Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mao Sơn Thuật Chi Tróc Quỷ Cao Thủ
Mao sơn thuật, một mực bị đắp lên sắc thái thần bí đích thần bí đạo thuật, khu bùa vẽ quỷ thần bí khó lường! Lưu Tam Thủy, một cái thiếu niên từ nhỏ liền cùng sư phụ học tập mao sơn thuật ở sơn thôn, có một chút thành tựu sau liền bị vô lương sư phụ đuổi đến đô thị, mỹ kỳ danh viết lịch luyện hồng trần! Từ nay, Lưu Tam Thủy bắt đầu hắn đô thị bắt quỷ sinh hoạt, từng cái chuyện quỷ dị theo nhau mà đến, ! Lại nhìn Tam Thủy như thế nào bằng vào mao sơn thuật từng cái phá giải, mang ngài thấy một phen kinh sợ vạn phần bắt quỷ thế giới! *** "Quỷ" cái này để cho người đàm chi sắc biến đích một chữ, từ xưa tới nay liên quan tới vật này miêu tả nhiều không kể xiết, đã có quỷ, vậy liền có bắt quỷ người, mà mao sơn, chính là trong đó một nhánh, lấy khu bùa vẽ quỷ mà truyền lưu ngàn năm, bất quá ở bây giờ Tin Tức hóa đích thời đại, quá nhiều cái gì đã có thể thông qua khoa học giải thích, mà quỷ cũng bị phổ biến cho rằng là không tồn tại một loại sự vật, về phần bắt quỷ thuật, bây giờ thông hiểu người ít lại càng ít, đa số lừa gạt đồ, đặc biệt là trải qua thập niên 60 đánh bốn cũ sau, những lão tổ này Tông vật lưu lại cơ hồ liền tuyệt tích. Lý gia thôn, ở vào hoa hạ đông nam đích một cái hẻo lánh trong sơn thôn, này liền có một cái sẽ này người có bản lãnh, người của Lý gia thôn cũng gọi hắn Lưu đại sư, Lưu đại sư thà nói ở tại Lý gia thôn, không bằng nói là ở tại Lý gia thôn phía sau trên núi một cái Mao trong nhà tranh, người trong thôn chỉ biết hắn họ Lưu, bản lãnh lớn vô cùng, hắn còn có một cái tiểu đồ đệ, gọi là Lưu Tam Thủy, bây giờ mười chín tuổi, khi còn bé cũng là một da hài tử. "Này, lão đầu, lão đầu" lúc này chính là sáng sớm bốn giờ hơn, trời bên ngoài còn không có sáng lên, một cái nhìn chừng hai mươi tuổi trẻ tuổi người lớn tiếng đích kêu trên giường lão đầu. Nhưng trả lời hắn nhưng là một trận tiếng ngáy, lão đầu này mặc rách nát trường bào màu xám, tóc rối bời, không biết bao lâu chưa có rửa, dáng vẻ nhìn vô cùng lão, mặt đầy nếp nhăn, giống như cây khô da một dạng lão giả tựa hồ ngủ rất say, nghe được người tuổi trẻ đang gọi hắn, mím môi một cái lật người ngủ tiếp. "Hừ, chính mình ngủ ngược lại thơm tho, ngày ngày buộc ta ba giờ liền đứng lên luyện công, đáng giận lão già kia." Lưu Tam Thủy nhìn lên trước mặt lão đầu khò khò ngủ say, không khỏi mặt đầy hận hận nói. Lưu Tam Thủy dung mạo rất một dạng nhưng là của hắn đôi mắt kia lại phá lệ sáng ngời, lông mày rất nồng, da thịt cổ đồng sắc, mặc nhưng là 70-80 niên đại cái chủng loại kia vải dệt thủ công làm quần áo, tóc hắn rất dài, để cho người nhìn là lạ, thầy trò hai đều giống như từ cổ đại chuyển kiếp tới. Cũng không trách Tam Thủy than phiền, hắn không biết mình cha mẹ là ai, chỉ biết mình hiểu chuyện sau liền bắt đầu nổi thống khổ của hắn sinh hoạt, bốn năm tuổi thời điểm liền bị ném tới Thôn phía sau nghĩa địa bên trên, lão đầu nói là luyện mật, có thể thời điểm đó Tam Thủy làm thế nào biết những thứ này, cũng mặc kệ hắn thế nào khóc rống, đều vô ích, sau tới một lúc sau, Tam Thủy dần dần thích ứng loại cảm giác này, một năm sau khi, Tam Thủy đã có thể ở nghĩa địa bên trên ngã đầu liền ngủ, mặc dù chung quanh thỉnh thoảng có chút chuyện quỷ dị, nhưng đối với Tam Thủy mà nói, đã sớm thấy có lạ hay không. Đang lúc hắn vì thế dương dương đắc ý thời điểm, lại phát hiện mình sai lầm rồi, sai vượt quá bình thường, nổi thống khổ của mình sinh không sống qua vừa mới bắt đầu mà thôi, rồi sau đó Lưu lão đầu sẽ không để cho hắn đi nghĩa địa, mà gọi là hắn mỗi ngày ba giờ liền thức dậy, mặt hướng về phía đông, dựa theo Lưu lão đầu nói phương pháp luyện công, luyện xong công sau chính là rèn luyện thân thể, sau khi là học tập vẽ bùa, sau đó là luyện tập thần chú, Lưu Tam Thủy biết, đây cũng là mao sơn thuật. Lưu Tam Thủy đối với ở phương diện này đích xác là có chút thiên phú, bây giờ bất quá mười chín niên kỉ, lại đã đến xuống Mao đích mức độ, coi như tiến dần từng bước. Xuống Mao đã có thể thông linh, bất quá chẳng qua là thấy thông mức độ, chỉ có thể mời nhiều chút thông thường quỷ, cũng không có gì tác dụng quá lớn, bất quá đối với luôn luôn lười biếng Tam Thủy mà nói, đã cố gắng hết sức không dễ dàng. Tam Thủy con ngươi to hơi hơi chuyển một cái, cười nói: "Sư phụ, Vương quả phụ tới tìm ngươi." "Cách lão tử, chạy mau." Lưu lão đầu nghe lời này một cái, giống như là một lò xo như thế "Cọ" một chút liền từ trên giường nhảy cỡn lên, liền hướng cửa chạy như điên, tốc độ kia