Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tarot Lá Bài Để Ngỏ - Chương Nhiễm Nhiễm
Hãy trải bài ra, rút lấy bốn lá, và chờ đợi bài tarot phán quyết! Rời khỏi trấn Thanh Vân, tìm đường đến đô thị phồn hoa Thượng Hải, tưởng chừng có thể bắt đầu một cuộc sống mới, nhưng các vụ án vẫn theo sát gót Đỗ Xuân Hiểu. Những thi thể vô danh trôi trên sông Hoàng Phố, cái xác cháy đen được nhét trong rương mây cúng vụ mất tích của hoa khôi lừng danh tại vũ trườngThượng Hải, tất cả như một vòng xoáy hút lấy Xuân Hiểu và Hạ Băng, muốn kéo họ đến tận cội nguồn của cái ác. Không chỉ thế, tay bạn trai cũ Stephen của Đỗ Xuân Hiểu cũng đã tìm đến, nhắc cô nhớ lại ký ức hãi hùng ngày còn ở London. Chỉ dựa vào trí tuệ và những lá bài Tarot, liệu Xuân Hiểu có thoát nổi vòng bủa vây của hiện thực và quá khứ. Chương Nhiễm Nhiễm có bút danh là Ám Địa Yêu Nhiêu, người Hồ Châu, Triết Giang. Cô là nhà văn, nhà phê bình điện ảnh, có nhiều bài viết trên các báo và tạp chí. Lá bài phán quyết nằm trong bộ ba truyện về nữ thần thám bài Tarot Đỗ Xuân Hiểu. Tiểu thuyết nhận được sự hưởng ứng của đông đảo độc giả và được đạo diễn Lý Thiếu Hồng chuyển thể thành kịch bản phim truyền kỳ “Kiển trấn kỳ duyên”. “Tâm cơ của nữ nhân trong tiểu thuyết suy lý của Chương Nhiễm Nhiễm thật sự đáng sợ, đến mức tôi phải nổi da gà.” – Nhà văn Hồng Ảnh *** "Lại nữa rồi! Lại thêm một cái xác nữa!" Đỗ Xuân Hiểu đứng bên bờ sông Hoàng Phố, tay cầm nửa cái bánh rán gặm dở, vụn bánh trong miệng theo nước bọt phun ra, dính đầy lên cổ chiếc áo dạ xám kiểu Tây. Tay áo len cũng bị xổ, mấy sợi len đứt bay phất phơ trong gió. Mấy bà bác ôm miệng vẻ mặt kinh hoàng, thằng ranh ăn mày đi đôi giày da rách bươm độn chặt giấy báo nhe nhởn nhảy loi choi bên cạnh, gã trai trông có vẻ gan dạ nép trốn đằng sau rụt rè thò đầu ra nhìn. "Cậu đoán xem trong số những người kia kẻ nào là cánh săn tin?" Đỗ Xuân Hiểu huých cánh tay Hạ Băng, môi cô gặp thời tiết mùa thu hanh khô nứt nẻ đến tróc cả da, chốc chốc lại phải thè lưỡi liếm. Hạ Băng chỉ một tên lùn đứng cách xa cái đôn đá gần bờ sông, da dẻ vàng vọt, mũ lưỡi trai đội sùm sụp, che kín cả đôi con mắt. Rồi lại chỉ sang Đỗ Xuân Hiểu, ngón tay trỏ suýt chút nữa xỉa vào trán cô. Đỗ Xuân Hiểu vì muốn học đòi kiểu Tay, đã đến hẳn tiện Hoa Hồng Đỏ cắt đầu học sinh mái bằng, tiếc là trải chuốt qua loa, ngọn tóc cái cụp cái vểnh, khuôn mặt đáng lẽ phải trẻ trung ra giờ trông lại già nua gấp bội. Đỗ Xuân Hiểu tóm lấy ngón trỏ của Hạ Băng, bực bội "hừ" một tiếng, rồi tiếp tục nhìn cái xác đang trôi trên sông. Những xác chết ấy đều trắng hếu, dập dềnh trên mặt nước lững lờ trôi xuống hạ lưu, hai chân hơi tách ra, mái tóc dài rẽ sang hai bên, xõa tung như rong rêu, vì cái xác úp nên chỉ trông thấy cặp mông xanh mét, không phân biệt nổi nam hay nữa. Nhưng Đỗ Xuân Hiểu rút ra một quân Nữ tư tế, cười bảo: "Lại là hồn nam đoản mệnh, mấy ngày liền nhìn lắm "chim" quá đi." Hạ Băng lập tức đỏ bừng mặt, tức tối nói: "ý cậu là, cậu nhìn nhiều "chim" rồi, đã mắt rồi, nên muốn tôi xem cái khác chứ gì?" "Xem cái khác là cái gì?" Cô đột ngột ghé khuôn miệng nồng nặc mùi khói thuốc sát vào tai anh, phá lên cười xảo trá. Anh không đáp trả, chỉ đưa tay dẩy gọng kính, cổ đỏ dừ như tôm luộc. Không hiểu vì sao, từ khi tới Thượng Hải, Đỗ Xuân Hiểu tuy vẫn giữ bộ dạng lôi thôi lếch thếch nhưng tự nhiên lại tăng thêm vài phần gợi cảm, đây là điều anh chưa từng cảm nhận được khi ở trấn Thanh Vân. Cô dường như bẩm sinh đã thuộc về thế giới phồn hoa đô hội, có bất cần thế nào cũng vẫn hòa mình vào phong cảnh ấy, trái lại chẳng ăn nhập gì với chốn tiểu trấn quê mùa. Điều anh thích ở cô chính là kiểu yêu ghét rõ ràng lại biết vừa biết đủ, song đằng sau ẩn giấu những ngọn nguồn đen tối, biến ảo khôn lường như lá bài trong tay cô vậy. Trong nửa tháng đầu đến Thượng Hải, thú vui duy nhất của hai người là đứng bên bờ sông Hoàng Phố ngắm xác chết. Vì thuê trọ ở trong khu Thạch Khố Môn, chủ nhà lúc nào cũng nghi ngờ bọn họ giả nhân ngãi non vợ chồng, khổ nỗi không nắm được bằng chứng, đành nể mặt "ông bác Tiền" mà cho thuê. Dù vậy bà ta vẫn căn dặn tay thợ may Lý ở sát vách để ý coi chừng, tựa hồ đã lập tức quy chụp họ là đôi mèo mả gà đồng. Được cái Đỗ Xuân Hiểu chẳng hề bận tâm, dăm ba hôm lại đi kiếm tay thợ may kia buôn chuyện, đọc ké báo nhà hàng xóm, từ đó mới biết trên sông Hoàng Phố nổi lên một bầy xác chết, đã thành cảnh quan "tráng lệ" của thành phố không thể bỏ lỡ nên khăng khăng kéo Hạ Băng đi xem mấy lần. Hơn mười ngày nay, xác trôi trên sông đã lên tới con số năm mươi bảy, đều từ thượng lưu trôi xuống vào khoảng bảy tám giờ sáng, mình trần trụi, cái ngửa mặt lên trời cái úp mặt xuống nước, xương sường gaawy nhẳng nhô hết cả lên. Đỗ Xuân Hiểu hằng ngày nắm chặt lá bài Thần chết trong lòng bàn tay, ngồi ám quẻ quán cà phê ngoài trời trên đường Hà Phi. Hạ Băng cầm cốc đồ uống nóng trong tay, nhưng cứ lần lữa không nhấp miệng, chỉ đợi Đỗ Xuân Hiểu rút bài. "Ở đây xác chết đã thành họa như thế, hay cậu cũng hành nghề thám tử tư luôn đi. Cậu xem lá bài này, Công lý xuôi, chính là cần cậu hành hiệp trượng nghĩa đấy. Còn Hoàng hậu ngược kia ám chỉ sắp tới mối giao thiệp với nữ giới của cậu sẽ phong phú thêm, trổ vận đào hoa, tốt số không để đâu cho hết! Còn nữa còn nữa, lá tương lai lại là Chiến xa xuôi, đáng vui đáng mừng, vụ án xác nổi trên sông Hoàng Phố này phải đợi dũng sĩ giữa đường thấy chuyện bất bình là cậu ra tay phá án rồi." Đỗ Xuân Hiểu liến thoắng vung vít làm máu nóng trong người Hạ Băng sôi lên sùng sục, chỉ muốn đi đăng ký ngay giấy phép thám tử tư. Hiềm nỗi khu tô giới Pháp không lắm quy củ nhưng đều phải dùng tiền tạp quan hệ, huống hồ thế lực Hồng Bang rất lớn, muốn lôi kéo mấy tay mật thám đều phải trông sắc mặt chúng, nghĩ đến đây, anh không khỏi lúng túng ra mặt. Đỗ Xuân Hiểu đương nhiên biết tỏng điều anh lo ngại, vội cười bảo: "Tìm trong túi quần cậu xem có cái gì thế?" Anh lục túi quần, lôi ra được một xấp giấy bạc, đang định gạn hỏi thì cô đã chặn họng: "Không cần hỏi nguồn gốc, dù gì cũng chẳng minh bạch lắm đâu." Hạ Băng nghe xong không khỏi bật cười: "Phàm những gì cậu dám nói trắng ra là không minh bạch thì nhất định cả đời cũng chẳng truy nổi nguồn gốc, tôi đương nhiên không cần hỏi làm gì. Có điều vụ án xác nổi này, tôi mà phá được thể nào cũng trở thành kỳ nhân số một làm chấn động cả bến Thượng Hải cho xem. Chúng ta mới tới đây, vẫn còn bị khinh rẻ vì là người ngoại tỉnh, lấy đâu ra bản lĩnh đi làm chuyện..." Lời còn chưa dứt, Đỗ Xuân Hiểu đã áp thẳng lá bài Chiến xa lên môi Hạ Băng: "Phí lời, đi tìm chứng cứ rồi mau mở hàng thôi. Với cả chuyện xác nổi này, nếu gặp đúng thời cơ thì thể nào cũng rơi lên đầu tôi với cậu, chuẩn bị trước không thừa đâu." Hạ Băng chỉ đành dán miệng lên lá Chiến xa ấy, không chất vấn thêm nửa lời. Về phần mình, Đỗ Xuân Hiểu vô cùng hào hứng, thời nào cũng thế, người tìm đến nhờ cậy thám tử tư đa phần không phải những phu nhân nhà giàu muốn điều tra đức ông chồng liệu có ra ngoài lăng nhăng, thì là các bà vợ bé lo mình bị ruồng bỏ, hay các cô vũ nữ muốn sớm ngày trèo lên cành cao mong tìm hiểu cặn kẽ về mấy vị đại gia, làm sao mà không qua lại nhiều với phụ nữ cho được? Đây đúng là cái cây rụng tiền. Còn bọn họ có thể phá vụ án xác nổi này không thì phải dựa cả vào phán đoán chủ quan của cô thôi. Có điều trông thấy các xác kia đầu bù tóc rối, như chưa bao giờ được cắt tóc tai, hơn mười ngày nay cũng không hề thấy nhân thân đến nhận xác, cách giải thích duy nhất chính là những người chết đó đều là phường ăn mày lưu manh, sớm đã chẳng còn ai thân thích. Sự sống chết của những người này xưa nay đều không được ai đếm xỉa, phòng cảnh sát cũng không đời nào để tâm, trái lại giới thám tử xuất thân giang hồ, làm việc âm thầm gọn nhẹ, lại dễ bắt tay điều tra nhất. "Mọt sách, hiệu sách Hoang Đường của tôi sẽ mở cùng văn phòng thám tử tư của cậu, giả thần giả quỷ gạt tiền bói toán cũng là một cách làm ăn mà!" "Ở đây ai mà biết trò quỷ ấy của cậu chứ?" Hạ Băng hậm hực. "Tay thợ may Lý mồm loa kia biết chẳng phải được rồi sao?" Đỗ Xuân Hiểu nhăn mũi hằm hè, cặp mắt sáng lên như sao, phút chốc đã trở thành một "mỹ nhân" tự tin chẳng còn mảy may kệch cỡm. ... Mời các bạn đón đọc Tarot Lá Bài Để Ngỏ của tác giả Chương Nhiễm Nhiễm.
Tarot Lá Bài Phán Quyết - Chương Nhiễm Nhiễm
Bốn vụ huyết án, những cái chết bí ẩn... Cảnh sát loay hoay, Tử thần chờ chực... Hãy trải bài ra, rút lấy bốn lá, và...Liệu hung thủ có lộ diện trên lá bài? *** Tác phẩm của Chương Nhiễm Nhiễm do NXB Nhã Nam kết hợp với NXB Thời Đại phát hành từ 2014. Có thông tin rằng bộ sách được dựng thành phim, có tên là Kiển Trấn Kỳ Duyên nữa  (Kiển trấn có nghĩa là một trấn nuôi tằm lấy tơ dệt lụa nhé). Phải đến dạo gần đây khi thấy có tập 2 - Tarot Lá Bài Để Ngỏ mình mới nhớ ra tủ sách có quyển này và lôi ra đọc :v Thú thật là sách được tặng và mình sợ ma quái nên bị kiêng dè. Nhưng sự đã lỡ, không nhẽ bỏ không nên động chạm vào :)) Bìa sách đẹp và quỷ dị, pha trộn các màu đỏ, xanh, ghi trên nền đen. Bìa đẹp nhưng hem liên quan đến nhân vật chính mấy vì cô em trên bìa sách mặc sường xám xanh còn Đỗ Xuân Hiểu là nhân vật chính thì lại mặc màu nâu đất :)) Truyện này có thể coi là trinh thám kết hợp với tâm lý xã hội, kể về một loạt các án mạng (14 án) xoay quanh âm mưu tranh quyền đoạt lợi của gia tộc họ Hoàng – một thế gia về nuôi tằm trong trấn Thanh Vân. Hoàng Thiên Minh tay trắng làm nên cơ ngơi này có 3 bà vợ tên là: Mạnh Trác Dao, Tô Xảo Mai và Trương Diễm Bình và 4 người con lần lượt theo tên của mẹ chúng và ngăn cách ra gồm: Hoàng Mộng Thanh –Hoàng Mạc Như, Hoàng Phi Phi – Hoàng Mộ Vân. Mộng Thanh đi du học ở Anh quốc về và có quen Đỗ Xuân Hiểu – một cô chủ tiệm sách quái dị chuyên bói bài Tarot dựa vào tâm lý người xem mà phán bài. Truyện mở đầu bằng việc Xuân Hiểu xem bói cho một cô nương rất xinh đẹp tên là Điền Tuyết Nhi và 3 cô hầu gái khác cuả họ Hoàng. Ít lâu sau thì 4 cô này đều chết trong nhà họ Hoàng và bị khoét ổ bụng rất tàn nhẫn. Phải nói luôn, bối cảnh của truyện xảy ra vào thời kỳ dân quốc, tức là có cảnh sát – chứ không phải quan huyện (có cả bài tarot nữa còn gì :v) nhưng vì là trấn nhỏ nên phương tiện và nhân lực không có. Vì vậy loanh quanh đội cảnh sát chỉ có vài nhân vật chính là Hạ Băng – bạn thơ ấu của Đỗ Xuân Hiểu, đội trưởng Lý Thường Đăng và đội phó Kiều. Mấy người này tra xét loanh quanh đến cuối cùng thì chết gần hết =)) Mình không muốn làm người đọc mất hứng nhưng quả thật là nếu đọc xong hết tập 1 thì cụt hứng thật. 14 người chết, khoảng thời gian lại liền liền nhau, chốt lại chỉ có 1 hung thủ chính và 2, 3 hung thủ khác nên cảm giác mạng người trong truyện này như cỏ rác ấy, muốn là giết mà còn không có manh mối gì chứng thực ấy :)) Lúc phá án mình trông chờ các băng chứng nhưng mà không có, rặt những điều suy diễn từ lá bài ra. Azza, tác phẩm này không thực sự xuất sắc, thậm chí