin thề đó! Tất cả cũng chỉ vì lão Anaib-Ungir đáng nguyền rủa. Nhưng lão đã bị kiến ăn từ lâu rồi, ngay cả đống xương dơ bẩn của lão cũng đã mục trong rừng. Chỉ còn em ngồi đây tâm sự cùng anh, mặt trời vẫn chiếu sáng chúng ta…, chàng vẫn còn yêu em như ngày xưa chứ?”. Và cũng trong một buổi gặp như thế, trái tim chung thủy, cháy bỏng yêu thương của Tiang đã ngừng đập – để mãi mãi hòa nhịp cùng tượng đá ngàn năm. • Leningrad – Gumolosar, 1974 – 1977 Mời các bạn đón đọc Kết Thúc Vòng Thiêng của tác giả Rostislav Kinjalov.
Đường Chân Trời Đã Mất - James Hilton
Một câu chuyện đọc xong người đọc phải phân vân suy nghĩ. Một câu chuyện về một chiếc máy bay di tản bị cướp đi đưa bốn người về một tu viện Lama ở vùng núi cao Tây Tạng. Hay đúng hơn câu chuyện về một con người Conway, ba mươi tư tuổi, công tác tại lãnh sự quán Anh ở Baskul (Ấn Độ), một người có sức hấp dẫn kỳ lạ. Ai đã gặp anh một lần cũng phải nhớ mãi. Anh có một thời sinh viên sôi động, đại diện thể thao của Trường Đại học Oxford, đã giành hầu hết các giải của Nhà trường, khiến một giáo sư giàu tình cảm đã tặng anh danh hiệu Vinh quang: Conway Vinh quang. Cuộc chiến tranh 1914-1918 đã chen ngang vào cuộc đời anh. Cũng như hàng triệu người khác, anh bị nó lôi cuốn vào cuộc bắn giết, sợ hãi, điên dại phóng đãng... Anh ra khỏi cuộc chiến tranh không thương tật, nhưng thực tế thương tật ở bên trong. Sau chiến tranh anh trở về giảng dạy ở Trường Đại học Oxford hai năm, rồi đi làm công tác ở Bộ Ngoại giao vì anh biết nhiều ngôn ngữ Đông Phương. Anh là một con người thấy việc cần làm thì đem hết sức mình ra làm, chứ không vì cái tiếng anh hùng. Một con người không chuộng hình thức, người ta thường nghĩ anh biếng nhác, thực ra chỉ vì anh không muốn ganh đua, không muốn xô đẩy người khác để mình tiến lên. Do vậy, trên đường đời không bao giờ anh được món bở mà thường chỉ bị đẩy đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, anh vẫn không thấy buồn, trái lại còn có phần vui vì như vậy đã tránh được cuộc sống đầy cạnh tranh, chen lấn của xã hội đương thời. Chính với tâm trạng trên, khi bị bắt cóc đưa lên một tu viện Lama xây dựng ở lưng chừng trời, bên mép một dãy núi hoang vu ở Tây Tạng, anh đã gặp Lama tu viện trưởng và đã bị ông thuyết phục đến mức muốn ở lại đây để làm tu sĩ. Và chỉ ít lâu sau anh được tu viện trưởng trước khi chết đã cho anh kế vị. Nhưng vì bổn phận đối với Mallinson, viên phó lãnh sự cùng đi, một thanh niên có gia đình thân thuộc, có người yêu ở London, nên anh này nhất thiết đòi về. Và có lẽ còn vì Lo-Tsen, một nữ tu sĩ đã nhiều tuổi lắm rồi, song trông cô vẫn còn trẻ, coi như mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi, như lúc cô mới đến tu viện Lama. Conway đã yêu cô, một tình yêu không đòi hỏi được đáp lại, yêu cái thanh tú mảnh mai, và anh không ngờ Mallinson đã thuyết phục được Lo-Tsen thu xếp cùng trở về. Hai người cần có Conway là người có thể giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn đầy rẫy trên đường. Vì bổn phận và vì yêu hai người, nên anh đã nhận lời đưa họ trở về… Conway không hề kể lại cho bạn bè nghe về câu chuyện trở về này, nên chỉ biết do ngẫu nhiên mà một người bạn anh đã gặp được anh đang nằm tại một bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh: Lúc này anh đã mất hết trí nhớ. Bạn anh đã ở lại chăm sóc cho anh hồi phục được trí nhớ rồi đưa anh về London. Nhưng giữa đường, anh đã lẩn đi, dường như để tìm đường trở lại tu viện Lama, khiến bạn anh đã mất bao công sức đi hàng ngàn dặm đường, đi khắp nơi để tìm anh. Liệu anh có tìm được đường trở về tu viện Shangri-La ở Tây Tạng không? Đó là điều khó hiểu. ***  James Hilton là một tiểu thuyết gia người Anh đã viết một số tiểu thuyết bán chạy nhất, bao gồm Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), Random Harvest (1941). Trong tác phẩm Lost Horizon, ông hư cấu ra Shangri-La. Sinh ra tại Leigh, James Hilton là con trai của John Hilton, hiệu trưởng của Trường Chapel End ở Walthamstow. Ông được đào tạo tại Leys School, Cambridge. Hilton đã viết hai cuốn sách nổi tiếng nhất của mình, Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), trong khi sống trong một ngôi nhà liền kề khá bình thường trên Oak Hill Gardens, Woodford Green. Ngôi nhà nay vẫn còn, với một tấm bảng màu xanh đánh dấu cư trú của Hilton. Ông đã kết hôn hai lần, lần đầu tiên đến Alice Brown và sau đó đến Galina Kopineck. Cả hai cuộc hôn nhân đã kết thúc bằng ly hôn. Ông qua đời tại Long Beach, California do ung thư gan. Tác phẩm: Catherine Herself, 1920 Storm Passage, 1922 The Passionate Year, 1924 Dawn Of Reckoning (Rage In Heaven), 1925 Meadows Of The Moon, 1926 Terry, 1927 The Silver Flame (Three Loves Had Margaret), 1928 Murder at School (U.S. title: Was It Murder?), xuất bản với bút danh Glen Trevor, 1931 And Now Goodbye, 1931 Contango (Ill Wind), 1932 Knight Without Armour (Without Armor), 1933 Lost Horizon, 1933 Goodbye, Mr. Chips, 1934 We Are Not Alone, 1937 To You, Mr Chips, 1938 Random Harvest, 1941 The Story Of Dr. Wassell, 1944 So Well Remembered, 1945 Nothing So Strange, 1947 Twilight Of The Wise, 1949 Morning Journey, 1951 Time And Time Again, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Chân Trời Đã Mất của tác giả James Hilton.