so với một hai chục tuổi trẻ tuổi người sợ cò nhanh hơn rất nhiều, nhưng hắn mới vừa tới cửa, liền cảm giác có chút không đúng, ngược lại mặt đầy lửa giận đích nhìn cười đễu Lưu Tam Thủy. "Hảo tiểu tử, lại hù dọa ta một lần, cho ta đi vẽ Trấn Thi Phù, trước khi trời sáng không vẽ tốt năm mươi tấm, ngày mai liền 100 tấm, cách lão tử." "Sư phụ, hảo sư phụ của ta, không muốn a..." Tam Thủy nghe này nhất thời mặt đầy vẻ lo lắng, sau đó lại tràn đầy lấy lòng nhìn Lưu lão đầu, thỉnh cầu bỏ qua. "Dài dòng nữa hôm nay liền 100 tấm!" Lưu lão đầu thật giống như vì hả giận, cầm lên hắn thuốc phiện túi hít một hơi thật sâu, cười híp mắt nhìn đến Tam Thủy. Tam Thủy nhìn một cái thì biết rõ không vui, giận dữ đạo: "Đáng giận lão đầu, chờ ngươi chết, xem ta không câu nệ của ngươi Hồn đến, cho ngươi ngày ngày vẽ bùa." Lưu lão đầu nghe này không chỉ không có tức giận, ngược lại "Hắc hắc" cười nói: "Tiểu tử, lão đầu tử cho dù chết, ở âm phủ cũng tuyệt đối sống được tiêu sái, bằng đạo hạnh của ngươi muốn câu ta Hồn, sợ rằng còn lớn hơn vài chục năm đâu rồi, không có tâm thông bản lĩnh, đừng có mơ." "Hừ" Tam Thủy không có cách nào phản bác, hắn mặc dù không biết Lưu lão đầu đến trình độ nào, nhưng tuyệt đối cường đại rất, bởi vì tại hắn mười bốn tuổi thời điểm, ngày đó chính là nửa tháng bảy, Quỷ Môn quan mở rộng ra lúc, Lưu lão đầu không biết như thế nào cùng Hắc Bạch Vô Thường xích mích, dám đem hai cái Câu hồn sứ giả đánh về Địa Phủ. Mà mao sơn thuật lại chia làm bên trên Mao, bên trong Mao cùng xuống Mao, xuống Mao liền có thể thông linh mời lên thân, này lại phút sáu thông, thấy thông, mắt thông, tai thông, tâm thông, linh thông cùng thần thông, phân biệt đối ứng ba cái cảnh giới, bất quá theo Lưu lão đầu nói, này thần thông cảnh giới bây giờ sợ là không người có thể đạt tới. Tam Thủy từ tùy thân vàng trong túi vải lấy ra vẽ bùa gì đó, đầu tiên xuất ra một cây bút lông, chiếc bút này cũng không phải là bất đồng bút lông, ở mao sơn thuật bên trong gọi là "Xá bút", nhìn kỹ phía trên lại có thật nhiều nhỏ bé phù văn. Bằng Tam Thủy đích đạo hạnh, không có này bút là tuyệt đối không được, sau đó hắn lại lấy ra một đĩa nhỏ mực đỏ, cùng với màu vàng lá bùa, Trấn Thi Phù đích cấp bậc mặc dù không cao, nhưng đối với Tam Thủy mà nói, trước khi trời sáng năm mươi cũng tuyệt đối là một không nhỏ đo. Tam Thủy đem hết thảy đều chuẩn bị xong, liền bắt đầu hạ bút, bất luận một loại nào Phù, nó Phù đầu cùng Phù thân cũng rất trọng yếu, nhưng trọng yếu nhất vẫn là Phù mật, không có Phù mật, đó bất quá là một tấm vô dụng giấy vụn thôi. Hắn Phù mật chính là Lưu lão đầu thân truyền, chính tông mao sơn Phù. Tam Thủy mới vừa vẽ xong bảy cái Phù, cũng đã đầu đầy mồ hôi, đang chuẩn bị vẽ thứ tám cái lúc, phía trước đột nhiên xuất hiện một bóng người, phải biết Tam Thủy thầy trò hai ở trên núi, lúc này trời còn chưa sáng, người bình thường là không dám tới này, hắn định nhãn nhìn một cái, chỉ thấy một cái năm sáu chục tuổi nông thôn đàn bà chính sãi bước đi đến, mang trên mặt nóng nảy. "Sư phụ, Vương quả phụ tới." Tam Thủy gân giọng hô. "Tiểu tử, còn muốn gạt ta, vẽ 100 tấm, không phải là nhìn lén nàng tắm bị ngươi phát hiện mà, đều bị ngươi uy hiếp bao nhiêu lần, cách lão tử..." Lưu lão đầu nghe một chút Tam Thủy lại nói như vậy, nhất thời tức giận đỏ bừng cả khuôn mặt đích lớn tiếng nói. Bất quá hắn mà nói còn chưa nói một nửa, liền ngậm miệng lại, bởi vì phụ nữ kia đã tiến vào, phía sau đi theo mặt đầy cười mờ ám đích Lưu Tam Thủy. Lưu lão đầu thấy phụ nhân này sau, lập tức đổi một bộ mặt nhọn, cười hì hì nói: "Vương đại muội tử tới a, chuyện gì à?" Nếu là bình thường Vương quả phụ nghe được lời nói mới rồi nhất định phải lung tung mắng mấy cái, nhưng bây giờ không thời gian cố nhiều như vậy, nàng vội vã đạo: "Lưu đại sư, thôn chúng ta tới ba cái người kỳ quái, xem bộ dáng là người bên ngoài, tối ngày hôm qua liền chạy đến nhà ta tới, trong đó có người rất đáng sợ, hắn thật giống như rất lạnh dáng vẻ, sắc mặt tái nhợt, không ngừng mài răng, chúng ta đây chỉ có ngươi biết cứu người, liền tới gọi ngươi tới." "Ồ?" Lưu lão đầu nghe này lông mày nhắc tới, cầm lên tẩu hút thuốc liền đi ra phía ngoài. "Vương đại muội tử, đi thôi, chúng ta đi nhìn người nọ một chút, tiểu tử, ngươi cũng tới, mấy người kia sợ là gặp bánh chưng." Lưu lão đầu trong miệng bánh chưng, cũng không phải chúng ta ăn bánh chưng, ở mao sơn thuật bên trong, bánh chưng chính là cương thi ý tứ.   Mời các bạn đón đọc Mao Sơn Thuật Chi Tróc Quỷ Cao Thủ của tác giả Tiểu Thanh Trường Đàm.