theo quan điểm của mình thì nó còn chỉ ở mức trung bình :)) Nhưng lỡ rồi thì review tiếp đây :v Đỗ Xuân Hiểu vì quen Mộng Thanh lại có tiếng về bói bài nên được cô Cả mời vào phủ điều tra và bói bài??? Chú của Xuân Hiểu là Đỗ Lượng là quản gia nhà này – tuy vậy ông ta không phải nhân vật gây kịch tính hay nút thắt gì. Trong 4 a hoàn bị cắt ổ bụng có Tuệ Mẫn – nạn nhân cuối cùng thì vẫn còn trinh. Giả thiết này sau đó sẽ phục vụ phá án. Ngâm Hương – một a hoàn khác có liên quan thì ăn cắp đồ và trốn đi. Sau đó cũng bị giết và quăng xác xuống sông, tiền bạc mất hết. Nhà họ Hoàng chuyên mời bác sỹ về khám bệnh tổng quát cho người nhà cứ mỗi 3 tháng. Bác sỹ tên là Bạch Tử Phong – một cô gái xinh đẹp cao nhã và là mối tình đơn phương của cậu Hai Mộ Vân. Tử Phong có dính dáng gì đến bà Cả mà manh mối trong truyện có đưa ra? Sau đó ít lâu khi các cảnh sát phát hiện ra manh mối thì Tử Phong đã bị chết tại nhà, hung khí là một vật cùn. Thực ra hung khí không quan trọng trong truyện này nhé, giết người hàng loạt thôi nên vớ gì giết nấy :)) Trong bữa ăn gia đình, bà Cả bỗng nhiên nuốt phải đinh và ho ra máu. Vụ việc dẫn đến xích mích đỉnh điểm của bà Hai và bà Ba. Bà Ba hóa điên đánh đập bà Hai nên bị nhốt vào gác sách. Vào đây bà ta lại ngộ sát một nhân vật được cho là Túy Tiết Trì – chủ cũ của căn nhà. Từ đây khơi gợi câu truyện chiếm nhà của Hoàng Thiên Minh 20 năm trước. Câu hỏi là làm sao họ Túy kia trốn ở gác sách 20 năm mà không ai hay? Chưa kể lão ta ăn bằng gì, sinh hoạt ra sao.. *** "Muốn xem gì?" "Ừm... hôn nhân." Người phụ nữ siết chặt mảnh khăn màu mật trong tay, bất động nhìn chằm chằm lá bài trên mặt bàn, dưới tấm áo khoác ngắn tay lỡ thêu kín hoa sen màu kim lục, hai cánh tay buông thõng, lúc cần tráo bài mới miễn cưỡng chìa ra. Đỗ Xuân Hiểu quấy quá chồng bài thành ba phần rồi gom lại, rút bốn cây trên cùng trải thành hình thoi, cười thầm trong bụng: "Đừng trách tôi nói ra những điều khó nghe. " Lá bài thứ nhất lật lên: Mặt trời ngược, mở đầu quả cũng có chút thú vị. "Chúc mừng chúc mừng, chị nên duyên cùng người đàn ông tốt đó! Chắc năm xưa các bậc trưởng bối trong nhà đều tán thành hôn sự này phải không?" Đỗ Xuân Hiểu cố không nhìn vào cách ăn vận của người phụ nữ trước mặt - hoa tai phỉ thúy buông trĩu, lưới chụp tóc trân châu, váy dài đỏ tươi giặt nhiều đã bạc màu, là mốt từ năm năm trước, có thể thấy vị phu nhân này mới đầu quả thật từng sống trong hạnh phúc. Người phụ nữ quả nhiên gật gù, mặt thoáng ửng đỏ. Đỗ Xuân Hiểu lại lật hai lá bài ở giữa: Hoàng đế ngược và Người treo ngược, lá trước tượng trưng cho nam quyền, lá sau có thể giải thành hoàn cảnh khó xử trăng soi mương rãnh. Cô trầm ngâm hồi lâu, đoạn than: "Giờ không như hồi xưa nữa, ở nhà bị chồng đánh chửi là chuyện thường phải không? Tính chị lại yếu đuối, không dám cất lời, chung quy là số nhẫn nhục chịu đựng. Có điều..." "Có điều làm sao?" "Có điều người đó không biết thương hoa tiếc ngọc thì thôi, lại còn đánh chết cốt nhục của chính mình, thực cũng hơi quá đáng." Đỗ Xuân Hiểu đặt hờ ngón tay lên lá bài Người treo. "Chuyện đó sao xem ra được?" Người đàn bà bất giác mở to đôi con mắt vô hồn, định thăm dò bí mật qua bộ dạng uể oải của Đỗ Xuân Hiểu. Đỗ Xuân Hiểu lẳng lặng thu nụ cười giễu cợt nơi khóe mệng, nói bừa rằng nhìn thấy qua lá bài. Cô sao có thể nói với khách hàng, từ dáng vẻ chị ta bước vào tiệm sách Hoang Đường đã đoán ra được cơ thể gần đây bị thương nặng. Càng không thể nói, chị ta vừa ngồi xuống, không coi tài vận, không xem sức khỏe, ngay từ đầu đã hỏi về hôn nhân, chỉ chứng tỏ một điều là hôn nhân có vấn đề. Đặc biệt mấy vết sẹo xám ngắt nơi mặt trong cánh tay bất cẩn lội ra khi tráo bài, tuy không nổi bật, nhưng lại khiến người ta không thể không chú ý, có thể thấy chuyện bị ngược đãi chẳng phải ngày một ngày hai, vậy mà nín nhịn đến tận bây giờ mới tới xem số coi mệnh, không phải bị người đàn ông trong gia đình bức vào tuyệt cảnh mới là lạ. iều cô không muốn nói ra nhất là, tháng trước giặt đồ bên bờ sông chính mắt mình đã nhìn thấy đối phương vác bụng trống... Bói toán chính là như vậy, đem huyền cơ giấu đi thật kín, công lao tất tật quy về tráo bài, đó mới là phong thái thần thông tiêu chuẩn. Lá bài cuối cùng được lật: Phán quyết ngược. Xem ra mọi chuyện đều đã không thể vãn hồi... Đỗ Xuân Hiểu phấn khích đến nỗi hai chân run lập cập, cô thích nhất dự đoán tương lai của khách hàng, những trông ngóng, lo sợ, thậm chí oán hận trong đó đều khiến cô thấy ngọt như ăn mật. Vì vậy, Đỗ Xuân Hiểu hắng giọng, bắt đầu yểm bùa lên người phụ nữ đang lưỡng lự kia. "Ôi chao! Xem ra hôn sự này cũng sắp đến hồi kết rồi." Cô xoa xoa tay, cầm lá bài Phán quyết lên quét nhẹ qua cằm mình, "Lá Phán quyết ấy mà, quý khách cũng nên đưa ra quyết định đi thôi, bằng không, cứ tiếp tục thế này có khi càng thảm. Song..." Người phụ nữ không truy hỏi "Song làm sao", mà chỉ nhìn như đóng đinh vào lá bài Hoàng đế. Đỗ Xuân Hiểu thấy cá không cắn câu, đành tự mình nói tiếp: "Song nhìn lá bài Hoàng đế này đi, lá bài ngược, chứng tỏ có người đàn ông có thể nắm giữ vận mện của quý khách, tuy nhiên hiện giờ người này chưa thể lộ diện. Còn về sau có thể đường hoàng đứng ra ngoài sáng hay không, thì phải xem quyết định của quý khách đây." Phán đoán này cực kì táo bạo, nhưng Đỗ Xuân Hiểu không lo bể bài, đời người ba phần giống nhau, trải nghiệm của mỗi người ít nhiều đều có chút trùng hợp, huống hồ người phụ nữ trước mắt mặt mày xinh