Trinh Nữ Báo Thù
Mùa Xuân tháng 4 năm 1962 tại Cần Thơ, lúc bấy giờ Cần Thơ là một trong sáu tỉnh nhỏ của An Giang dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa có tên là Phong Dinh (1957). "Tại một ngôi làng nhỏ ở Huyện Long Mỹ đã xảy ra một vụ án kỳ bí nhất mà cho tới lúc bây giờ vẫn không ai có thể giải thích được chuyện gì đã xảy ra. Các trinh sát thời đó đã cố hết sức để tìm ra nguyên nhân nhưng vẫn bó tay trước sự việc. Qua lời kể lại của một số người dân, không ai trong nhóm trinh sát có thể biết được ai là người đúng, ai là người sai. Người thì nói kia, người thì nói nọ khiến cho câu chuyện càng đi vào bế tắc. Sự việc tại hiện trường cho ta thấy đây là vụ án giết người trầm trọng, cả gia đình nhà ông Thái tất cả là 8 mạng người đều chết một cách bí ẩn. Theo lời kể của những người dân gần đó, gia đình họ rất bình thường không gây thù oán với ai và họ sống rất là khép kín." (Trích Báo Cần Thơ 1962) Vậy sự việc phát sinh từ đâu và nguyên nhân là gì, cho đến bây giờ đó vẫn là dấu chấm? *** Vào một ngày đẹp trời tháng 5 - 18 năm trước, một ngôi nhà èo uột trước con đường đầy nắng chói chang. Ngôi nhà ba gian được lớp ngối bằng lá dừa khô theo năm tháng đã ngả màu nắng vàng. Một cô bé nhỏ nhắn đang vẽ những đám mây dưới cát trước cửa nhà. Nhạn - con của bà Diệu một cô gái cỡ chừng 14 tuổi, lứa tuổi mà các cô chiêu cậu ấm chỉ làm có một việc là ăn học. Nhưng với Nhạn thì khác, con nhà nghèo, cô mất cha từ năm lên 8, mẹ cô cực khổ nuôi cô lớn lên nhưng không có đủ tiền cho cô ăn học, sáng sớm cô phải dậy sớm phụ mẹ làm việc nhà để mẹ cô ra đồng làm thuê, kiếm tiền mưu sinh... Tuy cuộc sống vô cùng khó khăn nhưng Nhạn lúc nào cũng vui vẻ và không bao giờ tỏ ra mệt mỏi, chỉ cần được ở với mẹ trong một cuộc sống bình thường giản dị đủ ăn đủ mặc là cô mãn nguyện lắm rồi. Nhan sắc của cô so với những cô gái quanh vùng thì phải nói là hơn hẳn, chỉ mới 14 tuổi mà cô đã ra dáng của một thiếu nữ trẻ nhưng có mấy ai biết . Ở những nơi như thế này sẽ không ai để ý đến ai, họ chỉ biết làm việc để phục vụ cho những phú hộ giàu có. Phú Hộ Thái là một trong những địa chủ lớn nhất trong vùng thời đó, ông và vợ có 3 người con trai đó là Toàn, Trí và Dũng. Gia sản của ông thì không ai có thể đếm được bao nhiêu mẫu ruộng và đất, ông cho dân đen thuê đất giá rất cao khiến không ai mà không khổ sở Toàn – con trai cả, người được mệnh danh là công tử ăn chơi nhất vùng, có thể nói nếu so với công tử Bạc Liêu thì cũng ngang hàng với nhau, tối ngày chỉ có rượu chè và gái điếm – một kẻ phá gia chi tử. Trí – con trai thứ, là bà con với ông đỏ bà đen, một kẻ chỉ biết hưởng thụ từ những trò bài bạc, cá độ, đá gà. Tiền có nhiều đến mấy cũng như nước trôi qua cầu, chỉ khổ cho những người dân lương thiện tối ngày làm việc cho chúng ăn xài. Dũng thì lại khác, anh có vẻ ngược lại với hai người anh của mình, từ nhỏ anh đã rất thông minh nên ông Thái cho anh ăn học đàng hoàng tử tế. Bằng khuôn mặt bảnh bao và tài ăn nói lịch sự anh đã thu hút rất nhiều các cô gái quanh vùng. Ông Thái cũng đã gửi gấm tương lai cho Dũng rất nhiều vì ông nghỉ rằng chỉ có Dũng là người duy nhất sẽ thay ông quản lý tài sản của gia đình. Ngoài mặt thì ông Thái rất hiền lành và điềm đạm – người xưa thường nói nhìn người đừng nhìn bên ngoài – ban ngày thì ông như một người chồng người cha bình thường nhưng khi đêm đến thì ông lại lẻn đi mèo mả gà đồng đến tờ mờ sáng mới về. Với độ tuổi chỉ mới 59 có lẽ ông vẫn còn khỏe mạnh chán. Bà Bích – vợ ông Thái, lúc đầu thì còn tỏ ra thái độ ghen tuông nhưng do quá biết tính tình của chồng từ trước với lại đã có với ông 3 mặt con rồi nên bà cũng thôi không quan tâm tới chuyện này nữa, mà có quan tâm tới cũng chẳng được gì miễn là ông Thái đừng cho người ngoài biết kẻo lại mang tiếng cho gia đình mà bà sợ nhất là điều này. Với tuổi 52 nhưng bà vẫn còn rất trẻ so với độ tuổi của mình, với khuôn mặt nghiêm nghị và vô cùng sắc sảo, bà tỏ vẻ rất am hiểu và quan tâm đến cuộc sống của gia đình, có thể nói ngoài ông Thái ra bà là người có quyền uy nhất trong nhà. Bước vào nhà mồ hôi nhể nhại. bà Diệu – mẹ của Nhạn cất tiếng gọi con gái ngoan của Mình. - Nấu cơm chưa con, hôm nay bác Ba có cho mẹ con mình mấy gói xôi vò nè, còn nóng ăn đi kẻo không ngon. - Dạ mẹ - Nhạn trả lời, hồi sáng có bác Tư Vịt tới tìm mẹ còn nói là có chuyện gấp muốn gặp mẹ, khi nào mẹ về thì qua nhà bác ấy. - Rồi mẹ biết rồi con ăn đi kẻo nguội!. Bỏ gói xôi vò ăn dỡ xuống bàn bà Diệu vội đi ra ngoài. *** Con đường mòn đầy nắng chạy dài xa xa, bà Diệu vừa đi vừa nghĩ: "không biết chị Tư Vịt gặp mình gấp là có chuyện gì, sao mà trong lòng thấy lo lắng quá". - Ấy ấy Diệu ơi! chị Tư nè vào đi em. – Bà Tư Vịt vẫy tay gọi bà Diệu vào nhà với khuôn mặt háo hức. - Nghe con Nhạn nói là chị kiếm em, có gì không chị! - Ấy ấy không gì đâu em ngồi xuống nghe chị nói nè, số là nhà ông phú hộ Thái xóm trên muốn có đứa bé gái làm con ở luôn để lo cơm nước và săn sóc cho bà nhà. Ý là chị muốn em để con Nhạn vào nhà ông Thái, nghe nói tiền cũng ko ít đâu nha. - Chị muốn em bán con à! – Bà Diệu bỡ ngỡ trước câu nói của bà Tư. Không được đâu! con nhỏ mới 14, nó vẫn còn nhỏ với lại em cũng chẳng muốn bán con đâu. - Ấy ấy sao lại nói là bán, chị đâu có nói em bán con, chỉ là để con bé vào nhà đó thôi, nhà ông bà Thái giàu sang lắm, con em sẽ không chịu khổ đâu với lại em sẽ có chút tiền vốn làm ăn vậy là đâu có gì sai. Mai mốt nếu em có tiền thì chuộc nó về cũng đâu có muộn. Bà Diệu có chút xao lòng, bà đắn đo không biết quyết định ra sao. - Thôi được rồi để em về suy nghĩ, chị cho em thời gian với lại em cần hỏi ý kiến con bé, em không thể quyết định được. - Ồ không sao! Em cứ từ từ suy nghĩ nhưng thời gian cũng gấp lắm không là người khác hưởng đó nha em. Không khéo là về sau em hối hận đó. - Em biết rồi! - Bà Diệu cáo từ ra về. *** Chiều tối, sau bữa cơm hai mẹ con bà Diệu tâm sự với nhau, bà xoa đầu đứa con gái bé bỏng của mình và nhìn nó thật kỹ, phải khó khăn lắm bà mới cầm được nước mắt của mình. Cứ nghĩ đến câu chuyện ban trưa giữa bà với bà Tư là bà cảm thấy khó chịu trong lòng vô cùng. - Mẹ àh! – Nhạn ngước nhìn bà, chuyện gì vậy mẹ ? con thấy mẹ sao ấy cứ buồn từ chiều đến bây giờ, từ khi mẹ từ nhà bác Tư về. - Không có gì đâu con, mà nè bác Tư có nói với mẹ là nhà ông Thái xóm trên muốn có một đứa ở để lo lắng và săn sóc cho vợ, cho nên .... - Mẹ muốn con vào nhà ông Thái gì đó làm người ở phải không?! - Nhạn cắt ngang câu nói ấp úng của mẹ. Bà Diệu cuối đầu không nói gì, trong lòng bà đau như cắt khi nghe con gái hỏi. Nước mắt tuôn rơi. - Mẹ không muốn bán con đâu! Bà Tư nói là số tiền sẽ không ít, đủ để mẹ có vốn làm ăn, với lại nhà ấy giàu có.... sau này mẹ có tiền sẽ chuộc con sau nhưng nếu con không đồng ý thì mẹ sẽ không bán con.... Mắt Nhạn cũng đã nhòa, cô bé xoa nhẹ mái tóc mẹ, mái đầu đã lâm râm bạc màu muối tiêu vì những năm tháng gòng gánh nuôi con. Nhạn thương mẹ thương hoàn cảnh gia đình. Cô lau nước mắt mẹ và nói: - Mẹ! mẹ trả lời với bác Tư ra sao? - Mẹ nói là mẹ cần thời gian suy nghĩ, vả lại quan trọng nhất là con có đồng ý hay không...- Bà nhìn ra cửa sổ, đôi mắt ướt nhòa ẩn chứa sự bi thương. - Con đồng ý! – Nhạn cười, nụ cười tươi tắn, trên môi vẫn còn đọng lại vài giọt lệ. *** Nữa khuya, gió thổi lòng lọng trên ngôi nhà èo uột, đêm nay Nhạn không ngủ, cô nhìn những đám mây nhỏ mình vẽ ban sáng. Bất chợt ngước nhìn những đám mây trên trời, tóc mai bay nhẹ trong gió. - Rồi đây đời mình sẽ ra sao? – Cô thì thầm trong gió. Mời các bạn đón đọc Trinh Nữ Báo Thù của tác giả Nguyễn Thế Trị.