đẹp, hai má ửng hồng, là hình mẫu rất dễ khiến đàn ông động lòng, cho dù hiện giờ chưa có tình nhân, thì mấy chuyện ám muội, theo đuổi hẳn không thiếu, đây đại để cũng là nguyên nhân chính khiến chị ta bị gã chồng nóng nảy đánh mắng. Vị khách chỉnh trang lưới tóc trân châu sau đầu, nhét từng lọn tóc con xổ ra vào lại lưới, bây giờ mới để lộ vết đỏ kỳ lạ dưới gáy. Quả nhiên có chuyện này! Đỗ Xuân Hiểu hai mắt sáng rỡ, bắt đầu thăm dò thêm một bước, cô ghé sát đầu lại bên tai phu nhân nọ, nhìn kỹ giấu hôn kia rồi mới hạ giọng: "Nhưng phàm người nào tới chỗ tôi xem bói, về sau đều mắng tôi xem không chuẩn, vì chuyện tương lai tôi nói ra đều không thành sự thât, vậy nên quý khách đây vẫn phải có kế hoạch riêng, tự mình quyết đoán. Đúng rồi, nhất thiết đừng làm ra mấy chuyện hung hiểm, nguyên nhân khiến người đàn ông bị treo ngược rất nhiều, bệnh tật, tai bay vạ gió, thậm chí giết người, đều có cả. Quý khách nhất định phải bình tĩnh, sự thể cũng như trăng đến rằm thì tròn, tự nó sẽ diễn biến, chớ để sau này thành ra lưỡng bãi câu thương, đến khi đó lại trách tôi xem không chuẩn." Phu nhân nọ vội vàng gật đầu, đôi hoa tai dài buông xuống đung đưa hai bên má hồng đào. Tiễn khách đi rồi, Đỗ Xuân Hiểu vội cầm chồng bài chưa lật lên kiểm tra, chửi thầm: "Mẹ nó! Quả nhiên lúc mới tráo bài không xếp cho tử tế, cả bộ đều bị ngược!" Mười ngày sau, Điền thị phu nhân nhà Trương thợ bạc trấn Thanh Vân biến mất cùng thầy dạy học, Trương thợ bạc đấm ngực giậm chân, vung tiền thuê người xới tung trấn lên tìm kiếm, nhưng nghe đồn hai người này đã kéo nhau bỏ trốn sang tỉnh ngoài. Chỉ duy có Đỗ Xuân Hiểu rõ, xác Điền thị và thầy dạy học kia e đã sớm chìm nghỉm dưới đáy con sông chảy vắt qua trấn Thanh Vân, bởi bất luận Hoàng đế hay Người treo, đều là trận đối đầu giữa đàn ông với đàn ông. ... Mời các bạn đón đọc Tarot Lá Bài Phán Quyết của tác giả Chương Nhiễm Nhiễm.
Hồ Sơ Tâm Lý Phạm Tội - Cương Tuyết Ấn
  Ghi chép toàn bộ hung án khiến người ta run sợ. Hồ sơ tâm lý phạm tội là một bộ sách bao gồm gần như toàn bộ nguyên tố phạm tội đáng kinh ngạc: Án bằm thây chưa giải quyết, ác quỷ ngược đãi trẻ em, điện thoại từ địa ngục, mộ huyệt tàn thi, sát nhân ma chú. . . Mỗi một vụ hung án đều làm cho da đầu người ta ngứa ngáy, hung thủ vẫn luôn ẩn trốn bên cạnh chúng ta, cùng chúng ta ăn chung ngủ chung. Mặt trái quyết tử tranh đấu giữa thiện và ác, tràn đầy tuyệt vọng, oán hận, đố kỵ, tham lam, ngạo mạn, sắc dục, cấm luyến. Những hồ sơ đen tối nhất bí ẩn nhất của sở cảnh sát hoàn toàn bị vạch trần, đưa bạn từng chút đi sâu vào hiện trường phạm tội, đối mặt với cái ác khiến người ta sợ hãi nhất, nan giải trầm trọng nhất là nhân tính! Những cái chết liên tiếp huyền bí khó lường, một loạt những phương pháp phạm tội quỷ dị nhất. Giữa người và ác quỷ, kỳ thực chỉ cách nhau một bước. Trời tối rồi, xin đừng nhắm mắt! *** Lời dẫn 1996 Tuyết lớn, thành phố J, ngày 18 tháng 01, năm 1996. Đây là trận tuyết đầu tiên từ khi bắt đầu mùa đông tới nay của thành phố J, chạng vạng một ngày trước đó đến rạng sáng ngày kế, hoa tuyết tung bay khắp trời, phiêu tán khắp phố lớn ngõ nhỏ, cả thành phố bị màu trắng ngần của tuyết bao phủ, tĩnh mịch lại trang nghiêm. Đường sá rộng rãi cũng như một tờ giấy trắng trải phẳng, không chút cáu bẩn và nếp nhăn, thỉnh thoảng có dấu vết của ô tô và người đi đường ngang qua, rất nhanh bị những bông tuyết mới che phủ, không để lại chút vết tích, thật là một ngày tốt lành để "Vứt xác"! Khoảng bốn giờ sáng, tuyết rốt cuộc cũng ngừng, trên đường cái trống trải truyền đến một tràn tiếng vang kẽo kẹt kẽo kẹt, công nhân vệ sinh bảo vệ môi trường Thẩm Tú Lan, đẩy chiếc xe con vệ sinh bốn bánh, đi quét dọn đoạn đường chị phụ trách. Thẩm Tú Lan dừng lại bên cạnh một thùng rác lớn đầu hẻm. Hít một hơi thật sâu, bầu không khí sau tuyết nhẹ nhàng khoan khoái, cuối cùng triệt để xua tan cơn buồn ngủ còn sót lại của chị, chị từ trên xe dọn vệ sinh cầm lấy chổi, quơ vài cái, chuẩn bị bắt đầu quét dọn đường sá. Lúc này, đầu hẻm nổi lên một trận gió xoáy, hất tuyết lên khắp người chị, trước thùng rác tuyết vốn chất đống cũng bị gió thổi tan, lộ ra một túi du lịch màu sẫm, giữa một mảng tuyết trắng bốn phía, túi du lịch màu sẫm có vẻ đặc biệt chói mắt. "Những người này cũng thật là, đi thêm một bước nữa cũng lười đi, cứ phải ném ra ngoài!" Thẩm Tú Lan lắc đầu lẩm bẩm một câu, tiện tay xốc túi du lịch lên, đang muốn ném vào thùng rác bỗng nhiên đổi ý, muốn xem trong túi chứa cái gì, chị nhanh tay, đặt túi trên đất, kéo khóa quan sát bên trong. Trời vừa tờ mờ sáng, ánh sáng mờ tối, Thẩm Tú Lan thấp thoáng thấy trong túi dường như là một ít thịt heo bọc miếng băng mỏng bên ngoài màu máu lẫn lộn. Chị đưa sát mũi ngửi, không có mùi gì khác, nghĩ thầm, có thể là ai đó lúc giao hàng sớm cho chỗ bán thịt heo không cẩn thận đánh rơi, hoặc hộ gia đình nào đó ngại thịt béo không muốn ăn nên ném. "Ôi, thực lãng phí đồ vật. Cũng tại vì bây giờ cuộc sống tốt rồi, nếu là mấy năm trước, nhà nhà nấu ăn dùng mỡ cũng đều là mỡ heo này làm thành." Thẩm Tú Lan thốt lên một câu cảm thán, kéo khóa lại, lại nặng nề xốc túi du lịch lên, đặt trên xe dọn vệ sinh, chị dự định mang túi thịt này về cho "Tiểu Hoàng" ăn. "Tiểu Hoàng" là con chó lang thang Thẩm Tú Lan nhặt được lúc quét dọn đường. Khi ấy, chú chó nhỏ cả người đen nhẻm bẩn thỉu nằm bên đường, trên hai chân trước đang chảy máu, thoạt nhìn như là bị thương. Chú chỏ nhỏ rên rỉ dùng ánh mắt đau