Quê Tôi Đất Độc
Quê Tôi Đất Độc hay nguyên gốc: Những chuyện kì bí có thật: Quê em - Đất độc, là một truyện dài của thành viên có nickname Sylar_Gabriel thuộc diễn đàn voz. Ngay khi ra mắt bạn đọc, tác phẩm đã gây một tiếng vang lớn trong cộng đồng mạng và được rất nhiều trang đăng tải và làm audio. Tác phẩm gồm 18 chương ứng với 18 câu chuyện, kể lại những sự kiện kì bì, kinh dị xảy ra nơi quê tác giả. Xin được trích lại lời tác giả để làm rõ hơn về nội dung: Gần đây có nhiều thớt của anh em về chuyện ma quỷ, tuy nhiên đa phần chỉ là anh em được nghe kể lại, hoặc chứng kiến nhưng mờ ảo hoặc mụ mị. Em suy nghĩ lung lắm, cuối cùng cũng quyết định viết ra những chuyện em từng gặp. Em xin khẳng định tất cả đều là người thật việc thật, nhân vật hiện còn sống, là họ hàng thân thiết của em và chỉ xảy ra ở 1 nơi - quê ngoại em, xã Ngọc Thụy - phường Long Biên - Hà Nội. Chuỗi chuyện em sắp kể ra sau đây có những chuyện em biết từ bé, có những chuyện em trực tiếp chứng kiến,và có cả những chuyện xảy ra khi mẹ em còn nhỏ; tạo thành 1 chuỗi những điều kì lạ, phủ lên trong tuổi thơ của em và người nhà em sự u ám của khu đất đấy. Các bác có thể tin, có thể không, em kể cũng chỉ để giãi bày, xin đừng ném gạch Em muốn kể theo trình tự thời gian để các bác cùng hiểu tại sao em đặt tên thớt là Đất độc; nhưng em muốn kể câu chuyện này trước. Cách đây ít lâu tình cờ đọc được 1 chuyện liêu trai trên f17, em giật mình, vì những gì viết trong truyện là những gì đã xảy ra thực sự ở trong nhà ngoại em, và đó cũng là động lực thôi thúc em lập thớt này. *** Câu chuyện thứ 1: CON CHÓ Quê em là làng Bắc Biên, nằm ngay bờ bên kia sông Hồng, dưới chân cầu Long Biên. Bà ngoại có 4 người con: mẹ em là cả, dưới có cậu D. rồi đến cậu C. và dì T. (em xin phép được viết tắt vì nhiều lí do). Năm 86 cậu D sinh con đầu lòng, cái Linh, bà em cũng xin được trong làng về 1 đôi chó, đặt tên là Tin và Mic. Bà em yêu động vật lắm. Bà bảo coi như con Linh và 2 con này bằng tuổi nhau.. Cứ thế 2 con chó ở với bà em, cho đến khi chuyện xảy ra năm 2001, năm đấy cái Linh tròn 15 tuổi 15 năm sống với chủ, con Tin đặc biệt rất khôn và hiểu ý người. Nó hay tha thẩn chơi ngoài sân, hoặc trông đàn gà cho cậu D. Người ta bảo chó càng già càng thông minh. Có khi cậu em bảo vào lấy cái rổ trong bếp, nó cũng lững thững đi vào và tha ra cái rổ. Trái với con Tin, con Mic hay gầm ghè, và chỉ thích thui thủi 1 mình. Nó ít sủa, chỉ gừ trong cuống họng nhưng trông nhà cực tốt. Hình như có vía nó, chó mèo hàng xóm không bao giờ sang phá phách trong vườn nhà em. Bà và cậu D. tự hào về 2 con chó lắm. Năm đấy nước sông lên cao. Chiều tối, con Tin không về ăn cơm như mọi khi.. Sáng hôm sau cậu D em ra sông thì thấy nó nằm chết cạnh bờ tre. Cậu đưa nó về, và chôn ở gốc chuối trong vườn. Bà em buồn lắm. Cả buổi sáng chẳng nói năng gì. Giữa trưa trời nắng to, bà em tranh thủ mang cơm ra phơi. Bỗng có tiếng gậy gỗ gõ cọc... cọc... xuống đất, đều đặn từng tiếng một ở sân sau. Nghĩ bụng có khách, bà em vào nhà lấy cái nón định chạy ra thì thấp thoáng sau gốc cây, con Mic đang chống gậy, đi bằng 2 chân sau, đầu đội cái nón lá của bà... Nó đi từng bước một từ sân sau, hướng ra cổng.. Bà em mồm cứng đơ, chỉ lắp bắp được mấy tiếng "D. D... ra cứu mẹ". Cậu mợ em từ nhà dưới chạy lên, nhìn thấy con Mic, đứng khựng lại.. Con Mic đi từ từ, đứng bằng 2 chân sau, 2 chân trước nó kẹp lấy cái đầu gậy, đầu đội nón, lưỡi lè ra đỏ hỏn tiến dần ra cổng. Từ sân sau ra cổng khoảng hơn 10m, 3 người nhà em đứng như tượng đá, đến khi nó đến gần cổng thì cậu D. vùng ra đuổi theo. Bóng con Mic khuất sau cái cổng, cũng là lúc cậu em lao ra đến nơi nhưng nó đã biến mất Bà em lúc này mới hoảng hồn vào nhà thắp hương... Cả 3 người mặt cắt không còn giọt máu. Về kể lại chẳng ai tin. Lại bảo cả 3 bị hoa mắt. Đêm đấy mưa to. Nhà em sát bờ sông, năm 2001 chưa có kè, nước vào sâu đủ nghe cả tiếng vỗ í oạp. Sáng hôm sau cậu D. ra vườn thì chỗ chôn xác con Tin bị đào be bét, cái xác cũng chẳng còn. Xung quanh chi chít dấu chân chó. Đến giờ bà em vẫn bảo, 2 con đấy chưa đi đâu cả, vẫn ở trong vườn, nhưng nhà mình không nhìn thấy mà thôi...   Mời các bạn đón đọc Quê Tôi Đất Độc của tác giả Sylar_Gabriel.
Những Miền Linh Dị - Nhật Bản
Lần theo dấu kẻ thù, hai người bạn tìm sang Nhật Bản, nào ngờ, lại bước nhầm lên con tàu ma ám, tiếp tục những trải nghiệm kinh hoàng trên biển. Nhật Bản chào đón họ với những truyền thuyết kỳ bí rùng rợn. Đảo Miyajima với thế trận cột đèn âm sát và cổng Otorii huyền thoại trên sóng nước, ma khói núi Rokko, yêu tinh cáo đỏ núi Phú Sĩ... Theo suốt chặng đường phiêu lưu là những cuộc gặp gỡ gay cấn với những người đàn bà bị rạch miệng Kuchisake-onna, thằng bé đèn lồng, thủy quái Kapka, người mèo Bekeneko, và mối tình đầy tuyệt vọng với một nữ thuật sĩ xinh đẹp. *** Bộ sách Những Miền Linh Dị gồm có: Những Miền Linh Dị - Tập 1: Thái Lan Những Miền Linh Dị - Tập 2: Nhật Bản Những Miền Linh Dị - Tập 3: Ấn Độ Những Miền Linh Dị - Tập 4: Hàn Quốc ... *** “Anh Takahashi, anh có biết hôm ấy tôi sợ thế nào không?” Y tá Tonomi vừa giúp Takahashi thay băng xong. “Thấy anh bê bết máu me xông vào, tôi lại cứ tưởng là gặp ma giữa ban ngày cơ đấy.” “Làm phiền cô quá.” Takahashi gắng gượng cúi rạp người xuống, bỗng thấy đầu óc choáng váng. “Anh cứ nằm yên đừng cử động.” Tonomi vội vàng đỡ lấy Takahashi. “Mà anh Takahashi, anh làm thế nào mà đầu anh lại thành ra nông nỗi này?” Takahashi gượng cười lắc đầu, thầm nghĩ: “Việc này sao có thể nói với cô được!” Ba ngày trước... Tuy đầu thu còn nóng, nhưng trên sân thượng tầng 27, gió thổi vù vù lạnh ngắt. Takahashi di chân dụi tắt đầu mẩu thuốc lá cuối cùng, lập cập đúng dựa lan can. Đứng đây nhìn xuống, xe cộ trên đường chẳng khác gì đàn kiến dày đặc di chuyển thành dòng. Một cơn gió mạnh ập đến khiến Takahashi loạng choạng. Nhưng anh không hề thấy sợ, bởi vì, từ lâu rồi anh đã không còn muốn sống. Khủng hoảng tài chính, áp lực công việc, mồ côi cha mẹ, bị bạn gái đá, không trả được nợ, dường như tất cả mọi chuyện xui xẻo trên đời đều đổ cả lên đầu anh. Sống không hy vọng, chết quách cho xong. Hơn một tháng nay, suy nghĩ đó cứ trở đi trở lại trong đầu anh, và anh cũng đã nhiều lần tìm đến cái chết. Lần này, chắc là sẽ thành công. Takahashi gượng cười, nhắm mắt lại, dang tay từ từ ngả người về phía trước, thả cơ thể vào trong không trung. Cảm giác rơi tự do thình lình dừng lại, dường như có người chụp lấy chân anh, ngay sau đó là cảm giác đau choáng váng vì cú va đập. Khi mở mắt ra, anh thấy mình đang treo ngược giữa không trung, mép quần Jeans móc vào một cái móc sắt chìa ra ngoài lan can. Trèo trở lên trên, Takahashi chán chường ngồi phịch xuống nền xi măng, hét ầm lên như thằng điên. Dường như chỉ có vậy mới giải tỏa được Cơn uất ức trong lòng. Tại sao? Tại sao lại xui xẻo tới mức tự sát cũng thất bại? Từ lâu, Takahashi đã mất đi lòng tin với cuộc sống, anh đã thử đủ mọi cách thức để tự sát. Nhưng lần nào cũng vậy, cứ vào thời khắc cuối cùng lại xảy ra sự cố bất ngờ, kiểu gì anh cũng không thể chết được. Đang chuẩn bị thọc tay vào ổ điện, cầu dao đột nhiên đứt phựt. Cầm nắm thuốc ngủ trong tay, sờ đến bình nước thì không còn một giọt, vòi nước máy cũng không tài nào vặn mở được. Treo cổ thì đứt dây thừng. Cắt cổ tay thì sờ mãi chẳng thấy dao đâu, muốn đập lấy miếng kính thì kính chỗ nào cũng như kính cường lực, đập hết hơi cũng không cái nào vỡ. Nhảy cầu thì vừa uống mấy ngụm nước lịm đi, mở mắt ra đã thấy nằm thẳng cẳng trên bờ, mặc dù anh chẳng hề biết bơi... Giờ tới nhảy lầu cũng bị cái móc câu giữ lại! Tất cả các biện pháp có thể nghĩ ra được, anh đã thử suốt lượt, vẫn cứ không chết nổi. Trong cõi u minh như thể có ai đang bỡn cợt anh, bất kỳ việc gì anh muốn làm cũng đều thất bại, kể cả tự sát. Takahashi đấm ngực thình thịch, đôi mắt trợn trừng chợt liếc thấy đường ống dẫn nước chạy dọc tháp nước ban công thì nhảy bật dậy, cắm đầu lao thẳng vào đó. Trong cơn choáng váng, anh mơ hồ nghe có tiếng con gái kêu thét lên. Lúc tỉnh lại, trước mắt anh trắng lòa như tuyết. Cơn đau tại mũi kim truyền cắm trên