đớn nhìn chằm chằm Thẩm Tú Lan, trái tim hiền lành của chị lập tức mềm nhũn. Chị ôm nó về nhà, cùng con gái tắm rửa cho nó, băng bó kỹ vết thương. Chú chó nhỏ được tắm, hiện ra màu lông ban đầu - màu vàng, vì vậy con gái liền đặt cho nó một cái tên là Tiểu Hoàng. Tiểu Hoàng từ đó được xem như một thành viên trong gia đình, con gái Thẩm Tú Lan vô cùng thích nó, mỗi ngày ngoại trừ ngủ và đến trường, hầu như cùng chú chó nhỏ như hình với bóng, như chăm sóc em trai mà chăm sóc chú chó đáng yêu này. Sáng sớm vừa bắt đầu làm việc đã nhặt được một túi thịt, Thẩm Tú Lan cảm giác hôm nay vận may của mình thật không tệ, sức làm việc cũng không khỏi tăng vọt lên, hơn hai giờ đã sạch sẽ gọn gàng hoàn thành công tác dọn tuyết trên đường. Chị nhanh nhẹn thu dọn dụng cụ, đẩy xe con trở về nhà. Chỗ ở Thẩm Tú Lan cách đoạn đường chị quét dọn không xa, đi bộ cả đi lẫn về chỉ hơn nửa canh giờ, cho nên thường sau khi kết thúc ca sớm là chị lén chuồn về nhà, làm cho chồng và con gái một bữa sáng nóng hổi. Nhà của Thẩm Tú Lan là đơn vị của chồng chị phân cho, ở quanh đó cũng đều là đồng nghiệp của đơn vị chồng, hai bên rất quen thuộc. Chị vừa cùng hàng xóm lui tới trong hành lang vui vẻ chào hỏi, vừa lấy chìa khóa mở cửa nhà mình. Đúng như dự đoán, con gái sau khi rời giường không để ý đến rửa mặt đã cùng chơi đùa với chú chó nhỏ trong phòng khách, chồng xem chừng còn chưa thức dậy. "Tiểu Hân, đừng chơi nữa, mau đánh răng rửa mặt!" Thẩm Tú Lan thay dép lê, đi tới cửa phòng bếp đặt túi du lịch xuống, vừa đi vào toilet rửa tay vừa thúc giục con gái. Thẩm Tú Lan thay quần áo lao động ra treo trên tường phòng tắm, nghe con gái trong phòng khách hỏi: "Mẹ, cái túi mẹ cầm về kia đựng gì trong đó thế ạ?" "Ở trên đường lượm được một túi thịt, mang về cho Tiểu Hoàng ăn." "Mẹ, con đút Tiểu Hoàng một miếng được không?" "Được chứ, con coi chừng một chút, đừng làm dơ áo ngủ." "Dạ, con biết rồi." Thẩm Tú Lan đi tới trước bồn rửa tay thoa xà bông lên tay và mặt, nghe tiếng con gái lê dép lẹp xẹp đến bên phòng bếp, tiếp theo là thanh âm ồn ào kéo khóa, sau đó yên lặng một hồi, phỏng chừng con gái đang chọn thịt, nhưng rất nhanh, một tiếng kêu sợ hãi thảm thiết truyền vào tai chị. Thẩm Tú Lan chưa từng nghe qua tiếng kêu thảm thiết như vậy của con gái, chị không màng suy nghĩ nhiều, xà bông vẫn còn trên mặt liền chạy vọt ra khỏi phòng tắm, đồng thời chồng chị bị tiếng thét chói tai của con gái đánh thức cũng từ phòng ngủ chạy vội ra. Hai người lớn, một cha, một mẹ, lúc này cũng sợ ngây người! Con gái trợn to mắt, há cái miệng nhỏ nhắn, ngơ ngác ngồi ở cửa bếp, cả người như bị đóng băng, trong bàn tay nhỏ giơ giữa không trung của con bé, siết thật chặt một "ngón tay" đầm đìa máu! Người đàn ông kinh hô. Người phụ nữ gào thảm thiết. Chú chó Tiểu Hoàng sủa "gâu gâu". Đôi mắt kinh ngạc của bé gái gắt gao nhìn chằm chằm vào ngón tay máu. ... Mời các bạn đón đọc Hồ Sơ Tâm Lý Phạm Tội của tác giả Cương Tuyết Ấn.
Hoàng Hà Quỷ Quan Tập 1 - Nam Phái Tam Thúc
Sách Nói Hoàng Hòa Quỷ Quan Một thương nhân đồ cổ đang lúc làm ăn thất bát thì bất ngờ bị cuốn vào một sự kiện vô cùng quỷ dị phát sinh tại công trình Hoàng Hà.  Phàm là bất kỳ ai vướng vào sự kiện này đều từng người, từng người một không báo trước cùng từ giã cõi đời.  Chính bản thân hắn cũng cảm nhận tử thần đang từng bước, từng bước tới gần mà nguyên nhân tử vong vẫn ngày càng mờ mịt như sương khói. Hắn miệt mài kiên nhẫn bóng tách từng lớp màn bí ẩn, nhằm phát lộ thứ khủng khiếp gì đang ẩn dưới lớp phù sa Hoàng Hà.  Bài đồng dao thôn quê khó hiểu, người trong suốt bên trong thạch đài dưới đáy sông. Xích sắt từ ngàn năm trước ruốt cuộc muốn trói thứ gì, lão nhân thần bí rốt cuộc trước khi tử vong đã thấy cái gì ở đáy sông? Hết thảy câu trả lời đều ở trong Hoàng Hà quỷ quan... *** Tuổi thơ ở bờ sông vàng cũng không kéo dài được bao lâu, tôi theo cha hồi hương trở lại thành phố, câu chuyện của bà nội này theo cuộc sống mới của tôi dần dần mơ hồ trong trí nhớ, cuối cùng thì hoàn toàn rơi vào quên lãng, cuộc sống của tôi cứ bình lặng trôi qua như vậy, rất điển hình nhưng không có gì nổi trội. Sau khi trưởng thành, tôi làm qua không ít nghề, cuối cùng trở thành một thương nhân buôn đồ cổ, lấy việc thu mua và giám định đồ cổ trong trong dân gian làm nguồn sống, cuộc sống bình thản nhưng cũng coi như là dễ chịu. Tôi học đại học ngành công trình điện lực chuyên ngành là thiết kế lưới điện quốc gia và trạm phát điện, so với nghề nghiệp đang làm hiện giờ không hề có chút liên quan nào. Sở dĩ tôi đến với cái nghề đồ cổ và bán nước bọt này chính là bởi vì vợ trước của tôi. Vợ trước của tôi mang hai dòng máu Tạng và Hán, cha vợ tôi là người Tạng, từ nhỏ vợ tôi đã tiếp nhận hai nền giáo dục, ngôn ngữ của cô ấy vô cùng phong phú, sau khi trưởng thành, cô ấy làm phiên dịch Tạng ngữ trong cơ quan nhà nước. Cha vợ tôi là dân buôn đồ cổ, đối với việc am hiểu về đồ cổ tương đối lão luyện, tôi ngày ngày buôn chuyện với ông ấy dần dần cũng nảy sinh hứng thú với những thứ này. Phàm là đã tiếp xúc với đồ cổ, rất hiếm khi tránh khỏi việc hiếu kỳ về giá trị của nó, giá trị cao, nguy hiểm cao nhưng sức hấp dẫn cũng lớn, vì vậy những lúc rảnh rỗi tôi thường cũng kiếm một ít đồ cổ bán lẻ. Có điều trời thường không chiều lòng người, chúng tôi kết hôn được hai năm, vợ trước của tôi theo một đoàn lãnh đạo khảo sát thăm dò địa chất ở biên giới Trung, Mông. Bọn tôi xa nhau ba năm, cuối cùng cô ấy không trở về, nghe nói đã kiếm được một lãnh đạo tốt hơn tôi, năm trước gửi cho tôi một tờ thông báo li dị, liền sau đó thì không có tin tức gì nữa. Sau đó đơn vị cải cách biên chế, tôi vì vấn đề tình cảm, liên tục bỏ bê công việc uống rượu, không chịu làm gì, liền bị đá bay xuống cấp cơ bản. Tôi liền suy nghĩ, ở đó cơ bản đều là học trò của tôi, giờ tôi thành hạ cấp cho bọn họ quản có thể thoải mái được không? Liền bỏ nghề chuyển qua đi biển, hồi đó làm ăn cũng không tốt lắm, thua lỗ không ít, cuối cùng dứt khoát “trăm hay không bằng tay quen” tiến vào con đường đồ cổ này. Tay nghề xem đồ cổ của tôi có một phần là do tổ truyền, cha vợ dạy cho một chút, tạm đủ dùng. Trước giải phóng gia đình tôi nổi danh nghề buôn bán khoáng vật, có điều thời điểm diễn ra cuộc “Đại cách mạng”, các trưởng bối trong nhà đều bị đấu tố rất thảm, ông cụ nhà tôi mất hết ý chí, không muốn tôi làm nghề này nữa nên mới cho tôi đi học đại học, có điều cuối cùng vẫn không làm sao trốn thoát được số mệnh Cho nên có lúc mới nói, thứ gọi là số mạng này thật không thể không kính sợ nó. Mọi chuyện bắt đầu vào tháng 7 năm 1997, chợ đồ cổ Nam Cung. Chợ đồ cổ Nam Cung khi đó có quy mô rất lớn, người ra vào tấp nập, mấy trăm gian hàng bày la liệt đồ sứ, đồ đồng xanh, đồ gỗ ngút tầm mắt. Trời nóng nực, người người chen nhau nghẹt thở, tôi chen tới chen lui trong đám người, trong lòng vô cùng khó chịu. Khi đó tôi đã tới Sơn Tây được hơn một tháng, hàng ngày đều đi dạo ở Nam Cung, cũng không biết vì sao không thể nhìn được món đồ nào thuận mắt, nhìn thấy những người mê đồ cổ sà vào đống hàng giả chọn tới chọn lui, trả giá, tôi liền thấy “tâm phiền ý loạn”. Trong giới này nghề của tôi được gọi là “Luận đồ cổ”, luận đồ cổ chủ yếu hoạt động ở Thượng Hải, mỗi năm đều có hai tháng ở Sơn Tây, có lúc phải xuôi về vùng nông thôn, có lúc lại lang thang ở chợ đồ cổ trong thành phố, dựa vào mấy phần nhãn lực mà kiếm sống. Sơn Tây là đất văn hóa hội tụ của Trung Quốc, người Trung Quốc có câu “văn vật dưới đất xem Thiểm Tây, văn vật trên đất phải xem Sơn Tây”. Năm đó Sơn Tây bùng phát dịch vụ ngân hàng tư nhân, người giàu có khắp nơi đổ về, nhiều cổ vật khắp cả nước tụ vào đây, Sơn Tây trở thành trung tâm mua bán đồ cổ. Trải qua mười năm loạn lạc (Lưu Hà: 10 năm của chế độ quân phiệt hỗn chiến), đồ cổ phần lớn lưu lạc dân gian, cho nên người các nơi đến Sơn Tây đào bảo vật rất nhiều. Cái gọi là luận đồ cổ thực tế chính là trung gian buôn bán đồ cổ, kiếm chút chênh lệch giá, trên lý thuyết mà nói, bản thân đồ cổ không có giá trị sử dụng thực tế, giá trị của nó thể hiện dựa trên sở thích của người mua, chính vì vậy nên nghề này mới có đất sống. Giá đồ cổ ở Sơn Tây và Thượng Hải có thể chênh lệch tới mười lần. Lần này tôi từ Thượng Hải tới đây mục đích là kiếm một ít đồ đồng xanh, những năm gần đây phong trào chơi đồ đồng xanh phát triển rất mạnh, nhiều khi còn lấn lướt cả đồ sứ truyền thống. Có điều qua lại mấy chuyến cơ bản vẫn không kiếm được món nào hàng thật, thậm chí hàng giả vừa mắt cũng không có, sau đó đến hỏi mấy chủ sạp hàng quen ở đó, trò chuyện một hồi mới biết chuyện gì xảy ra. Thì ra mấy năm gần đây nhiều nơi nghiêm trị trộm mộ, một tháng nay những thứ tốt đến con chuột cũng không mang ra nổi, nguồn hàng không có, ở đây chỉ trông chờ vào thu mua của người dân có thể được bao nhiêu chứ, đương nhiên là thị trường hàng thật phải tiêu điều rồi. Tôi suy nghĩ một chút, trong lòng vô cùng tuyệt vọng, sợ rằng trong thời gian ngắn thị trường khó có thể phục hồi, lần này chắc phải tay không trở về Thượng Hải. Đáng thương cho tôi, lần làm ăn này đã không kiếm được chút “mỡ” (thu nhập không chính đáng) nào thì chớ, danh tiếng còn bị trôi theo dòng nước, sau này muốn buôn bán nước bọt sẽ càng khó khăn hơn. Đi tới đi lui trong chợ, tôi vẫn không vừa ý được thứ gì, mặt trời đã ngả về tây, trời đã chạng vạng tối. Hiện giờ thì dù cho có đồ tốt tôi cũng không dám xem nữa vì chạng vạng là thời điểm nhãn lực của tôi kém nhất, bây giờ hàng giả nhiều như mây, nhiều quá đâm loạn, đồ đồng xanh làm giả lại cực kỳ giống thật, chỉ cần sơ sót một chút là có thể sạt nghiệp. Nếu như lúc ấy tôi quyết định xem thêm một chút, hoặc giả là ngồi nơi nào đó nghỉ ngơi một chút thì có thể sẽ hoàn toàn không gặp phải chuyện tiếp sau đây, nhưng số mạng chính là như vậy, nên tôi đã đụng trúng, chính tôi đã đụng trúng. Tôi ở tại nhà nghỉ bên cạnh chợ Nam Cung, nhà nghỉ kiểu dáng cũng vô cùng phổ thông, đại khái là kinh doanh không có giấy phép, đủ loại người tụ tập ở đây, được cái giá cả phải chăng, có thể sống qua ngày. Phòng mặc dù chỉ có hơn năm mét vuông, nhưng tôi ở một mình, lại có nhà vệ sinh độc lập, đi tắm, đi cầu cũng không cần phải xếp hàng, phòng này ở đây cũng là loại cao cấp. Lúc này toàn thân tôi đã đàm đìa mồ hôi, liền chẳng để ý gì nữa chui luôn vào phòng vệ sinh độc lập. Mới đi được mấy bước, bỗng nhiên cảm giác có người phía sau dùng ngón tay chọc vào lưng, tôi tưởng là ăn trộm liền vừa che túi tiền vừa xoay người lại nhìn. Là một lão già khô quắt, tầm khoảng năm sáu chục tuổi, tóc bạc trắng, mặc đồ bảo hộ lao động màu xanh da trời, tay ôm cái túi, mắt lom lom nhìn tôi, dáng vẻ xem chừng là người nghèo khổ Lão già này trông không giống người trong thành phố, chẳng lẽ là tìm tôi để hỏi đường? Tôi ngạc nhiên nhìn lão hỏi “Có việc gì?” Lão già làm ra dáng vẻ lấm la lấm lét nhìn chung quanh, khẽ giọng nói với tôi một câu: “Ba răng trong đài, chờ đánh?” Tôi vừa nghe, lẩm nhẩm trong lòng, cái gì mà đài ghế, lại còn chờ đánh nữa, mẹ kiếp, ông muốn bị đòn hả, liền nói: “Tôi không cần đài ghế băng” Lão già kia sửng sốt một chút, tựa hồ không hiểu tôi nói gì lại nói: “Ba răng trong đài, chờ đánh, chờ đánh?” Tâm trạng tôi vốn không tốt, lúc này lại bốc hỏa, liền nói: “Tôi không có đợi đánh, nếu ông muốn chờ đánh thì kiếm đại một người đạp cho một đạp, cái túi của ông không cần phải chờ!” Lão đầu tử kia gãi đầu một cái, nét mặt hầm hừ, nhìn tôi mấy lần rồi bỏ đi. “Thần kinh” tôi chửi thầm một câu, đi tiếp về phòng, đến cửa quay đầu nhìn lại, không thấy lão đầu kia đi theo, không biết đã đi đâu rồi. Trong lòng tôi buồn bực, thổ ngữ của lão già đó không phải tiếng Sơn Tây, cũng không giống những địa phương quanh đây, rốt cuộc lão ta muốn làm gì? Chẳng lẽ là xin cơm sao? Nếu như là ăn xin cũng kể như lão này vận khí không tốt đụng trúng phải ta tâm tâm trạng đang rất tồi tệ. Tôi vào phòng trọ, đầu tiên là tắm rửa cho sạch mồ hôi, sau đó xuống tiệm cơm phía dưới ăn cơm, ông chủ tiệm là đồng hương, họ lý, tên Thiếu Gia. Từ lần đầu tiên đến đây cho tới nay tôi đều ăn ở đây, gã này hoài cổ, đặc biệt cảm thấy hứng thú với đồ cổ, mỗi lần tôi tới hắn đều kiếm tôi trò truyện về đồ cổ, còn không ngừng mang ra một ít cái gọi là bảo bối để tôi xem thử. Cho nên khi vừa ngồi xuống nhìn thấy hai cái chân kẹp hai chai bia đi tới bên cạnh tôi liền biết lão lại tới. Ngẩng đầu nhìn lên, quả nhiên là lão, đang tóp ta tóp tép nhai đậu phộng, một tay hai chai bia, một tay đĩa vịt nướng mật ong, ngồi đối diện tôi hỏi: “Người anh em, hôm nay thu hoạch như thế nào?” Tôi nhận bia, thở dài một tiếng nói thu hoạch con khỉ gì, tí rắm cũng không có nữa, riết như vậy cái chiêu bài luận đồ cổ của tôi sớm muộn cũng phải đóng cửa, đến lúc đó kiếm một cái bàn ngồi vỉa hè ở đây bán hàng. Thiếu Gia cười nói: “Đó là do anh tự chuốc lấy thôi, mắt người Thượng Hải cũng không phải là “Hỏa nhãn kim tinh”, ở đây anh móc ra tám trăm đồng, bắt chước hàng loạt, hoặc là tìm mấy món tàn phẩm (hàng hỏng), đi thành tây tìm mấy sư phụ, làm cũ thành mới, lớn sửa nhỏ, nhỏ sửa thon dài là được, cần gì phải tự mình làm khó mình như thế, tôi cũng không tin nhãn lực người Thượng Hải tốt tới mức có thể nhìn ra được” Tôi khẽ lắc đầu một cái, cười không đáp, cách của Thiếu Gia ai cũng có thể nghĩ ra được, nhưng làm nghề trung gian đồ cổ này không giống với sạp hàng vỉa hè, một người tới chém một người, một trăm tới chém một trăm, phải lăn lộn bao nhiêu năm mới kiếm được chút niềm tin của khách hàng, nếu không ai dám lấy hàng của anh? Nếu lừa người ta một lần, ngày sau cũng đừng nghĩ đến chuyện hành nghề nữa. Thiếu Gia nhìn tôi không nói gì, biết tôi không đồng ý với cái nhìn của hắn ta, nói: “Ai, anh đừng cười, đây là lời thực lòng của tôi, anh nhìn thời cuộc này, sớm cũng đóng cửa mà muộn cũng đóng cửa, anh ngại gì mà không kiếm một khoản rồi đóng cửa bỏ nghề luôn, cái nghề luận đồ cổ của anh sớm muộn cũng chết đói, anh nên đổi nghề sớm thì hơn. Luận điệu của Thiếu Gia càng lúc càng nghe không nổi, tôi khoát tay nói: “Mẹ kiếp đừng có nói dóc, anh không phải người trong nghề, biết gì mà ý kiến, tôi làm việc có nguyên tắc” Thiếu gia a một tiếng, nói: “Nguyên tắc? Làm đồ cổ còn có nguyên tắc cái mẹ gì, thua là nghèo, chẳng có cách nào đâu.” Thiếu gia chế giễu tôi cũng là bình thường thôi, người ta thường nói “Loạn thế hoàng kim, thịnh thế đồ cổ” (thời loạn thì cần vàng bạc, thời hưng thịnh cần đồ cổ), đầu năm nay những thương nhân làm đồ cổ, kém cỏi nhất cũng kiếm được vạn tiền, nhưng mà tôi thì toàn thân sạch sẽ, trên người không dư được nửa lượng, được đồng nào tiêu sạch đồng đó, cơ thể cũng không phải là khỏe mạnh gì. Tình trạng này cũng là do nguyên tắc của tôi mà ra. Tôi mua hàng tại sạp vỉa hè, chỉ cần đồ tốt tôi không trả giá, tôi cũng không bán đồ giả, nên tiền lời lãi cũng chẳng được là bao. Nhắc đến trong lòng đau khổ, nghĩ lại vụ làm ăn đồ đồng xanh kia không khỏi bứt rứt. Đang nói bỗng nhiên có một người từ cửa đi vào, Thiếu Gia thấy khách đương nhiên là mở mồm định mời mọc, liền đứng dậy hỏi: “Ông chủ, ăn chút gì?” Thiếu gia thấy khách gọi ít đồ cũng không thèm qua chào hỏi, đi vào nhà bếp dặn dò rồi lại đi ra tiếp tục chuyện phiếm với tôi. Tôi liền hạ giọng chỉ chỉ đầu đũa vào người nọ, hỏi: “Người này là người ở đâu, anh nghe ra không?” “Sơn Tây đó, khẩu âm Sơn Tây” Thiếu Gia cũng thấp giọng: “Anh ở Sơn Tây cũng không ít thời gian mà nghe giọng Sơn Tây cũng nhận không ra là sao?” Tôi khẽ quay đầu lại một chút, nhìn trộm người kia, không biết lão đầu đó đang nghĩ gì, bụng nói Sơn Tây, vậy vừa rồi những lời lão ta nói là tiếng Sơn Tây sao, không thể, mặc dù phần lớn thời gian tôi đều ở ngoại thành, nhưng giọng Sơn Tây thì không thể nào tôi nghe không hiểu được, vậy chờ đánh chờ đánh? Chẳng lẽ là thổ ngữ mới phát minh của Sơn Tây sao? Thiếu Gia vỗ vỗ tôi mấy cái hỏi: “Anh làm sao thế? Bị đồ cổ làm cho phát điên rồi à, ngay cả lão đầu cũng thích sao?” Tôi vừa nghe liền bật cười, quay đầu nói: “Nói vớ vẩn gì thế? Tôi cảm thấy có chuyện rất kỳ quái…”Vừa nói đột nhiên nghĩ ra Thiếu Gia cũng là người gốc Sơn Tây, lập tức hỏi: “À, đúng rồi, anh là người Sơn Tây gốc, tôi hỏi anh, trong thổ ngữ Sơn Tây- chờ đánh chờ đánh- là ý gì?” ” Chờ đánh chờ đánh?” Thiếu gia khẽ nhướng mày, sắc mặt cũng biến đổi: “Anh nghe thấy lời này ở đâu?” “Sao thế?”Tôi hỏi, nhìn sắc mặt hắn biến đổi, tôi liền ngạc nhiên. Thiếu gia hạ thấp