tay khiến anh biết rằng mình chưa chết. Không biết kẻ rỗi hơi nào lại mò lên sân thượng vào đúng giờ làm việc để cứu anh. Cứ để anh chảy máu đến chết có hơn không! Takahashi đấm mạnh xuống giường bệnh. “Ồ? Anh Takahashi, trên cổ anh có nốt ruồi này!” Tonomi tò mò chớp chớp mắt. “Ở Edo quê tôi có một truyền thuyết nói về nốt ruồi mọc trên cổ đấy, anh có muốn nghe không?” Takahashi ngẩng đầu nhìn đồng hồ, đã là mười hai giờ đêm. Nếu Tonomi quay về phòng trực, vậy thì ở đây chỉ còn lại một mình anh. Anh luôn mang một nỗi sợ hãi khó hiểu với bệnh viện, nên khẽ gật đầu đồng ý. Tonomi kéo ghế lại gần, nhấc hai chân lên ghế, hai tay ôm gối ngồi thu lu như con mèo: “Nghe nói những người có nốt ruồi trên cổ là mang theo oán khí từ kiếp trước đầu thai đến kiếp này đấy.” Takahashi bất ngờ khi Tonomi bắt đầu bằng một câu chuyện rùng rợn đến vậy, anh vô thức sờ lên cổ, trong lòng dấy lên một nỗi thấp thỏm. Dưới đây là lời kể của Tonomi... Iwashima là võ sĩ nổi tiếng nhất thời Edo, chém đầu vô số địch thủ, đến năm mươi tuổi, được Thiên hoàng phong danh hiệu “Trảm vạn người”. Theo lý mà nói, lẽ ra Iwashima phải cảm thấy vui mừng mới đúng, nhưng ông ta càng ngày càng rầu rĩ. Là một võ sĩ lừng lẫy một phương, không có con nối dõi quả thực là một nỗi sỉ nhục to lớn. Tiếc thay thế thiếp đã sắp nhiều hơn cả nô bộc, nhưng lại chẳng ai có thể mang thai. Iwashima tìm suốt lượt danh y khắp cả nước, thậm chí mời cả tăng nhân, thầy âm dương làm phép, nhưng chẳng bà vợ nào có động tĩnh gì. Mọi người đều xì xào rằng do Iwashima sát nghiệp quá nặng nên gặp quả báo, tuyệt tử tuyệt tôn. Những lời này đến tại Iwashima, ông ta đùng đùng nổi giận, xách thanh kiếm võ sĩ do Thiên hoàng ngự ban giết sạch tất cả những kẻ phao tin đồn nhảm, chặt đầu treo trên tường quanh phủ võ sĩ cho đến khi bị gió hong khô thành một đống thủ cấp quắt queo. Từ đó, không ai còn dám nói ra nói vào nữa. Càng đáng ngạc nhiên hơn là chúng một năm sau, phủ Iwashima bỗng giăng đèn kết hoa chuẩn bị ăn mừng con trai Iwashima đầy trăm ngày. Tin này khiến cả thành Edo chấn động. Sao trước đó chưa bao giờ nghe thấy mảy may động tĩnh mà giờ Iwashima lại đã có con trai rồi? Có người nhiều chuyện tình lúc người nô bộc nhà Iwashima là Kenjiro ra phố mua đồ liền kéo anh ta vào uống rượu, đến khi ngà ngà liền tìm cách dò hỏi. Kenjiro đang ngất ngưỡng lập tức tỉnh như sáo, xua tay rối rít hoảng loạn bỏ đi ngay. Điều này càng khiến mọi người đoán già đoán non. Thế là tin đồn lan khắp, nói rằng Iwashima bị thương trong chiến trận không thể sinh con, đứa trẻ, Hideo, chắc chắn là do tiểu thiếp của Iwashima dan díu với người khác sinh ra. Tin đồn truyền tới tại Iwashima, Iwashima chỉ cười, chẳng buồn đếm xỉa. Nhưng mấy hôm sau đã thấy thêm một cái thủ cấp nữa trên tường, là đầu của Kenjiro. Máu nhỏ xuống tường, khô đặc lại như một đạo bùa kỳ dị. Tiệc đầy trăm ngày của con trai Iwashima cuối cùng cũng tới, hầu hết các võ sĩ trong thành Edo đều tới chúc mừng, đương nhiên cũng có nhiều người tìm đến để hóng tin. Iwashima chẳng quan tâm, ai tới cũng vui vẻ đón tiếp. Rượu quá ba tuần, người thiếp mới cưới năm ngoái là Koyomi liền bế con ra. Trên khuôn mặt bụ bẫm xinh xẻo của đứa bé loáng thoáng mấy phần giống Iwashima. Sự nghi ngờ liền tiêu tan, mọi người nhiệt tình chúc mừng Iwashima, Iwashima cũng uống tới tuý luý. Nhưng không ai chú ý tới vẻ ai oán thể thiết trong nụ cười của Koyomi. Thời gian vùn vụt trôi qua, Hideo đã sắp bảy tuổi, càng lớn càng tuấn tú và giống Iwashima. Những đứa con ra đời vẫn không hề giảm bớt tính hiếu sát của cha nó. Cứ cách một khoảng thời gian, trên tường nhà lại có thêm cái đầu người mới. Người qua kẻ lại ai thấy cũng khiếp sợ, nhưng vì trí tò mò cố hữu, nên thường kéo nhau đến xem bức tường như một “kỳ quan”. Tuy nhiên cũng có người tinh ý phát hiện ra, từ sau tiệc trăm ngày, không ai còn nhìn thấy Koyomi - mẹ của Hideo nữa. Nô bộc trong nhà Iwashima đều nhớ kỹ một mệnh lệnh: tuyệt đối không được bén mảng tới hậu viện, bằng không lập tức chém đầu. Nhưng vẫn có gã nô bộc gan lì lên tới gần hậu viện nghe ngóng, ngay hôm sau liền bị Iwashima lột da sống. Từ đó trở đi, khu hậu viện giống như một Iwashima thứ hai, vừa nhắc tới đã khiến mọi người tái mặt. Không ai biết bên trong khoá nhốt thứ gì. Nhưng sợ thì sợ, trong phủ võ sĩ vẫn xì xầm đồn đại, trước khi chết, người nô bộc bị lột da không ngừng làm nhảm: “Ma, ma...” Và cứ tới đêm khuya ngày đầu tháng và cuối tháng, bầu trời không trăng, trong hậu viện lại vọng ra những tiếng “thịch... thịch...” kỳ quái, giống như có ai đang đi lại, bước chân rất nặng nề. Một hôm, Hideo ra phố chơi trong vòng vây kín mít của rất nhiều nô bộc. Ngẫu nhiên gặp một thầy âm dương vấn du bốn phương, vừa nhìn thấy Hideo, ông ta đã chỉ vào nốt ruồi trên cổ cậu bé nói: “Người có nốt ruồi này mang theo oán niệm và ký ức của kiếp trước, không biết là ai mà gây ra sát nghiệp nặng nề đến thế?” Tuy thầy âm dương ở Nhật Bản rất được trọng vọng, nhưng đám nô bộc vẫn bắt lấy ông ta đánh cho một trận thậm tệ. Thầy âm dương thì không được gây thù kết oán với người bình thường. Sau khi lau sạch máu me, ông ta dò hỏi được đứa trẻ là con trai của Iwashima “Trảm vạn người” , liền hỏi han tìm tới tận phủ của ông ta. Khi nhìn thấy hàng dãy đầu người quắt queo treo lủng lẳng trên tường, thầy âm dương liền bật cười vang: “Ha ha! Quả báo sắp tới rồi!” Nói xong, ung dung bỏ đi. Sự việc nhanh chóng đến tai Iwashima, ông ta chau mày, cầm thanh kiếm katana trong tay, lẩm nhẩm tính toán: “Còn một tháng nữa là đến sinh nhật của Hideo, còn một tháng nữa!” Nhưng quả báo mãi chưa thấy đến như lời thầy âm dương dự báo, phủ võ sĩ sóng yên gió lặng thêm một tháng nữa, sinh nhật bảy tuổi của Hideo đã tới. Yến tiệc hết sức linh đình. Trong tiệc, Hideo cầm kiếm múa một bài, rồi chém chết một người nô bộc như sự tuyên bố trưởng thành, toàn bộ yến tiệc tưng bừng hoan hỉ. Mọi người lũ lượt chúc mừng Hideo có một người con trai tuổi nhỏ tài cao. Hôm đó, Iwashima uống rất nhiều, khi về phòng nghỉ đã là nửa đêm. Mọi người ai cũng ngủ say sưa, nhưng Iwashima vẫn tỉnh táo, cầm thanh kiếm võ sĩ lên, kéo từ gầm giường ra một cái bao, âm thầm đi tới trước cổng hậu viện, móc ra một chùm chìa khoá. Trong sân, lại vang ra những tiếng “thịch... thịch...” Iwashima nhếch mép cười, trong mắt lóe lên một tia hung ác. Ông ta mở khoá, chầm chậm gõ sợi xích gì sét quấn quanh cửa. “Két...” Cánh cửa bị đẩy mở. Trong sân hậu viện rợp bóng cây, có một người đang chậm chạp bước xung quanh một gốc đại thụ. Cứ đi mấy bước, bóng người lại vung chiếc dùi gỗ trong tay gõ vào thân cây. Chân hắn bị cùm khoá nặng trịch, áo quần rách nát gần như không che nổi cơ thể da bọc xương, từ xa nhìn lại, chẳng khác gì một bộ xương biết đi đang lòng vòng dưới ánh trăng trắng bệch. “Đại nhân, xác người và da người hôm nay đâu?” Bộ xương lắng tai nghe rồi ngẩng đầu “nhìn” sang Iwashima. Đằng sau bộ tóc dài rối bù dính bết là hai hốc mắt đen ngòm không còn ánh sáng. “Một lần cuối cùng này nữa thôi, con trai đại nhân sẽ biến thành người... Koyomi, Koyomi vẫn khoẻ chứ?” “Tất nhiên là khoẻ.” Iwashima lạnh lùng đáp, tiện tay ném cái bao xuống trước mặt con người da xương đó. Từ trong bao lăn ra một người đàn bà béo tròn nhưng bẩn thỉu cáu ghét, cơ thể trần truồng sặc mùi phân và nước tiểu. Vừa nhìn thấy bộ xương, người đàn bà há miệng định hét lên, nhưng không thể phát ra thành tiếng. Trong cái miệng há hốc không còn thấy lưỡi, và trên cổ có một vết thương ở ngay thanh đới. Hai tay hai chân bà ta mềm nhũn không thể cử động, gân tay gân chân đã đứt từ lâu. Bộ xương sờ vào người đàn bà béo tròn, hỏi: “Đại nhân, lần này là sống à?” Mời các bạn đón đọc Những Miền Linh Dị - Tập 2: Nhật Bản của tác giả Dương Hành Triệt & Thúy Hương (dịch).