giọng: “Đây là tiếng lóng của dân nam ba, trước kia tôi có nghe mấy lão già nói ở nhà khách, tôi cũng nghe không hiểu đi hỏi ông lớn nhà tôi, là ông lớn nói với tôi” Tôi ồ lên một tiếng, cả kinh trong lòng, quay đầu nhìn lão già kia lần nữa, trong lòng nói, chẳng lẽ lão già tướng mạo xấu xí kia lại là một nam ba tủ? Nam ba tử là từ mà người dân khu vực Sơn Tây gọi một loại dân trộm mộ đặc thù, tôi cũng từng nghe người nhà nói qua, nam ba tử rất thần bí. Sơn Tây cổ mộ cũng rất nhiều, hơn nữa Sơn Tây đa số là mộ lớn, dễ dàng kiếm được bánh chưng. Trong thiên hạ sống nhờ thi thể có “Hai Tây”, đầu tiên là Thiểm Tây, thứ hai chính là Sơn Tây, nam ba tử ở Sơn Tây kiếm sống, thủ đoạn dời đất, xuyên núi so với các địa phương khác cao minh hơn rất nhiều. Theo lời tương truyền tương đối phổ biến trong dân gian thì nam ba tử đều đi hai người cùng nhau, một già một trẻ, mặc áo dài, đội mũ nỉ, còn bày sạp coi bói cho người, một người còn là thầy phong thủy, bọn họ đương nhiên không bao giờ tự mình đào lỗ trộm mộ, bọn họ thường xuyên sử dụng thủ đoạn là “nhận mắt”, tức là chỉ điểm cho kẻ gian trộm mộ những thứ mà chúng muốn tìm, bọn họ có thủ đoạn đặc thù, có thể dọn đất xuyên núi, biết cổ mộ ở địa phương nào, giá thị trường tốt nhất tại thời điểm đó, mười lăm đồng đại dương một lần, nhìn chung quanh một cái, dùng cây quạt một chút, chấm liền đi, bảo không thì liền không. Chỉ có trong một số tình hình đặc thù, ví dụ như gặp phải khi thất thế hoặc là đụng phải cổ mộ được bố trí vô cùng cao minh bọn họ mới đích thân xuống đất, hành sự cũng như nấu cơm, gầy được nồi cơm chính là đạo thành, nồi cơm không gầy được, đi cũng vô ích. (* nguyên văn: hành thoại trong kêu chi nồi, nồi chi đứng lên, chính là đạo thành, nồi chi không đứng lên, chính là đi vô ích) Nam ba tử trộm mộ rất coi trọng quy củ, chưa bao giờ đi cả bầy, đều là cậu và cháu tiến hành, khi trộm mộ, cậu bên ngoài cháu bên trong, vào mộ trước phải rửa tay, đốt hương chín tấc, trước khi hương tắt người phải đi ra. Bọn họ cũng giống người Thát ở quan ngoại, làm việc vào thời điểm không có tiếng người, có riêng một bộ tiếng lóng. Bộ này không phải dân trong nghề nghe căn bản không thể hiểu, hơn nữa để học được tiếng này nghe nói phải gia nhập vào nam ba tử, nếu không gia nhập thì cho dù có người dạy cũng học không được, có chút cảm giác “Tây Tạng thiên thụ thi nhân” (* Điển tích: Một số người ở phải qua một cơn bệnh nặng sau, đột nhiên có thể có khả năng hát tụng mấy triệu chữ thơ Tây Tạng.) Tôi hỏi Thiếu Gia: “Như vậy chờ đánh chờ đánh? Có nghĩa là gì? Anh có biết hay không?” Thiếu gia lắc đầu: “Tôi cũng không phải là nam ba tử, làm sao có thể biết… Gì thế, lão đầu tử này, chẳng lẽ là…” Tôi gật đầu, mang chuyện vừa rồi ở nhà nghỉ Nam Cung kể cho anh ta một lượt, Thiếu Gia vừa nghe, ánh mắt liền sáng lên: “Tôi nói này, lão Hứa, vận khí của anh không tệ chút nào đâu, sự nghiệp đồng xanh của anh có thể trông cậy vào chỗ này rồi” Tôi vừa nghe liền ngạc nhiên: “Sao lại nói như vậy?” “Nam ba tử vào thành, trên người chắc chắn có đồ tốt, không phải ai nam ba tử cũng đến tìm, họ chỉ tìm những người biết quy củ làm ăn, vừa thấy anh hắn lại theo đến cửa Nam Cung, đoán chừng là có đồ phải ra tay.” Thiếu Gia nheo mắt một chút, thấy lão đầu kia đang ôm chặt cái túi liền nói: “Anh nhìn cái túi nhỏ kia đi, tràn đầy tinh khí, không sai, mối hàng ngon tới rồi đó” Tôi nửa tin nửa ngờ, làm gì có chuyện tốt như vậy, làm nghề này chưa có chuyện lừa gạt nào là tôi chưa từng thấy qua, lần trước tôi gặp một gã nông dân họ Ba ở Hà Nam, làm ra vẻ hiểu rộng biết nhiều, hắn cào từ trong bùn ra được một cái chén liền muốn bán hai mươi đồng tiền. Tôi cầm cái chén nhìn qua một cái rồi nhìn qua trên đầu hắn một chút, con mẹ nó còn học trải chuốt như giới thượng lưu, sau đó lục soát trên người hắn một chút, trên người kẻ toàn mùi bùn đất như hắn lại có cuống vé Nhà khiêu vũ Thượng Hải Đại Thế Giới. Giới lừa gạt đồ cổ ai cũng tỏ ra thật thà biết điều, bởi vì người làm đồ cổ phần lớn đều có lòng tham, luôn hi vọng có thể nhặt được bảo bối mà người khác sơ sót bỏ quên, tướng mạo hiền lành biết điều, dễ làm cho người ta buông lỏng cảnh giác. Nhìn bộ dạng Thiếu Gia kia, nếu không phải đã rượu thịt cùng hắn mấy năm rồi thì tôi còn cho rằng mẹ kiếp lão cùng với lão đầu kia thông đồng cùng diễn màn “kẻ tung người hứng” với tôi. Vẫn còn đang hoài nghi, Thiếu Gia đã gọi người cầm chai rượu lớn tới, kín đáo đưa cho tôi nói: “Nam ba tử ngày ba bữa rượu, cầm cái này, đừng nói Thiếu Gia ta không giúp đỡ bạn bè, ngày sau phát tài rồi đừng quên nhau, đi nhanh! Chớ để cho người khác chặn mất mối” Tôi nhẹ giọng nói với Thiếu Gia: “Được rồi, năm nay tụi lừa gạt nhiều quá, chúng ta cũng bớt chọc những người như vậy, số nghèo thì vẫn nghèo, không sao” Thiếu Gia quay đầu hướng khác, cười ha hả: “Xem anh kìa, cho nên mới nói không có lá gan giết người thì cũng bị người khác giết, lạc hậu quá quá rồi”. Vừa nói vừa lấy bia, rượu trắng kín đáo đưa cho tôi: “Anh nhìn kia, mười tên Hà Đông đang ở bên trong, anh còn do dự quái gì nữa?” Tôi động não một chút, nếu tên kia là kẻ lừa đảo thì cùng lắm ta cũng chỉ sập tiệm, mà nếu không phải thì đó chính là trời cho ta một cơ hội phát tài, ta còn muốn từ chối sao, nếu thực trên người lão đầu kia có đồ tốt, bị người khác hớt tay trên mất, có phải ta sẽ hối hận cả đời không.​ ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Hà Quỷ Quan của tác giả Nam Phái Tam Thúc.